Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Nhận thức và thái độ của học sinh lớp 12 đối với môn tiếng anh ở một số trường trung học phổ thông tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 142 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Huỳnh Thị Thiệt

NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA HỌC SINH
LỚP 12 ĐỐI VỚI MÔN TIẾNG ANH Ở MỘT SỐ
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Huỳnh Thị Thiệt

NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA HỌC SINH
LỚP 12 ĐỐI VỚI MÔN TIẾNG ANH Ở MỘT SỐ
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chun ngành

: Tâm lí học

Mã số

: 60 31 04 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐỒN VĂN ĐIỀU

Thành phố Hồ Chí Minh – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đề tài “Nhận thức và thái độ của học sinh lớp 12 đối với
môn tiếng Anh ở một số trường trung học phổ thơng tại thành phố Hồ Chí Minh” là
cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các thông tin, dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, các nội dung
trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc và các kết quả nghiên cứu được trình bày trong
luận văn này chưa được cơng bố tại bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 02 năm 2016
Người cam đoan
Huỳnh Thị Thiệt


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình hồn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi đã nhận được sự hướng
dẫn, giúp đỡ rất tận tình từ nhiều cá nhân và tập thể.
Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Ban Giám Hiệu, cán bộ và chuyên viên phòng
Sau Đại học, quý Thầy Cô khoa tâm lý – Giáo dục trường Đại học Sư Phạm Thành
phố Hồ Chí Minh và q Thầy Cơ trực tiếp giảng dạy lớp Cao học Tâm lý học khóa 24
đã tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin gởi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu và tập thể cán bộ, giáo viên, công nhân

viên trường Trung học Thực Hành Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh; THPT Nguyễn
Cơng Trứ, Quận Gò Vấp; THPT Quang Trung Huyện Củ Chi; THPT Long Thới huyện
Nhà Bè đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi tiến hành nghiên cứu đề tài tại
trường.
Đặc biệt, tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành và xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
PGS.TS Đoàn Văn Điều- người hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn và tận tình
động viên tơi trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình đã ln u thương, chăm sóc tơi trong q trình
học tập.
Huỳnh Thị Thiệt


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI
MÔN TIẾNG ANH ....................................................................................5
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................5
1.1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu ở nước ngoài......................................................5
1.1.2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề trong nước..............................................7
1.2. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu .................................................8
1.2.1. Nhận thức ..........................................................................................................8
1.2.2. Thái độ ............................................................................................................11
1.2.3. Mối tương quan giữa nhận thức và thái độ .....................................................16
1.2.4. Môn tiếng Anh ................................................................................................17

1.2.5. Nhận thức và thái độ đối với môn tiếng Anh ..................................................19
1.3. Lý luận về nhận thức và thái độ .............................................................................20
1.3.1. Lý luận về nhận thức .......................................................................................20
1.3.2. Lý luận về thái độ ............................................................................................25
1.4. Một số đặc điểm của HS THPT..............................................................................30
1.4.1. Đặc điểm hoạt động học tập lứa tuổi HS THPT .............................................31
1.4.2. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ của HS THPT............................................31
1.4.3. Đặc điểm hoạt động giao tiếp .........................................................................32
1.4.4. Đặc điểm hoạt động lao động, chọn nghề .......................................................33
1.5. Một số yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức và thái độ đối với tiếng Anh của HS
THPT .............................................................................................................................33
1.5.1. Yếu tố chủ quan ..............................................................................................33


1.5.2. Yếu tố khách quan...........................................................................................34
1.6. Một số tiêu chí đánh giá nhận thức và thái độ của HS lớp 12 đối với mơn
tiếng Anh. ......................................................................................................................36
1.6.1. Một số tiêu chí đánh giá nhận thức của HS lớp 12 đối với môn
tiếng Anh.........................................................................................................36
1.6.2. Một số tiêu chí đánh giá thái độ của HS lớp 12 đối với môn
tiếng Anh. .......................................................................................................36
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................37
Chương 2. THỰC TRẠNG NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI MÔN
TIẾNG ANH CỦA HS LỚP 12 Ở MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THƠNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .................38
2.1. Khái quát về tổ chức nghiên cứu thực trạng...........................................................38
2.1.1. Mục đích, yêu cầu ...........................................................................................38
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................38
2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng về nhận thức và thái độ đối với môn tiếng
Anh của HS lớp 12 ở một số trường THPT TP. Hồ Chí Minh......................................39

2.2.1. Thực trạng về nhận thức và thái độ đối với môn tiếng Anh của HS lớp
12 ở một số trường THPT TP. Hồ Chí Minh .................................................39
2.2.2. Thực trạng thái độ đối với môn tiếng Anh của HS lớp 12 ở một số
trường THPT TP. Hồ Chí Minh .....................................................................64
2.3. Thực trạng đánh giá của giáo viên và phụ huynh về nhận thức và thái độ đối
với môn tiếng Anh của HS lớp 12 ở trường THPT TP. HCM ......................................82
2.3.1. Thực trạng đánh giá của phụ huynh về nhận thức và thái độ đối với môn
tiếng Anh của HS lớp 12 ở trường THPT TP. HCM .....................................82
2.3.2. Thực trạng đánh giá của GV về nhận thức và thái độ của học sinh lớp 12
đối với môn tiếng Anh ở một số trường THPT tại TP.HCM. ........................85
Tiểu kết Chương 2 .......................................................................................................92
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .....................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................97
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THPT

:

Trung Học Phổ Thông

HS

:

Học Sinh

GV


:

Giáo viên

PH

:

Phụ huynh

TP HCM :

Thành Phố Hồ Chí Minh
Statistical products for the social

SPSS

:

services (Phần mềm chuyên ngành
thống kê)

TB

:

Trung bình

ĐLTC


:

Độ lệch tiêu chuẩn

ĐPC

:

Độ phân cách

XH

:

Xếp hạng


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1.

Thành phần mẫu nghiên cứu.................................................................... 39

Bảng 2.2.

Kết quả nhận thức đối với môn tiếng Anh của HS lớp 12 ở một số
trường THPT TP. Hồ Chí Minh .............................................................. 40

Bảng 2.3.


Mức độ quy đổi từ kết quả điểm trung bình của các câu nhận thức. ....... 44

Bảng 2.4.

Nhận thức về lợi ích của mơn tiếng Anh của HS lớp 12 ở một số
trường THPT TP. Hồ Chí Minh .............................................................. 45

Bảng 2.5.

