Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

Truyền thuyết dân gian về cuộc kháng chiến chống pháp ở nam bộ 1858 1918

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 193 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


VÕ PHÚC CHÂU

Truyền thuyết dân gian
về cuộc kháng chiến chống Pháp
ở Nam Bộ (1858 – 1918)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 5.04.33

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSKH BÙI MẠNH NHỊ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THÁNG 01 NĂM 2004


Lời cảm tạ

Tôi xin bày tỏ nơi đây lòng biết ơn:
- PGS.TS Trần Hữu Tá đã dạy tôi đức kiên trì, sự nghiêm khắc và lòng
nhiệt thành trong nghiên cứu khoa học
- PGS Chu Xuân Diên, TS Trần Thị Thanh Thanh, TS Phạm Thị Yến Tuyết,
TS Hồ Quốc Hùng tận tình nhận xét, chỉ dẫn, giúp tôi khắc phục những non
yếu trong học tập, nghiên cứu
- Ban Giám hiệu, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau đại học, Thầy Cô
Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều
kiện tốt nhất để tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này


- Ông Trương Ngọc Tường đã nhiệt tình giúp tôi kinh nghiệm và tư liệu
trong việc sưu tầm văn học dân gian

Đặc biệt,tôi xin dành phần trang trọng để ghi ơn
PGS.TSKH Bùi Mạnh Nhị
Thầy cho tôi tình cảm tốt đẹp đối với văn học dân gian, Thầy dạy tôi lòng
khiêm tốn, sự cẩn trọng trong khoa học,
Thầy tận tình giảng dạy, hướng dẫn, độn g viên tôi trong suốt quá trình học
tập và hoàn thành Luận văn này.


QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
***
1. Cách trình bày trích dẫn ý kiến
Trong quá trình diễn giải vấn đề, chúng tôi có nhu cầu phải nêu địa chỉ tham khảo hoặc dẫn lại
một số nhận xét, ý kiến của các nhà nghiên cứu. Khi đó, chúng tôi xin được trình bày theo quy ước sau:
1.1. Phần trích dẫn ngắn: đặt trong dấu ngoặc kép, in nghiêng.
1.2. Phần trích dẫn dài: tách thành đoạn riêng, lề trái lùi thêm 2 cm, không dùng ngoặc kép, cỡ
chữ nhỏ hơn, không in nghiêng.
1.3. Phần ghi địa chỉ tham khảo: [128] (có nghóa là xem tài liệu số 128 ở phần Tài liệu tham
khảo).
1.4. Phần ghi xuất xứ trích dẫn:
 [128 (I),26] (có nghóa là dẫn chứng được trích từ tài liệu số 128 ở phần Tài liệu tham khảo,
tập I, trang 26).
 [PL,28] (có nghóa là dẫn chứng thuộc phần Phụ lục, trong văn bản số 28).

2. Cách chú thích
2.1. Phần chú thích trực tiếp: viết liên tục, đặt trong dấu ngoặc đơn, có thể in chữ nghiêng.
Ví dụ: Motif mở lối đi (Rạch Ông Voi, Sự tích Vàm Bà Bầy,…)
2.2. Phần chú thích thêm: đặt cuối trang, mỗi chú thích đều có số thứ tự.


3. Quy ước viết tắt một số từ được dùng nhiều lần trong Luận văn
3.1. Hệ thống truyền thuyết dân gian về cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918)
viết tắt là hệ thống hoặc truyền thuyết dân gian (1858 – 1918).
3.2. Các nhóm truyền thuyết trong hệ thống truyền thuyết dân gian về cuộc kháng chiến chống
Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918) viết tắt là Các nhóm truyền thuyết.




MỞ ĐẦU
***
1. Lý do chọn đề tài - mục đích nghiên cứu
Con người nhận thức được sự lớn lên, già cỗi của mình qua thời gian. Con người biết mình
bất tử cũng bởi soi chiếu vào thời gian. Thời gian trở thành một loại thước đo đặc biệt cho nhiều
giá trị. Trong đó có sự đo lường thái độ tình cảm, cách nhìn của con người đối với quá khứ…
Chính con người làm cho thời gian trở nên có ý nghóa. Con người luôn để lại dấu ấn của mình
vào thời gian…
Chúng tôi xin mượn những cảm nhận này để được nói về đất và người Nam Bộ. Nhờ thời
gian, người dân Nam Bộ biết miền đất nơi mình đang sống đã được khai phá, dựng xây, gìn giữ
suốt ba trăm năm. Trong hơn ba trăm năm ấy, lịch sử trôi qua. Con người bao phen chứng kiến
sự biến thiên lịch sử. Một trong những biến thiên ghê gớm nhất có lẽ là cuộc đối đầu không cân
sức với thực dân Pháp xâm lược.
Chỉ xét chặng đường ngắn ngủi, từ 1858 đến 1918, biết bao người con ưu tú của Nam Bộ
đã vùng lên chiến đấu và hy sinh lẫm liệt. Họ in dấu ấn đời mình vào thời gian. Họ đã trở thành
bất tử. Nhưng sự hy sinh của họ phải chịu sự soi xét của những thái độ tình cảm, cách nhìn khác
nhau. Triều Nguyễn, thông qua lịch sử chính thống, đã khe khắt và hẹp hòi khi đánh giá công
trạng những anh hùng kháng Pháp. Chỉ có nhân dân mới nhìn thấy hết tầm vóc và sự bất tử của
những tấm gương vì dân mộ nghóa. Chỉ có nhân dân mới hiểu hết giá trị phải đánh đổi để còn
được mảnh đất này.

Từ xa xưa, quần chúng nhân dân đã có cách nhìn riêng đối với con người và sự kiện lịch
sử. Họ không nương nhờ quan điểm, lập trường của giai cấp thống trị. Họ biết ngợi ca, tôn vinh,
tưởng nhớ các anh hùng, thông qua một thứ nghệ thuật hồn nhiên, thơ mộng nhất: truyền thuyết
dân gian. Bấy giờ, kết tụ vào truyền thuyết dân gian, cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ
(1858 – 1918) đã phản chiếu sinh động chặng đường “khổ nhục mà vó đại” của lịch sử dân tộc.
Khoảng trăm năm qua, những truyền thuyết về anh hùng kháng Pháp, về những địa danh
lịch sử đã hiện diện nơi này nơi khác, tập trung hoặc rời rạc,… trong các tư liệu sưu tầm văn học
dân gian, trong tư liệu khảo cứu, từ ký ức người dân… Chúng báo hiệu những mỏ quặng truyền
thuyết dân gian phong phú, phức tạp nhưng chưa được tập hợp, nghiên cứu đầy đủ, đòi hỏi cần
có những người tâm huyết, với công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu, để khảo sát mọi
chiều kích, sắc màu.
Được sinh ra và lớn lên trên đất miền Nam cây lành trái ngọt, chúng tôi nuôi giữ lòng
biết ơn vô hạn các bậc tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai canh. Chúng tôi cũng ngưỡng mộ vô
biên những anh hùng kháng Pháp đã hy sinh để gìn giữ mảnh đất này. Tình cảm ấy thôi thúc
chúng tôi tìm về quá khứ. Nhưng chính sử quá cằn cỗi, nghèo nàn. Chỉ truyền thuyết dân gian
mới còn nguyên vẹn phần rễ sâu tán rộng của lịch sử buổi đầu kháng Pháp.
Biết trình độ còn hạn chế, nhưng bằng tấm lòng thành, chúng tôi tha thiết quay về khám
phá thể loại truyền thuyết dân gian, trong một góc nhìn nhỏ hẹp: cuộc kháng chiến chống Pháp
ở Nam Bộ từ 1858 – 1918.
Nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi muốn sưu tầm, biên soạn, hệ thống hóa lại truyền
thuyết dân gian Nam Bộ về một sự kiện đáng ghi nhớ; hy vọng thấy được phần nào đặc điểm,
sự vận động và phát triển của thể loại truyền thuyết trong thời cận đại. Bởi, truyền thuyết chỉ
phổ biến, phát triển mạnh ở những giai đoạn trước.


Qua đó, chún g tôi cũng mong muốn phát hiện màu sắc địa phương, tính thống nhất và đa
dạng của tác phẩm truyền thuyết ở Nam Bộ, so với truyền thuyết các vùng miền trong cả nước.
Ước sao công trình nghiên cứu nhỏ này thắp lên được một nén hương trầm tưởng nhớ cha
ông, nhắc nhở thế hệ trẻ hôm nay đừng hững hờ với quá khứ, biết thêm yêu, thêm quý mảnh đất
quê hương, biết nuôi dưỡng một ý thức giữ gìn truyền thống bất khuất, quật cường.

Về khía cạnh học thuật, chúng tôi hy vọng Luận văn sẽ cung cấp thêm một số thông tin
cần thiết, bổ ích cho công việc giảng dạy lịch sử, văn học địa phương. đồng thời được dự phần
nhỏ bé vào kế hoạch sưu tầm, hệ thống hóa tác phẩm truyền thuyết dân gian Việt Nam.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở đây, chúng tôi xin chỉ nêu vắn tắt phần lịch sử vấn đề. Bởi, nội dung cụ thể của nó sẽ
được trình bày chi tiết ở Chương I, phần Nhận xét tình hình tư liệu.
Tại Việt Nam, vấn đề lý thuyết thể loại, công tác sưu tầm, nghiên cứu tác phẩm truyền
thuyết đã khởi sự và tiến triển trong chừng năm thập niên qua. Tư liệu liên quan đến truyền
thuyết dân gian, từ đó, có nhiều nguồn, nhiều dạng. Nhằm thuận lợi cho việc khảo sát đề tài,
chúng tôi tạm thời phân tư liệu thành năm nhóm:
- Nhóm tư liệu sưu tầm
- Nhóm tư liệu sưu khảo địa chí
- Nhóm tư liệu nghiên cứu, sưu khảo lịch sử
- Nhóm tư liệu văn hóa – xã hội
- Nhóm tư liệu nghiên cứu văn học
2.1. Nhóm tư liệu sưu tầm
2.1.1. Các công trình sưu tầm truyện dân gian Việt Nam:
Đến nay, đã có một vài tuyển tập biên soạn và giới thiệu riêng thể loại truyền thuyết
Việt Nam. Nhưng hầu hết văn bản được chọn là những câu chuyện xảy ra trước thời Pháp xâm
lược. Cụ thể, trong Truyền thuyết Việt Nam [47], Truyền thuyết Việt Nam [55], Kho tàng truyện
truyền kỳ Việt Nam [46], Việt Nam – thần thoại và truyền thuyết [88], không tác phẩm nào kể về
anh hùng chống Pháp. Phải chăng, thành tựu truyền thuyết dân gian thời chống Pháp chưa được
các nhà nghiên cứu thẩm định và kết luận?
Sang các tuyển tập truyện dân gian nói chung, hiện tượng ấy cũng diễn ra. Để minh họa
cho thể loại, người biên soạn có xu hướng chỉ chọn các tác phẩm truyền thuyết thời xa xưa. Mãi
đến Văn học dân gian – những tác phẩm chọn lọc [93] và một số bài báo, công trình ở địa
phương, truyền thuyết thời chống Pháp mới được giới thiệu bước đầu.
2.1.2. Các công trình sưu tầm truyện dân gian Nam Bộ:
Theo sức đọc hạn chế, chúng tôi chưa thấy tuyển tập nào giới thiệu riêng truyền thuyết

dân gian Nam Bộ. Đặc biệt, các truyền thuyết về anh hùng chống Pháp chỉ được tập hợp chung
trong các tuyển tập văn học dân gian địa phương. Ở đó, hầu hết tác phẩm chưa được phân định
rạch ròi về thể loại. Chúng thường được gọi chung là chuyện xưa, truyện dân gian, hoặc là giai
thoại. Chỉ đến các công trình biên soạn của nhóm giảng viên trường ĐHSP thành phố Hồ Chí
Minh, tác phẩm truyền thuyết mới được định danh cụ thể [135], [136], [137].
2.2. Nhóm tư liệu sưu khảo địa chí
Tác giả các công trình này không chủ định sưu tầm văn học dân gian Nam Bộ. Nhiều
gương anh hùng chống Pháp, một số chuyện địa danh lịch sử thường xuất hiện qua các chương
mục bàn về nhân vật, giai thoại, huyền thoại, di tích,… Những câu chuyện ấy chưa được xem xét
như một truyền thuyết dân gian. Một số sự kiện và nhân vật còn ở dạng ghi chép tản mạn.
2.3. Nhóm tư liệu nghiên cứu, sưu khảo lịch sử


