Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.54 KB, 45 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>CHƯƠNG I. ĐẠO ĐỨC LÀ HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI ĐẶC TRƯNG CỦA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI ---o0o---. I- KHÁI NIỆM ĐẠO ĐỨC, CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC * Đạo đức Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức đã xuất hiện cách đây hơn 2.600 năm trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hi Lạp cổ đại + Đạo có nghĩa là đường, con đường đi, con đường sống của con người trong xã hội. + Đức là nhân đức, đức tính, là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc, luân lý… Ngày nay, triết học phương Tây định nghĩa đạo đức như sau: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”. Từ định nghĩa trên, rút ra những điểm cần chú ý sau: + Một, đạo đức là hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. + Hai, đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. + Ba, đạo đức là một hệ thống các giá trị, các hiện tượng đạo đức thường được biểu hiện dưới hình thức khẳng định hoặc phủ nhận lợi ích chính đáng hoặc không chính đáng nào đó. * Đạo đức học - Là một môn khoa học nghiên cứu về đạo đức, về những quy luật phát sinh, tồn tại, phát triển của đời sống đạo đức con người và xã hội. Nó xác lập nên hệ thống những khái niệm, phạm trù, chuẩn mực đạo đức cơ bản làm cơ sở cho ý thức đạo đức và hành vi đạo đức của con người. + Đạo đức học nghiên cứu về cái thiện và cái ác. 1- Đạo đức trong đời sống hàng ngày - Trong đời sống hàng ngày, khái niệm đạo đức thường dùng để chỉ những người có biểu hiện tốt trong quan hệ ứng xử với mọi người xung quanh (nhân nghĩa, hiếu thảo, thuỷ chung, đoàn kết…). Đạo đức là khái niệm dùng để tôn vinh những người có trách nhiệm với công việc với tư cách là một công dân. - Khái niệm đạo đức được sử dụng để đánh giá tình cảm, thái độ, hành vi của mỗi người so với những chuẩn mực đạo đức xã hội của mỗi thời kỳ lịch sử. Những người sống theo chuẩn mực xã hội, gương mẫu, tự giác thực hiện các chuẩn mực xã hội, được nhiều người quý mến thì được coi là người có đạo đức. + Có những giá trị đạo đức phản ánh tính nhân văn thể hiện truyền thống đạo đức của dân tộc, tồn tại lâu dài qua các thời kỳ lịch sử, đến nay vẫn được coi là chuẩn mực của con người VN + Cũng có những giá trị đạo đức phản ánh yêu cầu của xã hội của một giai đoạn lịch sử nhất định theo chế ước của quan hệ xã hội và những điều kiện kinh tế, tôn giáo, hệ tư tưởng của một thời kỳ.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> Tóm lại, khái niệm đạo đức trong đời sống hàng ngày là để nhận xét nhân phẩm của mỗi người so với những chuẩn mực đạo đức xã hội, thể hiện trong quan hệ giao tiếp, ứng xử với mọi người xung quanh và so với những bổn phận, trách nhiệm xã hội đòi hỏi. 2- Ở góc độ khoa học - Theo từ điển triết học: “Đạo đức là quy tắc chung trong xã hội và hành vi của con người, quy định những nghĩa vụ của người này đối với người khác và đối với xã hội. Đạo đức là hình thái của ý thức kinh tế xã hội. Lênin xây dựng quan điểm về đạo đức và những yêu cầu của đạo đức không phải trên những định nghĩa chung và trừu tượng mà trên những điều kiện lịch sử cụ thể. Không có đạo đức nào ở ngoài xã hội loài người. Trong một xã hội có giai cấp, đạo đức có tính gai cấp. Những hình thức kết cấu xã hội và cơ sở kinh tế mà biến đổi thì đạo đức cũng biên đổi theo”. - Theo nghĩa hẹp, đạo đức là luân lý, những quy định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người. Nhưng trong điều kiện hiện nay, chính quan hệ cũng đã mở rộng và đạo đức bao gồm những quy định, những chuẩn mực ứng xử của con người với con người, với công việc, với bản thân, với thiên nhiên và với môi trường sống… - Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt nhân cách đã được xã hội hoá. Đạo đức được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh, trong sáng, ở hành động góp phần giải quyết hợp lý, có hiệu quả những mâu thuẩn của cuộc sống. Khi thừa nhận đạo đức là một hình thái ý thức xã hội thì đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi tầng lớp giai cấp trong xã hội cũng phản ánh ý thức chính trị của họ đối với các vấn đề đang tồn tại. - Chuẩn mực đạo đức là những phẩm chất đạo đức có tính chuẩn mực, được nhiều người thừa nhận, được dư luận xã hội xác định như một đòi hỏi khách quan, là thước đo giá trị cần có ở mỗi người, những chuẩn mực đạo đức ấy được coi như mục tiêu giáo dục, rèn luyện ở mọi người ở nhiều bậc học, cấp học, lứa tuổi, ngành nghề. Đồng thời chuẩn mực đạo đức đó có giá trị định hướng, chi phối, chế ước quá trình nhận thức, điều chỉnh thái độ và hành vi của mỗi người. Dù có nhiều định nghĩa khác nhau, khái niệm đạo đức có một số nội hàm chung là: - Nó bắt nguồn từ thực tiễn, được nhiều người đồng tình và tự giác tuân thủ. - Là hình thái ý thức xã hội, được chế ước bởi điều kiện kinh tế xã hội, của phương thức sản xuất, của thể chế tổ chức chính trị. II- NGUỒN GÔC CỦA ĐẠO ĐỨC 1- Nguồn gốc đạo đức bắt đầu từ sự biến đổi tâm sinh lý con người. - Những yếu tố tâm – sinh lý là điều kiện có tính tiên quyết nảy sinh nhu cầu giao tiếp xã hội nên hình thành các quy ước xã hội, trong đó, ban đầu, chủ yếu là những quy ước có tính đạo đức. + Để tồn tại và phát triển, con người phải dựa vào nhau và cùng hoạt động, đó là một quy luật khách quan của sự phát triển cá nhân và xã hội. + Trải qua các nền văn minh: nông nghiệp, công nghiệp và hậu công nghiệp, hiện nay con người đòi hỏi phải giao lưu trong lao động, vượt qua biên giới quốc gia để tồn tại và phát triển là yêu cầu bức xúc. + Ngày nay, sự phát triển của KH-CN như vũ bão nên con người cần tiếp thu và vận dụng những thành quả chung của nhân loại. 2- Nguồn gốc đạo đức phát triển theo nền kinh tế xã hội phát triển (xã hội hiện đại)..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Về lý luận cũng như trên thực tế, phương thức sản xuất của cộng đồng, những nguyên tắc tổ chức sản xuất kinh tế, hình thức lao động là cơ sở, là nguồn gốc xác định giá trị đạo đức của mỗi thời kỳ lịch sử. - Mặt khác, các chuẩn mực đạo đức nảy sinh còn phụ thuộc vào quyền lợi, trách nhiệm của các thành viên trong việc giải quyết những việc chung của cộng đồng. - Đặc điểm nhận thức, đặc điểm tâm – sinh lý của mỗi thành viên cũng có ý nghĩa như nguồn nảy sinh đạo đức. III- VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC 1- Đạo đức với sự phát triển nhân cách a- Đạo đức góp phần định hướng mục tiêu hành động - Đặc điểm nổi bật của con người và cơ sở của sự phát triển nhân cách con người là luôn hướng tới chân, thiện, mỹ, luôn ước mơ vươn tới tương lai. - Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đang ra sức tiến hành xây dựng một xã hội: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh… Đó là mục tiêu đã được Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn. b- Đạo đức có chức năng định hướng mục đích h/động của con người. - Cơ sở để lựa chọn các giá trị đạo đức của một cá nhân phụ thuộc vào nhận thức về quyền lợi và vị trí của họ trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội (quyền lợi các nhân, gia đình, tập thể, cộng đồng xã hội…). - Các tập thể có quyền lợi mâu thuẫn với nhau, những lúc ấy những giá trị đạo đức chung nhất sẽ được số đông quần chúng lựa chọn để điều chỉnh hành động của bản thân. Do vậy, phải lấy các chuẩn mực đạo đức chung của dân tộc và nhân loại làm định hướng chi phối hoạt động nhận thức, định hướng cho hoạt động giao lưu, học tập, lao động và các hoạt đông xã hội của mỗi cá nhân. c- Đạo đức góp phần điều chỉnh hành động Việc điều chỉnh hoạt động của mỗi cá nhân phụ thuộc vào 3 điều kiện: - Một là, trình độ nhận thức, khả năng phân tích để lựa chọn các giá trị của mỗi chủ thể. - Hai là, phụ thuộc vào dư luận của cộng dồng. - Ba là, phụ thuộc vào định hướng giáo dục của Nhà nước và từng thời kỳ lịch sử 2- Đạo đức với sự phát triển xã hội. Hệ thống chuẩn mực đạo đức của mỗi cộng đồng hay dân tộc dù ở bất kr thời kỳ lịch sử nào thì cũng biểu hiện ở 5 mối quan hệ, đó là: - Quan hệ với bản thân: đó là những giá trị để hoàn thiện bản thân - Quan hệ với mọi người: Thể hiện ở hiện tại, quá khứ, tương lai, quan hệ trực tiếp hay gián tiếp. - Quan hệ với công việc: thể hiện bổn phận, trách nhiệm với việc xây dựng và phát triển cộng đồng - Quan hệ với môi sinh: tham gia vào việc giữ gìn, bảo vệ, phát triển môi trường sống của con người - Quan hệ với lý tưởng sống của dân tộc. trách nhiệm đối với vận mệnh của dân tộc, xay dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lý tưởng đạo đức của mỗi cá nhân không thể tách rời lý tưởng của dân tộc đó. Khi những giá trị đạo đức biến thành nhận thức chung của mọi thành viên thì nó trở thành truyền thống, có sức mạnh điều chỉnh nhận thức và hành động chung của toàn xã hội. Vì vậy, đạo đức có vai trò, có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> IV- CÁC DẠNG ĐẠO ĐỨC TRONG XÃ HỘI Đạo đức bị chi phối, chế ước bởi những điều kiện kinh tế xã hội, có bao nhiêu hình thái kinh tế thì có bấy nhiêu dạng đạo đức trong xã hội. 1- Đạo đức dưới chế độ cộng sản nguyên thuỷ Trong chế độ cộng sản nguyên thuỷ, chỉ có một kiểu đạo đức đó là cách ứng xử của con người với con người. Đó là những quy định một cách tự nhiên do cuộc sống sinh hoạt cộng đồng buộc hình thành, không theo ý muốn chủ quan của bất kỳ ai. Đó là đạo đức kiểu hành vi, được truyền lại từ thế hệ này đến thế hệ khác trong một thời gian dài. Ví dụ: - Làm chung ăn chung…. 2- Đạo đức trong chế độ xã hội có giai cấp bóc lột (chế độ nô lệ, phong kiến, tư bản). - Trong một xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp, đạo đức không là một phạm trù trừu tượng, mà là một phạm trù lịch sử. - Trong xã hội có giai cấp thống trị, giai cấp nào cũng sử dụng đạo đức như một phương tiện để nô dịch tư tưởng, tinh thần của quần chúng lao động. - Thông qua thể chế chính trị - xã hội, bọn thống trị thông qua tôn giáo, văn hoá, nghệ thuật, triết học, các lĩnh vực khoa học, các tổ chức xã hội… để áp đặt quan điểm đạo đức, hệ thống chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống trị đối với quần chúng lao động. Ví dụ: - Trung quân ái quốc trong xã hội phong kiến… - Đạo đức tôn giáo trong xã hội có giai cấp thống trị… 3- Đạo đức của giai cấp công nhân trong chế độ XHCN (CSCN). - Sau CM Tháng Mười Nga năm 1917, đạo đức của giai cấp công nhân, của chế độ Xô viết được xây dựng và phát triển trên cơ sở của nền sản xuất, quan hệ sản xuất XHCN. - Từ đó, tính thống nhất giữa đạo đức (ý thức xã hội) và hạ tầng cơ sở đã đảm bảo cho những giá trị đạo đức tốt đẹp nhất của xã hội loài người có điều kiện phát triển (đó là chế độ làm chủ tập thể, không còn cành người bóc lột người…) - Ở Việt Nam, sau CM 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc được khơi dậy, phát huy thành sức mạnh trong cuộc CM GPDT, xây dựng đất nước trong sự nghiệp đổi mới ngày nay. Những tàn dư của đạo đức phong kiến, tư sản, những hut tục lạc hậu, những quan niệm đạo đức hư vô của tôn giáo… đã và đang dần dần được loại bỏ trong cuộc sống xã hội. - Đạo đức gắn liền với chính trị, pháp luật, tư tưởng, lối sống, đạo đức của con người Việt Nam là sự thống nhất giữa nhận thức thái độ, niềm tin, tình cảm, thẩm mỹ đạo đức với hành vi đạo đức của mỗi con người và của cả dân tộc. V- QUAN HỆ ĐẠO ĐỨC VỚI CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI KHÁC 1- Quan hệ giữa đạo đức với tư tưởng chính trị Tư tưởng chính trị là hệ thống quan điểm của giai cấp thống trị hoặc một chính đảng truyền bá trong xã hội. Trong xã hội có giai cấp, tư tưởng chính trị chính thống trong xã hội là hệ tư tưởng của giai cấp hoặc chính đảng thống trị xã hội về mặt tổ chức nhà nước và chiếm hữu tư liệu sản xuất, vật chất. Tư tưởng chính trị ra đời sau đạo đức nhưng nó được đảm bảo thực hiện bằng hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước với những phương tiện và công cụ khổng lồ, mạnh mẽ..
<span class='text_page_counter'>(5)</span> - Quan hệ giữa đạo đức với chính trị trước hết thể hiện ở mục tiêu và các chuẩn mực đạo đức được cụ thể hoá bằng hệ thống văn bản, chỉ thị. Lúc đó, những yêu cầu, chuẩn mực đạo đức được chính trị hoá, bắt buộc mọi người phải thực hiện. - Khi có sự can thiệp của chính trị thì những giá trị đạo đức được thể hiện phổ biến, đối với số đông và vì vậy các giá trị đạo đức phù hợp với yêu cầu chính trị, tư tưởng sẽ có cơ hội, điều kiện phát huy tác dụng. Ví dụ: - Yêu nước là một giá trị đạo đức, được thể chế hoá bằng Hiến pháp và Luật nghĩa vụ quân sự. - Yêu lao động là truyền thống, được hệ thống chính trị tạo ra thành các phong trào thi đua yêu nước XHCN… - Khi hệ tư tưởng phù hợp với các giá trị đạo đức, đáp ứng những mong muốn của quần thì chính trị sẽ định hướng cho đạo đức phát huy tác dụng và đạo là mảnh đất màu mở cho những định hướng tư tưởng chính trị trở thành hiện thực. - Tư tưởng chính trị của một giai cấp có thể biến đổi trong thời gian ngắn nhưng giá trị đạo đức thì biến đổi chậm hơn vì nhận thức của con người thường diễn ra sau biến đổi của xã hội. 2- Quan hệ giữa đạo đức với pháp luật - Đạo đức là giá trị tinh thần được hình thành qua thời gian, được nhiều người thừa nhận và tự nguyện thực hiện. Đạo đức được điều chỉnh bằng lương tâm của mỗi người, bằng dư luận xã hội, bằng thói quen và niểm tin của chủ thể hướng tới chân, thiện, mỹ. - Pháp luật là những quy định của Nhà nước của một giai cấp thống trị nhằm bắt buộc quần chúng thực hiện để đảm bảo quyền lợi của giai cấp nắm CQ. - Luật pháp XHCN là hệ thống pháp luật đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân nhưng đó cũng là quyền lợi của quần chúng lao động, vì quyền lợi của giai cấp, của quần chúng lao động là thống nhất. Chỉ có chế độ XHCN mới có sự thống nhất giữa đạo đức, pháp luật và chính trị, còn dưới các chế độ có giai cấp bóc lột, giai cấp thống trị dùng mọi thủ đoạn để áp đặt những giá trị đạo đức, tư tưởng chính trị đối với quần chúng lao động trong đó phát luật, tôn giáo là những phương tiện quan trọng nhất. - Tuy đạo đức đức và pháp luật có những điểm khác nhau như trên, nhưng cũng có những điểm tương đồng: + Cả hai đều là hình thái ý thức xã hội,là sản phẩm của một điều kiện KT-XH nhất định. + Là công cụ để điều chỉnh nhận thức, thái độ, hành vi của con người theo một trật tự nhất định. + Pháp luật luôn qui định những điều được làm, không được làm, còn đạo đức là những chuẩn mực khuyên con người nên làm và không nên làm, chỉ có toà án lương tâm, dư luận xã hội phán xử những cá nhân vi phạm giá trị đạo đức.. 3- Quan hệ giữa đạo đức với khoa học - Khoa học, hiểu một cách khái quát, là một lĩnh vực hoạt động rộng lớn của loài người, nhằm nghiên cứu và hệ thống hoá thành lý luận những tri thức về các sự vật, hiện tượng, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy. - Khoa học là kết quả của quá trình lao động tìm tòi, sáng tạo, khám phá những quy luật của TG khách quan và vận dụng các quy luật đó phục vụ đời sống của con người..