Nhận thức về đặc điểm và vai trị của mơn tiếng Anh của HS lớp 12
ở một số trường THPT TP. Hồ Chí Minh................................................ 49

Bảng 2.6.

Nhận thức về phương pháp dạy môn tiếng Anh của HS lớp 12 ở
một số trường THPT ở TP. Hồ Chí Minh................................................ 52

Bảng 2.7.

Nhận thức về sự mong đợi khi học môn tiếng Anh của HS lớp 12 ở
một số trường THPT ở TP. Hồ Chí Minh................................................ 57

Bảng 2.8.

Kết quả so sánh nhận thức về sự mong đợi đối với môn tiếng Anh
của HS lớp 12 ở một số trường THPT xét trên phương diện giới
tính. .......................................................................................................... 58

Bảng 2.9.


Kết quả so sánh nhận thức về sự mong đợi đối với môn tiếng Anh
của HS lớp 12 ở một số trường THPT xét trên phương diện khu vực
cư trú ........................................................................................................ 60

Bảng 2.10.

Nhận thức về mức độ khó mơn tiếng Anh của HS lớp 12 ở một số
trường THPT ở Thành phố Hồ Chí Minh ................................................ 61

Bảng 2.11.

Kết quả so sánh nhận thức về độ khó của mơn tiếng Anh đối với
HS lớp 12 ở một số trường THPT xét trên phương diện giới tính .......... 62

Bảng 2.12.

Kết quả so sánh nhận thức về độ khó của mơn tiếng Anh đối với
HS lớp 12 ở một số trường THPT xét trên phương diện khu vực cư
trú ............................................................................................................. 63

Bảng 2.13.

Kết quả thái độ đối với môn tiếng Anh của HS lớp 12 ở một số
trường THPT TP. Hồ Chí Minh .............................................................. 64

Bảng 2.14.

Mức độ quy đổi từ kết quả điểm trung bình của các câu thái độ............. 67



Bảng 2.15.

Thái độ tích cực đối với mơn học tiếng Anh của HS lớp 12 ở một số
trường THPT TP. Hồ Chí Minh .............................................................. 67

Bảng 2.16.

Thái độ tiêu cực đối với môn học tiếng Anh của HS lớp 12 ở một số
trường THPT TP. Hồ Chí Minh .............................................................. 71

Bảng 2.17.

Kết quả so sánh thái độ tiêu cực của HS lớp 12 khi học môn tiếng
Anh xét trên phương diện khu vực cư trú ................................................ 73

Bảng 2.18.

Kết quả so sánh thái độ tiêu cực của HS lớp 12 khi học môn tiếng
Anh xét trên phương diện khu vực cư trú ................................................ 74

Bảng 2.19.

Thái độ đối với thực trạng và viễn cảnh của việc học tiếng Anh của
HS lớp 12 ở một số trường THPT TP. Hồ Chí Minh .............................. 75

Bảng 2.20.

Kết quả so sánh thái độ đối với thực trạng và viễn cảnh khi học
môn tiếng Anh của HS lớp 12 xét trên phương diện giới tính ................ 76


Bảng 2.21.

Kết quả so sánh thái độ đối với thực trạng và viễn cảnh khi học
môn tiếng Anh của HS lớp 12 xét trên phương diện khu vực cư trú....... 77

Bảng 2.22.

Thái độ đối với việc tham gia học tiếng Anh của HS lớp 12 ở một
số trường THPT TP. Hồ Chí Minh .......................................................... 79

Bảng 2.23.

Kết quả so sánh thái độ tham gia học tiếng Anh của HS lớp 12 xét
trên phương diện giới tính ....................................................................... 80

Bảng 2.24.

Kết quả so sánh thái độ tham gia học tiếng Anh của HS lớp 12 xét
trên phương diện khu vực cư trú ............................................................. 81

Bảng 2.25.

Mô tả tổng quan về phụ huynh ................................................................ 82

Bảng 2.26.

Đánh giá của PH về việc học môn tiếng Anh ở trường THPT ................ 83

Bảng 2.27.


Mô tả tổng quan về giáo viên .................................................................. 85

Bảng 2.28 . Đánh giá của GV về nhận thức của HS đối với môn tiếng Anh.............. 87
Bảng 2.29.

Biểu hiện của HS trong q trình học tập mơn tiếng Anh theo đánh
giá của GV ............................................................................................... 89

Bảng 2.30.

Đánh giá của GV về các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ học môn
tiếng Anh của HS ..................................................................................... 90


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, quá trình tồn cầu hóa đang chứng kiến sự tương tác và phụ thuộc lẫn
nhau ngày một gia tăng giữa các nền kinh tế của các quốc gia; đặc biệt, những đổi mới
trong công nghệ thông tin và truyền thông đã dẫn tới sự hình thành và phát triển xã hội
định hướng tri thức và thơng tin. Việt Nam ngày càng có những bước tiến sâu vào thị
trường kinh tế thế giới thông qua việc tham gia vào các Hiệp hội kinh tế, các tổ chức
quốc tế. Vì vậy mà việc học ngoại ngữ thực sự trở nên cần thiết. Nó khơng chỉ cho
phép chúng ta có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm hơn mà còn giúp ta bổ sung thêm vốn
kiến thức văn hóa nhân loại, đóng góp quan trọng vào nhu cầu hội nhập, hợp tác giữa
nước ta với thế giới..
Trước bối cảnh đó, tiếng Anh ngày càng được xem là công cụ quan trọng trong
sự phát triển kinh tế quốc gia, hội nhập khu vực và quốc tế, cũng như đem lại sự hiểu
biết rộng hơn về các nền văn hóa khác, đồng thời thúc đẩy ý thức cơng dân tồn cầu ở

người sử dụng. Vì vậy việc nâng cao vốn tiếng Anh cho công dân là một việc làm thực
sự quan trọng và cần thiết.
Đối với học sinh, khả năng hiểu và giao tiếp bằng tiếng Anh khi tốt nghiệp trung
học phổ thông (THPT) ngày càng được xem là một kỹ năng cơ bản mà tất cả các học
sinh đều phải có. Hiểu được điều đó, nên hệ thống giáo dục của Việt Nam đã đưa tiếng
Anh vào giảng dạy từ sớm và xem đây là môn văn hố cơ bản, bắt buộc trong chương
trình giáo dục phổ thông cùng với đề án "Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo
dục quốc dân giai đoạn 2008-2020" của Bộ giáo dục và đào tạo được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại Quyết định số 1444/QĐ-TTg ngày 30/9/2008 (gọi tắt là Đề án Ngoại
ngữ Quốc gia 2020). Đó cũng là lý do mà hầu hết các trường Đại học, Cao đẳng trong
nước ta đều có yêu cầu chuẩn đầu ra là trình độ, bằng cấp Tiếng Anh cho sinh viên ra
trường. Do đó, với các bạn học sinh những thế hệ tương lai của đất nước, việc học
tiếng Anh lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Cùng với các môn học và hoạt
động giáo dục khác, môn Tiếng Anh cung cấp cho học sinh một công cụ giao tiếp mới


