Điều trị ho bằng thuốc gì?
Ho được đặc trưng bởi việc thở tống ra
mạnh qua thanh môn đóng kín một cách
cưỡng bức làm thanh môn đột ngột mở ra,
tống không khí và các chất vướng mắc
(không mong muốn) khác ra ngoài qua khí
quản. Ho có thể là do có ý thức hoặc vô
thức.
Ho là một cơ chế sinh lý để bảo vệ cơ thể, đồng
thời có thể là triệu chứng một số bệnh. Việc điều
trị cần dựa trên nguyên nhân gây ho. Người ta
chia làm 2 loại: ho khan và ho có đờm.
Ho khan
Đây là chứng bệnh không thể coi thường. Trong
những triệu chứng cảm lạnh có ho khan. Thuốc
ho sẽ cải thiện ít nhiều bệnh trạng, nhất là khi
dùng ban đêm. Các thuốc pholcodin và
dextromethorpan hay dùng để trị ho, có ít tác
dụng phụ so với codein. Tuy nhiên có ít bằng
chứng cho thấy các thuốc này có tác dụng trong
trường hợp ho nặng. Các thuốc ho có chứa
codein hay các opioid khác nói chung không nên
dùng cho trẻ em, đặc biệt cấm dùng cho trẻ
dưới 1 tuổi. Một chất có tiềm năng trị ho là cần
cho việc điều trị chứng ho khó chữa ở thời gian
cuối đời của bệnh nhân nặng không chữa được
đó là morphin, nhưng chất opioid này không
được coi là một loại thuốc ho.
Ho có đờm
Bệnh này thường liên quan đến một số bệnh
như viêm phế quản mạn tính, giãn phế quản, xơ
hoá nang. Không dùng thuốc ho chữa những
chứng ho được coi như cơ chế bảo vệ cơ thể.
Các chất long đờm được dùng trong ho có đờm,
theo cơ chế tăng thể tích chất tiết ra ở khí quản,
làm cho sợi lông hay việc ho dễ thải nó ra ngoài.
Tuy nhiên những bằng chứng thực tế vê lợi ích
của thuốc ho long đờm còn hạn chế và nhiều
thầy thuốc cho rằng chúng không có hiệu quả,
chỉ như placebo. Những thuốc long đờm hay
dùng có thể kể: muối amoni, guaiphenesin,
ipecacuanha, natri citrat. Tuy nhiên không nên
dùng kéo dài vì có thể gây ức chế tuyến giáp:
không nên dùng cho trẻ em, thiếu niên, phụ nữ
mang thai, bệnh nhân bướu cổ.
Thuốc tiêu chất nhầy làm giảm độ nhớt của
đờm, làm thay đổi cấu trúc của nó và cho thấy
có tác dụng làm giảm ho, nhưng tác dụng trên
chức năng của phổi không nhất quán. Các thuốc
tiêu chất nhầy hay dùng có thể kể là:
acetylcystein, bromhexim, carbocysstein,
methylcystein. Dosnase alpha có lợi cho những
bệnh nhân xơ hoá nang. Về lý thuyết, thuốc tiêu
chất nhầy có thể phá hỏng lớp chất nhầy bảo vệ
niêm mạc dạ dày, nên cần thận trọng đối với
những bệnh nhân có tiền sử loét dạ dày.
Các loại thuốc khác được dùng để chữa ho
Các chất kháng histamin có tác dụng làm dịu
như diphenhydramin thường dùng trị ho, có
trong thành phần nhiều đơn thuốc: cơ chế có
thể do giảm dẫn truyền thần kinh cholinegic, hay
do tác dụng làm dịu. Các kháng histamin làm
giảm sự tiết dịch ở mũi và có hiệu quả chữa ho
trong chứng ho do chảy nước mũi sau mũi, nhất
là khi có viêm mũi dị ứng. Tuy nhiên không dùng
được loại này trong ho có đờm vì có thể gây ra
những cục đờm dính gây tắc nghẽn. Thuốc có
tác dụng tốt nhất khi dùng ban đêm, nếu dùng
ban ngày thuốc có thể gây trở ngại vì tác dụng
gây ngủ.
Các thuốc gây giãn phế quản như các chất vận
chủ bêta 2 hay khác như muscarin có tác dụng
làm giảm ho có kết hợp co thắt phế quản. Loại
này không có tác dụng trong các chứng ho khác
và không nên dùng cho những bệnh nhân không
mắc bệnh hen.
Các thuốc có tác dụng làm dịu có tác dụng trị ho
theo cơ chế tác dụng ngoại biên gián tiếp. Cơ
chế có thể là chúng bao lấy các thụ thể thần
kinh cảm giác ở họng. Các thuốc có tác dụng
làm dịu có thể kể: glycerol, mật ong, cam thảo,
siro sucrose.
Các chất làm ẩm có tác dụng làm loãng niêm
dịch và cũng có tác dụng làm dịu. Việc làm ẩm
đơn giản có thể thực hiện bằng cách hít thở
không khí ẩm. Có thể dùng các chất như:
menthol, benzoin, các tinh dầu... để đẩy mạnh
việc hít thở này. Ngoài ra người ta còn sử dụng
việc hít thở khí dung có nước, natri carbonat,
natri chlorid, chất điện hoạt như tyloxapol, các
enzym ly giải protein như chymotrypsin và
trypsin do có tác dụng làm ẩm hay hủy chất
nhầy thải ra ở khí quản.
Các thuốc tê như lignocain hay bupivacain được
dùng theo đường hít ở những trường hợp ho
khó chữa, như ho do ung thư. Cơ chế trị ho
thực hiện do tác dụng ngoại biên trên các thụ
thể cảm giác. Tuy vậy sẽ mất tất cả các phản xạ
có tác dụng bảo vệ ở phổi, có thể gây nên co
thắt phế quản, phải dùng một cách thận trọng vì
cũng tạm thời gây nên mất phản xạ nuốt.