<span class='text_page_counter'>(6)</span> Chính vì vậy, bản thân khoa học đã chứa đựng những lý tưởng đạo đức cao cả và những lý tưởng đạo đức cao cả đó là động lực không nhỏ trong sự phát triển khoa học. - Ngày nay, người ta phân Khoa học thành 3 lĩnh vực chính: Khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn. - Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, bất kỳ tri thức khoa học nào cũng có ảnh hưởng (trực tiếp hoặc gián tiếp) đến đạo đức. Quan hệ giữa khoa học với đạo đức là quan hệ giữa cái chân với cái thiện. + Trong cái thiện (đạo đức) đã bao hàm chái chân (chân lý khoa học) + Trong cái chân cũng đã bao hàm cái thiện. + Khoa học chân chính không thể thù địch với đạo đức. + Không một phát minh khoa học nào không đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. - Con người trong quá trình chiếm lĩnh các tri thức khoa học để hình thành thế giới quan thì cũng đồng thời hình thành nhân sinh quan. Đạo đức là một mặt của nhân sinh quan, biểu hiện bằng thái độ, hành vi, cách ứng xử giữa con người với con người, con người với tự nhiên, xã hội và bản thân mình. - So với ý thức đạo đức thì ý thức khoa học mang tính vượt rước. Khoa học góp phần loại bỏ những nhân tố lạc hậu trong đạo đức, làm cho cái thiện trong đạo đức ngày càng gắn bó với cái chân trong khoa học. - Tri thức khoa học giúp cho chủ thể đạo đức nhận thức, lựa chọn đánh giá đúng đắn các giá trị đạo đức. Tuy nhiên, giữa tiến bộ khoa học và tiến bộ đạo đức không phải bao giờ cũng phát triển theo đường thẳng, đồng thuận với nhau. Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vai trò và sự phát triển của khoa học, đã đề ra những chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy khoa học phát triển, đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu chính trị đó đã chứa đựng các giá trị đạo đức do KH-CN mang lại. 4- Quan hệ giữa đạo đức với tôn giáo. Ý thức tôn giáo bao gồm: tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo. + Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. + Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. * Nét tương đồng giữa ý thức đạo đức và ý thức tôn giáo - Thứ nhất, giữa ý thức đạo đức và ý thức tôn giáo có mối quan hệ lâu dài, gắn bó, đan xen trực tiếp trong đời sống, trong lao động SX của những tập đoàn người nguyên thuỷ. + Nhiều nhà triết học, nhà tư tưởng của các thời đại khác nhau đã giải thích: Hiện tượng đạo đức gắn liền với niềm tin tôn giáo. + Một số nhà thần học khẳng định: đạo đức chân chính không thể thực hiện được ở ngoài tôn giáo. - Thứ hai, đạo đức và tôn giáo đều hướng con người đi đến cái thiện, nhân ái, vị tha; tránh cái ác, cái giả dối, vô lương tâm. + Cả hai đều muốn con người có cuộc sống hạnh phúc, thanh thản… + Cả hai đều thấy được nỗi đau khổ của con người và hướng tới việc làm giảm nỗi đau khổ ấy để con người đi đến hạnh phúc. * Nét khác biệt giữa ý thức đạo đức và ý thức tôn giáo..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> - Thứ nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng đạo đức và tôn giáo đều phản ánh tồn tại XH, đều có cơ sở là tồn tại xã hội. Tuy nhiên, góc độ và khía cạnh phản ánh lại khác nhau: + Ý thức tôn giáo phản ánh tồn tại XH thông qua hình ảnh tôn giáo, phản ánh thế giới một cách hư ảo, là niềm tin vào các đấng siêu nhiên. + Ý thức đạo đức phản ánh tồn tại XH qua tổng kết thực tiễn cuộc sống. - Thứ hai, lý tưởng của tôn giáo và đạo đức cũng khác nhau: + Lý tưởng của tôn giáo là hư ảo, nó nảy sinh từ sự bất lực của con người trước các hiên tượng của tự nhiên và xã hội; khuyên con người sống nhẫn nhục, sợ hãi trước mọi lực lượng siêu nhiên, không tin vào sức mạnh và khả năng sáng tạo của con người. + Đạo đức xem nỗi đau khổ của con người trong tính hiện thực, lịch sử cụ thể; để có hành phúc thật sự, con người phải hoạt động thực tiễn (LĐSX và đấu tranh XH) chứ không phải dựa vào một lực lượng siêu nhiên nào đó. Tuy nhiên, theo quan điểm của Đạo đức học Mác-xít, nét tương đồng giữa đạo đức và tôn giáo chỉ là biểu hiện hình thức bên ngoài và mang tính tạm thời, còn sự khác biệt là cơ bản và mang tính bản chất. Đạo đức CSCN, về căn bản, đối lập với đạo đức của các tôn giáo: - Đạo đức tôn giáo tuyên truyền cho tư tưởng nô lệ và phục tùng, gieo rắc tư tưởng cuồng tín tôn giáo, đề cao chủ nghĩa cá nhân. - Đạo đức cộng sản tôn trọng tự do, danh dự và phẩm giá con người, giáo dục con người ý thức nghĩa vụ pháp lý và nghĩa vụ đạo đức, coi chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc cơ bản của đạo đức mới. Đảng ta xác định: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Do vậy, Đảng chủ trương: - Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau. - Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời, đẹp đạo”. - Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo đê hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. ---o0o--CÂU HỎI THẢO LUẬN 1- Khái niệm đạo đức trong cuộc sống đời thường và trong khoa học? Sự khác nhau? 2- Trình bày nguồn gốc của đạo đức. 3- Phân tích vai trò của đạo đức trong cuộc sống xã hội. 4-Trình bày sơ lược các dạng đạo đức trong xã hội. 5- Phân tích mối quan hệ giữa đạo đức với chính trị và pháp luật. CHƯƠNG II.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> ĐẠO ĐỨC LÀ MỘT KHOA HỌC ---o0o---. I- KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC. 1- Khái niệm đạo đức học. Đạo đức học là một khoa học nghiên cứu những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực các hành vi ứng xử của con người trong các mối quan hệ của con người với bản thân, với mọi người, với tự nhiên và với tổ chức, hoạt động xã hội. - Đạo đức học nghiên cứu mối quan hệ giữa đạo đức với hình thái KT-XH và với các hình thái ý thức xã hội khác nhằm đánh giá ý nghĩa, vai trò của đạo đức trong sự phát triển của con người và xã hội loài người. - Nhiệm vụ quan trọng của đạo đức học là: + Nghiên cứu, tìm hiểu tính chất của đạo đức trong xã hội ở các thời kỳ lịch sử khác nhau, của các giai tầng khác nhau trong xã hội. + Tìm ra những quy luật chung và riêng, tính chất phổ biến và đặc thù của đạo đức. + Xây dựng hệ thống đạo đức mới trong giai đoạn hiện nay - Đạo đức học Việt Nam còn nghiên cứu mô hình nhân cách con người VN hiện nay, trong đó có đạo đức truyền thống và những nhân vật tiêu biểu cho đạo đức dân tộc. (Chủ tịch Hồ Chí Minh có vị trí rất trang trọng trong nội dung này). 2- Đối tượng, nghiên cứu của đạo đức học. 2.1- Đạo đức học nghiên cứu các điều kiện chế ước, chi phối sự nảy sinh các giá trị đạo đức Thực chất là nghiên cứu mối quan hệ chế ước, chi phối của những điều kiện KT-XH đến sự hình thành, phát triển của những giá trị đạo đức trong xã hội - Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Đạo đức học chính là hiện tượng đạo đức đang tồn tại sinh động của cuộc sống đạo đức xã hội. Các hiện tượng đạo đức đó tồn tại khách quan. Người nghiên cứu phải tôn trọng tính khách quan đang vận động, biến đổi của đời sống đạo đức xã hội. Trong tiến trình phát triển của xã hội, các giá trị đạo đức co tính kế thừa và phát triển, đôi khi có tính phủ định như quy luật của tự nhiên. Ví dụ: - Phong tục ăn thịt người già yếu… chuyển thành phong tục nuôi dưỡng, chăm sóc người già… - Quan niệm sinh con trai, sinh nhiều con… trước đây và quan niệm về sinh con hiện nay… Có thể thấy, cùng một giá trị nhân văn, nhưng trong điều kiện KT-XH khác nhau thì có cách thể hiện khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. - Cần khẳng định, Đạo đức học nghiên cứu các hiện tượng, các giá trị đạo đức, khái quát những giá trị đạo đức chung nhất, phổ biến… đồng thời cũng chỉ ra những chuẩn mực đạo đức chung nhất của các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức giới…. có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc định hướng cho sự phát triển nhân cách của mọi thành viên trong xã hội. 2.2- Đạo đức học nghiên cứu các nguyên tắc giao tiếp, ứng xử của con người trong xã hội - Nghiên cứu những nguyên tắc ứng xử chính là xác định cơ sở hình thành phong cách giao tiếp: + Chỉ ra sự khác nhau giữa chuẩn mực đạo đức giữa các thời kỳ lịch sử..
<span class='text_page_counter'>(9)</span> + Sự khác nhau giữa các đối tượng XH trong cùng một thời kỳ lịch sử. + Sự thay đổi hệ thống giá trị của mối người khi có sự thay đổi nhận thức. - Những nguyên tắc cơ bản để hình thành giá trị trong giao tiếp, ứng xử của con người trong XH xuất phát từ những cơ sở sau đây: a- Lợi ích của mỗi người và lợi ích chung của cộng đồng, chủ yếu là lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần..) b- Nghĩa vụ và trách nhiệm công dân trong XH, các cộng đồng XH, là nguyên tắc quan trọng để xác định, lựa chọn chuẩn mực đạo đức và cách ứng xử c- Thiện và ác là nguyên tắc đạo đức của mọi thời đại, là cơ sở để lựa chọn, xác định giá trị nhân cách của con người ở tất cả các dân tộc, các thời đại. d- Hướng tới cái đẹp là cơ sở giao tiếp của mỗi thời đại, thể hiện tính truyền thống của DT, đồng thời thể hiện ý thức vì ngày mai, vì tương lai tươi sáng… 2.3- Đạo đữc học nghiên cứu những học thuyết khác nhau về đạo đức. - Hiện tượng đạo đức ra đời từ thời kỳ nguyên thuỷ, nhưng Đạo đức ra đời kể từ khi có những người chuyên nghiên cứu lý luận, thực tiễn, xác định những giá trị, nguyên tắc, cách ứng xử XH. Đạo đức học là khoa học nghiên cứu về đạo đức. - Ở thời kỳ Hi Lạp – La Mã và Trung Hoa cổ đại, việc nghiên cứu các hiện tượng đạo đức là một phần của triết học. Đạo đức học ra đời vì các triết gia cổ đại đã bàn đến cái thiện - cái ác, lương tâm trách nhiệm, hạnh phúc - bất hạnh… - Ngay khi Đạo đức học ra đời, đã có những quan niệm và học thuyết khác nhau về đạo đức tồn tại song song nhau qua nhiều thời đại: + Quan niệm duy tâm cho rằng đạo đức là do trời cho, là bất biến… + Quan niệm duy vật cho rằng đạo đức, quan niệm, khái niệm, hình thức và bản chất không tách rời nhau… Nhưng nhìn chung, tất cả đều chịu ảnh hưởng của tư tưởng tôn giáo, ý thức hệ của tầng lớp chủ nô, quan niệm đạo đức, luận lý là quy định của một trật tự xa hội như là tiền định, không thay đổi. - Đến khi học thuyết Mác ra đời, đạo đức học mác-xít mới có cách nhìn khoa học về các vấn đề đạo đức xã hội, và đạo đức học mác-xít mới thực sự là đạo đức học khoa học. Tóm lại, đối tượng nghiên cứu của đạo đức học là + Các hiện tượng đạo đức, những điều kiện, yếu tố chi phối, chế ước các hệ thống chuẩn mực đạo đức xã hội. + Nghiên cứu các nguyên tắc ứng xử của xã hội, của các giai tầng trong xã hội và quan niệm về đạo đức trong XH. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu đó: + Xác định quy luật chung và riêng của việc hình thành, phát triển các hệ thống giá trị đạo đức của XH. + Dự báo xu thế phát triển, đề xuất những giá trị đạo đức và phương pháp giáo dục, tuyên truyền để phát huy vai trò của đạo đức trong xã hội hiện đại. 3- Nhiệm vụ, nội dung nghiên cứu của đạo đức học. 1- Nghiên cứu, xác định các giá trị đạo đức có tác động đến sự phát triển con người và xã hội do yêu cầu của xã hội đang đòi hỏi. Đồng thời giải thích những giá trị đạo đức truyền thống không còn phù hợp với nhu cầu của xã hội đương đại. Nhiệm vụ này nhằm định hướng cho quá trình giáo dục đạo đức nói riêng và phát triển nhân cách nói chung của xã hội hiện đại..
<span class='text_page_counter'>(10)</span> 2- Phân tích nguồn gốc, bản chất của những giá trị đạo đức, làm sáng tỏ tính tất yếu khách quan của những giá trị đạo đức tích cực và những giá trị đạo đức không còn phù hợp với điều kiện mới. Nhiệm vụ này làm sáng tỏ cơ sở lý luận của định hướng hệ thống giá trị đạo đức để nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin, bản lĩnh, ý thức cho chủ thể hành vi đạo đức có đủ niềm tin khoa học khi thực hiện các chuẩn mực đạo đức. Ví dụ: - Quan niệm gia đình đông con ngày xưa… đến nay không còn phù hợp với sự phát triển của xã hội… 4- Chức năng của đạo đức 4.1- Chức năng định hướng hoạt động - Trước khi có tổ chức nhà nước điều hành bằng pháp luật thì các chuẩn mực đạo đức là cơ sở điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân trong một cộng đồng. - Chuẩn mực đạo đức đôi khi là tiền đề để hình thành những điều luật sau này khi xuất hiện nhà nước. Nhưng ngay cả khi có pháp luật, nhiều chuẩn mực đạo đức không thể quy định thành pháp luật Ví dụ: - Pháp luật chỉ quy định chế độ hôn nhân 1 vợ, 1 chồng chứ không thể quy định định mức của sự chung thuỷ…. - Cơ chế thúc đẩy hành vi đạo đức là sự tự nguyện, là sự tự nhận thức, không bị cưỡng chế bởi sức ép từ bên ngoài, nếu có thì đó là dư luận xã hội. 4.2- Chức năng điều chỉnh hoạt động Trong quá trình hoạt động giao tiếp, ứng xử, mối cá nhân luôn luôn đối chiếu với những chuẩn mực đạo đức và họ thường tự giác điều chỉnh hành vi nếu như có những hành vi lệch sai lệch. Lúc ấy, trong lương tâm thấy băn khoăn, ân hận. 4.3- Chức năng kiểm tra, đánh giá Hoạt động tự kiểm tra đánh giá hành vi đạo đức của mọi người đều dựa vào chuẩn mực đạo đức xã hội. Song, trên thực tế , để tự kiểm tra, đánh giá nhận thức, hành vi, thái độ đạo đức…, mỗi chuẩn mực đạo đức được biểu hiện bằng những tiêu chí cụ thể và thường là những tiêu chí biểu hiện ra bên ngoài. Ví dụ: - Những biểu hiện của sự trung thực là: nói đúng sự thật, không tham những cái không phải là của mình, không vu oan cho người khác, công bằng khi giải quyết công việc, sẳn sàng bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý… 4.4- Chức năng chỉ đạo quản lý giáo dục xã hội Quản lý nhà nước về mặt tuyên truyền giáo dục cho mọi người dân phải căn cứ và hệ thống chuẩn mực xã hội. Chức năng quản lý giáo dục xã hội của đạo đức chân chính là ở chỗ lập kế hoạch hoạt động giáo dục nhằm làm chuyển biến nhận thức, biến thành hành vi đạo đức của mọi công dân, hạn chế những hành vi lêch chuẩn đạo đức xã hội. 5- Phương pháp nghiên cứu đạo đức. Đạo đức học là một khoa học xã hội, có liên quan đến nhiều lĩnh vực: văn hoá, xã hội, lịch sử, chính trị…, vì vậy, cần phải nắm vững phương pháp luận khi nghiên cứu. 5.1- Phương pháp luận nghiên cứu Đạo đức học. Đạo đức học lấy phép biện chứng duy vật và duy vật lịch sử của chủ nghĩa MácLênin làm kim chỉ nam trong nghiên cứu về đạo đức. - Khi nghiên cứu một vấn đề đạo đức cụ thể phải đặt nó trong tiến trình phát triển của chính nó và mối quan hệ chế ước, chi phối của các vấn đề KT-XH, văn hoá, chính trị, tâm lý và các khoa học có liên quan..
<span class='text_page_counter'>(11)</span> - Nắm vững phép biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin giúp chúng ta khi nghiên cứu các vấn đề về đạo đức có thể lý giải được các vấn đề phức tạp của xã hội, những mặt tích cực, hạn chế của các quan niệm đạo đức đã qua và đưa ra được dự báo xu thế phát triển của đời sống đạo đức xã hội hiện nay và tương lai. 5.2- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể a- Phương pháp nghiên cứu lý luận Là cách thực tiếp cận các nguồn thông tin lý luận được trình bày trong các công trình nghiên cứu của các tác giả qua các thời kỳ lịch sử có nội dung liên quan đến đạo đức và ảnh hưởng đến đạo đức xã hội. Phương pháp này có tác dụng: - Giúp thấy rõ bản chất của các quan điểm đạo đức của các thời kỳ lịch sử và ảnh hưởng của nó. - Hiểu được quá trình phát triển của đạo đức học, kế thừa kinh nghiệm, tri thức của các nhà khoa học đi trước. b- Những phương pháp nghiên cứu thực trạng đạo đức xã hội Nghiên cứu thực trạng đạo đức là một việc khó, phải khảo sát, đánh giá được: nhận thức, tình cảm, niềm tin đạo đức, thẩm mỹ, hành vi đạo đức… của đối tượng cần khảo sát. Do vậy, phải sử dụng tổng hợp, kết hợp các phương pháp như: - Điều tra cơ bản bằng hệ thống câ hỏi đóng và mở. - Trắc nghiệm nhân cách tâm lý học. - Quan sát. - Thông qua hoạt động thực tế. - Tổng kết kinh nghiệm. - Hội thảo, toạ đàm… - Thực nghiệm sư phạm… II- MỘT SỐ CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC 1- Khái niệm phạm trù đạo đức. - Phạm trù là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản, bản chất, phổ biến giữa những sự vật, hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định của hiện thực. - Phạm trù đạo đức là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản, bản chất, phổ biến giữa các hiện tượng đạo đức của đời sống xã hội. * Những đặc điểm có bản của phạm trù đạo đức - Mang tính phổ biến và khái quát cao. - Mang nội dung thông báo và đánh giá. - Mang tính phân cực rõ rệt - Thống nhất giữa tính khách quan và tính chủ quan. - Mang tính giai cấp và tính lịch sử. 2- Một số cặp phạm trù cơ bản. 2.1- Thiện và ác. Thiện và ác là hai phạm trù đối lập của đạo đức, xuất hiện từ rất sớm trong đời sống đạo đức xã hội, là chuẩn mực đánh giá đạo đức của con người (cá nhân và xã hội) thể hiện ở nhận thức, thái độ, hành vi, thói quen, thẩm mỹ đạo đức… Trong lịch sử phát triển của tư tưởng Đạo đức học, đã tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thiện và ác: - A-rix-tốt, Khổng Tử, Mạnh tử…cho rằng bản tính con người là thiện, còn cái ác là do hoàn cảnh tạo ra..