2
để tiếp thu những tri thức khoa học, kĩ thuật tiên tiến, tìm hiểu các nền văn hố đa
dạng và phong phú trên thế giới, dễ dàng hoà nhập với cộng đồng quốc tế, góp phần
hình thành và phát triển nhân cách của học sinh, giúp cho việc thực hiện mục tiêu giáo
dục tồn diện ở trường phổ thơng.
HS THPT đặc biệt là học sinh lớp 12 cuối cấp, đang trong giai đoạn định hướng
nghề nghiệp và là nguồn nhân lực quan trọng của đất nước cần có sự hiểu biết nhất
định về đặc điểm, nội dung, vai trò, giá trị của tiếng Anh và tình cảm tích cực đối với
tiếng Anh đang học. Điều đó rất quan trọng bởi lẽ khi có nhận thức đầy đủ và thái độ
đúng đắn đối với tiếng Anh thì việc học tiếng Anh là vô cùng quan trọng để các em
học sinh học tập nỗ lực hơn và đạt kết quả tốt hơn nâng cao được trình độ ngoại ngữ
của mình đáp ứng yêu cầu về chất lượng của nguồn nhân lực trong thời kỳ đổi mới.
Nhận thức về tiếng Anh là sự hiểu biết đầy đủ về các thông tin liên quan đến tiếng
Anh. Còn thái độ đối với tiếng Anh là sự thể hiện tình cảm u thích hay thờ ơ, chán

ghét, có thái độ tích cực hay tiêu cực… đối với tiếng Anh, được nảy sinh trên cơ sở
nhận thức về tiếng Anh.
Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay có một thực trạng đáng báo động về việc học
môn tiếng Anh ở trường phổ thông, sau bảy năm học môn tiếng Anh thì học sinh vẫn
khơng nói được tiếng Anh hoặc đã học bốn năm ở bậc THCS nhưng đến khi lên THPT
thì các em học sinh vẫn phải học lại từ đầu. Việc lĩnh hội kiến thức ngôn ngữ ở các em
vẫn cịn rất máy móc. Các em vẫn chưa biết vận dụng ngôn ngữ đã học vào cuộc sống,
biến ngôn ngữ trong sách vở thành ngôn ngữ đời thường. Có nhiều nguyên nhân khách
quan, chủ quan như: bệnh lười học, thấy khó nên khơng hứng thú, dễ qn...vv, dẫn
đến kết quả học tập không cao, kết quả các đợt thi khảo sát chất lượng định kì rất thấp.
Vì vậy việc dạy và học môn tiếng Anh ở các trường phổ thơng hiện nay vẫn cịn là một
vấn đề bức xúc. Chính vì tất cả những lý do trên chúng tôi đã chọn đề tài: “Nhận thức
và thái độ của học sinh lớp 12 đối với môn tiếng Anh ở một số trường THPT TP.
Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu..
2. Mục đích nghiên cứu


3
Xác định thực trạng nhận thức và thái độ của học sinh lớp 12 ở một số trường
THPT TP. Hồ Chí Minh đối với mơn tiếng Anh.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức và thái độ đối với môn tiếng Anh của học sinh lớp 12.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu chính: Học sinh lớp 12.
Khách thể nghiên cứu bổ trợ: Giáo viên và phụ huynh của học sinh lớp 12.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1. Nội dung nghiên cứu
Chỉ tập trung nghiên cứu nhận thức và thái độ của học sinh lớp 12 đối với môn
tiếng Anh.

4.2. Địa bàn nghiên cứu
Chỉ khảo sát học sinh lớp 12 ở bốn trường THPT tại TP. Hồ Chí Minh, gồm:
- Trung học Thực Hành ĐHSP, 280 An Dương Vương, Phường 4, Quận 5,
TP.HCM.
- THPT Nguyễn Công Trứ 97 Quang Trung, Phường 11, Quận Gò Vấp,
TP.HCM.
- THPT Quang Trung, Ấp chợ, Xã Phước Thạnh, Huyện Củ Chi, TP. HCM.
- THPT Long Thới, 280 Nguyễn Văn Tạo, Xã Long Thới, Huyện Nhà Bè,
TP.HCM.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Phần lớn học sinh lớp 12 ở một số trường THPT TP. Hồ Chí Minh chưa có nhận
thức và thái độ phù hợp đối với môn tiếng Anh.
Nhận thức và thái độ của học sinh lớp 12 ở một số trường THPT TP. Hồ Chí
Minh đối với mơn tiếng Anh là có sự khác biệt theo giới tính, khu vực cư trú.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Hệ thống hóa một số lý luận về nhận thức và thái độ của học sinh lớp 12 đối
với môn tiếng Anh.
6.2. Khảo sát thực trạng nhận thức và thái độ của học sinh lớp 12 đối với môn


4
tiếng Anh và xác định nguyên nhân của thực trạng.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập các loại sách, báo, tạp chí, cơng trình nghiên cứu, văn bản, tài liệu có
liên quan đến đề tài.
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu.
7.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

a. Mục đích
Nhằm thu thập thơng tin từ học sinh lớp 12, giáo viên và phụ huynh về nhận
thức, thái độ và các yếu tố ảnh hưởng đối với môn tiếng Anh.
b. Cách tiến hành
Cho học sinh lớp 12, giáo viên và phụ huynh trả lời câu hỏi trên phiếu điều tra.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
a. Mục đích
Tìm hiểu thêm thơng tin về nhận thức, thái độ và các yếu tố ảnh hưởng đối với
môn tiếng Anh của học sinh lớp 12, giáo viên và phụ huynh.
b. Cách tiến hành
Trao đổi và tìm hiểu ý kiến của một số học sinh, giáo viên và phụ huynh về nhận
thức và thái độ đối với môn tiếng Anh.
7.2.3. Phương pháp thống kê tốn học
a. Mục đích
Xử lý, phân tích số liệu thu được nhằm định lượng và định tính các kết quả
nghiên cứu của đề tài.
b. Cách tiến hành
Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 16.0 để tính điểm trung bình, tần số, tỷ lệ
phần trăm, các kiểm nghiệm…