Nguồn tư liệu này có hai dạng, hoặc viết về giai đoạn lịch sử, hoặc khai thác từng nhân
vật anh hùng. Tư liệu về giai đoạn lịch sử giúp tái hiện tiến trình kháng chiến chống Pháp ở
Nam Bộ (1858 – 1918). Ở đó, những anh hùng chống Pháp được ghi nhận, đánh giá theo nhiều
quan điểm khác nhau. Còn tư liệu về nhân vật lịch sử tập trung khắc họa thân thế, sự nghiệp,
vai trò lịch sử,… của các anh hùng chống Pháp. Đây là điểm tựa thuận lợi, giúp ích cho công việc
biên soạn tác phẩm hoặc đối sánh lịch sử với truyền thuyết dân gian.
2.4. Nhóm tư liệu văn hóa – xã hội
Tư liệu nhóm này có phạm vi khảo cứu rộng. Trong đó, đáng chú ý là phương diện phong
tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội truyền thống của con người Nam Bộ. Tuy không đề cập đến văn
bản (hoặc thể loại) truyền thuyết nhưng các tư liệu đã có công giới thiệu nơi thờ tự nhiều anh
hùng chống Pháp, ghi lại những chứng tích văn hóa có liên quan đến truyền thuyết dân gian.
2.5. Nhóm tư liệu nghiên cứu văn học
2.5.1. Các công trình nghiên cứu, bài viết về thể loại truyền thuyết:
Đây là những công trình nghiên cứu chuyên sâu, được in ấn hoặc đăng tải rải rác, không
liên tục, chưa thành một hệ thống chuyên đề. Mỗi bài viết xoáy vào một khía cạnh phức tạp của
truyền thuyết. Đại thể, truyền thuyết là đối tượng nghiên cứu của văn học hay lịch sử? Nó bắt
đầu được nghiên cứu khi nào? Ranh giới giữa nó và các thể loại ở đâu? Căn cứ nào dùng phân

nhóm truyền thuyết? Kết cấu của dạng truyền thuyết anh hùng biến đổi ra sao?… Đôi khi, một
số bài viết có dùng truyền thuyết dân gian thời chống Pháp để minh họa cho lý luận.
2.5.2. Các công trình nghiên cứu, bài viết về đặc trưng văn học dân gian và thi pháp
văn học dân gian:
Đây là những tư liệu được chọn lựa theo định hướng. Chúng tạo ra một nền tảng lý luận
rộng chắc, giúp người nghiên cứu đủ tự tin để đào sâu, lý giải những phán đoán khoa học. Riêng
các bài viết về thi pháp văn học dân gian thường đề xuất những quan điểm lý luận sâu sắc,
mang tính khoa học cao, giúp vận dụng vào quá trình khảo sát thể loại truyền thuyết. Một số tư
liệu, khi dẫn chứng minh họa, đã ít nhiều đề cập đến nội dung, nghệ thuật của tác phẩm truyền
thuyết.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Như tên đề tài, Truyền thuyết dân gian về cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1858
– 1918), đó là đối tượng nghiên cứu của chúng tôi.
Tuy tìm về chặng đường lịch sử “khổ nhục mà vó đại” của dân tộc nhưng chúng tôi không
nhìn vấn đề bằng con mắt lịch sử. Bởi, đây là đề tài chuyên sâu, thuộc về khoa nghiên cứu văn
học dân gian.
Khách thể nghiên cứu của chúng tôi là văn học dân gian, tồn tại ở một không gian hẹp
(miền đất Nam Bộ), với định hướng nội dung cụ thể (về cuộc kháng chiến chống Pháp), chỉ trên
chặng đường ngắn ngủi (1858 – 1918), lại tập trung vào một thể loại duy nhất (truyền thuyết
dân gian).
Chọn truyền thuyết làm đối tượng nghiên cứu, chúng tôi chọn được “miền đất thiêng”
của văn học dân gian, còn nhiều vấn đề khó và phức tạp. Bởi, truyền thuyết là một thể loại lớn
trong văn học dân gian, đã hình thành, vận động và phát triển lâu đời. Nó là thể loại có sự giao
thoa lớn với thần thoại, cổ tích. Đôi khi, nó mờ nhòe trong giai thoại. Và mọi nơi, mọi lúc, nó
đều mang hào quang của tín ngưỡng, không khí của lễ hội, sức mạnh của niềm tin,… Đến độ,
nhiều người ngỡ nó là đối tượng điều nghiên của lịch sử.
Bản thân thể loại vốn đã phức tạp. Sự hiện diện của nó trong giai đoạn lịch sử 1858 –
1918, ở Nam Bộ, lại càng phức tạp hơn. Những truyền thuyết kể về thời này, hầu hết, đều mang



vết nhuận sắc của cá nhân người đời sau, tồn tại qua những văn bản viết. Điều đó buộc giới
nghiên cứu phải ít nhiều cân nhắc, một khi còn sử dụng khái niệm “sáng tác truyền miệng dân
gian”. Ngay như nội hàm thuật ngữ dân gian, giờ phải được hiểu ra sao, khi nhiều câu chuyện
đã qua tay các chuyên gia, học giả? Bên cạnh đó, những yếu tố hoang đường, vẻ đẹp đặc trưng,
luôn tỏa cầu vồng lung linh trên vòm trời truyền thuyết, giờ lụi tàn đâu mất trong nhiều câu
chuyện ảm đạm, đau thương? Liệu thể loại truyền thuyết còn giữ được bản chất của nó, khi vận
động đến nửa cuối thế kỷ XIX này? Chưa kể, ở đây, truyền thuyết và giai thoại lại có xu hướng
xâm nhập vào nhau, khiến người đọc không dễ gì định danh thể loại cho nhiều câu chuyện.
Có thể nói, chọn đối tượng nghiên cứu là truyền thuyết dân gian, chúng tôi đã tự buộc
mình vào một lối đi hẹp, khá nhiều chông chênh, trắc trở. Giá như, mở rộng đối tượng, thành
“Truyện kể dân gian”, vấn đề có khi rộng thoáng hơn, an toàn hơn. Tuy nhiên, đã chọn con
đường nghiên cứu văn học, chúng tôi hiểu rằng, mọi thành bại của mình đều không uổng phí.
Những thành công, nếu được, sẽ đóng góp đáng kể cho kế hoạch khai thác kho tàng truyền
thuyết dân gian quý báu giữa lòng phương Nam. Còn những sai sót, nếu có, sẽ là lối tránh cho
những ai vẫn nhiệt tình khai thác đề tài mới mẻ, hấp dẫn này.
Chọn Nam Bộ để khoanh vùng khảo sát, chúng tôi tự giới hạn đối tượng vào phủ Gia
Định xưa, sau được gọi là Nam Kỳ lục tỉnh, giờ là các tỉnh thành Nam Bộ - miền đất trải dài từ
lưu vực sông Đồng Nai đến phần hạ lưu của chín nhánh sông Rồng.
Còn giới hạn thời gian, chọn giai đoạn từ 1858 đến 1918, chúng tôi dựa vào mốc khảo
sát của một số nhà nghiên cứu sử học1. Dó nhiên, chúng chỉ mang tính tương đối. Bởi, cuộc
kháng chiến chống Pháp đầu tiên ở Nam Bộ, thực ra, chỉ bắt đầu từ 1859. Và sự kiện gần nhất,
xảy ra trong tác phẩm, lại dừng ở thời điểm 1916. Thiết nghó, mốc thời gian tương đối tỏ ra phù
hợp với đối tượng khảo sát là văn học dân gian.
Do vậy, có thể khẳng định lần nữa, đối tượng nghiên cứu của luận văn này là “Truyền
thuyết dân gian về cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918)”.

4. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn của chúng tôi, do giới hạn trình độ và thời gian, nên chỉ là những nhát cuốc
khởi công, đầy nhiệt tình của người tình nguyện khai khẩn mảnh đất truyền thuyết dân gian còn

lắm hoang vu của quê hương Nam Bộ. Tuy vậy, chúng tôi cũng cố gắng đạt đến, trong chừng
mực tốt nhất có thể, những mục tiêu chính sau đây:
4.1. Xây dựng được một hệ thống truyền thuyết dân gian (có tính chất mở) về cuộc
kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ
Để đạt mục tiêu này, chúng tôi thực hiện 3 nhiệm vụ:
4.1.1. Sưu tầm tác phẩm: trên cơ sở lý thuyết thể loại và giới hạn nghiên cứu, tập hợp
những truyền thuyết hoàn chỉnh đã được các nhà sưu tầm văn học dân gian, các nhà nghiên cứu
chính thức công bố. Đồng thời, bản thân cố gắng đi thực tế vài nơi, hy vọng góp nhặt đôi mẩu
truyền thuyết còn lẩn khuất trong dân gian.
4.1.2. Biên soạn tác phẩm: lục tìm và xâu chuỗi lại những mẩu truyền thuyết, những
chi tiết (dù ở cấp độ motif) đã tồn tại rải rác trong một số tư liệu văn học dân gian, tư liệu lịch
sử,…, nhằm phác họa (theo định hướng nội dung và đặc trưng thể loại) một số gương mặt anh
hùng và sự kiện đáng chú ý trong truyền thuyết dân gian.
1

Dương Kinh Quốc dùng mốc thời gian này để viết Việt Nam – những sự kiện lịch sử (1858 – 1918) [113]. Còn Trần Văn
Giàu, trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, tập I [25], cũng có phần viết về Sài Gòn từ 1859 đến chiến tranh thế
giới thứ I (thời điểm 1918).


4.1.3. Biên tập tác phẩm: mạnh dạn tu chỉnh các truyền thuyết sưu tầm được, từ
phương diện từ ngữ, cú pháp cho đến bố cục, tựa đề tác phẩm; hy vọng công bố những văn bản
sáng rõ, trong một tập hợp thật tốt, những truyền thuyết dân gian về cuộc kháng chiến chống
Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918).
4.2. Phân nhóm hệ thống truyền thuyết vừa xây dựng được, theo tiêu chí nội dung
lịch sử
Để đạt mục tiêu này, chúng tôi thực hiện 3 nhiệm vụ:
4.2.1. Phác thảo lại diện mạo lịch sử của quá trình kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ
(1858 – 1918), ghi nhận khái quát những cuộc khởi nghóa lớn, kể cả những ngọn cờ mới manh
nha.