<span class='text_page_counter'>(12)</span> - Tuân Tử, Hàn Phi Tử, Hốp-xơ…cho rằng bản tính con người là ác, là ích kỷ, phải dùng đến luật pháp để thay đổi cái ác. - Chủ nghĩa duy vật trước Mác thì thừa nhận cái thiện mang tính phổ quát, con người luôn tránh cái ác và hướng tới cái thiện. - Ở VN thời phong kiến, luôn đề cao cái thiện, đã lấy thiện để trị dân. - Theo quan điểm của Đạo đức học Mác-xít thì: + Thiện là tất cả những gì tốt đẹp, những gì có ích cho con người và xã hội, phù hợp với tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội. + Ác là cái đối lập với thiện, là tất cả những gì gây trở ngại, có hại cho con người và xã hội, đi ngược lại những tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội. Nguồn gốc nảy sinh cái thiện là đức biết hy sinh, biết chăm lo đến người khác, nảy sinh cái ác là từ tính ích kỷ, chỉ nghĩ đến cá nhân. Từ nhận thức trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan niệm: “Trong xã hội có thiện và có ác. Theo nghĩa rộng thì cả thế giới và trong một nước có thiện và có ác. Theo nghĩa hẹp thì bản thân và tư tưởng mỗi người cũng có thiện và có ác”. Người chỉ rõ: “Thực hành chí công, vô tư, cần, kiệm, liêm, chính là thiện. Nếu phạm phải quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lười biếng là ác”, đây là “cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ. Nhưng cuối cùng thì cái thiện nhất định thắng”. * Cần chú ý: - Thiện và ác có tính lịch sử xã hội, có tính giai cấp và bị chi phối bởi nhiều phẩm chất khác cũng như trình độ nhận thức xã hội của mỗi người. - Những thay đổi về quan niệm và hành vi đạo đức không phải do ý nuốn chủ quan của một người nào đó, không lệ thuộc chỉ vào ý kiến của chủ thể mà chủ yếu bị chế ước bởi những điều kiện khách quan của đời sống xã hội, vào vị thế xã hội, đặc điểm tâm lý, trình độ nhận thức của chủ thể hành vi đạo đức. Như vậy, muốn xem xét một hành vi, một hoạt động thiện hay ác phải xét ở động cơ, mục đích, tính nhân văn, sự công bằng xã hội, hành vi ấy vì quyền lợi cá nhân của chủ thể hay vì người khác, vì lợi ích chung của xã hội. 2.2- Lương tâm và vô lương tâm Cảm xúc lương tâm là một trong những tình cảm xuất hiện sớm nhất. Nó xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người và xã hội loài người và chỉ mất đi khi con người không còn nữa, nó tồn tại vĩnh viễn trong đời sống xã hội (xấu hổ, hổ thẹn, tự hổ thẹn…). Trong lịch sử phát triển của tư tưởng Đạo đức học, đã tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về lương tâm và vô lương tâm. * Lương tâm - Triết học duy tâm cổ đại cho rằng lương tâm là tinh thần của Thượng đế nằm ngay trong bản chất tinh thần của con người, mách bảo con người nhận ra những việc làm đúng, sai của mình. - Triết học duy vật cổ đại cho rằng lương tâm chính là sự tự hổ thẹn, tức là sự hổ thẹn với bản thân mình, nhờ đó con người tránh được những suy nghĩ, những việc làm sai trái, thiếu đạo đức. - Theo quan điểm của Đạo đức học Mác-xít thì: “lương tâm là một phạm trù đạo đức học thể hiện năng lực của con người, tự kiểm tra, tự đánh giá hành vi đạo đức của mình trong mối quan hệ với người khác và với xã hội”. Lương tâm có giá trị định hướng cho kiểm tra đánh giá hoạt động của con người về mặt nghĩa vụ xã hội và khả năng tự hoàn thiện nhân cách của mình. Lương tâm không phải là một giá trị đạo đức bẩm sinh di truyền mà là sản phẩm của điều kiện kinh tế xã hội và quá trình giáo dục của xã hội và rèn luyện của bản thân..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> Lương tâm của chúng ta ngày nay là đấu tranh cho một xã hội công bằng, hoà bình và hữu nghị, chống chiến tranh và mưu cầu hạnh phúc cho loài người, cho dân tộc và cho mỗi con người. Lương tâm của con người Việt Nam hiện nay là suy nghĩ và hành động vì mục tiêu CNH, HĐH nhằm thực hiện “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” * Trách nhiệm Là một thái độ của chủ thể đối với các nhiệm vụ của một công dân phải đảm nhận (học tập, lao động, nghề nghiêp,,,), đối với mọi người (gia đình, cộng đồng, dân tộc..) và đối với môi trường sống của con người. Lương tâm và trách nhiệm có mối quan hệ mật thiết với nhau: + Lương tâm có tác dụng khích lệ những suy nghĩ, hành vi đạo đức có trách nhiệm của mỗi cá nhân, đồng thời răn đe, góp phần ngăn chặn những ý nghĩ và hành động thiếu trách nhiệm. + Lương tâm giúp chủ thể hành động thường xuyên kiểm tra, đánh giá hiệu quả của hành động so với nghĩa vụ công dân. * Vô lương tâm Là những biểu hiện ngược với lương tâm. Người vô lương tâm là người không cảm thấy băn khoăn, ân hận, xót xa, không xấu hổ với chính bản thân về những việc làm sai trái của mình. Những người vô lương tâm thường có biểu hiên không suy nghĩ khi hành động, không có khả năng kiểm soát hành vi, không phân biệt được đúng sai, tốt xấu, thiện ác một cách rõ ràng. Ví dụ: Kẻ giết người dã man vẫn ăn ngũ bình thường như chẳng có gì xảy ra Vô lương tâm thường phản ánh sự vô trách nhiệm. Người vô lương tâm là người thiếu ý thức, trách nhiệm với bản thân, với mọi người, với công việc, sống dựa dẫm vào người khác, thiếu hoài bão, thiếu ý chí… nhưng lại hay đòi hỏi, đua đòi, muốn hưởng thụ hơn là cống hiến. Tóm lại, lương tâm và vô lương tâm là một cặp phạm trù trái ngược. Mong muốn và hy vọng của xã hội là giáo dục và rèn luyện để mọi người có lương tâm, bằng lương tâm trong sáng để điều chỉnh suy nghĩ, hành vi của mỗi người. 2.3- Hạnh phúc và bất hạnh Hạnh phúc và bất hạnh có rất nhiều quan niệm khác nhau ở mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi giai tầng xã hội, mỗi lứa tuổi, mỗi dân tộc… Như vậy, hạnh phúc và bất hạnh là quan niệm phụ thuộc vào nhận thức, vị thế của mỗi người trong xã hội và cũng bị chế ước bởi những điều kiện KT-XH, vào trình độ nhận thức XH, phẩm chất nhân cách, đặc điểm tâm lý của mỗi người. * Hạnh phúc - Các nhà triết học cổ đại chịu ảnh hưởng của tôn giáo cho rằng: hạnh phúc hay bất hạnh là do số phận (kể cả triết học TQ) - Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng hạnh phúc là cái gì đó không có ở trần gian, hạnh phúc chỉ có ở thế giới bên kia (Thiên đàng, Niết bàn, kiếp sau..) - Theo quan điểm của CNXH khoa học thì: + “Hạnh phúc lơn nhất của con người là đấu tranh với sự bất công, giải phóng quần chúng nghèo khổ khỏi sự áp bức bóc lột” (C.Mác). + Hạnh phúc gắn liền với sự thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu, mong muốn chân chính của cá nhân tạo ra xúc cảm, tình cảm sung sướng, hài lòng, lành mạnh về tinh thần hay vật chất..
<span class='text_page_counter'>(14)</span> Từ đó, ta nhận thấy, hạnh phúc có những đặc trưng sau: + Hạnh phúc của mọi người là ở chỗ đem trí tuệ, sức lực của mình phục vụ cho xã hội, cống hiến cho mọi người,làm cho xã hội tiến bộ hơn và mọi người sống tốt đẹp hơn. + Hạnh phúc lớn nhất và là bản chất nổi trội của con người là lao động, nhưng không phải là thứ lao động khổ sai, lao động bắt buộc, mà là lao động với nhận thức đầy đủ ý nghĩa, giá trị của lao động tự giác, lao động sáng tạo. + Hạnh phúc không tự có, không phải từ trên trời rơi xuống… mà hạnh phúc chân chính, đích thực là một quá trình rèn luyện, học tập không ngừng, luôn đấu tranh với bản thân, giữa quyền lợi cá nhân với lợi ích dân tộc, giữa bảo thủ với tiến bộ, cái tốt với cái xấu, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài… * Bất hạnh - Bất hạnh là phạm trù đối lập với hạnh phúc, là không có hạnh phúc. - Bất hạnh là luôn thấy đau khổ, cô đơn, bị mọi người xa lánh vì không đem lại lợi ích cho mọi người, cho xã hội. - Người bất hạnh là người sống thiếu hoài bão, ước mơ, bàng quan trước niềm vui, nổi khổ của những người chung q uanh. - Nỗi bất hạnh lớn nhất của con gnười là chạy theo những ham muốn vật chất tầm thường, trước mắt, sống với những ích kỷ cá nhân, với những quan niệm lạc hậu, lỗi thời so với quan điểm chung của dân tộc và thời đại. Ví dụ: - Những kẻ lười lao động, nhưng lại làm giàu bằng thủ đoạn phi pháp.. Ngoài các cặp phạm trù trên, còn nhiều cặp phạm trù khác: Lẽ sống cá nhân và lý tưởng sống của dân tộc; Chính nghĩa và phi nghĩa; Tự do và tất yếu; Trách nhiệm và vô trách nhiệm.. ---o0o---. CHƯƠNG III. ĐẠO ĐỨC HỌC NGHIÊN CỨU BẢN CHẤT & CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI CỦA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ ---o0o---. I- NGHIÊN CỨU ĐẠO ĐỨC QUA TIẾP CẬN 4 NỀN VĂN MINH NHÂN LOẠI 1- Thời kỳ Cộng sản nguyên thuỷ. a- Đặc trưng cơ bản của con người và xã hội..
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Đây là thời kỳ đầu của xã hội loài người, tuy còn hết sức thô sơ về mọi mặt, nhưng con người và xã hội loài người đã có những biểu hiện khác hẳn mà không một sinh vật nào có. - Do biến đổi của tự nhiên, nhờ thích nghi với môi trường, con người biết đi thẳng, hai chi trước được giải phóng và trở thành phương tiện sử dụng công cụ lao động. Con người biết lao động, có tư duy, ngôn ngữ và XH loài người hình thành. - Thời kỳ này, con người chưa hoàn thiện về nhiều mặt: tư duy, ngôn ngữ, tay còn vụng về, kinh nghiệm sống còn ít nên con người còn lệ thuộc vào tự nhiên. Muốn tồn tại, con người phải dựa vào nhau để sống. - Văn hoá, xã hội còn mang nặng tính tự nhiên, giáo dục chỉ là truyền thụ kinh nghiệm trực tiếp mang tính bản năng, tự phát nhiều hơn. - Khoa học chưa ra đời, phân công lao động, tổ chức SX , XH tuy có ý thức nhưng tính bản năng, tự nhiên vẫn còn sâu sắc. b- Chuẩn mực đạo đức. - Tôn trọng những quy định của cộng đồng một cách tự giác. - Người trẻ, chưa có kinh nghiệm thì noi theo,làm theo, tuân theo người có tuổi, có kinh nghiệm một cách tự nguyện. - Sự công bằng là giá trị cao nhất, công bằng trong tìm kiếm thức ăn để sống, trong hưởng thụ theo chế độ bình quân nguyên thuỷ. - Tính người, tính nhân văn được hình thành. - Ở thời kỳ nguyên thuỷ không có pháp luật, những quy ước ứng xử là tiêu chí để duy trì trật tự xã hội. dư luân của công đồng và sự giám sát của mọi thành viên buộc mỗi thành viên phải tự giác tuân theo chuẩn mực đạo đức xã hội. Tóm lại, trong nền văn minh mông muội, con người chưa đủ khả năng nhận thức quy luật của tự nhiên nên phải dựa vào nhau để sống, những giá trị đạo đức sự nảy sinh là những chế ước của điều kiện kinh tế - xã hội lạc hậu. Cuộc sống kinh tế của con người hoàn toàn lệ thuộc vào tự nhiên, do tự nhiên ban phát. 2- Một số giá trị đạo đức tiêu biểu của nền văn minh nông nghiệp. Vào cuối thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, thông qua lao động, tổ chức xã hội… con người ngày càng hoàn thiện… Ngành trồng trọt, chăn nuôi ra đời, công cụ lao động bằng kim loại xuất hiện, chế độ quần hôn đã chuyển sang chế độ hôn nhân một vợ một chồng…. Những biến đổi đó là bước nhảy vọt của xã hội loài người và xã hội chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, mở đầu cho nền văn minh nông nghiệp. a- Đặc trưng cơ bản của con người và xã hội. - Con người phát triển hoàn thiện mọi mặt, đặc biệt là não và hệ thần kinh. - Về tâm lý, con người phát triển phong phú hơn về nội tâm, về tâm lý xã hội như:năng lực tư duy, trí nhớ, xúc cảm tình cảm, giao tiếp, ngôn ngữ… trở thành phương tiện biểu cảm tâm lý người, phương tiện giáo dục. - Các chuyên ngành khoa học lần lượt ra đời, là bước ngoặt đánh dấu sự phát triển trí tuệ của loài người. - Giáo dục trở thành hoạt động chuyên biệt, là nhân tố quyết định tốc độ truyền thụ kinh nghiệm của loài người, tốc độ phát triển xã hội tăng nhanh. - Năng xuất lao động xã hội tăng. Phương thức SX cơ bản của nền văn minh nông nghiệp là “con trâu đi trước cái cày đi sau”, công cụ lao động chủ bằng sắt. Những đặc điểm KT-XH, con người của nền văn minh nông nghiệp đã chế ước, chi phối quan hệ con người với con người và hình thành chuẩn mực đạo đức của nền văn minh nông nghiệp.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> b- Chuẩn mực, giá trị đạo đức. - Những chuẩn mực đạo đức quan trọng nhất của nền văn minh nông nghiệp là: cần cù, chịu khó, nhẫn nại, trung thành, tận tuỵ, nhân nghĩa, hiếu thảo, đức tin… - Bắt đầu có những chuẩn mực đạo đức riêng riêng cho các giai tầng trong xã hội. Giai cấp có quyền, có của đã sử dụng đạo đức, tôn giáo như là công cụ để thống trị tinh thần. 3- Một số giá trị đạo đức tiêu biểu của nền văn minh công nghiệp. a- Đặc trưng cơ bản của con người và xã hội. - Đặc trưng của nền SX trong văn minh công nghiệp (khởi đầu từ thể kỷ XVI, XVII) là cơ giới hoá, điện khí hoá trong SX công nghiệp, nông nghiệp và khai thác. Vào thế kỷ XIX, XX, sự ứng dụng khoa học kỷ thuật đã làm thay đổi không ngừng công nghệ SX, làm cho năng suất lao động tăng lên không ngừng. - Phương thức SX của nền văn minh công nghiệp đòi hỏi lực lượng LĐ có trình độ học vấn và kỷ năng lao động kỹ thuật nhất định. - Để đáp ứng yêu cầu đào tạo lực lượng lao động, mô hình giáo dục theo hệ thống trường lớp, hệ thống bài giảng ra đời. - Yêu cầu của con người ngày càng phong phú, đa dạng về mọi mặt (nhu cầu hưởng thụ, cống hiến, phát triển toàn diện…ngày càng tăng). - Con người là lực lượng, là nhân tố quyết định tốc độ phát triển của xã hội. Vai trò của giáo dục vô cùng quan trọng. Nhưng các nước TB phát triển lại không chú ý đến phát triển giáo dục đạo đức, mà chỉ quan tâm đến lợi nhuận. b- Chuẩn mực, giá trị đạo đức. Chuẩn mực, giá trị đạo đức của nền văn minh công nghiệp mới hơn so với nền văn minh nông nghiệp, đó là: coi trọng tri thức, tôn trọng pháp luật, tính kỷ luật trong lao động, coi trọng giá trị cá nhân, đề cao giá trị vật chất, sở hữu cá nhân, đòi hỏi sự bình đẳng, đề cao sự năng động, sáng tạo… 4- Một số giá trị đạo đức tiêu biểu của nền văn minh hậu công nghiệp. a- Đặc trưng cơ bản của con người và xã hội. - Tốc độ phát triển của KH-CN nhanh chưa từng có trong cả lĩnh vực SX và đời sống XH (chinh phục khoảng không vũ trụ, thông tin toàn cầu…). - Sự phát triển của KH-CN mới thúc đẩy SX phát triển, đòi hỏi con người phải không ngừng hoàn thiện. - Chất lượng con người được đặt ra với nội dung ngày càng phong phú (bao gồm nhiều mặt như: trí tuệ, phẩm chất nằng lực, trình độ…) của cả cộng đồng. - Trước đây, giáo dục được coi là yếu tố gián tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, thì ngày nay, giáo dục được coi là yếu tố trực tiếp giải phóng tiền năng con người, một lực lượng SX trực tiếp phát triển KT-XH bền vững (con người vừa là mực tiêu vừa là động lực của sự phát triển XH, giáo dục là đòn bẩy). b- Chuẩn mực, giá trị đạo đức. - Tất cả các quốc gia đã và ngày càng đầu tư vào giáo dục, coi giáo dục là LLSX trực tiếp, nhu cầu giáo dục phát triển con người toàn diện được đặt ra với mọi quốc gia (nếu như không muốn tụt hậu) - Trí lực, tâm lực, thể lực và các năng lực khác của con người được đặc biệt chú ý trong cuộc cách mạng giáo dục lần thứ II (Cuộc cách mạng giáo dục lần thứ nhất được tiến hành để phục vụ cho nền văn minh công nghiệp). Do vậy, giá trị đạo đức truyền thống của loài người và những giá trị nhân cách tương ứng với yêu cầu nền văn minh hậu công nghiệp được đặc biệt chú ý. II- ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI CHUNG VÀ ĐẠO ĐỨC RIÊNG.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> 1- Đạo đức xã hội chung. - “Đạo đức xã hội là hình thái ý thức xã hội , đso là những chuẩn mực chung của toàn bộ xã hội được hình thành, chế ước bởi những yếu tố kinh tế - xã hội, quan hệ sản xuất, quan hệ chính trị tiêu biểu cho một phương thức sản xuất trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, của mỗi dân tộc. Đạo đức xã hội phản ánh quan hệ xã hội chính thống đang tồn tại”. - Giai cấp nào đại diện cho lực lượng sản xuất đang tồn tại thì hệ tư tưởng, giá trị đạo đức của họ sẽ là giá trị đạo đức xã hôi chính thống. - Trong xã hội có giai cấp, giá trị đạo đức xã hội chưa chắc đã phải là những giá trị đạo đức tiêu biểu cho sự tiến bộ. - Trong xã hội có giai cấp bóc lột, đạo đức xã hội chính thống chưa chắc đã là những giá trị đạo đức tiến bộ, vì nó chỉ phục vụ cho số ít người đang thống trị xã hội, đặc biệt là khi xã hội ấy đã suy thoái. Vì vậy, giai cấp thống trị dùng mọi thủ đoạn, kết hợp với pháp quyền và thần quyền để duy trì các giá trị đạo đức lỗi thời để nhằm củng cố quyền thống trị. Ví dụ: - “Trung quân”, “Quân-Sư-Phụ”, “Tam tòng, tứ đức”… Như vậy, trong xã hội có giai cấp, có hai hệ thống giá trị đạo đức xã hội: + Những giá trị đạo đức chính thống phản ánh ý thức đạo đức xã hội tương ứng với một phương thức sản xuất đang tồn tại, quy định những giá trị đạo đức nhằm phục vu cho quyền lợi của giai cấp thống trị. + Xuất hiện ý thức xã hội tương ứng với một phương thức sản xuất mới bắt đầu hình thành trong lòng xã hội đang tồn tại. Những giá trị đạo đức mới đó thường tiêu biểu cho những ý thức đạo đức tiến bộ, có kế thừa, chọn lọc những giá trị của nhân loại, của dân tộc, của quá khứ… Tuy nhiên, ý thức đạo đức mới vừa hình thành đó chưa đủ điều kiện để trở thành đạo đức xã hội chính thống. 2- Đạo đức riêng của các giai tầng trong xã hội. Trong một thời kỳ lịch sử, với một phương thức sản xuất nhất định, mọi công dân đều bị chế ước, chi phối bởi hệ tư tưởng xã hội, bị ràng buộc với hệ thống giá trị đạo đức chính thống ở mức độ nhất định. Nhưng do xuất phát điểm khác nhau (vùng, miền, điều kiện, lứa tuổi…), mỗi cá nhân và cộng đồng có cùng hoàn cảnh sống nhưng có những chuẩn mực đạo đức riêng. Để phân biệt đặc điểm đạo đức, có thể căn cứ vào các cơ sở sau: - Căn cứ vào đặc điểm vùng, miền, dân tộc trong một quốc gia. - Căn cứ vào giai tầng trong xã hội. - Căn cứ vào đặc điểm của lĩnh vực sản xuất kinh tế và hoạt động xã hội. - Căn cứ vào đặc điểm của các tôn giáo. - Căn cứ vào giới, lứa tuổi. Mỗi cá nhân sống trong cộng đồng cụ thể nhất định thì trong xã hội vẫn bị chi phối bởi hệ thống giá trị đạo đức chung. Những sự khác biệt chỉ là những biểu hiện nổi trội cụ thể mà thôi. III- MỘT SỐ BIỂU HIỆN ĐẠO ĐỨC CHUNG QUA CÁC CHẾ ĐỘ XÃ HỘI Có con người và XH loài người thì xuất hiện hiện tượng đạo đức của cá nhân và cộng đồng, nó phản ánh quy luật khách quan giữa tồn tại XH và ý thức XH Cùng với sự phát triển của con người, ý thức đạo đức và đời sống đạo đức ngày càng trở nên đa dạng, phong phú và phức tạp. 1- Đạo đức và giá trị đạo đức dưới chế độ Cộng sản nguyên thuỷ..