5

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ
ĐỐI VỚI MÔN TIẾNG ANH
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu ở nước ngoài
Nghiên cứu về việc học ngoại ngữ vẫn là vấn đề gây sự chú ý của các quốc gia
trên thế giới, xin kể một số nghiên cứu của các tác giả sau:
Theo tác giả Jones và Davies (1983) "ngoại ngữ đã được học khơng vì lợi ích

riêng của họ, mà được xem như phương tiện liên lạc xã hội, kinh tế và cho việc vận
chuyển các ý tưởng" ngoại ngữ được xem như một công cụ mở cửa cho sự phát triển
của các nước trong thời kỳ thế giới hội nhập. Việc nghiên cứu về ngoại ngữ giúp cho
người học ở mỗi quốc gia có thể nâng cao nhận thức tích cực và định hướng phù hợp
cho việc học ngoại ngữ [64].
Theo Riley và Phiplip (1989), với đề tài "Nhận thức cá nhân về thực tại ngôn ngữ
dân tộc", các tác giả nhận định hành vi của người học ngoại ngữ sẽ chịu ảnh hưởng bởi
nhận thức về tầm quan trọng của việc học ngoại ngữ. Hoàn cảnh và nền văn hóa xã
hội, đặc điểm văn hóa của mỗi dân tộc cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến
nhận thức và hành vi của người học ngoại ngữ [62].
Năm 2002, trong đề tài “Nâng cao nhận thức của học sinh trong việc học ngôn
ngữ”, tác giả Ilona Rinkevičienė, và Jūratė Zdanytė đã cho thấy để giúp học sinh nhận
thức tốt hơn trong q trình học tập ngơn ngữ thứ hai, giáo viên phải xây dựng phương
pháp phù hợp tác động đến nhận thức của học sinh bên cạnh việc giúp người học xác
định nhu cầu và tầm quan trọng của việc học ngơn ngữ thứ hai [56].
Dưrnyei (2003) cho rằng thái độ được tạo ra, và có thể được thay đổi, thơng qua
4 yếu tố: gia đình, thầy cô, bạn bè, và trường học. Tất cả những yếu tố này sống trong
một mối quan hệ xã hội mà ảnh hưởng đến người học [64]
Năm 2006, trong đề tài “Nghiên cứu về thái độ và nhận thức việc học tiếng anh
của học sinh trung học phổ thông tại Đài Loan”, tác giả Chung, I Fang đã kết luận sự
khác nhau về giới tính và chuyên đề ở mỗi buổi học có vai trị quan trọng ảnh hưởng


6
đến thái độ tích cực trong việc học tiếng Anh đối với học sinh trung học phổ thông
[50].
Với đề tài “Những khó khăn về nhận thức và thái độ của việc học tiếng Anh ở
Mexico”, tác giả Despagne, Colette đã nhận định những yếu tố như gia đình, nhà
trường, giáo viên, bạn bè, hoàn cảnh xã hội sẽ tác động đến thái độ; còn yếu tố kinh
nghiệm cá nhân, đặc điểm của tiếng Anh, nền giáo dục của quốc gia sẽ ảnh hưởng đến

nhận thức của những người học tiếng Anh tại Mexico. Hầu hết học sinh ở các trường
công lập tại Mexico đều có những mục tiêu khi học tiếng Anh như: hy vọng có thu
nhập tốt hơn khi ra trường, tìm kiếm học bổng ở các nước tiên tiến. Họ cho rằng tiếng
Anh là vô cùng quan trọng, và gần 99% trong số họ nghĩ rằng nó sẽ giúp họ phát triển
nghề nghiệp của họ [51, tr.5].
Trong đề tài “Nhận thức và thái độ cho các mục đích cụ thể của người học tiếng
Anh như một ngoại ngữ ” (2012), các tác giả Mahmut Uğur Arslan, Azamat Akbarov
tìm hiểu ý kiến của người học tiếng Anh như suy nghĩ, kỳ vọng về tiếng Anh trong
lĩnh vực cụ thể, từ đó xác định thái độ của người học cho mục đích cụ thể đối với tiếng
Anh. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi người học làm trung tâm thì họ sẽ có thái độ tích
cực hơn trong việc xác định mục tiêu cụ thể cho từng buổi học và trong suốt quá trình
học, người học sẽ là người đề xuất phương pháp học tập tiếng Anh của bản thân [59].
Năm 2013, với đề tài “Thái độ của học sinh trung học phổ thông đối với học
tiếng Anh”, tác giả Gajalakshmi đã chứng minh thái độ của việc học tiếng Anh sẽ trở
nên tích cực khi được tổ chức trong những lớp học có hoạt động tích cực. Và kết luận
rằng khi học ngơn ngữ thứ hai thì thái độ tích cực là rất cần thiết đối với người học
trong việc đọc sách, thực hành giao tiếp trên lớp học [53].
Nhìn chung, có thể thấy rằng việc nghiên cứu việc học ngơn ngữ nói chung và
tiếng Anh nói riêng của các tác giả trên thế giới đều đặt nhận thức, thái độ và hành vi
trong mối tương quan với nhau. Từ nhận thức về vai trị, lợi ích của việc học tiếng
Anh, người học sẽ hình thành thái độ tích cực hay tiêu cực đối với tiếng Anh, có
những hành vi ứng xử phù hợp với việc học tập ngoại ngữ. Bên cạnh đó các yếu tố: gia
đình, giáo viên, trường học, bạn bè, hoàn cảnh lịch sử xã hội là những yếu tố tác động
mạnh mẽ đến nhận thức, thái độ, hành vi của người học ngoại ngữ.


