Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tài liệu Lễ hội miền Bắc 5 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.6 KB, 9 trang )

Hội làng Phù Ðổng


Mồng bảy hội Khám Mồng tám hội Dâu Mồng chín đâu đâu Thì về
Hội Gióng.Hằng năm vào ngày mồng tám tháng Tư, tại đình làng
Gióng, tên chữ là làng Phù Ðổng, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh
có mở hội kỷ niệm đức Phù Ðổng Thiên Vương, tục gọi là Ðức
Thánh Gióng, rất linh đình và trang trọng.Hội đền Phù Ðổng
Thiên Vương tục gọi là hội Gióng rất vui với cuộc rước lịch sử,
diễn lại trận đánh giặc Ân của đức Thánh Gióng.


Sự tích

Ðời Hùng Vương thứ VI, có đám giặc gọi là giặc Ân hùng mạnh,
không ai đánh nổi. Vua bèn sai sứ đi rao trong nước để tìm người
tài giỏi ra đánh giặc giúp nước. Bấy giờ ở làng Phù Ðổng, có đứa
trẻ xin đi đánh giặc giúp vua. Sứ giả về tâu, vua lấy làm lạ, cho
đòi vào chầu. Ðứa trẻ ấy xin đúc cho một con ngựa và cái roi
bằng sắt. Khi ngựa và roi đúc xong thì đứa trẻ vươn vai một cái,
tự nhiên người cao lớn lên một trượng, rồi nhảy lên ngựa cầm roi
đi đánh giặc.

Phá được giặc Ân rồi, người ấy đi đến núi Sóc Sơn thì biến mất.
Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Ðổng, về sau phong
làm Phù Ðổng Thiên Vương".



Sửa soạn ngày hội


Hội đền Phù Ðổng Thiên Vương là một hội rất lớn do bốn xã
thuộc tổng Phù Ðổng cùng tổ chức với sự tham gia của làng hội
Xá, nên việc sửa soạn ngày hội cũng rất cẩn trọng, nhất là sửa
soạn cho cuộc diễn lại thần tích đức Thánh Gióng phá giặc Ân.


Trong bốn xã này có hai xã Phù Ðồng và Phù Dực được luân
phiên cử chủ tọa đám hội. Hai xã Ðổng Xuyên và Ðổng Viên chỉ
đóng vai phụ tá trong đám hội và chỉ được đóng vai quân lính do
thám. Mỗi xã được chia làm nhiều giáp, mỗi giáp tựa như một ấp
hiện nay.


Hàng giáp phải cử lấy những người giữ các vai quan trọng trong
cuộc diễn lại trận diệt giặc Ân. Những người này là các ông Hiệu,
hiệu Cờ trông nom cờ lệnh, hiệu Chiêng điều khiển khiêng, hiệu
Trống điều khiển trống. Còn một ông Hiệu Trung Quân để phối
hợp điều hòa sự tiến quân và hai ông Hiệu Tiểu Cổ để đi tiên
phong thám thính quân giặc.


Tất cả các ông Hiệu đều phải kén trong đám thanh niên từ 12
đến 26 tuổi. Có thể là những chàng trai đã lập gia đình rồi nhưng
phải chay tịnh trong suốt thời gian sửa soạn cho đến ngày hội.
Quân được chọn trong dân đinh bốn xã từ 18 đến 36 tuổi họp
thành 10 cơ, mỗi cơ gồm một cơ trưởng và 15 cơ binh. Kẻ địch là
quân tướng nhà Ân được tượng trưng bằng 28 thiếu nữ tuổi từ 10
đến 13 do hàng tổng cử ra để đóng vai 28 viên tướng giặc Ân, ăn
mặc sặc sỡ, đeo đồ trang sức lộng lẫy.



Cờ lệnh bằng lụa màu lòng đỏ trứng gà, rộng ba tấc rưỡi và dài
bảy vuông. Cờ do giáp chủ tọa may, đây chính là cờ đức Thánh
Gióng dùng trong ngày diễn trận. Mỗi năm thay cờ lệnh một lần.
Cờ năm trước, ông Hiệu cờ năm sau dùng để luyện tập trước
ngày diễn trận.


Ðể phân biệt với những lá cờ khác, trên cờ sẽ có chữ "Lệnh" do
một tay văn tự viết lên. Giáp chủ tọa trong mấy ngày đầu tháng
tư sẽ lựa một ngày tốt, mời một bậc đại khoa nếu có, bằng không
cũng phải mời một tay văn học tới viết chữ "Lệnh" này với sự
chứng kiến của tất cả các ông Giáp trưởng bốn xã trong hàng
tổng.