<span class='text_page_counter'>(18)</span> Dưới chế độ cộng sản nguyên thuỷ, chưa có lý thuyết về đạo đức mà chỉ có cuộc sống đạo đức xã hội (do yêu cầu tất yếu của con người và xã hội loài người) a- Đặc điểm cơ bản của xã hội. - Con người hoàn toàn lệ thuộc vào tự nhiên, bất lực trước thiên nhiên, trình độ nhận thức kém, năng suất lao động thấp, chưa có của cải dư thừa. - Con người cấu kết với nhau để tồn tại, để phát triển. - Xã hội không có hiện tượng giàu nghèo, không có hiện tượng bóc lột. - Chưa có giai cấp, chưa có nhà nước, chưa có kẻ thống trị và người bị trị. - Quyền lực xã hội thuộc về quần chúng, những quy ước về ứng xử trong quan hệ xã hội chính là điều kiện để đảm bảo quyền lợi của cộng đồng. b- Chuẩn mực đạo đức, giá trị đạo đức. Những chuẩn mực đạo đức được thể hiện trong các mối quan hệ giữa con người với con người trong ba lĩnh vực chủ yếu: trong cuộc sống cộng đồng, trong lao động xã hội và trong lễ nghi tôn giáo. Các phẩm chất chủ yếu: - Tính trung thực, tự giác, biết nhường nhịn, chia sẻ và phải dựa vào nhau để tồn tại. - Bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, dũng cảm, kiên cường, đoàn kết… - Đi theo, làm theo, ăn theo … là qu luật khách quan của cuộc sống xã hội để hình thành các chuẩn mực đạo đức xã hội chung của chế CSNT. - Các chuẩn mực đạo đức qua giao lưu trực tiếp trong cuộc sống cộng đồng, trong lao động và trải qua nhiều năm tháng sẽ trở thành truyền thống, thành phong tục tập quán… và nó có sức mạnh, có khả năng như nguyên tắc, như kỷ luật ràng buộc các thành viên. Có thể nói, kiểu đạo đức trong xã hội CSNT là điển hình của vai trò đạo đức như là một điều kiện, một phương tiểm bảo đảm cho con người và xã hội loài người tồn tại và phát triển. 2- Đạo đức và giá trị đạo đức dưới chế độ Chiếm hữu nô lệ. Chế độ chiếm hữu nô lệ là nhà nước đầu tiên của xã hội loài người. Lich sử nhaâ loại gọi đay là thời kỳ cổ đại - Đại diện xho các nhà đạo đức học phương Tây cổ đại là: A-rít-xtốt, Xô-crát.. - Đại diện xho các nhà đạo đức học phương Đông cổ đại là: Khổng Tử. a- Đặc điểm cơ bản của xã hội. - Công cụ lao động bằng kim loại được sử dụng phổ biến, năng suất lao động tăng. - Xuất hiện các ngành sản xuất xã hội . - Các yếu tố trên tạo ra sự dư thừa của cải trong xã hội. - Xuất hiện hiện tượng trao đổi hàng hoá. Buôn bán, trao đổi đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển sản xuất xã hội. - Sự phân công lao động xã hội tự nhiên chuyển sang phân công lao động xã hội có ý thức dựa trên khả năng, điều kiện, vị thế của mỗi người. + Do cần điều hành hoạt động XH nên xuất hiện người quản lý, người lãnh đạo. Nhà nước ra đời. + Do cần có những quy định để cùng thực hiện nên xuất hiện các văn bản quy định, điều luật ra đời. + Xuất hiện những người lao động chuyên biệt: nhà khoa học, thầy giáo, thầy thuốc, những nhà quản lý… + Xã hội xuất hiện dần hai bộ phận: những người quản lý có quyền lực, có quyền lợi giữ vai trò thống trị xã hội (giai cấp chủ nô), còn đại bộ phận quần chúng lao.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> động, làm ra của cải vật chất cho xã hội và không có quyền lực nên trở thành tầng lớp bị thống trị (giai cấp nô lệ) b- Chuẩn mực đạo đức, giá trị đạo đức. - Đạo đức dưới chế độ chiếm hữu nô lệ mang tính giai cấp rõ ràng + Đạo đức đối với chủ nô là được toàn quyền sở hữu nô lệ như một công cụ biết nói. + Người nô lệ chỉ có chuẩn mực là ngoan ngoãn vâng lời, nhẫn nhục, chịu đựng, không được chống cự chủ nô. + Mọi giá trị đạo đức trong chế độ chiếm hữu nô lệ đựoc xây dựng chỉ trên một quan hệ: chủ nô và nô lệ. - Giai cấp thống trị sử dụng tôn giáo như là quan toà để củng cố, ổn định trật tự xã hội, quy định đạo đức cho giai cấp chủ nô-thống trị và nô lệ-bị trị. - Giai cấp thống trị luôn sử dụng những nhà nghiên cứu đạo đức để họ tuyên truyền, ủng hộ quan điểm đạo đức của giai cấp chủ nô. 3- Đạo đức và giá trị đạo đức dưới chế độ Phong kiến. a- Đặc điểm cơ bản của xã hội. - Dưới chế độ phong kiến, xã hội phân chia giai cấp dựa trên quyền sở hữu ruộng đất, người nông dân có tư liệu SX riêng (trâu, bò, cày, cuốc, cây, con giống). - Nông dân lĩnh canh ruộng đất của địa chủ, lãnh chúa và phải nộp tô trên mãnh đất được giao cho. - Lãnh chúa, địa chủ có thể giữ lại ruộng đất, thuê hoặc nuôi nông dân tại gia để lao động sản xuất. - Người nông dân đôi khi do mất mùa, không nộp đủ tô phải gán thêm sức lao động hoặc tiền cho chủ đất. Chế độ phong kiến cũng tạo ra sự thống nhất giữa đạo đức xã hội và những quy định của pháp luật đều nhằm phục vụ cho quyền lợi của lãnh chúa phong kiến. b- Chuẩn mực đạo đức, giá trị đạo đức. - Những quan hệ đạo đức, chuẩn mực đạo đức, quy định của pháp luật đều dựa trên quan hệ Quân - Sư - Phụ (vua-tôi, cha–con, chồng-vợ). - Những giá trị đạo đức quan trọng nhất là: + Trung thành với vua + Hiếu thảo với cha mẹ + Tôn trọng thầy giáo + Tận tuỵ với chủ, với quan lại địa phương. + Nhẫn nại, cần cù, chịu đựng, thật thà, vâng lời… Dưới chế độ PK, giai cấp thống trị sử dụng đạo đức như một phương tiện để củng cố các quan hệ xã hội. Các tiêu chí của đạo đức xã hội là phục tùng dựa trên quan hệ quân thần, vua tôi, coi đó như là định mệnh tự nhiên 4- Đạo đức và giá trị đạo đức dưới chế độ Tư bản. a- Đặc điểm cơ bản của xã hội. - Chủ nghĩa tư bản nảy sinh trong lòng chế độ phong kiến. Giai cấp tư sản tiến hành hàng loạt các cuộc cách mạng ở Hà Lan, Anh để khẳng định vị trí của mình trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. - Sự ra đời của CNTB đã xoá bỏ chế độ bóc lột phát canh thu tô của phong kiến, xoá bỏ hình thức kinh tế tự cung tự cấp. - CNTB phát triển SX công nghiệp, ứng dụng tiến bộ KHKT, mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước, các quy luật “cung cầu”, “quy luật sản xuất hàng hoá”, “cạnh tranh”, “tiền tệ”, “giá trị”… có điều kiện bộc lộ và phát triển với nền kinh tế TBCN..
<span class='text_page_counter'>(20)</span> b- Chuẩn mực đạo đức, giá trị đạo đức. - Nguyên tắc cơ bản của đạo đức tư sản là chủ nghĩa cá nhân; là lợi nhuận được thể hiện của giá trị đồng tiền. Đồng tiền là thước đo phẩm giá của con người. Đông tiền là lợi nhuận, là mục tiêu, là khát vọng cao nhất của cuộc đời. - Nguồn gốc của đạo đức tư sản là tư hữu cá nhân. Phẩm chất, nhân cách được đo bằng sự giàu nghèo. + Giai đoạn đầu của CNTB, giai cấp tư sản đưa ra và ca ngợi những giá trị đạo đức đối lập với đạo đức phong kiến và những quy định khắc khe của tôn giáo nên được quần chúng ủng hộ. Đó là: bình đẳng, bác ái, dân chủ, tự do cá nhân… chống lại lối sống khổ hạnh. + Nhưng khi giai cấp tư sản giành được chính quyền, thiết lập nhà nước thì tất cả những giá trị đạo đức đó chỉ là mơ ước của quần chúng do giai cấp tư sản đã đi ngược lại những gì họ đã hứa hẹn. - Về thực chất, đạo đức tư sản biện hộ cho sự bất công, bóc lột, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị và sẵn sàng đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân lao động. - Đối với người lao động, những giá trị đạo đức của họ là: cần cù, chịu khó, kiên trì, tiết kiệm, quý trọng sản phẩm lao động…, đoàn kết, chia sẽ, giúp đỡ lẫn nhau, đề cao tính kỷ luật… 5- Đạo đức và giá trị đạo đức của Chủ nghĩa xã hội. a- Đặc điểm cơ bản của xã hội. - Những điều kiện KT-XH, bộmáy nhà nước, pháp luật… là phương tiện bảo đảm cho các giá trị đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. (Do quyền lợi của nhân dân lao động, của dân tộc, của nhà nước là thống nhất). - Không có sự đối lập giữa hệ thống chuẩn mực đạo đức chính thống của xã hội và chuẩn mực đạo đức của quần chúng nhân dân lao động. b- Chuẩn mực đạo đức, giá trị đạo đức. - Đạo đức XHCN nảy sinh trong chế độ tư bản, đối lập với đạo đức của giai cấp tư sản thống trị. Đạo đức XHCN lên án sự bất công, bóc lột.. của XHTB. - Giai cấp công nhân ngày càng ý thức sâu sắc rằng chuẩn mực đạo đức của gia cấp công nhân, của quần chúng nhân dân lao động là đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi xiềng xích của giai cấp tư sản, thiết lập một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. - Lấy quyền lợi của xã hội, của giai cấp, của quần chúng, và của dân tộc… làm mục tiêu cho cuộc sống, lao động và hoạt động xã hội. Đó là sự khác biệt cơ bản giữa đạo đức vô sản với đạo đức tư sản. - Nguyên tắc quan trọng nhất của đạo đức XHCN là chỉ trong tập thể, xã hội XHCN con người mới có tự do, hạnh phúc thật sự, bình đẳng và phát triển đầy đử và toàn diện. - Những giá trị đạo đức cá nhân trong xã hội XHCN như: lòng tự trọng, tính trung thực, lòng vị tha, ý thức trách nhiệm, kỷ luật tự giác, tích cực sáng tạo, nói đị đôi với làm… ngày càng hoàn thiện. IV- MỘT SỐ BIỂU HIỆN ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY 1- Khái niệm đạo đức nghề nghiệp và ý nghĩa của nó. - Đạo đức nghề nghiệp là một hệ thống chuẩn mực đạo đức của người lao động trong một lĩnh vực sản xuất, hoạt động xã hội cụ thể. Nó thể hiện thái độ của họ đối với con người trong cùng lao động, với đối tượng lao động nghề nghiệp, đối với sản phẩm và vị trí của nghề nghiệp trong sự phát triển của XH. - Đạo đức nghề nghiệp có ý nghĩa sau:.
<span class='text_page_counter'>(21)</span> + Là thước đo phẩm chất, phản ánh năng lực, tạo ra năng lực bên trong điều chỉnh sự tự hoàn thiện của người lao động. + Có giá trị nâng cao hiệu quả, chất lượng lao động nghề nghiệp, góp phần phát triển KT-XH, xây dựng các quan hệ tốt đẹp của XH . + Làm phong phú thêm đạo đức chung của XH, thể hiện truyền thống đạo đức đa dạng, phong phú của dân tộc. + Phản ánh những đặc điểm tâm lý của dân tộc trong lao động. 2- Một số đạo đức nghề nghiệp hiện nay. a- Đạo đức nhà giáo. - Mẫu mực trong sinh hoạt, trong cuộc sống. - Giàu tri thức, trí tuệ, sáng tạo, trung thực. - Khoan dung, vị tha, hết lòng vì thế hệ trẻ. b- Đạo đức thầy thuốc. - Thương yêu, chăm sóc chu đáo con người như người mẹ hiền. - Thận trọng, tỉ mỉ, hạn chế tối đa sai sót trong chữa bệnh. - Trung thực và khéo léo đối xử với bệnh nhân. c- Đạo đức nhà lãnh đạo chính quyền. - Có trách nhiệm cao, biết hy sinh vì người khác. - Biết khổ trước thiên hạ, sướng sau thiên hạ. - Công bằng, dân chủ, tự trọng, tôn trọng mọi người. - Trung thực, lương thiện, sáng tạo, tháo vát. d- Đạo đức người điều hành pháp luật. - Công tâm, nhân ái, liêm khiết, trung thực - Thận trọng, khách quan, đúng pháp luật. - Không để xảy ra oan sai, không đúng người đúng tội. e- Đạo đức người nghiên cứu khoa học. - Trung thực, dũng cảm bảo vệ chân lý khách quan. - Có tinh thần cầu thị, khiêm tốn, đam mê khoa học, kiên trì nhẫn nại. f- Đạo đức trong kinh doanh, nhà doanh nghiệp. - Vì lý tưởng vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh - Có tinh thần tự cường dân tộc - Nhân nghĩa, yêu thương, tôn trọng mọi người - Trung thực, giữ chữ tín, trước sau như một. Tôn trọng và làm đúng theo pháp luật. - Năng động, sáng tạo, nhạy cảm, táo bạo, quyết đoán, biết chớp thời cơ. - - Biết hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. - Thông minh, có trí tuệ, hiểu biết sâu rộng những vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế trong nước và thế giới. g- Đạo đức của học sinh, sinh viên. - Khiêm tốn, tôn sư trọng đạo. - Trung thực, mạnh dạn, kiên trì vượt khó. - Có ước mơ vươn tới chân, thiện, mỹ. - Có ý thức và mong muốn cống hiến sức lực, trí tuệ cho đất nước. ---o0o--CÂU HỎI THẢO LUẬN 1- Cơ sở, nguyên tắc phân loại đạo đức xa hôi chung và riêng của các lĩnh vực hoạt động xã hội..
<span class='text_page_counter'>(22)</span> 2- Sự giống nhau và khác nhau về chuẩn mực đạo đức của các chế độ xã hội (công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản, XHCN) 3- Xác định hệ thống giá trị đạo đức nghề nghiệp đang hoạt động trong thời kỳ CNH, HĐH. (Cho ví dụ minh hoạ). 4- Cho một ví dụ thực tế về hiện tượng đạo đức. Phân tích biểu hiện đạo đức và nguyên nhân dẫn tới hiện tượng đó. 5- Phân tích câu nói của Hồ Chủ tịch: “Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức thì không giúp ích gì cho ai cả”. ________________________________________________________________________ CHƯƠNG IV. ĐẠO ĐỨC HỌC NGHIÊN CỨU ĐẠO ĐỨC CÁ NHÂN ---o0o---. I- CƠ SỞ XÁC ĐỊNH CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁ NHÂN 1- Khái niệm đạo đức cá nhân. Đạo đức cá nhân là một hệ thống chuẩn mực đạo đức được mỗi cá nhân lựa chon, xác lập theo nguyện vọng, mong muốn của mình. Đạo đức cá nhân là sự tổng hợp chuẩn mực đạo đức của một nhóm xã hội, của cộng đồng, dân tộc và nguyện vọng riêng về các giá trị phù hợp với quyền lợi của cá nhân. - Trên thực tế, không có đạo đức cá nhân thuần tuý mà là giao thoa của nhiều chuẩn mực đạo đức, một phần bị chế ước bởi những giá trị đạo đức của dân tộc, của thời đại, của cộng đồng, của nhóm, cộng đồng xã hội mà họ thường xuyên giao lưu. - Vì con người là một thực thể có ý thức nên có cuộc sống riêng, có những mong muốn riêng, nhu cầu riêng mà khi hoạt động giao lưu, mỗi người lựa chọn sự tác động của xã hội theo cách riêng và tạo nên bộ mặt nhân cách của mình. Ví dụ: - Trong cùng một lớp nhưng mỗi thành viên có tính cách khác nhau. - Trong cùng gia đình, mỗi người con lại có những tính cách khác nhau - Đạo đức cá nhân phản ánh hiệu quả năng lực hoạt động, rèn luyện của mỗi cá nhân. Chính cái riêng “mỗi người mỗi vẻ” đã tạo nên sự phong phú, đa dạng của đời sống xã hội. - Nhờ năng lực tiếp thu, kế thừa, chắc lọc qua cá tính, sở thích, nguyện vọng, quyền lợi nên mỗi cá nhân hướng vào những giá trị mà họ cho là có giá trị trội hơn và tạo ra cái riêng của nhân cách. 2- Cơ sở hình thành đạo đức cá nhân. 2.1- Ảnh hưởng của gia đình từ thuở ấu thơ - Con người luôn chịu ảnh hưởng, tiếp thu, kế thừa những chuẩn mực đạo đức, lối sống của các thế hệ trong gia đình. - Trẻ em trong gia đình ngay từ nhỏ đã bắt chước người lớn một cách tự nhiên về mọi mặt, từ hành vi đến cử chỉ, cách nói năng đến việc tổ chức cuộc sống - Đa số gia đình đã quan tâm giáo dục con cái với mong muốn “con hơn cha thì nhà có phúc”, họ luôn sống mẫu mực, nêu gương trước con cái, thương yêu hết mực khưng không nuông chiều quá đáng..