7
1.1.2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề trong nước
Trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Anh, Kiều Văn Thịnh (2000) cho rằng “mọi
phương pháp giảng dạy cho dù tân kỳ như thế nào mà cung cách người học ù lì, tất cả

sẽ khơng thay đổi. Người học khơng tự buộc mình phải học thì các phương pháp giảng
dạy có liên tục cải tiến cũng chỉ là món đồ chơi cầu kỳ, đắt tiền, vô tác dụng” [22].
Điều này cũng tương tự như cải tiến phương pháp mà không dựa trên những quy luật
về tâm lý học tập của người học như sự tự ý thức, niềm tin, thái độ thì chắc chắn thất
bại.
Với sáng kiến kinh nghiệm “Tìm hiểu hứng thú học tập môn tiếng anh của học
sinh THCS Vĩnh Long” (2008), tác giả Cao Thị Thu Hoài khẳng định “Trong những
giờ học, tư duy tích cực được kích thích sẽ xuất hiện thái độ tích cực với mơn học từ
đó hình thành hứng thú học tập. Hứng thú gây cho học sinh sự hưng phấn, xúc cảm
làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức”[ 24].
Khi nghiên cứu “Phương pháp giảng dạy truyền thống theo môn học” (2009), tác
giả Nguyễn Thị Thuý Hồng nhận định phương pháp giảng dạy đặc biệt có những tác
động mạnh mẽ đến chất lượng học tập, nhất là đối với đặc điểm học sinh sinh viên
Việt Nam: “có những phẩm chất gây trở ngại cho việc học ngôn ngữ như nhút nhát,
thụ động, khơng thích cộng tác với bạn bè, tính tự giác học tập và năng động chưa
cao....” [26]. Vì vậy phương pháp giảng dạy nói chung, phương pháp dạy tiếng Anh
nói riêng đóng vai trị lớn trong việc thay đổi nhận thức, hình thành thái độ, thúc đẩy
động lực học tập, từ đó làm thay đổi hiệu quả học tập tiếng Anh của người học.
Trong đề tài “Thuận lợi, khó khăn và giải pháp trong việc ứng dụng công nghệ
vào giảng dạy ngoại ngữ” của tác giả Nguyễn Văn Long năm 2009, nhận định rằng
nhận thức có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến thái độ của người học khi họ tiếp cận với
phương tiện kỹ thuật trong quá trình học ngoại ngữ [33].
Năm 2010, tác giả Phạm Thanh Điền với đề tài “Tìm hiểu thái độ học tiếng Anh
của học sinh trường THPT Mỹ Thới” đã đề xuất mơ hình nghiên cứu thái độ học tiếng
Anh bao gồm ba thành tố: nhận thức (đặc tính của mơn học, lợi ích và tầm quan trọng
của mơn học); cảm tình (thích hay khơng thích, học tập chủ động hay thụ động); hành
vi (học thêm, tự học, trang bị thêm tài liệu) [14]. Tác giả chứng minh rằng khi nhận


8

thức được tầm quan trọng của môn học, người học sẽ có phương pháp học tập tương
ứng thể hiện ra bên ngồi bằng những hành vi tích cực nhằm đáp ứng yêu cầu của môn
học.
Khi nghiên cứu về “Ảnh hưởng của phương pháp giảng dạy đến động lực học
tiếng anh của sinh viên năm thứ nhất, khối ngành kinh tế Đại học Văn Lang” (2011)
của tác giả Lê Thị Hạnh cho rằng cần phải chú trọng và quan tâm đến phương pháp
giảng dạy, thay đổi phương pháp giảng dạy dựa trên những quy luật động lực học tập
của người học là yếu tố then chốt trong việc thay đổi nhận thức và thái độ của người
học khi học tiếng Anh [22].
Tóm lại, có nhiều góc độ tiếp cận khi nghiên cứu về việc học tiếng Anh: phương
pháp giảng dạy, phương tiện học tập, đặc điểm hứng thú...Qua đó chúng ta thấy được
nhận thức và thái độ có vai trị quan trọng đối với việc học môn tiếng Anh của học
sinh sinh viên Việt Nam trong việc rèn luyện kỹ năng học ngoại ngữ cũng như hình
thành nhân cách để phát triển nghề nghiệp tương lai.
1.2. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Nhận thức
Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người. Nhận thức
là tiền đề của tình cảm và hành động ý chí nhưng đồng thời lại có quan hệ mật thiết
với chúng.
Hoạt động nhận thức là một hoạt động rất đặc trưng của con người nói chung và
mỗi người nói riêng. Nhận thức – đó là một lĩnh vực hết sức phức tạp, khi tìm hiểu vấn
đề này cần xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhận thức là hoạt động của chủ thể
nhằm khám phá thế giới xung quanh, dĩ nhiên kết quả của hoạt động này là nhằm tìm
ra chân lý hay sự thực về những thuộc tính và quy luật khách quan của một sự vật cụ
thể.
Vậy nhận thức được hiểu như thế nào?
Theo từ điển Tiếng Việt, “nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái
hiện thực vào trong tư duy, quá trình con người nhận biết, hiểu biết thế giới khách
quan hoặc kết quả của q trình đó” [28]. Theo định nghĩa này có thể thấy nhận thức
vừa là một q trình phản ánh có mở đầu, diễn tiến và kết thúc của tư duy con người



9
với hiện thức khách quan vừa là kết quả của sự phản ánh đó.
Theo từ điển Giáo dục học, “nhận thức là quá trình hay là kết quả phản ánh và tái
tạo hiện thực vào trong tư duy của con người” [16]. Như vậy, nhận thức được hiểu là
một quá trình, là kết quả phản ánh. Nhận thức là quá trình con người nhận biết về thế
giới, hay là kết quả của q trình nhận thức đó.
Theo Cuốn “Giải thích thuật ngữ Tâm lý – Giáo dục học” của nhóm tác giả Trần
Hồng Cẩm, Cao Văn Đán, Lê Hải Yến, 2006, NXB Hà Nội. “nhận thức là toàn bộ
những quy trình mà nhờ đó những đầu vào cảm xúc được chuyển hoá, được mã hoá,
được lưu giữ và sử dụng” [7]. Vậy có thể hiểu nhận thức là một quy trình, nghĩa là nhờ
có quy trình đó mà cảm xúc của con người khơng mất đi, nó được chuyển hố vào đầu
óc con người, được con người lưu giữ và mã hoá.
Theo quan điểm triết học Mac - Lenin, “nhận thức là q trình phản ánh tích cực,
tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực
tiễn” [5]. Như vậy, để cải tạo thực tiễn hướng đến việc phục vụ cho cuộc sống, con
người khơng ngừng tìm hiểu, tác động vào thế giới khách quan để có được những nhận
thức nhất định về hiện thực khách quan. Với những nhận thức có được về hiện thực
khách quan con người tự nguyện tìm hiểu và tác động vào thế giới khách quan với thái
độ tích cực và những sáng kiến mới nhằm biến đổi thực tiễn, phục vụ cho cuộc sống
ngày càng phát triển của con người.
Theo tác giả Roberts Feldman (2004), “sự nhận thức là quá trình tinh thần bậc
cao qua đó chúng ta hiểu thế giới, xử lý thơng tin, phán đoán và quyết định, và chia sẻ
hiểu biết với người khác” [37].
Theo tác giả Le Ny, “nhận thức bao hàm đồng thời tồn bộ những hoạt động góp
phần vào sự hiểu biết, dù cho hoạt động đó đúng đắn và tồn bộ sản phẩm của hoạt
động đó, dù đó là bản thân kiến thức, lệch lạc về kiến thức, biểu hiện và tín ngưỡng
gần đúng hoặc có một phần sai lệch” [23]. Với định nghĩa mà Le Ny đưa ra, nhận thức
được xem xét một cách rất tổng quát, ở phạm vi rất rộng.