4.2.2. Khảo sát nội dung từng truyền thuyết, mẩu truyền thuyết vừa tìm được, kết dính
chúng thành từng mảng truyện, rồi qui về từng nhóm truyện lớn trong cùng hệ thống.
4.2.3. Mô tả vẻ đẹp hồn nhiên, sức hấp dẫn đặc biệt về nội dung, ý nghóa của từng
nhóm, mảng truyện; đồng thời, qua đối sánh với chính sử, khẳng định phần đóng góp quý báu
của truyền thuyết dân gian đối với lịch sử dân tộc: là nguồn than đước vô tận nuôi giữ ngọn lửa
truyền thống yêu nước của Nam Bộ và cả nước; là kênh rạch ngọt lành, tưới mát cho nhiều thửa
ruộng cằn cỗi, khắc nghiệt của chính sử triều Nguyễn bấy giờ.
4.3. Giới thiệu những motif phổ biến, tiêu biểu cho diện mạo của truyền thuyết dân
gian về cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918)
Để đạt mục tiêu này, chúng tôi thực hiện 3 nhiệm vụ:
4.3.1. Tóm lược từng tác phẩm trong các nhóm truyện, theo hướng chỉ giữ lại những
chi tiết đặc sắc, nhỏ nhất, ở cấp độ motif.
4.3.2. Liên kết những motif rời rạc vào từng nhóm motif phù hợp; đặt tên cho mỗi
nhóm motif và mô tả chúng.
4.3.3. Lý giải, đánh giá bước đầu vẻ đẹp mới mẻ, độc đáo, cùng trữ lượng phẩm chất
truyền thống của các nhóm motif và motif trong hệ thống vừa khảo sát.
4.4. Giới thiệu những chứng tích văn hóa liên quan đến truyền thuyết dân gian về
cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918)
Để đạt mục tiêu này, chúng tôi thực hiện 2 nhiệm vụ:
4.4.1. Ghi nhận những chứng tích văn hóa hiện còn, hoặc đã từng được lưu giữ trong
đời sống vật chất, tinh thần của người dân Nam Bộ, qua định hướng của hệ thống truyền thuyết
vừa khảo sát.
4.4.2. Khẳng định sức sống và ý nghóa thiêng liêng của truyền thuyết dân gian (1858 –
1918) đối với đời sống tâm linh của đồng bào Nam Bộ. Khẳng định sự tồn tại vững chãi của thể
loại truyền thuyết trong tiến trình lịch sử văn học và vai trò đặc biệt của nó đối với sự trưởng
thành của một dân tộc.

5. Phương pháp nghiên cứu
Truyền thuyết dân gian là thể loại lớn của văn học dân gian, cũng là một bộ phận
quan trọng cấu thành tầm vóc, giá trị của nền văn học dân tộc. Do vậy, chọn truyền thuyết dân

gian làm đối tượng nghiên cứu, chúng tôi dùng phương pháp luận nghiên cứu văn học dân gian
làm nền tảng lý luận. Đồng thời, chúng tôi cũng kết hợp với những phương pháp nghiên cứu lý
thuyết của khoa nghiên cứu văn học. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi đã sử dụng những
phương pháp cụ thể sau:
5.1. Phương pháp loại hình lịch sử


5.1.1. Tìm hiểu thể loại truyền thuyết, qua sự vận động của nó trong từng giai đoạn
lịch sử.
5.1.2. Khảo sát từng tác phẩm và cả hệ thống truyền thuyết dân gian (1858 – 1918),
qua việc đặt tác phẩm trở lại bối cản h lịch sử xã hội, môi trường nó chào đời, nhằm phát hiện
những khúc xạ của lịch sử vào trong tác phẩm, kể cả những hào quang mà nó tỏa chiếu trên nền
lịch sử.
5.1.3. Ghi nhận sự vận động, biến đổi của các bản kể truyền thuyết, như là kết quả tất
yếu của sự vận động văn học, thông qua sự chi phối của các qui luật khách quan.
5.2. Phương pháp phân loại, hệ thống hóa
5.2.1. Phân loại những tác phẩm sưu tầm được, chọn hoặc loại bỏ chúng, dựa trên tiêu
chí thể loại, giới hạn nghiên cứu và đối tượng khảo sát.
5.2.2. Hệ thống hóa những văn bản rời rạc, đưa chúng vào từng mảng truyện, nhóm
truyện, hoặc nhóm motif. Mọi khía cạnh được khảo sát, dù ở cấp độ motif, cũng phải nằm trong
một hệ thống cụ thể. Ngược lại, hệ thống được khảo sát phải luôn hàm chứa mọi yếu tố có cấp
độ nhỏ hơn nó. Việc hệ thống hóa mở ra con đường ngắn nhất để nhận diện nhiều đặc điểm thi
pháp của thể loại.
5.3. Phương pháp thống kê, miêu tả
5.3.1. Sử dụng số liệu thống kê làm cơ sở kết luận cho mọi phán đoán khoa học: con
đường lưu truyền chủ yếu của tác phẩm, sự phong phú hay nghèo nàn của từng mảng, nhóm
truyện hoặc nhóm motif; cảm hứng chủ đạo, dấu ấn mới mẻ, độc đáo của hệ thống truyền
thuyết giai đoạn này…
5.3.2. Miêu tả kết cấu , nội dung chính, những yếu tố lặp lại trong từng tác phẩm; từ đó
miêu tả nội dung, đặc điểm từng mảng, nhóm truyện,… để làm cơ sở kết luận cho đề tài.

5.4. Phương pháp phân tích, đối chiếu
5.4.1. Phân tích kết cấu tác phẩm, sự truyền cảm của từng chi tiết nghệ thuật, vẻ đẹp
lung linh của hình tượng; phân tích dấu vết truyền thống hoặc những sáng tạo mới trong từng
nhóm motif và motif.
5.4.2. Đối chiếu tác phẩm với tác phẩm, mảng truyện này với mảng truyện khác,
truyền thuyết giai đoạn này với giai đoạn trước, truyền thuyết lịch sử với các thể loại gần gũi,
giao thoa (cổ tích, giai thoại,…). Đây là cơ sở hữu hiệu để thấy được sự thống nhất của hệ thống,
sự đa dạng của tác phẩm, sự thâm nhập, chuyển hóa giữa các thể loại văn học,…
5.5. Phương pháp sưu tầm và thẩm định tư liệu
5.5.1. Sưu tầm tác phẩm, chủ yếu qua việc khoanh vùng các nguồn tài liệu có trữ
lượng lớn về văn học dân gian Nam Bộ, soi rọi chúng dưới ánh sáng của lý thuyết thể loại, dựa
vào “chất dân gian” để tiếp nhận chúng vào hệ thống. Cố gắng sưu tầm những mẩu truyền
thuyết còn ẩn khuất ở miền quê, qua lời kể của người cao tuổi.
5.5.2. Thẩm định từng tác phẩm trong hệ thống, thông qua việc chọn lọc, sắp xếp theo
nhóm nội dung, theo đơn vị nhóm motif, motif; kết hợp thao tác tìm về một số địa phương để
chứng thực sự tồn tại của nó. Dựa vào đặc trưng thể loại để thẩm định những trường hợp: tồn tại
dị bản, nhiều bản kể khác nhau, có xuất xứ khác nhau, hay còn nhập nhằng ở đường biên thể
loại,…

6. Đóng góp mới của Luận văn
6.1. Tập hợp và công bố một hệ thống truyền thuyết dân gian (có tính chất mở) về cuộc
kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918). Hệ thống này bao gồm những văn bản sáng
rõ hơn mọi bản kể xuất hiện trước đây. Các nhóm, mảng trong hệ thống có khả năng thu nhận


bất cứ truyền thuyết nào (thỏa điều kiện) được tiếp tục sưu tầm và phát hiện. Hệ thống này sẽ
dự phần vào kế hoạch sưu tầm, hệ thống hóa toàn bộ kho tàng truyền thuyết dân gian ở Việt
Nam.
6.2. Nêu tổng quan những công trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian có đề cập thể
loại truyền thuyết, đặc biệt là truyền thuyết dân gian thời chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918).

Phần này giúp những người bước đầu nghiên cứu, học tập theo dõi thuận tiện và bao quát tiến
trình nghiên cứu văn học dân gian Nam Bộ.
6.3. Phân tích vẻ đẹp hồn nhiên, sức hấp dẫn đặc biệt của truyền thuyết dân gian thời
chống Pháp ở Nam Bộ; đồng thời chỉ ra phần bổ sung quý báu của nó đối với những khiếm
khuyết, hạn chế của chính sử triều Nguyễn bấy giờ.
6.4. Giới thiệu một số nhóm motif và motif đặc sắc trong hệ thống truyền thuyết vừa xây
dựng. Qua đó, phát hiện sự vận động liên tục và những biến đổi mới của bản thân thể loại. Điều
này cũng góp cho quá trình nghiên cứu thi pháp thể loại thêm một cách nhìn, một vùng đất khảo
sát mới.
6.5. Giới thiệu một số chứng tích văn hóa liên quan đến truyền thuyết về cuộc kháng
chiến chống Pháp ở Nam Bộ. Đây là cách tiếp cận sâu sắc đời sống tâm linh của đồng bào Nam
Bộ, đồng thời là cách khẳng định vai trò đặc biệt của truyền thuyết dân gian trong suốt hành
trình giữ nước của dân tộc Việt Nam.

7. Kết cấu Luận văn
Luận văn của chúng tôi được chia làm các phần mục như sau:
Chương mở đầu
9 trang
Chương 1: Tình hình tư liệu truyền thuyết dân gian
về cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918)
30 trang
Chương 2: Phân loại các nhóm truyền thuyết
29 trang
Chương 3: Những motif phổ biến trong hệ thống truyền thuyết
dân gian về cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918) 41 trang
Chương 4: Những chứng tích văn hóa liên quan đến truyền thuyết
dân gian về cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918) 24 trang
Kết luận
3 trang
Ngoài ra, luận văn còn có:

Danh mục tài liệu tham khảo
6 trang
Phụ lục
102 trang


CHƯƠNG 1
TÌNH HÌNH TƯ LIỆU TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN
VỀ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP Ở NAM BỘ
(1858 – 1918)
***
1. Nhận xét tình hình tư liệu
Như mục tiêu đã đề ra, chúng tôi phải tiến hành xây dựng trước hết một hệ thống truyền
thuyết về cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918). Hệ thống này là cơ sở quan
trọng, có ý nghóa xác lập tính đúng đắn, hướng đi, độ mở và giá trị thực tiễn của đề tài.
Bởi vậy, chúng tôi chủ động tìm về những địa chỉ có trữ lượng lớn tác phẩm văn học dân
gian Nam Bộ. Điều thuận lợi là hầu hết truyền thuyết đều tồn tại qua văn bản viết, được công
bố rộng rãi trong mấy thập niên qua. Phần nhiều, những truyền thuyết hoàn chỉnh đã được lưu
giữ bởi các chuyên gia sưu tầm văn học dân gian. Một số, ở dạng mẩu chuyện, motif, nằm rải
rác trong các tư liệu nghiên cứu của các nhà sử học, xã hội học. Hệ thống truyền thuyết được
chúng tôi xây dựng, do vậy, chủ yếu có được qua việc khảo sát, thẩm định những tư liệu này.
Tất nhiên, thuận lợi ấy cũng hàm chứa khó khăn. Bởi, đặc trưng văn học dân gian là sáng
tác truyền miệng, mang tính vô danh. Sự tồn tại tác phẩm ở văn bản viết, việc ảnh hưởng ít
nhiều văn phong cá nhân,… tất cả khiến mọi vấn đề lý luận cần phải được vận dụng mềm dẻo
hơn.
Từ đó, chúng tôi buộc mình phải hết sức tỉnh táo trong việc thẩm định “chất dân gian”;
cần lựa chọn ra sao, chấp nhận ở mức độ nào - dấu ấn riêng của cá nhân người sưu tầm, biên
soạn,…
Kế đến, chúng tôi phải tập hợp cho được những tư liệu sử học được công bố mới nhất, có
độ tin cậy cao nhất, về thời kỳ 1858 – 1918. Đây sẽ là chiếc khung vững chắc, giúp kiến thiết