<span class='text_page_counter'>(23)</span> - Gia đình càng hoà thuận, càng hạnh phúc, tiến bộ, hoà nhâph với cộng đồng thì con cái càng tiến bộ và hạnh phúc. Những đứa trẻ sinh ra trong môi trường như vậy sẽ có nhân cách phát triển tốt. Kết quả nghiên thực tế cho thấy, gia đình là môi trường đầu tiên và có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành, phát triển nhân cách nhất là ở tuổi ấu thơ và niên thiếu. Đa số trẻ em (và cả người lớn) có hành vi phạm pháp đều có một phần nguyên nhân từ môi trường gia đình không thuận lợi cho sự phát triển nhân cách. 2.2- Ảnh hưởng của hàng xóm, họ hàng Hàng xóm láng giềng, họ hàng là một cộng đồng xã hội có quan hệ trực tiếp, gần gũi, thường xuyên trong giao lưu về tình cảm, về kinh tế và các hoạt động văn hoá xã hội khác. - Quan hệ hàng xóm láng giềng, họ hàng có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển nhân cách của con người nói chung và thế hệ trẻ nói riêng. - Ở Việt Nam và các nước đã trải qua nền văn minh nông nghiệp, quan hệ xã hội đầu tiên và có ý nghĩa về mọi mặt chính là quan hệ hàng xóm, láng giềng. - Ngày nay, trong quá trình đô thị hoá, qua hệ hàng xóm láng giềng tuy vẫn còn giữ được những truyền thống nhân ái nhưng đã bị cơ chế thị trường tác động. Những giá trị truyền thống và thực trạng biểu hiện đạo đức của một số những người xung quanh đang có những mâu thuẩn không nhỏ và đặt thế hệ trẻ vào sự lựa chọn vô cùng khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hình thành đạo đức cá nhân. 2.3- Ảnh hưởng của nhà trường - Giáo dục nhà trường là môi trường giáo dục đặc biệt nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục con người, đào tạo nguồn nhân lực của một thời kỳ lịch sử nhất định. - Giáo dục nhà trường được tổ chức một cách hệ thống theo một quy trình có mục tiêu, nội dung, phương thức tổ chức với những quy định chặt chẽ cả về thời lượng và những điều kiện trang thiết bị cần thiết. - Mục tiêu của giáo dục của nhà trường XHCN là đào tạo con người phát triển toàn diện, góp phần định hướng cho sự phát triển nhân cách, cho sự lựa chọn những giá trị đạo đức cá nhân, định hướng giáo dục gia đình và hoạt động giáo dục của các tổ chức xã hội. - Việc lựa chọn các giá trị đạo đức cần giáo dục cho học sinh trong nhà trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ. Tuy nhiên, hiệu quả tiếp thu các giá trị đó còn tuỳ thuộc vào sự chấp nhận, vào nhu cầu của mỗi cá nhân và tác động của các yếu tố khác như gia đình, xã hội. Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của cuộc sống đạo đức xã hội có thể góp phần tăng thêm hiệu quả và cũng có thể triệt tiêu hiệu quả giáo dục của nhà trường - Ở Việt Nam hiện nay, giáo dục nhà trường có ý nghĩa định hướng cho sự lựa chọn giá trị đạo đức cá nhân quan trọng hơn bao giờ hết vì trong xã hội đang tồn tại những giá trị đạo đức đối lập nhau Những giá trị đạo đức cũ cần có nội dung mới và cần có những giá trị đạo đức mới phù hợp với yêu cầu của một xã hội hiện đại, văn minh. Trong bối cảnh đó, vai trò định hướng của nhà trường sẽ tăng thêm hiệu quả, tạo ra sự thống nhất giữa các cá nhân. 2.4- Ảnh hưởng của sự hội nhập, mở cửa trong thời đại ngày nay. Mở cửa hội nhập là mở rộng giao lưu, trao đổi về mọi mặt đối với các quốc gia, dân tộc trên thế giới và khu vực để trao đổi kinh nghiệm, học tập mọi mặt để góp phần giải quyết những mâu thuẫn, những thách thức của thời đại để cùng phát triển với các dân tộc khác trên thế giới. Mở cửa hội nhập là một quy luật, là xu thế phát triển của thời đại vì loài người đang bước vào nền văn minh hậu công nghiệp, đang phát triển KT tri thức..
<span class='text_page_counter'>(24)</span> Trong quá trình mở cửa hội nhập, mỗi quốc gia tiếp thu và chịu ảnh hưởng rất nhiều mặt tích cực của các quốc gia, dân tộc khác, nhưng đồng thời cũng chịu những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường, chịu ảnh hưởng của lối sống không phù hợp với tiến bộ xã hội. Việt Nam là một nước đang phát triển, Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở cửa, hội nhập là phù hợp với xu thế của thời đại nhưng Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: hội nhập chứ không hoà tan, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹư lãnh thổ và xây dựng đất nước theo định hướng XHCN, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Và trong quá trình đó, chúng ta không thể tránh khỏi ảnh hưởng tiêu cực . Đó không chỉ là sự ngẫu nhiên mà còn là âm mưu của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Vì vậy, trong điều kiện mở cửa, hội nhập, việc định hướng cho sự lựa chọn chuẩn mực đạo đức, lối sống các nhân là vô cùng quan trọng đối với thế hệ trẻ. Để có định hướng cho sự lựa chọn các giá trị đạo đức cá nhân phù hợp với yêu cầu xã hội, cần có một tổ chức chỉ đạo thống nhất nhằm xã hội hoá quá trình giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo đức cần thực hiện theo một kế hoạch tổng thể, thông qua nhiều con đường, huy động nhiều nguồn lực xã hội, nhiều phương tiện, hình thức, biện pháp… để phát huy tối đa mặt tích cực và hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực đến sự lựa chọn, hình thành những chuẩn mực đạo đức cá nhân. II- MỘT SỐ HÀNH VI ĐẠO ĐỨC CÁ NHÂN HÌNH THÀNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - Khi xác định hành vi cá nhân, bao giờ chúng ta cũng so sánh với hệ thống giá trị đạo đức xã hội để xem xét tính thống nhất và sự khác nhau giữa đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội. - Có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau đề xác định hành vi đạo đức cá nhân và cho chúng ta hệ thống hành vi đạo đức khác nhau. Có thể tóm tắt một số cách tiếp cận sau: + Tiếp cận nội dung hoạt động của con người. + Tiếp cận ở góc độ môi trường sống. + Tiếp cận dưới góc độ coi con người là chủ thể của các quan hệ đa dạng và phức tạp. Với các cách tiếp cận đó, các nhà nghiên cứu đã xác định con người là chủ thể của 5 quan hệ 1- Những giá trị thể hiện quan hệ với chính bản thân. Cuộc đấu tranh với chính bản thân là quan hệ hoạt động phức tạp, khó khăn nhất, vì đó là quan hệ trừu tượng, đối tượng vô hình, ẩn náu ngay trong mỗi con người. Những chuẩn mực thuộc “nhóm hướng vào sự tự hoàn thiện bản thân” gồm các chuẩn mực sau: - Tự trọng, tự tin (tin vào bản thân, tin vào khả năng của bản thân, tin vào sự phát triển của đất nước). - Tự lập (không ỷ lại vào người khác), giản dị, tiết kiệm, trung thực (không lừa dối người khác và chính lương tâm), siêng năng, hướng thiện, biết kềm chế, biết hối hận Trong những giá trị trên thì tự trọng là giá trị chủ yếu. Những giá trị đạo đức hướng vào tự hoàn thiện nhân cách bản thân góp phần tạo khả năng tự điều chỉnh quá trình hoạt động của cá nhân vì nó không bị sự điều khiển từ bên ngoài. 2- Những giá trị thể hiện quan hệ với người khác. Là hệ thống chuẩn mực đạo đức của chủ thể (của mỗi cá nhân) đối với mọi người ở mọi lúc, mọi nơi (từ gia đình, công đồng… đến các dân tộc khác) đối với quá khứ, hiện tại và tương lai..
<span class='text_page_counter'>(25)</span> Nhóm những chuẩn mực đạo đức thể hiện quan hệ với mọi người và dân tộc khác đó là: - Nhân nghĩa mà cụ thể là biết ơn (tổ tiên, cha mẹ, thầy cô, người có công…) - Kính trọng những người sinh thành, nuôi dưỡng, gíup đỡ. - Yêu thương, khoan dung, vị tha, hợp tác (đồng cảm, chia sẽ, đoàn kết.. - Bình đẳng, lễ độ, lịch sự tế nhị, tôn trọng mọi người, thuỷ chung, giữ chữ tín Trong những chuẩn mực trên, nhân nghĩa là quan trọng nhất vì - Đó là chuẩn giá trị cơ bản giải quyết các mâu thuẫn trong xã hội. - Nhân nghĩa cùng với tự trọng tạo ra động cơ hành động hợp lý, hướng tới các giá trị tốt đẹp khác, vươn tới cái thiện, chống lại cái ác. 3- Nhóm chuẩn mực đạo đức giúp mỗi cá nhân giải quyết tốt công việc. Đây là nhóm những giá trị đạo đức phản ánh ý thức trách nhiệm, hành động của con người trong công việc với tư cách là thành viên của một cộng đồng xã hội. Nói cách khác, đây là những giá trị cơ bản giúp mỗi cá nhân điều chỉnh suy nghĩ, hành động, nâng cao ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ đối với những công việc được giao. Những chuẩn mực đạo đức đối với công việc là tiêu chí giúp mỗi cá nhân và mọi người đánh giá hành vi tốt, xấu, đánh giá chất lượng và hiệu quả công việc. Nhóm những chuẩn mực đạo đức của mỗi cá nhân đối với công việc là: - Trách nhiệm cao, có lương tâm. - Tôn trọng pháp luật, tôn trọng lẽ phải. - Dũng cảm, liêm khiết. Những giá trị đạo đức này thể hiện nhận thức thái độ là động lực giúp cá nhân hoàn thiện nhân cách, nâng cao hiệu quả hoạt động học tập, lao động và hoạt động xã hội. 4- Nhóm chuẩn mực đạo đức liên quan đến môi trường sống. Nhóm chuẩn mực đạo đức liên quan đến xây dựng môi trường sống (môi trường tự nhiên, văn hoá xã hội…) là: - Xây dựng gia đình hạnh phúc. - Giữ gìn và bảo vệ tài nguyên, môi trường tự nhiên. - Xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh… - Có ý thức bảo vệ hoà bình, bảo vệ và phát huy truyền thống, di sản văn hoá của dân tộc và nhân loại. Trong nhóm chuẩn mực đạo đức liên quan đến xây dựng môi trường sống, gia đình là môi trường đầu tiên và quan trọng đối với mỗi cá nhân. Vì vậy, thái độ, hành vi cụ thể xây dựng gia đình thành một môi trường sống lành mạnh, có văn hoá, thành một tập thể lao động, quan hệ xã hội tốt đẹp là một giá trị đạo đức của con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH 5- Nhóm chuẩn mực đạo đức thể hiện nhận thức tư tưởng chính trị của cá nhân. Chuẩn mực đạo đức cao nhất của mỗi cá nhân phải thể hiện ở lẽ sống, lý tưởng sống. Mỗi người sống, lao động không chỉ vì lợi ích cá nhân mà phải sống. làm việc vì người khác, vì sự phồn vinh của dân tộc của dân tộc. Lẽ sống của mỗi cá nhân ngày nay là: - Yêu nước, yêu quê hương. - Có lý tưởng XHCN, thực hiện CNH, HĐH. - Tự cường và tự hào dân tộc chính đáng. - Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực góp phần thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước..
<span class='text_page_counter'>(26)</span> Đạo đức cao nhất của mỗi con người Việt Nam là sống, làm việc, rèn luyện, không ngừng góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, trước mắt là thực hiện thắng lợi mục tiêu CNH, HĐH đất nước, thực hiện bảo vệ ĐLDT và CNXH. Tóm lại, việc xác định đạo đức cá nhân theo 5 nhóm chuẩn mực trên đây là đòi hỏi khách quan của quá trình xây dựng con người mới XHCN Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH đất nước, có liên quan mật thiết với nhau và tạo ra bộ mặt nhân cách của mỗi cá nhân. III- MỘT SỐ NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC Cơ sở xác định hệ thống giá trị đạo đức của mỗi nhóm người, cộng đồng, dân tộc, mỗi nước trong từng thời kỳ lịch sử sẽ có những nội dung, định hướng khác nhau. Giá trị đạo đức của mỗi thời kỳ lịch sử xuất phát từ những yêu cầu khách quan của sự phất triển xã hội, góp phần phát triển nhân cách, phát triển con người, mối quan hệ giữa con người với con người, với tự nhiên, môi trường sống… Hệ thống giá trị đạo đức của con người mới Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH phải dựa trên những nguyên tắc sau: 1- Kế thừa, phát triển những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc. (Đây là nguyên tắc đầu tiên và quan trọng) - Đạo đức truyền thống là sức mạnh nội sinh của mỗi người. - Phải biết kế thừa truyền thống tốt đẹp và thổi vào đó nội dung mới phù hợp. - Giáo dục truyền thống dân tộc phải xuyên suốt trong các môn học, trong các hoạt động của nhà trường và xã hội. 2- Tiếp thu những chuẩn mực đạo đức nhân văn và kinh nghiệm của thời đại một cách có chọn lọc. - Trong thời đại hội nhập, để tồn tại và phát triển, cần tiếp thu những giá trị đạo đức nhân văn chung của nhân loại. - Đảng và Nhà nước đã thực hiện chính sách mở cửa. phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Điều đó có liên quan đến những giá trị kinh tế, văn hoá của thời đại. - Tiếp thu những giá trị đạo đức chung của thời đại là điều kiện để con người Việt Nam có khả năng hội nhập, năng động, sáng tạo trong sự phát triển kinh tế xã hội. 3- Coi trọng và kết hợp chuẩn mực đạo đức với tri thức pháp luật, giáo dục đạo đức với giáo dục pháp luật. - Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền. Việc trang bị kiến thức và ý thức chấp hành pháp luật là đòi hỏi bức xúc hiện nay. - Cần nhận thức đầy đủ mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, đạo đức là cái gốc, có tác dụng điều chỉnh hành vi pháp luật của mỗi cá nhân - hành vi đạo đức được điều chỉnh bằng dư luận xã hội, bằng truyền thống, còn hành vi pháp luật được điều tiết bằng cơ chế quản lý và giám sát của các cơ quan chức năng. 4- Giáo dục đạo đức là một công việc của toàn xã hội, song giáo dục ở nhà trường giữ vai trò định hướng, là môi trường, phương tiện giáo dục thường xuyên. Quá trình hình thành và phát triển nhân cách nói chung và phát triển các phẩm chất đạo đức, tư tưởng, chính trị nói riêng luôn bị chế ước bởi những điều kiện khách quan (bên ngoài) và chủ quan (bên trong) tác động. - Những yếu tố bên trong của chủ thể gồm: phẩm chất tri lực, tâm lực, thể lực, là hệ thống tri thức, kỹ năng, năng lực hoạt động tích cực của cá nhân… là nhân tố quyết định của cá nhân trong sự lựa chọn, giải quyết mâu thuẫn..
<span class='text_page_counter'>(27)</span> - Những yếu tố bên ngoài gồm: nhà trường, cộng đồng, xã hội… Cần có môi trường giáo dục, văn hoá thuận lợi cho giáo dục, trong đó từ gia đình, cộng đồng, nhà trường cần thực hiên tốt việc định hướng giá trị của xã hội chúng ta. 5- Giáo dục đạo đức là một quá trình kết hợp nâng cao nhận thức với thái độ, xúc cảm, tình cảm, niềm tin và hành vi, thói quen đạo đức. - Dạy học ở trường chủ yếu là cung cấp kiến thức mà chưa có biên pháp thoả đáng để rèn luyện phẩm chất đạo đức cá nhân. Từ đó dẫn đến tình trạng nhiều người nói nhiều, làm ít, lời nói không đi đôi với việc làm. - Do vậy, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đinh và xã hội trong việc bồi dưỡng tình cảm đạo đức và rèn luyện hành vi đạo đức cá nhân. 6- Đối tượng giáo dục đạo đức là tất cả mọi người, từ lúc lọt lòng đến lúc quan đời, trước hết là người lớn, chủ yếu là thế hệ trẻ học đường. - Đối tượng giáo dục không chỉ là giới trẻ mà bao gồm tất cả mọi người. - Giáo dục đạo đức cho người khác nhưng đồng thời cũng phải tự giáo dục đạo đức cho mình. - Trước hết, người lớn vừa là đối tượng vừa là chủ thể của quá trình giáo dục đạo đức, sau đó mới đến thế hệ trẻ. 7- Giáo dục đạo đức cần thông qua các loại hình hoạt động đa dạng của cuộc sống xã hội. - Giáo dục đạo đức không chỉ bằng thuyết giáo qua những bài giảng trên lớp mà cần thông qua các hoạt động, giao lưu của con người với con người, với môi trường, với xã hội… - Các loại hình hoạt động vừa là môi trường, vừa là phương thức rèn luyện, đánh giá, kiển tra quá trình rèn luyện đạo đức của mỗi người. ---o0o--CÂU HỎI THẢO LUẬN 1- Phân tích vai trò và mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành các chuẩn mực đạo đức cá nhân trong giai đoạn hiện nay. 2- Phân tích vai trò và mối quan hệ giữa các nguyên tắc xác định chuẩn mực đạo đức và giáo dục đạo đức cho con người Việt Nam hiện nay. Nguyên tắc nào là cơ bản nhất ? Vì Sao ?. 3- Phân tích mối quan hệ giữa đạo đức cá nhân và những giá trị đạo đức xã hội trong giai đoạn thự hiện CNH, HĐH đất nước. 4- Hãy cho một ví dụ (tốt hoặc xấu) phân tích và chứng minh: Nếu thống nhất hoặc không thống nhất giữa đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân sẽ ảnh hưởng đến sự hoàn thiện nhân cách và xây dựng quan hệ xã hội của cá nhân/ 5- Đối chiếu với hệ thống giá trị đạo đức xã hội trong giai đoạ hiện nay, hãy xưem xét sự lựa chon của cá nhân có chuẩn mực đạo đức nào chưa phù hợp và đè xuất cách rèn luyện ?.