Theo hai tác giả Raynal và Rieunier, “nhận thức là tồn bộ những quy trình mà
nhờ đó những đầu vào cảm xúc chuyển hóa, mã hóa, cấu trúc hóa, lưu trữ, hồi cố và sử
dụng” [34]. Khái niệm xem xét nhận thức ở phạm vi hẹp hơn so với Le Ny.


10
Theo hai tác giả Sterphen Worchel và Wayne Shebilsue, “nhận thức là một q
trình diễn dịch thơng tin do cảm giác thu thập được” [41]. Định nghĩa này cho chúng ta
thấy nhận thức ở một phạm vi rất hẹp. Nhận thức được hiểu là một sự giải mã các thông
tin.
Theo tác giả Phạm Hoàng Gia, “lĩnh vực nhận thức bao gồm cả tri thức và năng
lực trí tuệ” [6].
Theo tác giả Vũ Dũng, “nhận thức là hiểu được một điều gì đó, tiếp thu được
những kiến thức về điều nào đó, hiểu biết những quy luật về những hiện tượng, q
trình nào đó…” [11].
Theo tác giả Nguyễn Xn Thức, “nhận thức là tiến hành chọn lọc, diễn dịch,
phân tích và hợp nhất các kích thích gây ra phản ứng ở các giác quan của chúng ta”
[42].
Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn, “nhận thức là hoạt động đặc trưng của con
người. Trong quá trình sống và hoạt động con người nhận thức – phản ánh được hiện
thực xung quanh, hiện thực của bản thân mình, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ và
hành động đối với thế giới xung quanh và đối với chính bản thân mình”[45]. Định
nghĩa này xem xét nhận thức ở khía cạnh là một hoạt động của con người.
Theo tác giả Đặng Phương Kiệt, “nhận thức là một thuật ngữ khái quát hóa mọi
dạng hiểu biết. Các quá trình hiểu biết bao gồm: chú ý, ghi nhớ, suy nghĩ và giải quyết
vấn đề, tri giác và nhận biết hình mẫu.” [29]. Quan điểm này xem xét nhận thức ở khía
cạnh q trình, nhưng xem xét ở những quá trình cụ thể, chia nhỏ quá trình nhận thức
thành những quá trình riêng lẻ.
Theo tác giả Nguyễn Khắc Viện, “nhận thức là một quá trình tiếp cận, tiến gần
đến chân lý, nhưng không bao giờ ngừng ở một trình độ nào, vì khơng bao giờ nắm hết

tồn bộ hiện thực, phải thải dần những cái sai, tức không ăn khớp với hiện thực, đi hết
bước này sang bước khác”[48]. Nhận thức được xem là một quá trình.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc, “nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực xung
quanh, hiện thực của bản thân mình, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ và hành động
đối với thế giới xung quanh và đối với bản thân mình”. [19]. Trong khi hoạt động để
tồn tại trong thế giới tự nhiên và môi trường xã hội, con người phải nhận thức, phản


11
ánh hiện thực xung quanh và cả hiện thực của bản thân mình, để trên cơ sở đó con
người tỏ thái độ, tình cảm và hành động. Trong việc nhận thức thế giới, con người có
thể đạt tới những mức độ nhận thức khác nhau, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp. Kết quả nhận thức có thể cho ra sản phẩm là nhận thức đúng hoặc nhận thức sai,
nhận thức từng bộ phận hay nhận thức cái tổng thể, nhận thức một phần hay nhận thức
trọn vẹn sự vật hiện tượng, nhận thức thuộc tính bên ngồi hay đi sâu vào bản chất bên
trong, dẫn đường tìm ra quy luật và chân lý .
Như vậy, những quan điểm trên đều phản ánh nhận thức gồm ba yếu tố về:
+ Thứ nhất, nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Nếu con
người có nhận thức tốt là quá trình phản ánh hiện thực khách quan đúng đắn, đầy đủ
+ Thứ hai, nhận thức có mối quan hệ với tình cảm, thái độ. Tức là khi con người
nhận thức tốt sẽ chỉ đạo, định hướng, điều khiển tình cảm, và giúp con người tỏ thái độ
phù hợp.
+ Thứ ba, nhận thức có mối quan hệ với hành động. Nghĩa là nhận thức tốt sẽ
làm động lực thúc đẩy con người hành động và đạt kết quả tốt.
Trong đề tài này, chúng tôi lựa chọn và sử dụng định nghĩa của tác giả Phạm
Minh Hạc. Như vậy, nhận thức được hiểu như sau: “Nhận thức là quá trình phản
ánh hiện thực xung quanh, hiện thực của bản thân mình, trên cơ sở đó con người
tỏ thái độ và hành động đối với thế giới xung quanh và đối với bản thân mình”.
1.2.2. Thái độ
Với những cách tiếp cận khác nhau, có nhiều cách hiểu khác nhau về thái độ, có

thể kể đến một số định nghĩa như sau:
Theo hai tác giả Thomas và Znaniecki (1918), “thái độ là trạng thái tinh thần của
cá nhân đối với giá trị” [65]. Định nghĩa này chú trọng đến yếu tố chủ quan của cá
nhân đối với một giá trị này hay một giá trị khác làm cho cá nhân có hành động này
hay hành động khác mà được xã hội chấp nhận.
Theo tác giả G.Allport (1935), “thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và
thần kinh được tổ chức thơng qua kinh nghiệm, có khả năng điều chỉnh hoặc ảnh
hưởng năng động đối với phản ứng của cá nhân hướng đến các khách thể và tình
huống mà nó quan hệ.” [54].