một hệ thống truyền thuyết hợp lý, khoa học, từ nguồn tác phẩm vừa sưu tầm, biên soạn được.
Mặt khác, chúng tôi phải tiếp cận được những bài nghiên cứu tốt nhất, có giá trị học thuật
cao, bàn về thể loại truyền thuyết nói chung và truyền thuyết thời kỳ 1858 – 1918 nói riêng.
Đây sẽ là chất liệu quan yếu, tạo kết cấu bền vững cho luận văn của chúng tôi.
Sau đây, chúng tôi xin trình bày cụ thể tình hình tư liệu được sử dụng trong quá trình xây
dựng hệ thống truyền thuyết và quá trình khảo sát đề tài.
1.1. Nhóm tư liệu sưu tầm
Do sức đọc hạn chế, chúng tôi chỉ đến được một số tư liệu sau: Nghìn năm bia miệng,
2 tập [128], Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười [34], Nam Kỳ cố sự [35], Thơ văn Đồng
Tháp, tập I [135], Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu Long [98], Văn học dân gian Sóc
Trăng [19], Thơ văn Đồng Tháp trong nhà trường [137], Tài liệu hướng dẫn học tập thơ
văn Kiên Giang trong nhà trường [136], Truyền thuyết Việt Nam [47], Truyền thuyết Việt
Nam [55], Kho tàng truyện truyền kỳ Việt Nam [46], Việt Nam – thần thoại và truyền
thuyết [88], Văn học dân gian – những tác phẩm chọn lọc [93], Truyện tích Việt Nam [42],…
1.1.1. Nghìn năm bia miệng, 2 tập [128]
 Tác giả: Huỳnh Ngọc Trảng - Trương Ngọc Tường
 Đặc điểm tư liệu:


 Đầu tập I có phần giới thiệu. Trong đó, người viết dự phần lý giải truyện kể
dân gian theo cái nhìn foklore học: sự kế thừa những mẫu đề, môtif truyền thống,… Đặc biệt,
mảng truyền thuyết dân gian về các anh hùng chống Pháp được nhận xét khá sâu sắc và trang
trọng.
 Những câu chuyện truyền miệng được tuyển chọn, biên soạn theo định
hướng đề tài. Theo đó, bộ sách có hẳn mảng truyện về những nhân vật lịch sử, đặc biệt là
những anh hùng chống Pháp đã làm rạng rỡ hào khí đất Gia Định – Đồng Nai, tiêu biểu cho
hàng triệu đồng bào Nam Bộ kiên cường, bất khuất.
 Các câu chuyện không được xác định về mặt thể loại.
 Các câu chuyện đều có ghi xuất xứ.
1.1.2. Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười [34]

 Tác giả: Nguyễn Hữu Hiếu
 Đặc điểm tư liệu:
 Cả 42 truyện đều có bối cảnh không gian là vùng Đồng Tháp Mười, thời
gian trải dài từ “ngày xưa” cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Tập sách lần lượt nhắc lại sự tích những
địa danh; những câu chuyện hào hùng, cảm động về các anh hùng hào kiệt đã sống, chiến đấu
và ngã xuống trên quê hương Đồng Tháp.
 Các câu chuyện được gọi chung là giai thoại dân gian.
 Một số câu chuyện không ghi xuất xứ.
1.1.3. Nam Kỳ cố sự [35]
 Tác giả: Nguyễn Hữu Hiếu
 Đặc điểm tư liệu:
 Do phạm vi sưu tầm, biên soạn là chuyện kể dân gian Nam Bộ nên sách tập
hợp trước hết những câu chuyện do chính tác giả ghi lại ở vùng Đồng Tháp Mười. Bên cạnh đó,
tác giả tuyển chọn chuyện hay ở nhiều địa phương khác, dựa theo tài liệu đã công bố của Sơn
Nam, Huỳnh Ngọc Trảng,…
 Có một số truyền thuyết dân gian.
 Các câu chuyện được gọi chung là chuyện xưa (cố sự).
 Còn một số câu chuyện không ghi xuất xứ.
1.1.4. Thơ văn Đồng Tháp, Tuyển tập I [135]
 Tác giả: Chủ biên là giáo sư Lê Trí Viễn. Cộng tác với giáo sư là tập thể
giảng viên Khoa Văn, trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh và khoa Văn trường Cao đẳng
Sư phạm Đồng Tháp.
 Đặc điểm tư liệu:
 Bộ sách gồm 2 tập. Tập I dành riêng cho Thơ văn dân gian. Riêng truyền
thuyết có 16 truyện, nội dung kể về sự tích các địa danh, những anh hùng hào kiệt buổi đầu
chống Pháp.
 Đầu tập I có lời giới thiệu, dài 57 trang, của giáo sư Lê Trí Viễn. Đây là bài
viết mang tính chất tổng kết thành quả sưu tầm, biên soạn; phác họa bức tranh hoành tráng về
đất và người Nam Bộ; đồng thời có những gợi ý sâu sắc trong việc khám phá chủ đề và đặc
điểm thi pháp thể loại của tác phẩm văn học. Bài viết có những cảm nhận đầy xúc động, dành

riêng cho thể loại truyền thuyết.
 Các đơn vị tác phẩm được sắp xếp theo thể loại.
 Còn một số câu chuyện không ghi xuất xứ.
1.1.5. Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu Long [98]


 Tác giả: Đây là công trình sưu tầm, biên soạn của tập thể giảng viên khoa
Ngữ văn, trường Đại học Cần Thơ. Người giới thiệu tập sách là PGS. Chu Xuân Diên.
 Đặc điểm tư liệu:
 Các tác phẩm được sắp xếp thành hai phần: văn xuôi, văn vần. Ở phần văn
xuôi dân gian, truyện được chia theo nhóm, căn cứ vào nội dung.
 Đầu tập sách có lời giới thiệu của PGS. Chu Xuân Diên và lời của nhóm
biên soạn. Qua 8 trang viết, nhóm biên soạn phác họa đôi nét về đặc trưng văn hóa của Đồng
bằng sông Cửu Long, điểm qua một số công trình sưu tầm, khảo cứu có giá trị về văn học dân
gian Nam Bộ, đồng thời trình bày các bước tiến hành biên soạn của nhóm.
 Có một số truyền thuyết dân gian thời chống Pháp.
 Các truyện không được xem xét ở góc độ thể loại, bởi theo các tác giả:
“Nhiều truyện không còn giữ được tính chất thể loại của nó. Một số truyện có thể là truyền thuyết
nhưng lại mang màu sắc cổ tích, một số truyện loài vật có màu sắc ngụ ngôn,… Biện pháp khả thi
ở đây là sắp xếp các truyện theo nội dung” [98,14].
 Nhóm biên soạn có xu hướng xem truyền thuyết về các anh hùng chống
Pháp là giai thoại [98,14].
 Một số câu chuyện không do sưu tầm được trên thực địa, trong thời gian đi
điền dã. Những tác phẩm này, phần nhiều được trích từ công trình của các tác giả khác.
1.1.6. Văn học dân gian Sóc Trăng [19]
 Tác giả: Chủ biên là PGS. Chu Xuân Diên. Cộng tác với giáo sư là tập thể
giảng viên, sinh viên khoa Ngữ văn và Báo chí – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
– Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
 Đặc điểm tư liệu:
 Các tác phẩm được giới thiệu là kết quả của 3 đợt sưu tầm điền dã, huy

động 614 lượt người tham gia, với hơn 3000 cộng tác viên, thuộc cả 3 cộng đồng dân tộc Việt,
Khơme, Hoa.
 Đầu tập sách có lời giới thiệu của nhóm biên soạn về một số nguyên tắc và
phương pháp chính đã được sử dụng. Trong đó có những kiến giải sâu sắc về vấn đề văn học
dân gian địa phương, sự tương quan giữa các thể loại,…
 Các tác phẩm được phân theo tiêu chí thể loại (truyện dân gian, thành ngữ
và tục ngữ, câu đố, ca dao dân ca, vè).
 Thần thoại và truyền thuyết được gom chung một nhóm. Các câu chuyện
tập trung kể về nguồn gốc loài người, các vị thần, sự đoàn kết giữa các dân tộc ; lai lịch hình
thành các địa danh, các lễ hội,…
 Không có truyền thuyết nào kể về cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam
Bộ.
 Các truyện kể có ghi xuất xứ.
1.1.7. Thơ văn Đồng Tháp trong nhà trường [137], Tài liệu hướng dẫn học tập thơ
văn Kiên Giang trong nhà trường [136]
 Tác giả: Chủ biên là giáo sư Lê Trí Viễn
 Đặc điểm tư liệu:
 Hai tập sách không thuần túy là công trình sưu tầm văn học dân gian. Nó đã
là giáo trình giảng dạy văn học địa phương trong nhà trường; là bước tiếp theo của tập thể
những người sưu tầm, biên soạn văn học dân gian địa phương. Mỗi bài học có in nguyên văn tác
phẩm, sau đó là phần hướng dẫn đọc thêm.


 Hai tập sách có một số truyền thuyết về anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ.
Trong đó có truyện được tuyển chọn từ Thơ văn Đồng Tháp, tập I.
1.1.8. Văn học dân gian – những tác phẩm chọn lọc [93]:
 Tác giả: Chủ biên là PGS.TSKH Bùi Mạnh Nhị. Cộng tác với giáo sư có Hồ
Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp.
 Đặc điểm tư liệu:
 Tập sách được sắp xếp theo thể loại. Trong mỗi thể loại, tác phẩm được

phân theo tiểu loại hoặc thời kỳ mà chúng phản ánh. Một số tiểu loại, tác phẩm có kèm phần
tiểu dẫn, nhằm giúp người đọc hiểu đúng hơn, sâu sắc hơn văn bản.
 Có riêng phần thể loại truyền thuyết. Tác phẩm được xếp theo thời kỳ lịch
sử (Thời Hồng Bàng và Văn Lang, Âu Lạc; Thời kỳ mười thế kỷ chống phong kiến phương Bắc
xâm lược; Thời kỳ xây dựng và bảo vệ quốc gia phong kiến độc lập, tự chủ; Thời kỳ chống
Pháp).
 Riêng ở thời kỳ chống Pháp, tập sách giới thiệu 3 truyền thuyết về Nguyễn
Trung Trực, 2 truyền thuyết về Thiên Hộ Dương.
 Các truyện kể đều có ghi xuất xứ.
1.1.9. Các tác phẩm Truyền thuyết Việt Nam [47], Truyền thuyết Việt Nam [55],
Kho tàng truyện truyền kỳ Việt Nam [46], Việt Nam – thần thoại và truyền thuyết [88],
Truyện tích Việt Nam [42]
 Tác giả: Bốn tác phẩm đầu là công trình biên soạn khá quy mô của các
chuyên gia về thể loại truyền thuyết: Vũ Ngọc Khánh [46], [47]; GS. Lã Duy Lan [55]; GS. Bùi
Văn Nguyên [88]. Tập sách cuối là công trình của nhà sưu tầm văn học Lê Hương.
 Đặc điểm tư liệu:
 Các tập sách tuyển chọn những truyền thuyết hay nhất của Việt Nam,
nhưng giới hạn chỉ trong (và trước) thời kỳ quốc gia phong kiến độc lập.
 Đầu các tập sách có lời giới thiệu giàu tính lý luận về đặc điểm thể loại và
tình hình biên soạn truyền thuyết. Riêng ở tập [47] là lời giới thiệu của nhà nghiên cứu Trần Thị
An.
 Trong bốn tập đầu, không truyền thuyết nào kể về cuộc kháng chiến chống
Pháp ở Nam Bộ. Chỉ trong Truyện tích Việt Nam [42], có truyện số 24 kể về Thiên Hộ Dương,
truyện số 25 kể chung về những vị anh hùng chống Pháp. Hai truyện này còn dừng ở mức độ ghi
chép, sưu khảo.
 Các truyện không ghi xuất xứ.
1.2. Nhóm tư liệu sưu khảo địa chí
Tuy không chủ định sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian nhưng các tư liệu này đã
bổ sung không ít cho sự phong phú của hệ thống truyền thuyết. Chúng tôi đã biên soạn, biên tập
được một vài tác phẩm có giá trị từ nguồn tư liệu này.