<span class='text_page_counter'>(28)</span> CHƯƠNG V. ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC ---o0o---. I- KHÁI NIỆM 1- Truyền thống là gì ? Truyền thống là những giá trị tinh thần của con người được hình thành trong hoạt động, quan ứng xử và được truyền từ thế hệi này sang thế hệ khác, được mọi người nhận thức, thừa nhận, tự giác thực hiện và tự điều chỉnh nhờ dư luận của cộng đồng, xã hội. 2- Truyền thống dân tộc Mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng xã hội dù muốn hay không, dù có ý thức hay không trong quá trình tồn tại và phát triển cũng hình thành truyền thống và được truyền từ đời này sang đời khác. 3- Đặc trưng cơ bản của truyền thống 3.1- Đặc trưng thứ nhất - Đó là những giá trị tinh thần, tư tưởng, tâm lý như: lòng yêu nước, tính cần cù, óc sáng tạo, trọng nhân nghĩa, kính thầy, ham học… là những giá trị tinh thần tốt đẹp, có tác dụng củng cố, phát triển quan hệ xã hội, hoàn thiện nhân cách. - Những phong tục, tập quán, những thói quen không phù hợp với sự phát triển xã hội thì không coi là truyền thống (ví dụ như: ăn trầu, cà răng căng tai…).
<span class='text_page_counter'>(29)</span> 3.2- Đặc trưng thứ hai - Được hình thành một cách tự nhiên (đôi khi được hình thành có ý định), trải qua một thời gian nhất định của cuộc sống, hoạt động thực tế. Ví dụ: Truyền thống yêu nước, cần cù trong lao động… - Chúng ta phải có ý thức xây dựng những truyền thống mới, phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện đại. Ví dụ: - Tính kỷ luật trong lao động, tôn trọng pháp luật, văn minh lịch sự… 3.3- Đặc trưng thứ ba - Được nhiều người thừa nhận, được mọi người thực hiện như yêu cầu tất yếu, không cần sự giám sát của pháp luật. Cần chú ý hiện tượng “phép vua thua lệ làng” + Vê mặt nào đó, đó là sự coi thường kỷ cương phép nước của một số người, của một bộ phận cộng đồng tự đặt ra những quy định trái với pháp luật. + Mặt khác, nó lại có ý nghĩa phản ánh sức mạnh của dư luận cộng luận cộng đồng trong việc giám sát, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân lhi thực hiện những quy ước của làng xã. 4- Hai yêu cầu cơ bản trong việc giáo dục truyền thống 4.1- Yêu cầu thứ nhất Xác định hệ thống giá trị truyền thống tốt đẹp cần duy trì, phát triển; xây dựng truyền thống mới phù hợp với yêu cầu của sự phát triển xã hội. Những truyền thống mới của người Việt Nam hiện đại cần xây dựng như: + Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật + Việc học phải thường xuyên, học suốt đời …. Nội dung: - Việc xác định những truyền thống, phát triển nội dung và xây dựng truyền thống mới để giáo dục cho các thế hệ sau là việc làm rất cần thiết vì chỉ có nhận thức được việc duy trì những truyền thống thì mọi người mới tự giác thực hiện, phát triển những truyền thống. - Hiện nay, việc giáo dục truyền thống cần được coi trọng và được thực hiện một cách hệ thống ở gia đình, nhà trường và xã hội vì chúng ta đang ở giao thoa của các nền văn minh, mở cửa hội nhập, chịu nhiều ảnh hưởng tốt xấu lẫn lộn. 4.2- Yêu cầu thứ hai Sử dụng truyền thống như là một phương pháp giáo dục - Qua các hình thức hoạt động giáo dục, các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tạo ra dư luận xã hội lành mạnh, ủng hộ các hnàh vi đạo đức tốt, lên án mạnh mẽ những hành vi đạo đức đi ngược lại truyền thống văn hoá đạo đức tốt đẹp của dân tộc. - Ý nghĩa, tác dụng của giáo dục truyền thống phụ thuộc vào cả hai yếu tố: + Xác định nội dung tuyền thống nói chung và tuyên truyền giáo dục nói riêng cho mọi người + Chú ý tới việc xây dựng dư luận cộng đồng, bằng dư luận, qua dư luận có thể điều chỉnh hành vi của những người thiếu khả năng tự điều chỉnh, tạo ra sự thống nhất trong cuộc sống toàn xã hội hướng tới cái chân, thiện, mỹ. Nội dung: - Việc xây dựng, duy trì dư luận trước hết phụ thuộc vào sự quan tâm của tổ chức quản lý giáo dục, quản lý xã hội các cấp và vào các bậc ông bà, cha mẹ và các thế hệ lớn tuổi. - Trong các loại truyền thống cần duy trì, phát huy thì truyền thống nhân nghĩa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Truyền thống nhân nghĩa được thể hiệnhàng ngày trong quan.
<span class='text_page_counter'>(30)</span> hệ xã hội, ở mọi môi trường sống, vì vây nó có ý nghĩa, ảnh hưởng đến việc điều chỉnh hành vi của mọi người, trành được tính ích kỷ, có khả năng hiểu và phát huy được các giá trị truyền thống. - Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ là một quá trình phụ thuộc vào trình độ nhân jthức, đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của các em, do vậy, phải bảo đảm tính liên tục, vừa sức và các thế hệ người lớn tuổi phải là người sống mẫu mực. Ví dụ: - Học sinh phổ thông có hành động yêu nước khác sinh viên đại học. - Giáo dục truyền thống còn là xây dựng những tấm gương điển hình về việc duy trì và phát huy truyền thống của mỗi địa phương hay tập thể xã hội. Giáo dục đạo đức cho thế hệ sinh viên nói riêng và cho con người Việt Nam nói chung trong sự nghiệp đổi mới hiện nay là một yêu cầu của giáo dục truyền thống và ngược lại, giáo dục truyền thống là một nội dung của giáo dục đạo đức II- NHỮNG TRUYỀN THỐNG ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC Dân tộc Việt Nam có nhiều truyền thống thể hiện đầy đủ quan hệ của con người với con người, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó mà dân tộc ta từ thế hệ này nối tiếp thế hệ khác đã vượt qua muôn vàn khó khăn mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc, xây dựng đất nước như ngày nay. 1- Truyền thống yêu nước. Yêu nước là một truyền thống đạo đức ăn sâu vào con người Việt Nam qua nhiều thế hệ ngay từ thời kỳ các Vua Hùng dựng nước. Vì vậy, truyền thống yêu nước Việt Nam gần như đồng nghĩa với “chủ nghĩa yêu nước”, “tinh thần yêu nước”, “tư tưởng yêu nước”, “lòng yêu nước”, “chủ nghĩa anh hùng cách mạng”… trong thời đại Hồ Chí Minh - Truyền thống yêu nước ra đời và được củng cố, phát huy cùng với sự ra đời của đất nước đã trường tồn suốt mấy ngàn năm nay. + Truyền thuyết đã tồn tại: “Sơn tinh - Thuỷ tinh”, “Thánh Gióng” + Thực tiễn đã chứng minh: “Thành Cổ Loa”, “Ải Chi Lăng”, … + Hai cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN… đã chứng minh cho truyền thống yêu nước của các thế hệ ngày xưa. - Ngày nay, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống yêu nước được biểu hiện trong sự nghiệp xây dựng đất nước, thể hiện ở sự nhất trí, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, sự tự cường sáng tạo thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh… Như vậy - Truyền thống yêu nước là biểu hiện tình cảm, ý chí, hành động của con người Việt Nam từ thế hệ trước được truyền lại cho thế hệ sau trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. - Truyền thống yêu nước ở mối người còn thể hiện ở thái độ, bản lĩnh đấu tranh chống lại những tệ nạn xã hội, những cám dỗ tầm thường của cuộc sống vật chất. (Trong lịch sử nhân loại, ít có dân tộc nào phải liên tiếp đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc như dân tộc Việt Nam. Trong khoảng 1.000 năm trở lại đây, dân tộc Việt Nam ta đã phải tiến hành hàng trăm cuộc khởi nghĩa, hàng chục cuộc kháng chiến gian khổ để bảo vệ độc lập). Trong thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống yêu nước đã được nâng lên tầm cao mới, đó là sống, chiến đấu, lao động, học tập vì sự thống nhất non sông, độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc cho dân tộc..
<span class='text_page_counter'>(31)</span> - Yêu nước ngày nay đồng nghĩa với yêu chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh. Thống nhất, độc lập tự do, CNXH, đoàn kết, đại đoàn kết là những nội dung cơ bản của truyền thống yêu nước. - Yêu nước gắn liền với chủ nghĩa QTVS, xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của dân tộc trong sự nghiệp giải phóng áp bức, chống chiến tranh xâm lược, giữ gìn hoà bình thế giới. 2- Truyền thống nhân nghĩa. Nhân nghĩa là truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc ta, thể hiện từ ngàn xưa đến nay - Nhân nghĩa trước hết thể hiện ở lòng nhân ái, sự thương yêu, giúp đớ lẫn nhau trong lúc hoạn nạn, khó khăn. - Nhân nghĩa thể hiện ở sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động, trong cuộc sống hàng ngày. - Truyền thống nhân nghĩa Việt Nam còn thể hiện ở lòng cị tha cao thượng, không cố chấp với người có lỗi lầm biết sửa lỗi, khoan hồng với kẻ thù… - Tư tưởng nhân nghĩa Việt Nam đã có ngay từ thời kỳ dựng nước của dân tộc đến nay. Ngày nay: - Truyền thống nhân nghĩa thể hiện trong đường lối ngoại giao của Đảng ta với thiện chí khép lại quá khứ, quên đi hận thù để làm bạn với với tất cả các dân tộc, hội nhập với các quốc gia trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng một xã hội công bằng văn minh, góp phần vào sự nghiệp giữ gìn, bảo vệ hoà bình, an ninh thế giới. - Truyền thống nhân nghĩa gắn liền với chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chống lại chiến tranh xâm lược. Nhân nghĩa trở thành lý tưởng, mục tiêu sống, lao động, chiến đấu của các thế hệ người Việt Nam . - Truyền thống nhân nghĩa Việt Nam còn thể hiện ở thái độ chống lại hành động bất công đối với con người, căm ghét sự áp bức bóc lột, kiên quyết đấu tranh chống lại bất công xã hội, bảo vệ phẩm giá con người… - Truyền thống nhân nghĩa Việt Nam còn thể hiện ở niềm tin yêu vào con người, tin vào tiền đồ phát triển của đất nước. * Nét đặc trưng nổi bật của truyền thống nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam là: Các thế hệ sau luôn luôn luôn ghi lòng tạc dạ công lao cống hiến của các thế hệ đi trước trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, khai sáng nên văn hoá dân tộc, của từng dòng họ… Ngày nay, phát huy truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, chúng ta đang khơi dây các phong trào “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, phụng dưỡng các bà mẹ VNAH, chăm sóc thương bệnh binh, gia đình có công, gia đình khó khăn… 3- Truyền thống cần cù, sáng tạo. - Cần cù là khái niệm chỉ rõ tinh thần, thái độ của con người trong hoạt động lao động, học tập, khả năng bền bỉ, chịu đựng gian khổ, vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ, mong muốn đạt tới ý định. - Sáng tạo chỉ sự thông minh, năng lực hoạt động trí tuệ, khả năng phân tích của trí óc nhằm tìm ra biện pháp, hình thức, các giải pháp tổng hợp, tối ưu nhằm đạt tới mục tiêu đặt ra cao nhất nhưng bỏ ra ít sức lực nhất, ít tốn kém thời gian và vật chất. Cần cù và sáng tạo là hai phạm trù tưởng như khác nhau nhưng lại có mối quan hệ mật thiết, thúc đẩy nhau, phản ánh bản chất của một nhân cách, một dân tộc. Vì vậy, cần cù đi liền với sáng tạo là hai mặt của một phẩm chất nhân cách. (Tuy nhiên, trong cuộc sống thực tế, đối với từng con người cụ thể, riêng lẻ, mối quan hệ đó không hoàn toàn tuyệt đối)..
<span class='text_page_counter'>(32)</span> - Một biểu hiện cho đặc điểm cần cù, sáng tạo của con người Việt Nam là luôn lạc quan, yêu đời đén mức dí dỏm: + Tin tưởng vào chân lý, vào lẽ phải. + Tin vào sức mạnh của chính nghĩa. + Tin vào sức mạnh của chính mình. - Cần cù, thông minh, sáng tạo đã trở thành phẩm chất tâm lý của con người Việt Nam: + Sáng tạo trong đường lối đổi mới. + Sáng tạo trong đường lối đôi nội, đối ngoại, đường lối kinh tế, chính trị, ngoại giao… + Sáng tạo trong thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 4- Truyền thống trong giáo dục (tôn sư trọng đạo, hiếu học) Truyền thống giáo dục là những chuẩn mực đạo đức thể hiện trong quan hệ hoạt động giáo dục. Trước hết thể hiện ở quan hệ giao tiếp, ứng xử của thầy trò, quan hệ của quần chúng với người làm thầy và quan hệ đối với nghề giáo dục. Đặc trưng của truyền thống giáo dục là: + Quan hệ thầy – trò. + Xã hội đối với người thầy. + Người thầy đối với việc dạy, người trò đối với việc học. Truyền thống giáo dục là giá trị đạo đức thể hiện trong hoạt động học tập, giáo dục và quan hệ thầy trò nhằm truyền thụ và tiếp thu kinh nghiệm để làm người 4.1- Tôn sư trọng đạo. - Tôn sư là tôn trọng, kính trọng thầy dạy. - Truyền thống tôn sư trọng đạo đã thấm vào nhận thức, tình cảm, trở thành hành vi của người Việt Nam qua các thế hệ: + Trước hết, thể hiện ở sự kính trọng, biết ơn công lao “khai tâm” “khai trí”, dạy cái đạo làm người của thầy giáo. + Xã hội tôn vinh người thầy giáo ở vị trí cao trong xã hội bởi thầy giáo là tiêu biểu cho trí thức trong xã hội, là người giàu lòng nhân ái, sống mẫu mực, đạo đức trong sáng, không tham công danh phú quý. Cái tâm, cái trí của người thầy giáo là tấm gương sáng của con người trong các thời kỳ lịch sử. - Biểu hiện quan trọng nhất, cơ bản nhất của truyền thống tôn sư, trọng đạo là sự tu thân để thành người (Người học xưa, nay ghi lòng tạc dạ những điều hay,lẽ phải thầy đã dạy bảo, dùng tấm gương và lời dạy của thầy cũ để khuyên bảo, giáo dục con cháu trong gia đình. Ngày nay, đa số học sinh-sinh viên nhận thức sâu sắc rằng kính trọng thầy cô giáo là cần ra sức học tập, rèn luyện, vận dụng sáng tạo những gì tiếp thu được ở nhà trường vào cuộc sống lao động sản xuất. Không chỉ học ở điều thầy dạy trên lớp mà còn tự học ở mọi lúc, mọi nơi, học ở sách vở, ở bạn bè trên thế giới, nhanh chóng nắm bắt những tri thức hiện đại nhất, chuẩn bị tốt hành trang tri thức, phẩm chất, năng lực bước vào thế kỷ XXI, thực hiện CNH, HĐH đất nước. - Các thế hệ thầy giáo ngày nay tin tưởng và hy vọng vào thế hệ trẻ có đủ trí tuện, năng lực, hoài bão thực hiện lý tưởng của Đảng, của dân tộc. - Truyền thống tôn sư trọng đạo ngày nay thể hiện trong sự khiêm nhường học hỏi của trò, thể hiện ở ý thức “Hết lòng vì học sinh thân yêu” của thầy..
<span class='text_page_counter'>(33)</span> - Dưới tác động của kinh tế thị trường, một bộ phân thanh niên, học sinh, sinh viên đã làm ảnh hưởng xấu đến truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc. Một số ít thầy, cô giáo cũng tự đánh mất vị thế xã hội của người thầy, tự làm giảm uy tín trước học trò và dư luận xã hội. Song, không vì hiện tượng cá biệt đó mà cho rằng truyền thống tôn sư trọng đạo đã mất hay không còn như xưa kia. 4.2- Truyền thống hiếu học Hiếu học là thích học, chăm học, là cần cù vượt khó trong học tập, muốn hiểu biết mọi mặt để thành người. Hiếu học vì trọng đạo. Vì hiếu học mà tôn sư. Tôn sư trọng đạo và hiếu học có mối quan hệ khăng khít với nhau trong sự nghiệp tu thân của các thế hệ người Việt Nam. - Sự hiếu học thể hiện ở tất cả mọi người : + Người được đi học thì cần cù, chăm chỉ học hành. + Người không được đến trường thì học bạn, học ở mọi người, tự học + Sự hiếu học thể hiện ở mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp. - Động cơ của sự hiếu học: + Học để đối nhân xử thế + Học để tiến thân trong xã hội. + Học để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, tạo điều kiện để truyền thống hiếu học phát triển lên tầm cao mới. Dân tộc ta có nhiều truyền thống đáng quý, nhưng nổi lên hơn cả, sâu sắc hơn cả là là cần duy trì các truyền thống: + Nhân nghĩa, nhân ái. + Yêu nước. + Kiên cường, dũng cảm. + Tự trọng, tự tin, lạc quan, giàu hoài bảo. + Trung thực, thuỷ chung. + Cần cù, vượt khó. + Tôn sư trọng đạo. + Hiếu học. Trong sự nghiệp CNH, HĐH, nhiều phẩm chất, tính cách mới sẽ trở thành truyền thống như: tôn trọng pháp luật, tính kỷ luật… Vì vậy, trường học, gia đình, xã hội, các tổ chức đoàn thể quần chúng cần coi trọng việc giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. ---o0o--CÂU HỎI THẢO LUẬN 1-Trình bày nguồn gốc và đặc trưng cơ bản của truyền thống. 2- Phân tích nguồn gốc, cơ sở của các phẩm chất đạo đức truyền thống đã được trình bày. 3- Thầy cô giáo Việt Nam có những truyền thống gì nổi bật ? 4- Nêu một vài ví dụ về tấm gương đã phát huy truyền thống đạo đức của dân tộc trong thực tiễn cuộc sống hiện nay. CHƯƠNG VI.