Những nghi lễ trước ngày mồng chín tháng Tư
Cuộc diện trận đã được sửa soạn từ ngày mồng sáu tháng Tư. N_
từ ba giờ chiều hôm mồng sáu, dân làng đã cử hành một đám
rước tới giếng trước đền Mẫu, tức là Ðền Hạ, để lấy nước lau rửa
tự khí dùng trong việc diễn trận. Nước đựng vào hai chỏe sứ. Hai
mươi bốn quân sĩ của Phù Ðổng Thiên Vương sắp hàng hai theo
bậc Giếng từ trên bờ tới mặt nước để lấy nước. Người cơ binh
đứng ở bậc Giếng cuối cùng, sát mặt nước, múc nước vào một
chiếc gáo đồng rồi chuyển cho người đứng cùng hàng với mình ở
trước mặt. Người này nhận gáo nước rồi lại chuyển cho người
đứng trước mặt mình bên bậc trên, đứng kế bên người vừa
chuyển cho mình...


Cứ lần lượt như vậy, gáo nước được chuyển theo đường chữ

"CHI" cho tới miệng Giếng đến tay người đứng bên chóe sứ. Ngườ
i này đổ nước vào choé, lọc qua một miếng vải điều theo hiệu
lệnh Cơ trưởng. Cơ trưởng mặc áo thụng xanh, đánh Kiểng để ra
lệnh cho người cơ binh đổ nước vào choé. Tự khí được rửa bằng
nước đã lọc đựng trong choé sứ ở n_ sân đình.

Ngày mồng bảy vào cuối giờ Tỵ, cờ lệnh được rước từ đền Mẫu
đến đền Thượng và buổi chiều vào lúc giờ Mùi, hàng tổng đi kiểm
soát lộ trình từ đền đến bãi trận. Có điều gì khiếm khuyết lập tức
phải sửa chữa và bổ khuyết n_.



Cuộc diễn trận chính thức

Vào giờ Tỵ ngày mồng Chín có lễ tế cờ tại đền, có cả mổ trâu giết
bò. Mọi người đều sẵn sàng để xuất trận. Mặt trận sơ sài, dưới
chân Ðê có một hồ sen, địch quân chiếm đóng nơi hồ. Quân Phù
Ðổng Thiên Vương tiến chiếm bờ hồ bên này, có một khoảng đất
trống với nhiều mô nhỏ. Có ba chiếc chiếu đã trải giữa những mô
đấy này. Giữa mỗi chiếc chiếu có một chiếc bát úp trên một tờ
giấy: Chiếu tượng trưng cho cánh đồng, Bát tượng trưng cho đồi
núi, Tờ giấy cho mây.


Cờ lệnh đã trương lên, ông Hiệu cờ tiếp lấy rồi tiến lên ba bước.
Rồi ông đứng ở giữa chiếc chiếu, hai chân chụm vào nhau. Ông
nhảy lên hai lần, sau đó ông quỳ gối bên phải xuống chiếu, bàn
chân trái dẫm ra đằng trước như hình chữ "Lệnh", hai tay ông
phất cờ lệnh, xoay mình ba lần. Dân chúng dự cuộc lúc đó mỗi

lần ông xoay mình lại đếm theo. ông đứng lùi khỏi chiếc chiếu.
Lập tức mọi người nhảy xô tới cướp lấy xé chiếc chiếu. Họ tin
những mảnh chiếu mang may mắn cho họ, và những người hiếm
con được mảnh chiếu có thể thấy được tin mừng.


Khi chiếc chiếu thứ ba được dân chúng xâu xé chia nhau hết
quân giặc cũng tan, các tướng giặc cũng rút lui hỗn loạn. Kiệu
của các cô thiếu nữ được rước về làng Phù Ðổng. Một tiệc khao
quân lớn diễ n ra n_ trước cửa đền. Trận tái chiến diễn ra ở bãi
Sòi Bia thuộc làng Phù Ðổng. ở đây cũng lại có ba chiếc chiếu
như ở Ðồng Ðàm. Ngày mùng mười tháng Tư, hàng tổng duyệt
lại đạo binh thắng trận. Các khí giới được kiểm soát. Hàng tổng
lạilàm lễ trước đền. Quân sĩ lại được khao thưởng. Thế là "thiên
hạ Thái Bình". Sau ngày diễn trận, hàng tổng lại tổ chức rước
nước để rửa lại khí giới, đồ thờ đã dùng trong việc chiến trận. Và
có nhiều trò vui cho khách trẩy hội thưởng thức: đánh vật, hát
chèo và có cô đầu hát thờ.