Dưới đây là một số tư liệu chính được chúng tôi khai thác.
1.2.1. Bộ sách sưu khảo của Huỳnh Minh: Bạc Liêu xưa [69], Cần Thơ xưa [70],
Định Tường (Mỹ Tho) xưa [71], Gia Định xưa [72], Gò Công xưa [73], Kiến Hòa (Bến Tre)
xưa [74], Sa Đéc xưa [75], Tây Ninh xưa [76], Vónh Long xưa [77], Vũng Tàu xưa [78], Tân
Châu xưa [51]
 Tác giả: nhà sưu khảo Huỳnh Minh
 Đặc điểm tư liệu:


 Đây là bộ sách sưu khảo theo dạng địa phương chí. Mỗi tập sách tổng hợp
kiến thức về địa lý, lịch sử, nhân vật, giai thoại, huyền thoại, di tích, thắng cảnh, cũng như các
địa danh năm xưa của một tỉnh ở miền Nam. Tình cảm nồng nhiệt, chất nghệ só tài hoa của tác
giả được bộc lộ trực tiếp trên từng trang viết.
 Mỗi tập sách được chia thành từng phần mục cụ thể. Những địa danh lịch
sử, gương anh hùng chống Pháp thường xuất hiện trong các phần mục về nhân vật, giai thoại,
huyền thoại.
 Những trang viết về các anh hùng chống Pháp phần nhiều được thể hiện
dưới dạng bút kí. Các mẩu chuyện thường tản mạn. Đôi khi, tác giả còn ghi chép cẩn thận gia
phả người anh hùng. Một số sự kiện còn dừng ở dạng liệt kê (gạch đầu dòng). Tác giả luôn bộc
lộ suy nghó, xúc cảm của bản thân trong quá trình kể chuyện.
 Bộ sách không có chủ định sưu tầm văn học dân gian, nhất là thể loại
truyền thuyết.
1.2.2. Tác phẩm sưu khảo của Sơn Nam: Bến Nghé xưa [81], Đất Gia Định xưa
[83]
 Tác giả: nhà văn Sơn Nam
 Đặc điểm tư liệu:
 Đây là những tập sưu khảo theo dạng địa phương chí. Mỗi tập sách được
trình bày lần lượt từ đặc điểm địa lý, đến những biến cố lịch sử, sau đó là những thay đổi về
kinh tế, văn hóa, xã hội theo dòng lịch sử.
 Các tập sách không có chủ định sưu tầm văn học dân gian. Tuy nhiên, một

số mẩu chuyện lại mang màu sắc truyền thuyết, có thể tách ra thành một tác phẩm độc lập.
 Những câu chuyện truyền thuyết thường có thêm các đoạn tả cảnh và diễn
biến tâm lý nhân vật, thể hiện phần nhuận sắc của tác giả.
1.2.3. Tác phẩm Nam Bộ xưa và nay [97]
 Tác giả: nhiều người viết
 Đặc điểm tư liệu:
 Đây là công trình tập hợp những bài viết có chất lượng, tiêu biểu cho nhiều
lónh vực lịch sử, văn hóa của miền đất Nam Bộ xưa và nay. Công trình do tạp chí Xưa và nay
tuyển chọn, ấn hành.
 Một số bài viết về sự kiện, nhân vật lịch sử buổi đầu chống Pháp (1858 –
1918) mang đậm tính chất của truyền thuyết dân gian, có thể xem như tác phẩm truyền thuyết
hoàn chỉnh.
 Mỗi bài viết thể hiện một văn phong, lối diễn đạt khác nhau.
1.2.4. Bộ sách Địa chí Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh [25]
 Tác giả: chủ biên là giáo sư Trần Văn Giàu và nhà nghiên cứu Trần Bạch
Đằng. Đảm nhiệm biên soạn phần văn học dân gian là nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảngä.
 Đặc điểm tư liệu:
 Bộ sách gồm bốn tập, dung lượng khá qui mô.
 Ở tập I, các tác giả viết riêng về Sài Gòn dưới ách thống trị thực dân Pháp
từ 1859 đến 1918. Một số gương anh hùng chống Pháp được ghi nhận (Hồ Huân Nghiệp, Trương
Định, Phan Văn Hớn, Nguyễn Hữu Trí, Phan Xích Long,…). Qui mô, tính chất các cuộc khởi
nghóa được phân tích dưới góc độ sử học.
 Ở tập II, phần Văn học có bài về Văn học dân gian Gia Định – Sài Gòn.
Tuy dẫn chứng trong giới hạn địa phương nhưng bài viết đã gợi mở cách nhìn về diện mạo và


đặc điểm chung của văn học dân gian cả miền đất Nam Bộ. Bài viết có đề cập truyện kể dân
gian về anh hùng chống Pháp và giai thoại về những nhà nho làm thơ đánh giặc.
1.3. Nhóm tư liệu nghiên cứu, sưu khảo lịch sử
Tuy chỉ mang chức năng làm sử nhưng không ít tư liệu lại cất giữ trong nó nhiều

mẩu truyền thuyết dân gian. Điều này có lẽ xuất phát từ nhu cầu phục hiện sống động quá khứ,
nhưng nguồn sử chính thống quá khe khắt và hiếm hoi, các nhà sử học buộc phải cần đến sự
viện trợ đắc lực của kho tàng chuyện kể dân gian. Nhờ vậy, hôm nay, chúng tôi có cơ hội bổ
sung vài tác phẩm đặc sắc cho hệ thống truyền thuyết của mình.
1.3.1. Tư liệu về giai đoạn lịch sử: Đại Nam liệt truyện, 4 tập [111], Đại Nam nhất
thống chí, 3 tập [112], Việt Nam – những sự kiện lịch sử [113], [114], Việt Nam thế kỷ XIX
[110], Chống xâm lăng [26]
 Tác giả: Hai bộ sách đầu thuộc về Quốc sử quán triều Nguyễn (cơ quan làm
sử chính thức của triều Nguyễn, giữa thế kỷ XIX), tác giả là những sử quan, cầm bút theo quan
điểm phong kiến. Bốn tập sách còn lại là công trình của những nhà sử học theo quan điểm Mác
– xít: Nguyễn Phan Quang, Dương Kinh Quốc, Dương Trung Quốc, Trần Văn Giàu.
 Đặc điểm tư liệu:
 Hai bộ sách đầu có qui mô khá đồ sộ trong kho tàng thư tịch cổ viết bằng
chữ Hán của Việt Nam, giữa thế kỷ XIX. Mỗi bộ gồm nhiều tập. Mỗi tập có nhiều quyển. Mỗi
quyển viết nhiều chủ đề khác nhau. Đại Nam nhất thống chí trình bày nội dung theo nhóm
hành chính (Kinh Sư, Phủ Thừa Thiên, Tỉnh Quảng Bình, Đạo Hà Tónh,…). Trong mỗi vùng, các
sử quan đều có phần viết về nhân vật. Riêng Đại Nam liệt truyện trình bày theo nhóm nhân
vật (nhân vật dòng dõi tôn thất, các bậc nữ liệt, các vị anh hùng trung nghóa, những kẻ phản
nghịch,…). Có không ít nhân vật anh hùng chống Pháp được ghi chép công trạng trong các tư liệu
này (Phan Văn Đạt, Trần Xuân Hòa, Nguyễn Hữu Huân, Trương Định,…). Những truyện này
chưa hội đủ yêu cầu của truyền thuyết dân gian .
 Các bộ sách còn lại trình bày theo hướng biên niên sử, qua cái nhìn hệ
thống.
 Những sự kiện, câu chuyện diễn ra từ 1858 đến 1918 đã phần nào nêu bật
vai trò lịch sử của những anh hùng chống Pháp.
1.3.2. Tư liệu về những nhân vật lịch sử: Nguyễn Trung Trực [86], Anh hùng
kháng Pháp Nguyễn Trung Trực [49], Nguyễn Trung Trực – thân thế và sự nghiệp [96],
Khởi nghóa Trương Định [109]
 Tác giả: tập thể các nhà sử học, các nhà nghiên cứu, nhà văn: Sơn Nam và Lê
Đình Kỵ [86], Nguyễn Văn Khoa [49], Nguyễn Phan Quang [109]. Riêng tập [96] có sự đóng

góp của Nguyễn Khắc Thuần, Bùi Mạnh Nhị, Nguyễn Thị Thanh Xuân, cùng nhiều cán bộ
nghiên cứu lịch sử Đảng, nhà văn địa phương tỉnh Kiên Giang.
 Đặc điểm tư liệu:
 Các tư liệu này được viết theo dạng nhân vật chí. Mỗi công trình chỉ tập
trung khắc họa thân thế, sự nghiệp, vai trò lịch sử,… của một nhân vật anh hùng chống Pháp.
Mỗi tư liệu có đề cập phần khúc xạ cuộc đời nhân vật vào văn học – nghệ thuật, kèm theo
những lời đánh giá trang trọng, giàu tính khoa học về sự nghiệp của tiền nhân.
 Các tư liệu không trình bày theo kiểu biên niên sử. Từng chương mục lần
lượt tái hiện, diễn giải nguồn gốc xuất thân, động cơ khởi binh đánh giặc, những chiến công,…


của nhân vật. Có khi, chỉ một vấn đề, một sự kiện nhưng được tác giả cẩn thận trình bày qua
nhiều nguồn cứ liệu, cách nhìn nhận khác nhau.
 Vài chương mục còn lồng trong nó các mẩu truyền thuyết dân gian, thậm
chí tồn tại như một tác phẩm truyền thuyết hoàn chỉnh.
 Một số đoạn, bài mang tính chất gợi ý khai thác nội dung, ý nghóa của
truyền thuyết dân gian.
1.4. Nhóm tư liệu văn hóa – xã hội
1.4.1. Tư liệu về các tập tục thờ cúng, tín ngưỡng, lễ hội truyền thống: Hội hè,
đình đám Việt Nam [5], Hỏi đáp nghi lễ phong tục dân gian [68], Đình miễu và Lễ hội dân
gian [80], Nghi thức và Lễ bái của người Việt Nam [85], Đình Nam Bộ xưa và nay [129],…
 Tác giả: Toan Ánh [5], Đoàn Ngọc Minh [68], Sơn Nam [80],[85], Huỳnh
Ngọc Trảng – Trương Ngọc Tường [129]
 Đặc điểm tư liệu:
 Như tựa đề, các tư liệu tập trung giới thiệu, diễn giải nguồn gốc, hình thức
tổ chức những hội hè dân gian, những nghi lễ cúng tế,… Qua đó, các tác giả phân tích sâu sắc
đời sống tinh thần, tâm lý, tính cách con người Việt Nam nói chung và người dân Nam Bộ nói
riêng.
 Các tư liệu cũng giới thiệu nguyên nhân hình thành, vị trí, chức năng các
đền, miếu; lai lịch các các vị phúc thần. Lồng trong đó là những đoạn gợi nhắc công đức của cha