<span class='text_page_counter'>(34)</span> CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG ---o0o---. I- CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ANH HÙNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC – DANH NHÂN VĂN HOÁ THẾ GIỚI 1- Sơ lược tiểu sử Hồ Chí Minh - Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 ở quê ngoại là làng Hoàng Trù, quê nội là làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. - Lúc nhỏ Người tên là Nguyễn Tất Thành, những năm bôn ba ở nước ngoài Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. - Cụ thân sinh của Người là Nguyễn Sinh Huy, hay Nguyễn Sinh Sắc, (1863-1929), thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan (1868-1901). - Chủ tịch Hồ Chí Minh là con thứ ba trong gia đình: chị của Người là Bà Nguyễn Thị Thanh, tức Bạch Liên (1884-1954), anh trai là Nguyễn Sinh Khiêm, tức Nguyễn Tất Đạt (1888-1950) đều là những người yêu nước, tham gia các phong trào chống Pháp và từng bị tù đày. - Lúc nhỏ, Người đã ham đọc truyện và thơ ca yêu nước, thường lắng nghe những buổi đàm luận về thời cuộc giữa cha với các sĩ phu yêu nước khác. - Hồ Chủ tịch rất khâm phục những nhà yêu nước tiến bộ. Song, Người không đi theo con đường các cụ đã đi mà hướng sang các nước phương Tây, nơi có tư tưởng dân quyền, dân chủ, có KH-KT phát triển. - Năm 1911, với tên là Ba, làm phụ bếp trên tàu Amirale Latouche Tréville, Người sang Pháp và đi hàng loạt các cước châu Âu, châu Phi và châu Mỹ, Người sống và cùng lao động, học tập và gần gũi với nhân dân lao động các nước. - Người đã hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, tham gia vào Đảng xã hội Pháp và lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp. - CM tháng Mười Nga thành công là sự kiện lịch sử có ảnh hưởng quyết định trong đời hoạt động của Người và Người đã tin tưởng vào tương lai của cách mạng Việt Nam và quyết tâm đi theo con đường CM tháng Mười Nga. - Bản yêu sách 8 điểm của những người Việt Nam yêu nước do Người soạn thảo gửi đến Hội nghị Versailles là một “quả bom” làm chấn động dư luận Pháp, ở Việt Nam và các nước thuộc địa Pháp. - Tại Đại hội Tua (Tours) của Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chủ tịch đã đọc tham luận quan trọng, bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba (QTCS), là một trong những người tham gia sáng lập Đảng CS Pháp và là người CS Việt Nam đầu tiên. - Hồ Chủ tịch đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa QTVS, đã tìm ra con đường đúng đắn cho CMVN là “kết hợp đấu tranh GPDT với đấu tranh GPGC, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa QTVS”. - Năm 1921, Người sáng lập ra Hội Liên hiệp thuộc địa, là UV Thường trực của hội. - Cuối năm 1924, Người tư Liên Xô về Quảng Châu (TQ) nhằm thúc đẩy phong trào CM trong nước. Tại đây, người lập ra Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. - Cũng tại Quảng Châu, Hồ Chủ tịch tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông và viết tác phẩm “Đường Kách Mệnh”, tác phẩm có tính cương lĩnh chỉ đạo thực tiễn phong trào CMVN. - Ngày 3/2/1930, được sự uỷ nhiệm của QTCS, Người đứng ra triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam tại Hương Cảng (TQ) lấy tên là Đảng CSVN. Hội.
<span class='text_page_counter'>(35)</span> nghị đã thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt và Điều lệ Đảng do Người soạn thảo. Đó là sự kiện lịch sử quan trọng, tạo ra bước phát triển mới của CMVN. - Từ 1930-1931, với cương vị là UV Bộ Phương Đông của QTCS, phụ trách Cục Phương Nam, Hồ Chủ tịch đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng phong trào CM ở một số nước Đông Nam Á. - Ngày 8/2/1941, Hồ Chủ tịch về tới Pắc-bó (Cao Bằng) với tên là Già Thu, thay mặt QTCS, Người triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Đảng CSĐD, mở lớp đào tạo, chuẩn bị lực lượng vũ trang. - Tháng 8/1942, với tên Hồ Chí Minh, Người sang Trung Quốc để liên hệ, phối hợp hoạt động CM thị bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam và đến 9/1943 mới được trả tự do - Ngày 22/12/1944, theo Chỉ thị của Người, Đội VNTTGPQ được thành lập. Sau đó, quyết định thiết lập khu Giải phóng, mờ Hội nghị toàn quốc của Đảng (13-15/8/1945) và Quốc dân đại hội (16/8/1945), phát động tổng khởi nghĩa toàn quốc, cử ra Chính phủ lâm thời do Người làm Chủ tịch. - Cách mạng 8/1945 thành công, ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước VNDCCH. - Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng CSVN, dân tộc Việt Nam đã anh dũng tiến hành hai cuộc kháng chiến: chống Pháp và chống Mỹ, giành độc lập, thống nhất Tổ quốc và đi lên theo định hướng XHCN. - Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta những năm qua đã chứng tỏ rằng Đảng là tổ chức chính trị vì quyền lợi của dân tộc, dũng cảm, sáng tạo, kiên trì và quyết tâm thực hiện ý tưởng độc lập, tự do và CNXH. 2- Anh hùng dân tộc và Danh nhân văn hoá Toàn bộ cuộc sống, hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời của một nhân cách vĩ đại, tiêu biểu cho tất cả những truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc, thể hiện sự thống nhất tuyên vời giữa ý thức, tình cảm và hoạt dộng, giữa quyền lợi của dân tộc với nhân loại, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. - Ngày 16/4/1987, tại phiên họp lần thứ 24, Đại hội đồng UNESCO đã ra Nghị quyết khuyến nghị các quốc gia thành viên kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nghị quyết khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp GPDT của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội… Những tư tưởng của người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”. - Đại hội VI của Đảng, đại hội mở đường đổi mới đất nước đã kêu gọi: “Mỗi người cộng sản chúng ta cần phải suốt đời học tập, noi gương đạo đức, tác phong của Bác Hồ, người thầy vĩ đại của CMVN, ghi nhớ và làm theo lờ dạy của Người, nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. II- CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH NHÀ SƯ PHẠM, NGƯỜI KHAI SINH RA NỀN GIÁO DỤC XHCN VIỆT NAM 1- Hồ Chí Minh là nhà sư phạm lỗi lạc Trước khi hoạt động cách mạng, Bác Hồ đã là một thầy giáo (từ 1909, tại trường Dục Thanh – Phan Thiết). Thời gian này, ở Người đã hình thành những tư tưởng cách mạng và những quan điểm giáo dục thiên tài..
<span class='text_page_counter'>(36)</span> Người đã xác định vị trí đặc biệt của nhà trường trong việc tuyên truyền, kêu gọi lòng yêu nước. Người đã gieo vào lòng người học tình cảm yêu quê hương, đất nước. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, bất kỳ ở đâu, hoàn cảnh nào, Hồ Chủ tịch luôn quan tâm đến giáo dục, và trực tiếp tham gia công tác giáo dục: - Ở Hồ Chí Minh, truyền thống hiếu học gắn liền với truyền thống yêu nước, phải không ngừng học tập, sáng tạo để có thể hiểu rộng, biết nhiều, để giúp ích cho đồng bào, dân tộc… - Thời gian ở Mác-xcơ-va (1923-1924), Người đã quan tâm, nghiên cứu tình hình xã hội, giáo dục của nhà trường Xô viết, trao đổi với các đồng chí phụ trách giáo dục (có Cơrúp-xcai-a), bồi dưỡng, tạo điều kiện để những đồng chí đại biểu Việt Nam tranh thủ học tập kinh nghiệm… - Ở Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục quan tâm đến giáo dục, các bài giảng tại các lớp huấn luyện ở Quảng Châu được tập họp lại, in thành sách với tên gọi là “Đường Kách Mệnh”, vừa là tác phẩm lý luận cách mạng vừa là tác phẩm chứa đựng những tư tưởng giáo dục lớn lao. - Ở Thái Lan, với tên gọi là Thầu Chín, Người tích cực vận động kiều bào ta học tiếng địa phương, học chữ mẹ đẻ, vận động mở trường, mở lớp dạy cho con em Việt kiều. - Khi về nước để trực tiếp chỉ đạo CMVN, trong hoàn cành vô cùng khó khăn, cấp bách, Hồ Chủ tịch vẫn không ngừng quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, lo lắng đến giáo dục và tổ chức dạy học, trực tiếp lãnh đạo và tham gia dạy học… (Pắc-bó là cái nôi của cách mạng và cũng là nới có phong trào học tập văn hoá của đồng bào dân tộc, của cán bộ phát triển rất mạnh….) Sự vĩ đại của Chủ tịch Hồ CHí Minh làm cho Người vượt lên tất cả các nhà giáo từ xưa đến nay chính là ở chỗ Người sớm nhìn ra và vạch trần thủ đoạn nô dịch về văn hoá giáo dục của chủ nghĩa thực dân với dân tộc ta và các dân tộc bị áp bức. Do vậy, trong bản yêu sách gửi Hội nghị Versailles (1919), Người đã kiên quyết đòi tự do học tập cùng với độc lập, dân chủ. 2- Người khai sinh ra nền giáo dục Vịêt Nam - Ngay sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập vào ngày 2/9/1945, thì ngày 3/9/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký 3 sắc lệnh về giáo dục, mở chiến dịch chống nạn mù chữ… - Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi giáo dục, văn hoá, nhà trường là một mặt trận, là mục tiêu, là nội dung và phương tiện đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước. + Ham muốn tột bậc của Người là: “Đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” + Người xác định “diệt dốt” là một trong ba nhiệm vụ quan trọng… - Trong hai cuộc kháng chiến để giải phóng dân tộc đầy gay go, quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tâm niệm: + Thi đua sản xuất, tăng gia sản xuất, học tập là yêu nước. + Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt, học tốt Tóm lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người là người chuẩn bị và là người khai sinh ra nền giáo dục Việt Nam cách mạng. Người là nhà giáo cách mạng trong sáng, nhà tổ chức, nhà lý luận giáo dục thiên tài của dân tộc. Tư tưởng giáo dục của Người luôn là định hướng phát triển giáo dục trong mọi hoàn cảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh là thầy giáo của các thế hệ thầy giáo cách mạng, là biểu tượng trong sáng cho truyền thống của dân tộc và truyền thống giáo dục của dân tộc III- CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG 1- Yêu nước thương dân là nội dung cao nhất của lòng nhân đạo, nhân nghĩa trong đạo đức cách mạng..
<span class='text_page_counter'>(37)</span> Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiến dâng trọn cuộc đời để thực hiện lý tưởng của mình là độc lập Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho dân tộc và giải phóng nhân loại cần lao khỏi sự áp bức bóc lột của CNĐQ, xây dựng CNXH trên Tổ quốc Việt Nam và trên toàn thế giới. - Chủ nghĩa yêu nước là động lực, là xuất phát điểm của cuộc đời hoạt động sôi nổi, bôn ba tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. + Ngay thời niên thiếu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đau xót trước cảnh lầm than nô lệ của quần chúng lao động, của người dân mất nước. + Ở Hồ Chủ tịch, chủ nghĩa yêu nước, thương dân là đỉnh cao của truyền thống nhân nghĩa, nó thể hiện sâu sắc ở mọi lúc, mọi nơi. + Chính chủ nghĩa yêu nước, thương dân đã đưa Người sang Pháp, giúp Người vượt ra khỏi chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa nhân văn tư sản. + Và khi nghiên cứu chủ nghĩa Lênin, chính lòng yêu nước, thương dân đã là cơ sở để tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin phát triển nhanh chóng trong người công sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam - Nguyễn Ái Quốc. - Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản và nhân đạo XHCN là tư tưởng thấu suốt lý luận giáo dục của Hồ Chí Minh, mà trước hết thể hiện ở tình thương yêu bao la đối với nhân dân lao động ở mọi tầng lớp xã hội. + Hồ Chủ tịch đã kế thừa truyền thống “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc nhưng lại mang tính giai cấp sâu sắc. + Ngày nào miền Nam chưa giải phóng, đồng bào ta còn chịu đau thương do đế quốc Mỹ gây ra thì Bác cũng ăn không ngon, nểu không yên…. - Trái lại, đối với kẻ thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dặn dò: + Phải luôn tỉnh táo, giữ vừng lập trường, không được mất cảnh giác. + Luôn sẵn sàng đập tan mọi âm mưu độc ác của kể địch để bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ hoà bình của nhân dân. + Muốn đánh thắng kẻ thù trước hết phải phải đảnh thắng kể thù bên trong là chủ nghĩa cá nhân. Tóm lại, Chủ tịch Hồ CHí Minh là đỉnh cao của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo XHCN và chủ nghĩa quốc tế chân chính mà biểu hiện sâu sắc nhất ở Người là tình thương yêu nhân dân, tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng, tổ chức giáo dục quần chúng, phát động quần chúng cải tạo xã hội cũ, dứt bỏ những tư tưởng lạc hậu để xây dựng xã hội mới, xã hội công bằng, văn minh và dân chủ; xây dựng con người mới XHCN, đó là quy luật của sự phát triển của xã hội loài người. 2- Nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính… là những giá trị đạo đức thể hiện tính cách, phẩm chất của người cách mạng. Nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính… vốn là truyền thống của dân tộc, thể hiện rõ nét ở nhân sĩ yêu nước qua nhiều thế kỷ. Nhưng chưa bao giờ và chưa ở ai lại tiếp thu truyền thống, thể hiện đầy đủ và nhất quán đến tuyệt vời như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những chuẩn mực đạo đức cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” viết tháng 10/1947 như sau: - Nhân: là thật thà yêu thương, hết lòng giúp đỡ đồng bào. Vì thế mà cương quyết chống lại những người, những việc có hại đến đoàn thể, đên nhân dân, sằn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không oai quyền. Những người không ham, không e, không sợ gì thì việc gì là việc phải họ đều làm được. - Nghĩa: là ngay thẳng, không có tư tâm, không là việc bậy, không có việc gì phải giấu đoàn thể. Ngoài lợi ích của đoàn thể không có lợi ích riêng phải lo toan. Khi đoàn thể.
<span class='text_page_counter'>(38)</span> giao cho việc thì ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói, không sợ người phê bình mình, mà ohê bình người khác cũng luôn luôn đúng đắn. - Trí: là không có việc gì tư túi nó làm mù quáng cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người, xem việc. Bét là việc có lợi, tránh việc có hại, biết cất nhắc người tốt, đề phòng người gian. - Dũng: là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Có gan chịu đựng gian khổ. Có gan chống lại những vinh hoa phú quí không chính đáng. Khi cần, có gan hy sinh tính mạng cho đoàn thể, cho Tổ quốc, không bao giời rụt rè, nhút nhát. - Liêm: là không tham lam, là trong sạch, không tham tiền của, địa vị, danh tiếng… - Cần: là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, …Cần và chuyên phải đi đôi với nhau. Chuyên nghĩa là dẻo dai, bền bỉ. Lười biếng là kẻ thù của Cần cũng là kẻ thù của dân tộc. - Kiệm: là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí không bừa bãi. Cần và kiệm phải đi đôi với nhau. - Chính: nghĩa là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác. Tóm lại, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là: - Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. - Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng. - Đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên hết. - Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cùng đồng chí mình tiến bộ. - Tuyệt đối trung thành với Đảng - Hoà mình với quần chúng, tin quần chúng, hiểu và lắng nghe ý kiến quần chúng. - Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Những nội dung trên được Hồ Chủ tịch gọi là đạo đức cách mạng vì: - Đó là hệ thống giá trị đạo đức của những người làm cách mạng. Muốn làm cách mạng thành công, những giá trị đạo đức đó là nội lực trong tu thân, học tập và hoạt động cách mạng. - Những phẩm chất đó, mỗi người trong cộng đồng phải rèn luyện thường xuyên vì cuộc đấu tranh với kẻ thù trong mõi con người , của tư tưởng phản động, bảo thủ, lạc hậu và lối sống ích kỷ… thực sự là một cuộc đấu tranh cách mạng, đòi hỏi mỗi người phải tu thân, phải thường xuyên tự phê bình và tiếp thu phê bình. ________________________________________________________________________ CHƯƠNG VII. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC ---o0o---. I- KHÁI NIỆM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ NỘI DUNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC 1- Khái niệm và mục tiêu giáo dục đạo đức a- Khái niệm giáo dục đạo đức - Đạo đức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của cộng đồng người xác định và là phương thức điều chỉnh hành vi của các cá nhân thuộc cộng đồng nhằm hình thành, phát triển, hoàn thiện tồn tại xã hội ấy. - Đạo đức cá nhân là một hệ thống chuẩn mực đạo đức được mỗi cá nhân lựa chọn, xác lập theo nguyện vọng, mong muốn của mình. Đạo đức cá nhân là sự tổng hợp chuẩn.
<span class='text_page_counter'>(39)</span> mực đạo đức của một nhóm xã hội, của cộng đồng, dân tộc và nguyện vọng riêng về các giá trị phù hợp với quyền lợi của cá nhân. - Giáo dục đạo đức là quá trình chuyển văn hoá đạo đức xã hội thành văn hoá đạo đức cá nhân. Đây cũng chính là quá trình tìm ra sự thống nhất, biện chứng giữa cái chung và cái riêng, giữa cái phổ biến, cái đặc thù và cái đơn nhất. b- Mục tiêu giáo dục đạo đức Mục tiêu giáo dục đạo đức là nhằm hình thành và phát triển ý thức đạo đức và năng lực thực hiện hành vi đạo đức của con người. - Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về cái thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng…; về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với cá nhân và giữa cá nhân với xã hội. - Hành vi đạo đức là hoạt động của con người chịu ảnh hưởng của niềm tin, của ý thức đạo đức, là quá trinh hiện thực hoá ý thức đạo đức. - Ý thức đạo đức và hành vi đạo đức luôn có quan hệ với nhau và tạo nên bản chất đạo đức của con người: + Ý thức đạo đức là điều kiện, là cơ sở tâm lý cho việc thực hiện hành vi đạo đức. + Hành vi đạo đức là sự thể hiện ý thức đạo đức trong thực tiễn, là thước đo sự phát triển ý thức đạo đức và nhân cách đạo đức nói chung. - Ý thức đạo đức bao gồm hệ thống tri thức đạo đức, tình cảm và lý tưởng đạo đức, trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất vì từ tình cảm đạo đức mọi tri thức đạo đức mới chuyển hoá thành hành vi đạo đức. 2- Nội dung giáo dục đạo đức Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con người sinh ra trong mỗi một gia đình lịch sử xã hội nhất định sẽ chịu sự tác động mạnh mẽ của hệ thống đạo đức xã hội và chính bản thân con người cũng tác động trở lại hệ thống đó. Để giáo dục đạo đức đạt hiệu quả cao, chúng ta cần giáo dục đạo đức với những nội dung sau: a- Giáo dục tri thức đạo đức Tri thức đạo đức là một yếu tố, một cấp độ của ý thức đạo đức. Về bản chất, tri thức đạo đức là kết quả của nhận thức đạo đức, là sự phản ánh đời sống đạo đức của xã hội và con người. - Tri thức đạo đức thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người được hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá. - Tri thức đạo đức lý luận là những tư tưởng, quan điểm đạo đức được hệ thống hoá, khái quát hoá thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng các khái niệm, phạm trù đạo đức. + Tri thức đạo đức thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp những mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường xuyên chi phối hành vi đạo đức của con người trong cuộc sống. + Tri thức đạo đức thông thường tuy ở cấp độ thấp nhưng sự phong phú của tri thức kinh nghiệm là tiền đề quan trọng cho sự hình thành, phát triển các lý thuyết đạo đức khoa học. + Tri thức đạo đức lý luận có khả năng phản ánh đời sống đạo đức của con người một cách khái quát, sâu sắc và chính xác cao, vạch ra mối quan hệ giữa con người với con người, với gia đình, bạn bè và với xã hội..