Ðến dự hội, người xem được chứng kiến nghi thức về một hệ
thống lễ với các động tác thuần tục, uy nghi mang tính nghệ
thuật và biểu tượng cao. Ðến hội, người ta có dịp cảm nhận được
mối quan hệ hai chiều giữ a làng và nước, giữa cá nhân và cộng
đồng, quá khứ và hiện tại như hòa nhập với nhau vừa thiêng
liêng, vừa huyền ảo. Truyền thống yêu làng-yêu nước được giữ
gìn như một tài sản văn hóa.





Lễ hội mùa xuân và hội hát Quan họ

Cho đến tận ngày nay, dân gian vẫn truyền nhau về những lễ hội
Quan họ nổi tiếng của một số làng Quan họ gốc như: Lim, Diềm,
Bịu, ó, Nhồi, Bùi, Bò, Nưa… với những câu ca:



“Mùng năm hội ó
Mùng sáu hội Nhồi
Mùng bẩy hội Bùi…”

Hoặc

“Mùng năm hội ó
Quan họ dồn về
Hội vui vui lắm
Chưa kịp đi tắm
Chưa kịp gội đầu
Giầu chưa kịp têm
Cau chưa kịp bổ
Miếng lành miếng xổ
Miếng lại quên vôi
Người có yêu tôi
Thì người cầm lấy”.

Giống như lễ hội của các làng khác, lễ hội của các làng Quan họ
cũng có hai phần: phần lễ và hội. Phần lễ là để thờ Thần
(Thánh), Phật nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh là “cầu may”-tức

cầu cho Thần, Phật phù hộ cho dân an vật thịnh, mùa màng
phong đăng hòa cốc. Phần hội là diễn ra các tục trò dân gian vui
chơi giải trí như: tuồng, chèo, ca trù, quan họ, vật… nhằm thư
giãn sức dân sau những ngày mùa vụ vất vả trong năm. Khác với
lễ hội của các làng khác, lễ hội của các làng Quan họ thường có
tục hát Quan họ diễn ra cả phần lễ và phần hội. Quan họ phần lễ
là để hát những làn điệu cổ có nội dung ca ngợi công đức của
Thần, Phật cầu may cho dân làng. Quan họ phần hội là để các
liền anh, liền chị của các làng đến dự hội hát đối đáp giao lưu,
mang đậm văn hóa lễ nghĩa của một vùng quê hàng ngàn năm
văn hiến.

Vào những ngày hội của các làng Quan họ, các liền anh, liền chị
Quan họ cùng quý khách thập phương nô nức đến trảy hội, bởi
sức hấp dẫn của các lễ hội Quan họ là người ta được thưởng thức
văn hóa Quan họ từ lề lối sinh hoạt cho đến lời ca tiếng hát ngọt
ngào, sâu lắng tình nghĩa con người. Đối với các làng Quan họ
“kết chạ” với nhau như: Diềm-Bịu, Bồ Sơn-Y Na-Khả Lễ… thì
không những họ coi nhau như anh em ruột thịt trong cuộc sống
hàng ngày, mà những ngày đình đám hội hè là dịp để sinh hoạt
giao lưu văn hóa Quan họ, thắt chặt thêm mối quan hệ đầy tính
nhân văn giữa hai làng. Thường thì từ vài ngày trước hội, làng có
hội cử đôi Quan họ sang làng Chạ (bạn) để có nhời mời Quan họ
bạn. Đúng hẹn, Quan họ chủ nhà sẽ ra tận đầu làng đón bạn
(khách) “tay bắt mặt mừng” bằng những câu ca Quan họ nghe
ngọt ngào, lịch thiệp, tế nhị, ví như:


“Ngày ngày ra đứng cổng làng
Trông về Quan họ mà mua lấy sầu

Ai làm mặt ủ mày chau
Ai làm đến nỗi nhớ nhau đi tìm
Ước gì đôi cánh như chim
Bay đến Quan họ để xem thế nào
Xem rằng ý ở làm sao
Nước thì không khát, nhưng
khát khao tình”.

Khi đón được bạn, khách, Quan họ chủ nhà sẽ đưa bạn vào đình,
chùa hát thờ Thần, Phật để cầu may, ví như:


“Chúng em ra tận đầu làng
Nghe lời thày dạy đón già thập phương

×