ông, những bậc “sanh vi tướng, tử vi thần”, đáng để muôn đời tưởng nhớ, biết ơn. Ở một số tư
liệu này, những anh hùng chống Pháp và các chứng tích văn hóa có liên quan đã được trình bày
hết sức trang trọng.
1.4.2. Tư liệu về địa lý, phong tục, tập quán sinh hoạt,…: Gia Định thành thông chí
[24], Con người Việt Nam [4], Hương nước hồn quê [6], Người Việt cao quý [29], Người Việt
có dân tộc tính không [79], Cá tính miền Nam [82], Lịch sử khẩn hoang miền Nam [84], …
 Tác giả: Trịnh Hoài Đức [24], Toan Ánh [4], [6], Vũ Hạnh [29], Sơn Nam [79],
[82], [84],…
 Đặc điểm tư liệu:
 Các tư liệu được trình bày dưới dạng sưu khảo.
 Tính chính xác, khoa học được coi trọng.
 Thông qua việc ghi chép, miêu tả những đặc điểm địa lý, phong tục, tập
quán ở Nam Bộ, đời sống tinh thần của người Việt,… các tác giả đã trực tiếp (hoặc gián tiếp)
khẳng định, đề cao những tính cách, phẩm chất đẹp đẽ của người dân Nam Bộ.
1.5. Nhóm tư liệu nghiên cứu văn học
1.5.1. Các công trình nghiên cứu, bài viết về thể loại truyền thuyết
 Tác giả: Trần Thị An [1], Chiêng Xom An [3], Kiều Thu Hoạch [37], Thái
Hoàng [38], Hồ Quốc Hùng [40], [41], Lê Văn Kỳ [53], Đặng Văn Lung [61], Bùi Quang Thanh
[115], [116], [117], Nguyễn Khánh Toàn [126], Phan Trần [130], Đỗ Bình Trị [131],…
 Đặc điểm tư liệu:
 Dù in riêng thành sách hay chỉ xuất hiện ở dạng bài báo (trên tạp chí Văn
học, Văn hóa dân gian,…), các tư liệu này là những công trình nghiên cứu chuyên sâu.
 Mỗi bài viết thường chạm khá sâu vào một vấn đề khác nhau, rất tế nhị và
phức tạp của riêng thể loại truyền thuyết: đặc trưng thể loại [3],[41], những lưu ý khi khai thác
thể loại [1], kết cấu của dạng truyền thuyết anh hùng [115], truyền thuyết dân gian và địa danh


[38], truyền thuyết dân gian và lễ hội [53], truyền thuyết dân gian với tâm lý cộng đồng [117],
quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết và diễn xướng tín ngưỡng phong tục [126],…
 Trong mỗi bài viết, các vấn đề lý luận đều được minh họa cô đọng bằng

những dẫn chứng tiêu biểu, giàu sức thuyết phục.
1.5.2. Các công trình nghiên cứu, bài viết về đặc trưng văn học dân gian và thi
pháp văn học dân gian
 Tác giả: Hà Châu [10], Phong Châu [11], Nguyễn Đổng Chi [13], Chu Xuân
Diên [16], [17], [18], Nguyễn Tấn Đắc [21], Cao Huy Đỉnh [23], Guxep [27], Nguyễn Ngọc
Hiệp [30], Nguyễn Thị Huế [39], Đinh Gia Khánh [43], [44], [45], Vũ Ngọc Khánh [48],
Nguyễn Xuân Kính [52], Nguyễn Thụy Loan [59], Đặng Văn Lung [62], [63], [64], Bùi Mạnh
Nhị [91], [92], Vũ Ngọc Phan [100], [101], [102], [103], Lã Nhâm Thìn [120], Nguyễn Ngọc
Thường [122], [123], Nguyễn Khánh Toàn [127],…
 Đặc điểm tư liệu:
 Trừ công trình của Guxep, tác phẩm biên dịch, bàn về văn học dân gian nói
chung; các tác phẩm còn lại đều đặt ra những vấn đề lý luận từ thực tiễn phong phú, phức tạp
của nền văn học dân gian Việt Nam.
 Đây đều là những bài viết chuyên sâu, bộc lộ trực tiếp quan điểm của từng
tác giả.
 Các tư liệu ít nhiều có liên hệ đến (và soi sáng cho) việc nghiên cứu thể
loại truyền thuyết.
1.6. Hướng khai thác các nhóm tư liệu
Đối với nhóm tư liệu sưu tầm, chúng tôi xác định thể loại cho từng truyện, chọn tuyển
nguyên văn những truyền thuyết hoàn chỉnh, do công sưu tầm trực tiếp của các tác giả; biên
soạn (theo hướng tách ra hoặc gộp lại các truyền thuyết, mẩu truyền thuyết); biên tập (về
phương diện từ ngữ, cú pháp, cách đặt tựa đề,… ) nhằm làm nổi bật chủ đề và nâng cao giá trị
của bản kể.
Đối với nhóm tư liệu sưu khảo địa chí, chúng tôi tuyển chọn, biên tập, đưa vào hệ
thống những bài viết thỏa điều kiện của một truyền thuyết hoàn chỉnh, ghi công sưu tầm của tác
giả; biên soạn một số truyền thuyết từ những câu chuyện tản mạn về các địa danh, các nhân vật
lịch sử. Dùng tư liệu làm cơ sở để hiểu thêm bối cảnh lịch sử, văn hóa – xã hội Nam Bộ nửa sau
thế kỷ XIX; để chứng thực sự tồn tại các địa danh, các gương mặt lịch sử xuất hiện trong hệ
thống truyền thuyết. Ghi nhận những ý kiến đánh giá về sự kiện lịch sử, nhân vật anh hùng
nhằm đối chiếu với hệ thống truyền thuyết dân gian đang khảo sát.

Đối với nhóm tư liệu nghiên cứu, sưu khảo lịch sử, chúng tôi biên soạn các mẩu
truyền thuyết, các phần mục (mang tính chất truyền thuyết) thành một tác phẩm hoàn chỉnh.
Đối chiếu truyện do sử gia kể với truyền thuyết dân gian để thấy được cái nhìn của nhân dân
đối với cuộc đời và kỳ tích những anh hùng. Dùng nội dung sự kiện lịch sử làm căn cứ truy tìm
địa chỉ truyền thuyết, làm cơ sở đối chiếu và phân tích các nhóm, mảng truyền thuyết dân gian.
Từ đó, ghi nhận những đóng góp quan trọng của truyền thuyết vào phần khiếm khuyết của
chính sử.
Đối với nhóm tư liệu văn hóa - xã hội, chúng tôi dựa vào để truy tìm địa chỉ thờ tự
những anh hùng chống Pháp; đối chiếu với hệ thống truyền thuyết; làm cơ sở tổng hợp, giới
thiệu các chứng tích văn hóa liên quan đến những anh hùng chống Pháp; ghi nhận những kiến
giải về tính cách, phẩm chất con người Nam Bộ; rút ra những đoạn giới thiệu, bình luận về các
anh hùng buổi đầu chống Pháp, xem như gợi ý phân tích về các nhân vật lịch sử.


Đối với nhóm tư liệu nghiên cứu văn học, chúng tôi tiếp thu những nhận định, gợi ý
(về đặc trưng thể loại, kết cấu tác phẩm, sự giao thoa giữa truyền thuyết với các thể loại khác,
quan hệ giữa truyền thuyết với đời sống văn hóa tinh thần người Việt,…); xâu chuỗi các bài viết
để hình dung tiến trình vận động, phát triển và biến đổi của thể loại; làm cơ sở truy tìm, tập hợp
các địa chỉ có nguồn truyền thuyết dân gian về cuộc kháng chiến chống Pháp.

2. Quá trình sưu tầm, biên soạn, hệ thống hóa tác phẩm truyền thuyết dân gian
(1858 – 1918)
2.1. Quá trình sưu tầm
Sưu tầm tác phẩm chính là công việc quan trọng đầu tiên, liên tục, không điểm dừng của
người nghiên cứu văn học dân gian. Bởi, không có tác phẩm dân gian - những sinh thể sống
động - thì không thể có khái niệm văn học dân gian, cũng không có cái gì được gọi là nghiên
cứu văn học dân gian cả.
Về phần chúng tôi, không tìm được bất cứ truyền thuyết dân gian nào về cuộc kháng
chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918) cũng tức là tự xóa tên đề tài nghiên cứu của mình.
Còn nếu, số lượng tác phẩm tìm được quá nghèo nàn cũng tức là tự mình định trước kết quả hiu

hắt cho đề tài. Hoặc như, không xây dựng được một hệ thống truyền thuyết thật lôgích thì có
nghóa cũng tự mình xô lệch nền móng, thế đứng của đề tài.
Hiểu được điều ấy, chúng tôi hết sức tập trung vào khâu đầu tiên: sưu tầm tác phẩm.
Tuy nhiên, thấy được vấn đề đã khó, đi vào thực tế càng khó khăn hơn. Nhiệt tình hăm
hở không đủ quyết định hiệu quả công việc. Chúng tôi hiểu rằng, trước hết, cần phải có một cơ
sở lý thuyết vững chắc về thể loại, với những tiêu chí chọn lựa thật cụ thể,… mới hy vọng công
việc hoàn thành.
2.1.1. Quan điểm tuyển chọn.
Theo chúng tôi, một văn bản, muốn được tuyển chọn vào hệ thống truyền thuyết dân gian
về cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918), phải lần lượt thỏa mãn những yêu
cầu sau:
 Tác phẩm phải đúng thể loại truyền thuyết (tiêu chuẩn 1)
 Thế nhưng, “truyền thuyết” là gì?
Ở đây, chúng tôi không dự định (có lẽ cũng không cần thiết) trình bày tường tận, đầy đủ,
những cách phát biểu khác nhau về khái niệm này. Chúng tôi chỉ xin ghi nhận vài ý kiến tiêu
biểu, nhằm rút ra những dấu hiệu đầu tiên, dùng lựa chọn tác phẩm.
Xin dẫn lại một số phát biểu (chúng tôi gạch dưới):
- Truyền thuyết là những truyện truyền tụng trong dân gian về những sự việc và nhân
vật có liên quan đến lịch sử. Những nhân vật, sự việc đó thường được phản ánh qua trí tưởng
tượng của con người, qua sự hư cấu của nhân dân [130,141].
- Truyền thuyết là những truyện dân gian về lịch sử. Nó không phải chính sử mà là
một thứ dã sử, là lịch sử dân gian. Nó là văn học chứ không phải lịch sử. Nhưng chính cái nội
dung lịch sử lại là đặc điểm nổi bật của thể loại văn học dân gian này [54,66].
- Truyền thuyết chính là những điều truyền tụng (bằng văn bản hay truyền miệng) về
các nhân vật, các sự vật, địa danh, các sự kiện liên quan đến sự phát triển của một cộng đồng,
và đồng thời cũng là đại diện, là tiêu biểu hay là thể hiện những giá trị văn hóa (vật chất, tinh
thần) của cộng đồng đó [55,6].
- Truyền thuyết “thường có cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã
lý tưởng hóa, gởi gắm vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi



cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian, làm nên những tác phẩm văn hóa mà đời
đời con người ưa thích” [115,126].
- Truyền thuyết là ký ức cộng đồng về quá khứ. Chủ yếu nó phản ánh niềm tin, sự
ngưỡng mộ của nhân dân đối với nhân vật và sự kiện lịch sử của dân tộc ít nhiều bằng hư cấu,
tưởng tượng. Lịch sử đọng lại trong truyền thuyết như những tia hồi quang phủ lên cảnh vật,
phong thổ của đất nước, làm đắm say biết bao thế hệ [41,10].