<span class='text_page_counter'>(40)</span> - Sự phát triển của tri thức đạo đức từ trình độ thông thường lên trình độ lý luận là sản phẩm tất yếu của sự phát triển xã hội, của sự đa dạng và phức tạp hoá các quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với xã hội. - Tính giai cấp của tri thức đạo đức biểu hiện ở tâm lý XH và hệ tư tưởng XH + Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, quan điểm, thói quen, truyền thống đạo đức riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hoặc tập đoàn xã hội khác. + Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của tri thức đạo đức thể hiện ở mức độ sâu sắc hơn. Trong xã hội có đối kháng, giai cấp bao giờ cũng có những quyết định, tư tưởng đạo đức đối lập nhau. b- Giáo dục tình cảm đạo đức Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh mối quan hệ giữa người với người, giữa người với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người. - Tình cảm đạo đức biểu hiện ra như là phản ứng tình cảm của con người đối với các hiện tượng đạo đức. - Tình cảm đạo đức vừa biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá đạo đức (đúng, sai), vừa biểu hiện xu hướng nhân cách đạo đức. - Người có tình cảm đạo đức phát triển là người: + Nhạy cảm trước cái thiện, ác, đúng, sai, đẹp, xấu. + Có thái độ kiên quyết ủng hộ cái tốt, lên án và loại bỏ những hiện tượng phi đạo đức. Sự nhạy cảm đó là điều kiện tiên quyết của hành vi đạo đức. Nó tạo ra động cơ và sự ràng buộc bên trong của hành vi đạo đức Chính vì vậy, giáo dục tình cảm đạo đức là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục đạo đức. Trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ chế thị trường với sự thừa nhận và khuyến khích lợi ích chính đáng của cá nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của toàn diện của mỗi người. Tuy nhiên, vẫn có sự tác động tiêu cực đến sự phát triển: + Có xu hướng làm suy yếu tình cảm đạo đức, tình cảm gắn kết con người với con người, con người với xã hội. + Đời sống đạo đức trong gia đình (nhất là ở đô thị) đang có chiều hướng suy giảm. + Giáo dục, tự giáo dục đạo đức đối với cán bộ đảng viên bị xem nhẹ. Do vậy, giáo dục tình cảm đạo đức sẽ góp phần tích cực vào việc khắc phục suy thoái đạo đức đó, bồi đắp lại những tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người trong điều kiện hiện đại. c- Giáo dục lý tưởng đạo đức - Lý tưởng đạo đức là quan niệm về cái cần vươn tới và cũng như mọi lý tưởng xã hội khác, lý tưởng đạo đức bao hàm yếu tố lựa chọn, mong muốn,khao khát… Vì vậy, nó chứa đựng yếu tố tình cảm đạo đức. - Lý tưởng đạo đức là sự thống nhất giữa tình cảm và lý trí. Việc cá nhân lĩnh hội được lý tưởng đạo đức tiên tiến của thời đại vừa khẳng định sự phát triển đạo đức của người ấy vừa là điều kiện bảo đảm chắc chắn nhất cho người ấy trong mọi hoạt động mang ý nghĩa xã hội..
<span class='text_page_counter'>(41)</span> Vì vậy, giáo dục đạo đức với tư cách là quá trình làm hình thành và phát triển tình cảm, tri thức và lý tưởng, hình thành và phát triển ý thức đạo đức con người, cũng đồng thời là quá trình làm phát triển năng lực hoạt động đạo đức tức là các năng lực nhận thức, đánh giá và thực hiện hành vi đạo đức của con người. d- Giáo dục giá trị đạo đức - Về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Dân tộc Việt Nam trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho mình một nền văn hoá riêng, phong phú, bền vững với những giá trị truyền thống tốt đẹp, đó là: - CN yêu nước và ý chí bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. - Đoàn kết, nhân nghĩa, tương thân, tương ái. - Lạc quan, yêu đời, tin tưởng vào tương lai. - Cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong lao động, chiến đấu. - Ham học hỏi, không ngừng mở rộng đón nhận những tinh hoa văn hoá, đạo đức của nhân loại - Về giá trị đạo đức cách mạng - Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. - Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng. - Đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên hết. - Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cùng đồng chí mình tiến bộ. - Về tinh hoa đạo đức nhân loại. Giá trị đạo đức phương Đông được thể hiện rõ nét ở: - Nho giáo: là triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời; là lý tưởng vì một xã hội bình trị. - Phật giáo thể hiện ở góc độ: + Tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn… + Sống có đạo đức, giản dị, chăm làm điều thiện. + Bình đẳng, dân chủ, chất phác, chống phân biệt đẳng cấp. + Đề cao lao động, chống lười biếng. Giá trị đạo đức phương Tây được thể hiện rõ nét ở: + Lòng nhân ái (Cơ đốc giáo) + Chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo của tư sản thời kỳ khai sáng với khẩu hiệu: tự do, bình đẳng, bác ái . + Tư tưởng dân chủ, dân quyền, nhân quyền Pháp (1789). + Quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc (trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776) 3- Các hình thức giáo dục đạo đức Cũng như các loại hình giáo dục khác, giáo dục đạo đức đòi hỏi một hệ thống các hình thức giáo dục thống nhất và đa dạng. Cần chú ý đến những hình thức giáo dục đạo đức cơ bản sau: 3.1- Giáo dục đạo đức thông qua lao động và hoạt động xã hội Đạo đức học Mác-xít khẳng định: lao động và các hoạt động xã hội bao giờ cũng mang tính xã hội. Và chính các cá nhân làm cho lao động sản xuất và hoạt động xã hội trở nên có ý nghĩa đối với bản thân. Và người lao động chỉ được kính trọng khi có thái độ lao động đúng đắn, biểu hiện cụ thể: + Lao động cần cù, sáng tạo, năng suất, chất lượng, hiệu quả. + Chăm lo thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí..
<span class='text_page_counter'>(42)</span> + Coi trọng lao động trí óc và lao động chân tay. + Yêu quý lao động của mình và lao động của người khác. Do vậy, cần phải giáo dục lao động nghề nghiệp cho người lao động để góp phần làm phát triển đạo đức người lao động và tạo ra uy tín cho các đơn vị SX, các xí nghiệp, công ty, góp phần tăng cường tính hiệu quả kinh doanh SX. b- Giáo dục đạo đức thông qua truyền đạt các tri thức đạo đức Tri thức đạo đức được hình thành và phát triển trong toàn bộ hoạt động sống của con người, được hình thành một cách trực tiếp và rõ rệt nhất thông qua hình thức truyền đạt, giảng giải. Giáo dục bằng truyền đạt tức là trực tiếp truyền đạt cho con người những hiểu biết từ trình độ thông thường đến trình độ lý luận về đạo đức để con người tự điều chỉnh hành vi của mình, biêế đánh giá hành vi của mình và của người khác. Đạo đức học Mác-Lênin với tư cách là sự phản ánh về mặt lý luận quá trình xây dựng nền đạo đức và những nhân cách đạo dức XHCN, có vai trò to lớn trong sự nghiệp giáo dục của chúng ta. Giáo dục Đạo đức học Mác-lênin là một hình thức giáo dục đạo đức vừa cấp thiết, vừa lâu dài. c- Giáo dục đạo đức thông qua tấm gương đạo đức - Giáo dục đạo đức bằng những tấm gương đạo đức là hình thức giáo dục đạo đức cơ bản đã được sử dụng từ rất lâu trong lịch sử - Những tấm gương đạo đức thông thường nhất là những ứng xử đạo đức hàng ngày giữa con người với con người trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Mỗi cá nhân (với tính chất là đối tượng của giáo dục đạo đức) sẽ tiếp nhận những ứng xử hàng ngày của mọi người và vận dụng chúng vào những tình huống tương tự trong cuộc sống. - Hiệu quả giáo dục đạo đức không chỉ tuỳ thuộc vào phương thức giáo dục, nội dung giáo dục… mà còn tuỳ thuộc vào tính gương mẫu của chủ thể giáo dục + Trong gia đình, người cha, người mẹ là nhân tố quan trong nhất phát huy hiệu quả cao nhất biện pháp giáo dục đạo đức thông qua tấm gương. + Trong mỗi giai đoạn lịch sử cần có một đội ngũ cán bộ, lãnh đạo có phẩm chất đạo đức, có năng lựcđể đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cách mạng. Đảng CSVN dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức, động viên nhân dân đấu tranh giành độc lập và chiến đấu vì chủ nghĩa xã hội. Hơn ai hết, Người đã đi đầu trong cuộc đấu tranh vĩ đại đó, là tấm gường sáng ngời về đạo đức cách mạng, lòng yêu nước, đức hy sinh, về tinh thần nhân văn cao cả… Cuộc vận động gọc tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hiện nay là sự thể hiện sinh động phương pháp giáo dục đạo đức theo hình thức nêu gương. d- Giáo dục đạo đức thông qua hình tượng nghệ thuật Nghệ thuật ra đời từ rất sớm, quá trình hình thành nghệ thuật gắn liền với lao động của con người, với thực tiễn xã hội Vấn đề giáo dục đạo đức bằng hình tượng nghệ thuật là sự tác động tích cực, có định hướng vào vào ý thức đạo đức của từng cá nhân. Giáo dục đạo đức bằng hình tượng nghệ thuật cần được hiểu, được vận dụng vừa như là sự tác động bên ngoài, từ hình tượng nghệ thuật vào đối tượng, vừa như là sự tự vận động từ bên trong đối tượng. Giáo dục đạo đức bằng hình tượng nghệ thuật là hình thức giáo dục hấp dẫn, nó đi vào lòng người một cách tự nguyện, vì vậy, nó có hiệu quả rộng lớn và lâu bền..
<span class='text_page_counter'>(43)</span> ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng CSVN đánh giá cao vai trò của nghệ thuật trong giáo dục đạo đức. Tuy nhiên, đó phải là nghệ thuật chân chính, nghệ thuật thực sự, thể hiện được những giá trị chân - thiện - mỹ của dân tộc và thời đại. II- HỌC TẬP ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH 1- Học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh về nhân, nghĩa, lễ, tín - Nhân - Đức nhân trong quan niệm của Hồ Chí Minh là sự kết thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tính nhân văn của nhân loại cùng với việc thể nghiệm của chính bản thân mình qua hoạt độngcách mạng. Chủ tịch Hồ Chí minh xác định: tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. - Đối với Người thì: + Nhân trước hết phải là yêu dân, kính dân, quan tâm đến dân, quý trọng sinh mạng của con người; đấu tranh giành cuộc sống hoà bình, ấm no cho nhân dân. + Đối với cán bộ lãnh đạo, nhất là cán bộ quân sự, Người dạy: “Nhân là phải có lòng bác ái, yêu nước, yêu đồng bào, yêu bộ đội của mình, là phải yêu thương cấp dưới, phải đồng cam cộng khổ với họ. Đối với địch hàng ta cầmphải khoan dung” Như vậy, đức nhân trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là nhân nghĩa trong đời sống hàng ngày, nhân nghĩa trong ngoại giao, trong đấu tranh, nhân nghĩa đối với chính kẻ thù của mình… - Nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng và phát triển nội dung của nghĩa phù hợp với lợi ích của Đảng của nhân dân và thời đại. Theo Người thì: “Nghĩa là ngay thẳng, không có tâm tư, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng không có lợi ích riêng phải lo toan, khi Đảng giao cho việc thì phải ra sức làm cẩn thận….”, “Nghĩa cũng tức là chính, là không tà, là thẳng thắn, là đúng đắn…”.. Như vậy, nghĩa ở Hồ Chí Minh mạng nội dung sâu sắc và rộng lớn với mục tiêu vì dân, vì nước, vì Đảng chứ không đơn thuần là nghĩa trong mối quan hệ gia đình, dòng tộc, vua tôi như đạo đức nho giáo. Với nội dung nhân nghĩa mà Người đã nêu, đặc biệt chính bản thân và cuộc đời Người là tấm gương sáng ngời về nhân, nghĩa đã có tác dụng giáo dục mạnh mẽ đối với cán bộ và nhân dân, làm cho họ luôn trung thành, tận tuỵ với sự nghiệp của Đảng, của dân tộc - Lễ - Theo quan niệm của Hồ Chí Minh thì lễ là: lễ với nhân dân, với đất nước. Lễ chủ yếu là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. như vậy, trong mỗi hành vi lễ nghĩa nhỏ nhất của mỗi cá nhân đã chứa đựng những điều cao cả lớn lao với sự nghiệp chung của đất nước - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng phạm trù Lễ của Nho giáo chủ yếu nói về đạo đức chứ không thiên về chính trị như Nho giáo (lễ trị). Đó là sự vượt bậc của Người so với các nhà tư tưởng tiền bối trong việc tiếp thu phạm trù lễ nói riêng, cũng nhưn các phạm trù đạo đức Nho giáo nói chung. - Tín Theo quan niệm của Hồ Chủ tịch: + Tín là không lừa dối, thưởng phạt công bình, tài chính phân minh. + Tín là làm cho người ta tin mình. + Tín cũng có nghĩa là tự tin vào bản thân mình..
<span class='text_page_counter'>(44)</span> Những phạm trù đạo đức nêu trên được Chủ tịch Hồ CHí Minh vận dụng một cách linh hoạt và nâng lên thành đạo đức của nhân dân, của người cán bộ phục vụ sự nghiệp cách mạng, xây dựng con người mới. 2- Học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh về trung, hiếu, trí, dũng. - Trung, hiếu Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông. Trước kia, trung là trung thành với vua, còn hiếu thì chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình: con cái hiếu thảo với cha mẹ. Kế thừa, khắc phục, vượt qua những hạn chế của tư tưởng phong kiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nội dung của trung, hiếu là: “Trung với nước, hiếu với dân”. - Trung với nước trước hết thể hiện ở tinh thần yêu nước nồng nàn, thể hiện ngay trong suy nghĩ, hành động hàng ngày của mỗi người. Trung với nước là làm sao cho dân giàu nước mạnh. - Trung với nước còn là trung với Đảng, rèn luyện bản thân những đức tính như: trung thực, ngay thẳng, trung thành với lý tưởng của Đảng. Suốt đời đấu tranh cho cách mạng. Giữ vững kỷ luật, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. - Hiếu với dân là phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập nhân dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Học tập, rèn luyện, làm việc, chiến đấu …vì nhân dân. Tích cực vượt qua khó khăn, gian khổ của cuộc sống để phát triển SX, phát triển đời sống XH. Dũng cảm đấu tranh chống lại mọi biểu hiện sách nhiễu nhân dân. - Người làm lãnh đạo phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, phải thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí… để giúp dân hiểu được quyền và trách nhiệm làm chủ đất nước của mình. - Trí Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trí là không có việc gì tư túi làm cho mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt, dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người, biết xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian”. Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì Trí không chỉ đơn thuần là học hành, phân biệt chính tà mà trí được mở rộng với nghĩa là để phục vụ, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân. - Dũng ”Dũng có nghĩa là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm, thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ có gan chịu đựng. Có gan chống lại sự vinh hoa phú quý không chính đáng. Nếu cần thì có gan hy sinh tính mạng cho Đảng, không bao giờ rụt rè, nhút nhát”. Với Đảng, Đảng phải có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, tìm hiểu nguyên nhân để tự phê bình và phê bình trong Đảng để sữa chữa khuyết điểm. Dũng cảm nhưng không làm liều, có kế hoạch rồi thì làm ngay. Nguy hiểm cũng phải làm , phải dũng cảm trong công tác. 3- Học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. - Cần, Kiệm, Liêm, Chính…(xem lại nội dung bài 6). Những đức tính trên cần được thể hiện trên cả ba mặt: đối với mình, với người, với việc. - Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó, học tập, cầu tiến bộ. Nghiêm khắc với chính mình. - Đối với người: không nịnh hót người trên, không coi khinh người dưới, luôn rộng lượng, chân thành, khiêm tốn, thật thà..
<span class='text_page_counter'>(45)</span> - Đối với việc: luôn để công việc lên trên, lên trước việc tư. Có trách nhiệm cao trong công việc, không sợ khó khăn, nguy hiểm. Việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh. - Chí công vô tư. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối vơi người, với việc”. Khi làm việc gì thì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau (“lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”). - Trong giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến giáo dục phẩm chất: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đó là sự khiêm tốn, giản dị, là tinh thần lao động tích cực, siêng năng, làm việc hết mình, gan dạ, táo bạo; là đức tính trung thành, thật thà, chính trực trong đời tư và việc công. - Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là thước đo văn minh, tiến bộ của dân tộc. Phẩm chất này rất cần thiết đối với mỗi người dân Việt Nam khi đất nước còn chiến tranh, thì nay, trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và phát triển CNXH lại càng cần thiết hơn. Đây không còn đơn thuần là yêu cầu về đạo đức mà còn là yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá. Học tập, rèn luyện tấm gương đạo đức sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh với những phẩm chất trên là một vấn đề không đơn giản. Vì vậy chúng ta cần chú ý đến con đường, phương pháp thực hiện, quyết tâm xây dựng đạo đức đạo đức mới với những nguyên tắc cơ bản: - Nói đi đôi với làm. - Xây đi đôi với chống. - Tu dưỡng đạo đức suốt đời. Phải duy trì việc tu dưỡng đạo đức, tu dưỡng bền bỉ thông qua thực tiễn cuộc sống..
<span class='text_page_counter'>(46)</span>