12
Theo tác giả D.N. Uznatze (1960) “thái độ được nhìn nhận như một bộ phận cấu
thành có tính tồn vẹn của ý thức cá nhân” [32]. Mặt khác, ông cũng thừa nhận thái độ
mang trong mình tính tự giác, năng động của một hiện tượng tâm lý thuộc cấp độ ý
thức - điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người.
Theo các tác giả Krech, Crutchfield và Ballachey (1962), “thái độ một hệ thống
bền vững của những đánh giá tích cực hoặc phủ định, những cảm xúc, những kỹ thuật
ủng hộ và chống đối dựa vào các mục tiêu mang tính xã hội” [58].
Theo các tác giả Mc.Guiner (1965), Os. Trom (1969), Zanna và Rempell, “thái
độ là bất cứ sự thể hiện nào về mặt nhận thức tổng kết sự đánh giá của chúng ta về đối
tượng của thái độ: về bản thân, về những người khác, về đồ vật, hành động, sự kiện
hay tư tưởng”.
Theo tác giả H.C Triandis (1971), “thái độ là tư tưởng được tạo nên từ các xúc
cảm, tình cảm. Nó gây tác động đến hành vi nhất định, ở một giai đoạn nhất định,
trong những tình huống xã hội nhất định. Thái độ của con người bao gồm những điều
mà họ cảm thấy và suy nghĩ về đối tượng, cũng như cách sử dụng của họ đối với đối
tượng đó” [63].
Theo hai tác giả Fishbein và Ajzen (1975), “thái độ là những khuynh hướng được
học tập thiên về việc đáp ứng một cách ủng hộ hoặc không ủng hộ đối với một sự vật,

một con người hay một sự kiện nhất định” [52].
Theo hai tác giả Zimbardo và Leippe (1991), “thái độ là một khuynh hướng
mang tính đánh giá về một đối tượng dựa trên phương thức phản ứng, tình cảm, ý định
hành vi và hành vi trong quá khứ…có thể là ảnh hưởng đến nhận thức, phản ánh tình
cảm và ý định trong tương lai. Thái độ có liên quan đến cách con người cảm nhận
được tình huống trong đó họ tìm thấy chính mình. Ngồi ra thái độ thay đổi theo
hướng (tích cực hay tiêu cực), ở mức độ (số lượng tích cực hay tiêu cực), và cường
độ” [61].
Theo tác giả Newcome, “thái độ của một cá nhân đối với một khách thể nào đó là
“thiên hướng hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của cá nhân ấy với khách thể
liên quan”. Đó là sự sẵn sàng phản ứng [51].
Theo hai tác giả Kalat, J. W, “thái độ là sự thích hay khơng thích một sự vật hoặc


13
một người nào đó của cá nhân, từ đó có ảnh hưởng tởi hành vi của anh ta khi ứng xử
với sự vật hay con người đó” [57].
Theo tác giả Marten, “thái độ là xu hướng thường xuyên đối với các tình huống
xã hội, biểu thị sự thống nhất của ý nghĩ (nhận thức), xúc cảm và hành vi. Thái độ của
con người có mối quan hệ chặt chẽ với hành vi vì thái độ được xác định bởi tính thống
nhất bên trong hành vi” [57].
Theo tác giả John Traven, “thái độ là cách cảm xúc, tư duy và hành động tương
đối lâu dài đối với sự việc hay con người đó” [59].
Theo tác giả Phillmore. H, “thái độ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực hay tiêu cực
đối với đối tợng hay các ký hiệu (biểu tượng) trong môi trờng. Thái độ là sự định
hướng của cá nhân đến các khía cạnh khác nhau của mơi trường và là cấu trúc có tính
động cơ” [55].
Theo tác giả H. Hipror và M. Forvec, “thái độ là sự sẵn sàng bị quy định và có
tính chất bắt buộc nào đó, nảy sinh trong những nhóm nhất định và trong những tình
huống cụ thể. Sự sẵn sàng này phụ thuộc khơng những vào chủ thể hữu quan, mà trước

hết là một hiện tượng tâm lý xã hội phụ thuộc vào khuynh hướng của cá nhân gắn liền
với những chuẩn mực của nhóm”. Quan điểm này mở ra một con đường mới trong
nghiên cứu thái độ là đi sâu vào nghiên cứu hành vi và hoạt động cụ thể.
Theo tác giả Guilford, “thái độ là những cử chỉ, phong thái, ý nghĩ liên quan đến
những hoàn cảnh xã hội” [54].
Theo tác giả David Myers, “thái độ là phản ứng mang tính chất đánh giá có thiện
chí hay khơng có thiện chí về một điều gì đó, hay một người nào đó, được thể hiện
trong niềm tin, cảm xúc hay hành vi có chủ định” [55].
Theo tác giả V.N.Miaxisev, “thái độ là hạt nhân tâm lí của nhân cách, hình thành
một cách có ý thức theo cơ chế chuyển dịch thông qua hoạt động và giao tiếp mà con
người tham gia vào, là một hệ thống trọn vẹn mang tính chủ quan đối với hiện thực
khách quan. Nó quyết định sự phản ánh trong hành vi đối với những tác động bên
ngoài. Tất cả các tổ chức cấu thành tâm lý từ đơn giản đến phức tạp đều có liên quan
đến con người và những chức năng tâm lý khác đều có thể xem như một dạng của thái
độ [52]”.


14
Theo tác giả Platonov, “thái độ là một yếu tố cấu thành tích cực của ý thức cá
nhân, là mối quan hệ ngược giữa chủ thể - thế giới, nghĩa là con người và thế giới bên
ngoài tác động qua lại lẫn nhau và nó được thể hiện trong hành vi của cá nhân” [17].
Theo tác giả Lênin “thái độ là một bộ phận của lĩnh vực tình cảm phản ánh quan
hệ của cá nhân đối với hiện thực. Nó được quyết định bởi thế giới quan của cá nhân
cho nên cũng phản ánh tồn tại xã hội, chịu ảnh hưởng của ý thức giai cấp, của tâm lý
xã hội, của dư luận và tập đồn xã hội. Nó thường không phải là những đáp ứng được
biểu lộ một cách rõ ràng hay trực tiếp mà là những ý nghĩ đang chuyển hóa hành
động” [5].
Theo Tâm lý học xã hội, “thái độ là sự sẵn sàng ổn định của cá nhân để phản ứng
với một tình huống hay một phức thể tình huống, thái độ vốn có xu hướng rõ rệt hình
thành quy luật nhất quán phương thức xử thế của mỗi cá nhân” [23].