Từ những phát biểu trên, theo chúng tôi, các dấu hiệu nhận dạng một truyền thuyết dân
gian là:
- Truyện được truyền tụng trong dân gian (có nhân vật, cốt truyện, lời kể chuyện).
- Có nội dung cốt lõi là những sự việc và nhân vật liên quan đến lịch sử.
- Các sự việc và nhân vật lịch sử được nhân dân lý tưởng hóa, gởi gắm niềm tin và lòng
ngưỡng mộ.
- Tác phẩm có yếu tố hư cấu, tưởng tượng; chất thơ và mộng.
 Làm sao phân biệt “truyền thuyết” với “truyện cổ tích lịch sử”?
Lại phải nói tiếp, những dấu hiệu trên chưa đủ để phân định thể loại truyền thuyết và cổ
tích lịch sử. Bởi, cổ tích lịch sử cũng được hiểu là truyện dân gian, có nói đến sự kiện và nhân
vật lịch sử, có phản ánh niềm tin và mơ ước của nhân dân và luôn ngập tràn yếu tố tưởng tượng,
chất thơ và mộng. Thực tế, trước đây, có tài liệu chỉ công nhận thể loại cổ tích lịch sử 2. Còn
trong quá trình sưu tầm, chúng tôi thường xuyên gặp những tên truyện dễ nhầm với cổ tích 3.
Về điều này, chúng tôi xin lý giải theo Trần Thị An [47], Nguyễn Xuân Lạc [54], Bùi
Mạnh Nhị [94].
Xét bản chất, giữa truyền thuyết và cổ tích lịch sử có những điểm khác biệt (xem Bảng
1.1).
Từ kết quả so sánh, chúng tôi nhận ra nét khu biệt giữa truyền thuyết với truyện cổ tích
lịch sử:
- Nhân vật, sự kiện lịch sử trong truyền thuyết phải là cốt lõi của truyện, phải luôn
tuân theo sự thật lịch sử.
- Nhân vật trong truyền thuyết bao giờ cũng gắn liền với cái thiêng, sự tôn thờ, tín

ngưỡng.
- Yếu tố tưởng tượng trong truyền thuyết chỉ đủ tạo nên chất thơ và mộng cho sự thật
lịch sử, chứ không đảo ngược được sự thật lịch sử. Những yếu tố tưởng tượng, kỳ ảo
đó được mọi người tin là có thật.
- Chức năng chính của truyền thuyết phải nhằm thể hiện thái độ, cách đánh giá của
nhân dân đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử.
Bảng 1.1: SO SÁNH TRUYỀN THUYẾT VÀ TRUYỆN CỔ TÍCH LỊCH SỬ
TIÊU CHÍ
Nhân vật
Hành động của

2
3

TRUYỀN THUYẾT

CỔ TÍCH LỊCH SỬ

là nhân vật lịch sử được tái tạo;
có cơ sở lịch sử, cốt lõi lịch sử
được quan niệm trong sự kiện

là nhân vật được hư cấu, không
phải bản sao của lịch sử
là sản phẩm của trí tưởng tượng

Dẫn theo Bùi Quang Thanh [115,125], Hồ Quốc Hùng [41,7].
Sự tích miếu Ông Gốc, Sự tích ông thần không đầu, Sự tích ông Thống Linh,…



nhân vật

lịch sử; có mối liên hệ rất đậm
và rõ với lịch sử

dân gian
phức tạp, nhiều mâu thuẫn
riêng, luôn gắn với quan hệ đời
thường (gia cảnh, vợ con,
khuyết điểm,…)

Cuộc đời nhân vật

đơn giản, thường được mô hình
hóa, ít có quan hệ đời thường

Quan hệ giữa nhân
vật chính với con
người hàng ngày

có tôn ti, luôn được ngưỡng mộ,
thật gần gũi, có đời sống, tâm
được thờ phụng ; có thể phù hộ
lý giống nhau, được yêu mến
mọi người

Yếu tố tưởng
tượng

bắt nguồn từ một sự thật lịch sử

để sáng tạo ra

đem đến những điều kỳ lạ,
khác thường, không có thật

Kết thúc tác phẩm

không phép màu nào có thể
đảo ngược được sự thật lịch sử

mọi sự đều có thể đảo ngược
nhờ yếu tố thần kỳ

Thái độ của người
đọc, người nghe

tin rằng chuyện có thật

biết là chuyện bịa đặt

Chức năng chính
của tác phẩm

thể hiện thái độ, cách đánh giá
của nhân dân đối với sự kiện
và nhân vật lịch sử

thể hiện ước mơ, khát vọng về
một xã hội tốt đẹp, công bằng;
bênh vực, đề cao con người


 Làm sao phân biệt “truyền thuyết” với “giai thoại”?
Vẫn trong quá trình sưu tầm, chúng tôi phải đối diện với tình huống khác: khó phân định
văn bản truyền thuyết và giai thoại. Bởi, có tư liệu đã chủ trương gọi những truyền thuyết về
anh hùng chống Pháp là giai thoại: “Khác với những truyền thuyết danh nhân ở Bắc Bộ, những
truyện ở đây có thể xem là những giai thoại vì nó gần gũi với người thật, ít có yếu tố siêu nhiên,
thần kỳ” [98,14]. Có tư liệu gộp chung mọi tác phẩm sưu tầm vào giai thoại: Giai thoại dân
gian Đồng Tháp Mười [34]. Có tư liệu chỉ dè dặt gọi vài truyện là giai thoại, trong khi chúng
quả là truyền thuyết 4. Giá như, giai thoại chỉ là một tên gọi khác, được chính thức thừa nhận
của truyền thuyết thì vấn đề đã đơn giản. Đằng này, khi xác định thể loại, nhiều nhà nghiên cứu
vẫn khẳng định tư cách độc lập của giai thoại.
Chúng tôi đơn cử vài dẫn chứng (chúng tôi gạch dưới):
- Một cách tổng quát, có thể nói rằng thần thoại và cổ tích thực sự chiếm một tỉ lệ quá
ít ỏi trong kho tàng chuyện dân gian Nam Bộ. Trái lại, thể loại truyền thuyết (ở đây chúng tôi
gọi là sự tích) và giai thoại chiếm đại đa số [128,(I),12].
- Một nhân vật được coi là nhân vật lịch sử khi nhân vật đó có những ảnh hưởng hay
đóng góp cho quá trình phát triển của cộng đồng. Với những nhân vật này, thường là có
truyền thuyết và cũng có cả giai thoại [55,7].
- K.V. Tchixtôv chia toàn bộ văn xuôi truyền miệng ra làm hai phần – “nhóm thể loại
với chức năng thẩm mỹ biểu hiện rõ rệt (các loại truyện cổ tích, truyện ngụ ý, truyện bịa, giai
thoại) và nhóm thể loại trong đó một chức năng phi thẩm mỹ nào đó (hoặc nhiều) giữ vai trò
bậc nhất một cách vô điều kiện”. K.V. Tchixtôv xếp vào loại sau này những truyền thuyết
hoang đường, truyền thuyết lịch sử, xkaz, truyện đi đây đi đó, truyện truyền miệng [27,215].

4

Giai thoại về Thiên Hộ Dương [35,24], Giai thoại về ông Phòng Biểu [35,36],…


Những ý kiến trên cho thấy, ngay việc hiểu thế nào là “giai thoại”, các nhà nghiên cứu

cũng chưa thống nhất. Vì thế, chúng tôi không cho phép mình mặc nhiên thu nhận mọi giai thoại
vào hệ thống truyền thuyết, nhưng cũng không muốn lọt ngoài hệ thống những “giai thoại”
đúng là truyền thuyết. Muốn vậy, phải tìm ra những cơ sở lý luận, nhằm phân định hai thể loại
này.
Đáng tiếc là lý thuyết về giai thoại quá hiếm hoi. Những tư liệu có dùng thuật ngữ “giai
thoại” lại không hề chú giải nội hàm của nó. Chính Vũ Ngọc Khánh từng thừa nhận: “Tuy vẫn
luôn luôn được nhắc đến, kể đến, với nhiều trân trọng, nhưng phải nói rằng giai thoại chưa đượ c
nghiên cứu bao nhiêu, và thật ra thì cũng chưa xác định vị trí cho rõ rệt lắm” [48,164].
Mở lại Từ điển Tiếng Việt, chún g tôi chỉ đọc được những dòng ngắn ngủi về giai thoại:
“Mẩu chuyện lý thú được lưu truyền rộng, có liên quan ít nhiều tới nhân vật có thật trong xã hội,
trong lịch sử” [106,372]. Còn 150 thuật ngữ văn học [7] lại không hề có khái niệm này.
Nếu chỉ dựa vào Từ điển, rõ ràng, ai đó cũng có lý khi dùng khái niệm “giai thoại” để
định danh những chuyện về các anh hùng chống Pháp . Bởi lẽ, đó là những câu chuyện rất lý
thú, được lưu truyền rộng, và nhân vật đều có thật trong lịch sử. Tuy nhiên, cách gọi này, theo
chúng tôi, chỉ nên tạm thời, như một bước đệm, một trạm trung chuyển, trước khi trả tác phẩm
về giá trị thực, vónh cửu của nó. Bởi lẽ, một truyền thuyết đích thực đâu chỉ mang lại cảm giác
lý thú cho người nghe (người đọc)? Truyền thuyết mang một sứ mệnh thật quan trọng và thiêng
liêng: trao gởi niềm tin, khơi dậy tình cảm biết ơn, lòng tôn thờ,… cho người nghe (người đọc)
đối với nhân vật lịch sử. Giáo sư Lã Duy Lan cũng từng phát biểu: “Giai thoại không thể hiện sự
ngưỡng mộ như truyền thuyết mà chỉ thể hiện một vài khía cạnh riêng tư, đặc biệt của nhân vật
đó mà thôi” [55,7].
Thế nhưng, điều gì khiến giai thoại không thể hiện sự ngưỡng mộ như truyền thuyết? Câu
trả lời nằm ở đặc trưng và chức năng của nó.
Chúng tôi xin diễn giải, qua việc lónh hội công trình của Vũ Ngọc Khánh: Tiếp cận kho
tàng Folklore Việt Nam [48]. Trong quyển này, tác giả có phần mục riêng về Giai thoại Việt
Nam. Dưới đây là một số quan điểm chính, giúp phân biệt truyền thuyết và giai thoại.
Theo tác giả, người Trung Quốc gọi giai thoại là câu chuyện đẹp (giai: đẹp, thoại: câu
chuyện). Còn người phương Tây xem giai thoại tương đương với thuật ngữ anecdote, tức là mẩu
chuyện ngắn, rất ngắn, có tính chất vui, hay, thú vị. Họ xem tính cách hài hước, dí dỏm là đặc
trưng của giai thoại. Hiểu theo đó, Guxép định nghóa: “Chúng tôi gọi là giai thoại, tác phẩm tự

sự trào phúng hoặc hài hước, được xây dựng trên một tình tiết có một sức tăng tiến, tới điểm cao,
biểu hiện rõ rệt và hết sức bất ngờ” [48,168].
Nếu hiểu như các học giả phương Tây thì những câu chuyện chúng tôi sưu tầm được (về
những anh hùng chống Pháp) quả không được phép gọi là giai thoại. Bởi làm sao có yếu tố trào
phúng, hài hước trong những câu chuyện đầy bi tráng ấy?
Tuy nhiên, do đặc thù văn hóa, ở phương Đông và Việt Nam, giai thoại không dễ phân
biệt với truyền thuyết như thế. Bởi, giai thoại phương Đông còn được xem “là cuốn sổ biên niên
của cuộc sống, là người bạn thường xuyên của con người và của các sự kiện lịch sử xã hội”
[48,165]. Giai thoại phương Đông không chỉ mang ý vị hài hước. Nó còn có những câu chuyện
đẹp, được viết, kể thật nghiêm túc, trang trọng về các nhân vật lịch sử. Việt Nam từng có các
công trình như thế 5.
5

Việt Sử giai thoại của Đào Trịnh Nhất (Cộng Lực xuất bản, năm 1940). Sau này là bộ Việt Sử giai thoại của Nguyễn Khắc
Thuần [121],…


Qua khảo sát kho tàng giai thoại Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh đề nghị chia giai thoại làm
ba nhóm: giai thoại văn học, giai thoại lịch sử, giai thoại Folklore.

Xin ghi lại phần diễn giải của giáo sư về ba nhóm giai thoại này [48,174]:
- Giai thoại văn học: những câu chuyện hoàn toàn là chuyện sáng tạo và chuyện
những người sáng tạo trong địa hạt văn chương học thuật.
- Giai thoại lịch sử: những câu chuyện khác liên quan với những sự kiện, những nhân
vật hoạt động trong các chính trường, có liên hệ chặt chẽ với tiến trình tồn vong của đất nước.
- Giai thoại Folklore: các mẩu chuyện về những tài năng thợ thêu, thợ chạm, những
nghệ nhân, nghệ só tuồng chèo, hội họa, điêu khắc, diễn xướng,… gây được những thú vị, bất
ngờ; các mẩu chuyện làm nền cho những thành ngữ, phương ngôn, vẫn thường được nhân dân
truyền tụng để biểu lộ niềm tin, tự hào về con người, quê hương, dòng họ,…


Theo đó, điểm chính tạo nên tình trạng nhập nhằng giữa truyền thuyết và giai thoại là do
nhóm giai thoại lịch sử.
Từ đầu mối này, chúng tôi thử kiểm chứng trên văn bản tác phẩm. Đọc lại tất cả truyền
thuyết (đã chắc chắn về thể loại), sau đó là một loạt giai thoại lịch sử 6, chúng tôi tiến hành thao
tác đối chiếu, so sánh.
Qua kết quả đối sánh, truyền thuyết và giai thoại lịch sử không thể được xem là “hai
trong một”. Bởi, giữa chún g luôn có những cách biệt rạch ròi, cả về nội dung lẫn nghệ thuật thể
hiện (xem Bảng 1.2).
Từ đó, theo chúng tôi, điểm khác nhau quan trọng nhất giữa hai loại này nằm ở cách thức
miêu tả nhân vật, sự kiện. Nếu giai thoại lịch sử tìm cách vén bức màn bí ẩn, kéo những nhân
vật vốn nổi tiếng, quyền uy,… xuống gần với đời thường thì truyền thuyết lại tìm cách phủ thêm
màn sương huyền ảo, nâng những con người bình thường nhất lên ngưỡng thiêng liêng, bất tử.
Mọi yếu tố trong truyền thuyết đều gắn liền với cái thiêng, sự tôn thờ, ngưỡng mộ.
Có thể các tiêu chí so sánh chưa thật đầy đủ và khoa học. Nhưng trong điều kiện thiếu
vắng lý luận, nhờ nó, chúng tôi đã tìm thấy lối ra cho việc sưu tầm, thẩm định tác phẩm.
Bảng 1.2: SO SÁNH TRUYỀN THUYẾT VÀ GIAI THOẠI LỊCH SỬ
So sánh
ĐIỂM GIỐNG NHAU
ĐIỂM Qui mô câu chuyện
KHÁC
Hình thức thể hiện
NHAU

6

Giai thoại lịch sử
Truyền thuyết
Nội dung truyện liên quan đến các sự kiện, nhân vật
lịch sử, có liên hệ chặt chẽ đến tiến trình tồn vong của
đất nước

Luôn ngắn, rất ngắn
Có ngắn lẫn dài
Luôn có đối thoại giữa các Ít hoặc không có đối
nhân vật
thoại giữa các nhân vật.

In trong Việt Sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần [121]


Luôn gắn với không
Luôn gắn với không gian,
gian thiêng, thời gian
thời gian sinh hoạt đời
thiêng, liên quan đến
thường, hàng ngày
vận mệnh nhân vật và
dân tộc
Vốn bình thường, hoặc
Vốn đã nổi tiếng
vô danh
Cuộc đời từ chỗ bình
Cuộc đời đi từ chỗ bí ẩn trở
thường hóa thành bất tử,
về gần gũi với mọi người 
thiêng liêng  xu hướng
xu hướng kéo nhân vật
nâng nhân vật lên
xuống đời thường
ngưỡng tôn thờ
Đôi khi dí dỏm, hài hước,

Luôn trang trọng, thành
phê phán.
kính

Đặc điểm sự kiện
được nhắc đến.

Lai lịch nhân vật

Cách miêu tả nhân
vật

Giọng kể
Chức năng tác phẩm

Rút ra bài học triết lý nhân
sinh

Biết ơn, tôn thờ, ngưỡng
mộ người có công đức

 Truyền thuyết phải kể về cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1858 –
1918) (tiêu chuẩn 2)
Đây là tiêu chuẩn về nội dung tác phẩm. Trong quá trình sưu tầm, chúng tôi gặp không ít
truyền thuyết đặc sắc, nhưng có vấn đề, không thể chọn đưa vào hệ thống. Bởi, chúng chưa đáp
ứng đầy đủ tiêu chuẩn nội dung này. Do vậy, chúng tôi phải định ra những tiêu chí cụ thể dùng
tuyển chọn (xem Bảng 1.3).
Ở nội dung tiêu chuẩn, xin lưu ý phương diện nhân vật anh hùng chống Pháp. Chúng tôi
không xem xét người anh hùng theo quan điểm của triều đình phong kiến (nghóa là chỉ ghi nhận
những nhân vật được sử gia phong kiến ca ngợi và đánh giá theo chính sử).

Chúng tôi theo quan điểm của quần chún g nhân dân. Người anh hùng, trước hết, chính là
những nhân tài dựng cờ mộ nghóa, tập hợp nhân dân chống giặc. Họ thường là những só phu,
quan lại dám trái ý triều đình, tự nguyện đứng về phía nhân dân. Có khi, họ vốn là nông dân
ứng nghóa, sau vì hoàn cảnh, thành người giữ ngọn cờ. Họ lừng danh bởi biệt tài và những chiến
công. Có khi, họ là người đứng đầu tôn giáo, lấy đức che chở nhân dân và đợi ngày khởi sự.
Nhưng, anh hùng còn là những người dân vô danh, âm thầm tham gia kháng chiến. Ấy vậy, chỉ
cần, trong phút giây nguy biến, họ dám đối mặt với kẻ thù, thậm chí, chọn cái chết bằng phong
thái uy nghi, lẫm liệt. Khí phách của họ khiến kẻ thù phải e dè, kính phục… Tất cả nhân vật anh
hùng (được chúng tôi xem xét) đều có lai lịch và những phẩm chất đẹp đẽ này.
Bảng 1.3: TIÊU CHUẨN CHỌN TRUYỀN THUYẾÂT VỀ NỘI DUNG
Đề tài
Tình
(Cuộc kháng
huống
chiến chống Pháp)

Thời gian
(1858–1918)

Địa điểm
(ở Nam Bộ)

Nhân vật
anh hùng
Hướng xử lý
(hành động
chống Pháp)

1


Đúng

Đúng

Không đúng

Đúng

Không chọn

2

Đúng

Không đúng

Đúng

Đúng

Không chọn


3

Không đúng

Đúng

Đúng


Đúng

Không chọn

4

Đúng

Đúng

Đúng

Không đúng

Không chọn

5

Đúng

Đúng

Đúng

Đúng

Tuyển chọn

 Truyền thuyết được chọn phải tiêu biểu cho “chất dân gian” (tiêu chuẩn 3)

Đã có trong tay văn bản truyền thuyết nhưng vẫn phân vân về “chất dân gian” của nó.
Điều này ngỡ là chuyện vẽ vời vô ích. Tuy nhiên, tình hình văn bản truyền thuyết dân gian về
cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1858 – 1918) buộc chúng tôi phải tìm hiểu vấn đề
này.
Nhằm kiểm tra nguồn gốc các truyền thuyết (đã thỏa 2 tiêu chuẩn trên), chúng tôi lập
bảng thống kê xuất xứ tác phẩm. Đối tượng được khảo sát là một số tư liệu tiêu biểu, có trữ
lượng lớn truyền thuyết dân gian (xem Bảng 1.4).

Bảng 1.4: THỐNG KÊ XUẤT XỨ CÁC VĂN BẢN
BẢNG THỐN G
KÊ XUẤT XỨ
CÁC VĂN BẢN
(chưa chính thức
tuyển chọn).

Thơ văn Đồng
Tháp, tập I

Nghìn năm bia
miệng, 2 tập

Nam Kỳ
cố sự

(13 văn bản)
Số
%
lượng

(32 văn bản)

Số
%
lượng

(10 văn bản)
Số
%
lượng

Giai thoại dân
gian Đồng
Tháp Mười
(18 văn bản)
Số
%
lượng

Do người dân kể

05

38.5%

03

9.4%

03

30%


04

22.2%

Theo tài liệu khác

05

38.5%

24

75%

04

40%

03

16.7%

Không ghi xuất xứ

03

23.1%

02


6.3%

03

30%

11

61.1%

Do chính tác giả
sưu tầm

00

0%

03

9.4%

00

0%

?

?


Kết quả thống kê này đặt cho chúng tôi nhiều suy nghó.
Qua số liệu, phần lớn truyền thuyết (trong phạm vi khảo sát) không được ghi lại từ lời kể
của người dân. Chúng được lưu truyền qua các văn bản viết. Nếu cho rằng, văn bản đầu tiên
nhờ ghi chép từ dân gian mà có, thì cũng lấy gì làm chắc, qua mỗi lần được sao in, chúng còn
giữ nguyên câu chữ như hồi khởi thủy? Điều đó hẳn có lý do “tam sao thất bổn”. Nhưng chủ yếu
vẫn từ quan niệm khác nhau của người sưu tầm, biên khảo. Nhà sưu tầm Huỳnh Ngọc Trảng
từng nói rõ: “… Thế hệ trước kể lại cho thế hệ sau và thế hệ sau lại kể lại cho các thế hệ kế tiếp.
Người ta kể theo quan niệm của mình, của thời đại mình và như vậy, câu chuyện tự nó đã không
như nó có mà là như nó sống qua các thời đại. Nó xanh tươi mãi. Nó đâm lộc trổ hoa và sống mãi
với thời gian của trời đất” [128 (I),bìa 4].
Vậy, quan niệm của cá nhân nhà sưu khảo có ảnh hưởng đến bản chất tác phẩm văn học
dân gian không? Chưa kể, kết quả thống kê trên còn khiến chúng tôi phân vân. Vì sao tư liệu


×