Theo từ điển tiếng Việt, “thái độ được hiểu là cách nghĩ, cách nhìn và cách hành
động theo một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình hình” [28].
Theo tác giả Dương Thiệu Tống, “thái độ là khuynh hướng suy tư, cảm nghĩ, tri
giác và hành xử đối với một đối tượng tâm lý. Thái độ ấy có thể là cảm nghĩ tích cực
hay tiêu cực, thuận hay không thuận” [43].
Theo tác giả Nguyễn Khắc Viện (2001), “thái độ (Tiếng Pháp: Attitude): Trước
một đối tượng hay một ý tưởng, con người bộc lộ những phản ứng tức thì, chẳng hạn
tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối, như đã sẵn có những cơ cấu
tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó. Từ những thái độ sẵn có, tri giác về các đối
tượng cũng như tri thức bị chi phối. Thái độ liên quan với động cơ và dục vọng bản
năng. Thái độ có sự thay đổi trong q trình hoạt động và tùy vào hoàn cảnh” [48].
Định nghĩa này nhấn mạnh thái độ là những phản ứng bên ngoài của con người.
Theo tác giả Vũ Dũng (2008), “thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và
thần kinh được tổ chức thơng qua kinh nghiệm, có tác dụng điều chỉnh hoặc có ảnh
hưởng một cách linh hoạt đến phản ứng của cá nhân với tất cả các khách thể và tình
huống mà nó (phản ứng) có mối liên hệ” [11].
Theo tác giả Hoàng Phê (2010), “thái độ là tổng thể nói chung của ý nghĩ, tình
cảm đối được thể hiện ra bên ngoài qua nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động trước một


15
đối tượng, một sự việc nào đó. Cách nghĩ, cách nhìn và cách hành động theo một
hướng nào đó trước một vấn đề, một tình hình cụ thể” [23]. Định nghĩa này chưa nhấn
mạnh thái độ là cái tâm lý bên trong mỗi người.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc, “thái độ là một trong những biểu hiện của động cơ
học tập [19]; là mục đích hàng đầu của dạy học bên cạnh việc cung cấp tri thức, rèn
luyện kỹ năng, kỹ xảo” [20].
Theo hai tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức, “thái độ là một trong bốn thành
phần của nội dung dạy học đại học (hệ thống tri thức, kỹ nãng, kỹ xảo, hệ thống khái
niệm hoạt động sáng tạo, hệ thống các chuẩn mực thái độ với hiện thực)” [15].

Theo tác giả Thái Duy Tuyên, “thái độ như là các mặt biểu hiện của định hướng
giá trị trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, đời sống xã hội” [20].
Theo các tác giả Bùi Ngọc Oánh, Triệu Xuân Quýnh, Nguyễn Hữu Nghĩa, “thái
độ là một thành tố quan trọng cấu tạo nên ý thức. Thái độ là những rung cảm, những
cảm nghĩ có khả năng dẫn đến những hành động, hành vi tương ứng với đối tượng
nhận thức. Thái độ của con người phản ánh các mối quan hệ xã hội mà người đó gia
nhập vào” [35].
Thái độ được các tác giả đề cập trên bình diện chủ yếu là:
+ Thứ nhất, thái độ là một dạng phản ứng bên trong (suy nghĩ, tình cảm, cảm
nghĩ, cách nhìn,…) và bên ngồi (hành động, hành vi, sự thích ứng…) của cơ thể.
+ Thứ hai, thái độ nảy sinh khi có mối liên quan giữa một đối tượng (một sự vật,
hiện tượng, một con người, một nhóm người) với sự thỏa mãn nhu cầu của chủ thể.
+ Thứ ba, thái độ có tính xã hội, phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể của thái độ
và các thành phần khác trong xã hội (trong hồn cảnh, tình huống xã hội, trong sự trao
đổi các giá trị, chuẩn mực xã hội,…).
Tóm lại, thơng qua việc tìm hiểu, phân tích và rút ra những quan điểm chung về
thái độ của nhiều tác giả thì người nghiên cứu kết luận rằng: “Thái độ là một cấu tạo
tâm lý có ý thức và có bản chất xã hội, là hệ thống những suy nghĩ, tình cảm, cách
đánh giá của chủ thể đối với các tác động của thế giới khách quan. Đó là sự đồng
tình hay khơng đồng tình, ủng hộ hay phản đối, thích hay khơng thích phản ứng
nào đó của cá nhân hay nhóm xã hội”.


16
1.2.3. Mối tương quan giữa nhận thức và thái độ
Để thực hiện những hoạt động nhằm cải tạo hiện thực khách quan, phục vụ cho
những nhu cầu sống còn của mình, con người khơng phải chỉ cần phản ánh những
thuộc tính khách quan của các đối tượng bằng các hoạt động nhận thức, mà còn cần
phản ánh mối quan hệ của các đối tượng ấy với nhu cầu của mình. Mối quan hệ này
quy định thái độ của con người đối với đối tượng của quá trình phản ánh. Như vậy,

nhận thức và thái độ cùng là kết quả của sự phản ánh tâm lý, trong đó:
+ Nhận thức là kết quả của phản ánh, còn thái độ là kết quả của phản ánh cảm
xúc
+ Nhận thức hướng vào phản ánh bản thân sự vật, hiện tượng – đối tượng của
nhận thức. Còn thái độ hướng vào phản ánh mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng và sự
thỏa mãn nhu cầu của con người.
Chính vì vậy, thái độ và nhận thức có mối liên quan chặt chẽ với nhau, hai quá
trình tâm lý cơ bản này tạo nên cấu trúc của hiện tượng ý thức.
+ Thái độ chính là một phần trong biểu hiện tình cảm. Trong khi đó, nhận thức là
cơ sở của tình cảm, tình cảm là nguồn động lực mạnh mẽ kích thích con người tìm tịi
chân lý. Trong mối quan hệ này, q trình nhận thức giúp cá nhân hiểu biết về đối
tượng để quyết định việc sử dụng đối tượng đó phục vụ cho nhu cầu của mình. Từ nhu
cầu của mình, con người có thái độ chấp nhận hay khơng chấp nhận việc tiếp tục nhận
thức về đối tượng đó.
+ Nhận thức chi phối thái độ, nhận thức là cơ sở, là nền tảng để nảy sinh thái độ.
Con người phải có thơng tin về đối tượng để có thái độ đúng nhất với đối tượng đó.
Biết đối tượng là gì, nó có quan trọng, có ý nghĩa gì với mình để từ đó cá nhân có thái
độ tích cực hay tiêu cực với đối tượng để tránh xảy ra những thái độ không như mong
muốn [32].
+ Thái độ chịu sự chi phối của nhận thức, nhưng thái độ cũng tác động ngược lại
nhận thức. Khi chúng ta có một thái độ tích cực với một vấn đề cụ thể thì nhu cầu và
hứng thú của nhận thức được nâng lên và ngược lại [32].
+ Ý thức là sự tích hợp, hội nhập giữa nhận thức và thái độ. Cấu trúc của ý thức
bao gồm 3 mặt: nhận thức, thái độ và sự năng động trong việc điều chỉnh, điều khiển


×