Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4 trường tiểu học minh tiến 2, huyện ngọc lặc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (775.78 KB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong chương trình, nội dung giáo dục ở tiểu học cùng với các mơn học khác,
mơn Tốn đóng vai trị quan trọng. Mơn Tốn ở tiểu học bước đầu hình thành và phát
triển năng lực trừu tượng hóa, khái qt hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú
học tập, phát triển hợp lí khả năng suy luận, phát triển phát triển trí thông minh, tư
duy độc lập, linh hoạt sáng tạo và khả năng phân tích tổng hợp cho HS. Trên cơ sở
cung cấp những tri thức ban đầu về số học, số tự nhiên, đại lượng cơ bản, giải tốn có
lời văn có ứng dụng thiết thực trong đời sống. Giải tốn là một hoạt động trí tuệ khó
khăn và phức tạp. Hình thành kĩ năng giải tốn khó hơn nhiều so với kĩ năng tính vì
bài tốn là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, quan hệ toán học. Giải tốn khơng chỉ
là nhớ mẫu để rồi áp dụng mà đòi hỏi nắm chắc khái niệm, nắm chắc ý nghĩa của
phép tính, nắm vững mối quan hệ tốn học. Giúp HS từng bước phát triển năng lực tư
duy, rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận, tập dượt khả năng quan sát, phỏng
đốn, tìm tịi, rèn luyện cho HS, giúp các em rèn đức tính kiên trì, cẩn thận, chu đáo,
chịu khó, tự lực vượt khó... vì khi giải các em phải tự mình xem xét vấn đề, tự mình
giải quyết vấn đề và kiểm tra lại kết quả. Bên cạnh đó nhiều bài tốn có nội dung thú
vị mà khi giải các em thấy hứng thú qua đó giúp các em ham thích mơn tốn và có
nhu cầu học tốn. Do vậy, việc dạy tốn có lời văn một cách hiệu quả sẽ giúp các em
trở thành những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực cuộc sống
thực tế hàng ngày.
Trong chương trình mơn tốn ở bậc tiểu học, các dạng tốn cơ bản chủ yếu nằm ở
lớp 4 và được sắp xếp xen kẽ với các kiến thức hạt nhân số học, hình học, góp phần
làm phong phú nội dung mơn Tốn ở tiểu học.
Ở lớp 4, kiến thức toán đối với các em khơng cịn mới lạ, khả năng nhận thức của
các em đã hình thành và phát triển ở các lớp trước, tư duy đã bắt đầu có chiều hướng
bền vững và đang ở giai đoạn phát triển vốn sống, vốn hiểu biết thực tế, bước đầu có
những hiểu biết nhất định. Chương trình Tốn 4 về giải tốn có lời văn chiếm thời
lượng tương đối nhiều, nhiều dạng toán mới, các bài tốn có kiến thức lời văn ở dạng
toán tổng hợp là tiền đề cho học sinh trong việc giải tốn ở các lớp trên. Đặc biệt nó
là “nền tảng” cho học sinh học toán và giải toán lớp 5. Vì hầu như những kiến thức


về tốn học mà học sinh đã được tiếp cận ở lớp 4, lên đến lớp 5 học sinh vẫn vận
dụng và sử dụng nhiều. u cầu đặt ra khi giải tốn có lời văn cao hơn những lớp
trước các em phải đọc nhiều, viết nhiều, yêu cầu của bài toán đưa ra đòi hỏi các em
phải tư duy suy nghĩ cao hơn. Song các em thường khơng chú ý phân tích các điều
kiện của bài tốn, khơng xác định được những yếu tố cơ bản của mỗi dạng toán hoặc
nhầm lẫn dạng tốn thì sẽ lựa chọn sai phép tính nên kết quả giải tốn khơng cao.
Với những lí do đó, việc học tốn và giải tốn có lời văn rất quan trọng và cần
thiết đối với HS. Để thực hiện được mục tiêu này, người giáo viên phải nghiên cứu
tìm giải pháp thích hợp, giúp các em hiểu được thực chất của vấn đề cần tìm, có
phương pháp suy luận lơ gíc thơng qua cách trình bày lời giải đúng, ngắn gọn, sáng
tạo. Từ đó giúp các em hứng thú say mê học tốn. Vì vậy dạy như thế nào để phát
1


huy triệt để lợi thế của các dạng toán và có quy trình giải dễ nhớ cho HS, tơi đã tìm
hiểu, nghiên cứu "Một số biện pháp nâng cao chất lượng giải tốn có lời văn cho
học sinh lớp 4" ở trường Tiểu học Minh Tiến II – Ngọc Lặc.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp HS phân biệt các dạng tốn có lời văn trong chương trình lớp 4.
- Thực hiện giải tốt các bài tốn có lời văn theo chuẩn kiến thức và kỹ năng. Giúp
HS tiếp cận, say mê, vượt qua khó khăn để học tập, giải được các bài tốn có lời văn
trong trương trình lớp 4, làm cơ sở vững chắc học và giải các bài toán lớp trên.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp nâng cao chất lượng giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 4.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra: Điều tra thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc
dạy - học tốn có lời văn chưa hiệu quả.
- Phương pháp thực nghiệm: nhằm đối chiếu kết quả, áp dụng các giải pháp, biện
pháp dạy học giải tốn có lời văn cho HS.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc tài liệu có liên quan đến dạy học tốn.

- Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phân tích các yếu tố và tổng hợp kinh
nghiệm, đề xuất các biện pháp thực hiện đề tài.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận về giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4
Giải tốn là một thành phần quan trọng trong chương trình giảng dạy mơn tốn ở
bậc tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ với nội dung của
số học và số học tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản và các yếu tố đại
số, hình học có trong chương trình.
Các khái niệm và các qui tắc về tốn trong sách giáo khoa, nói chung đều được
giảng dạy thơng qua việc giải tốn. Việc giải toán giúp học sinh củng cố vận dụng
các kiến thức, rèn luyện các kĩ năng tính tốn. đồng thời qua việc giải tốn của HS
mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện ra những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về
kiến thức, kĩ năng và tư duy để giúp các em phát huy và khắc phục. Việc giải tốn
góp phần quan trọng vào rèn luyện cho HS năng lực tư duy và những đức tính tốt của
con người lao động mới. Hoạt động trí tuệ có trong việc giải tốn góp phần giáo dục
cho các em ý trí vượt khó, đức tính cẩn thận, chu đáo, làm việc có hiệu quả, có kế
hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, có thói quen tự kiểm tra kết quả cơng việc mình
làm, có óc độc lập, suy nghĩ sáng tạo thơng qua việc tìm ra những lời giải mới hay và
ngắn gọn.
Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống thực tiễn được thực
hiện thơng qua việc cho HS giải tốn, các bài tốn liên hệ với cuộc sống một cách
thích hợp giúp các em biết vận dụng những kĩ năng đó trong cuộc sống.
Việc giải tốn có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm tốn học. Ví dụ: các
số, các phép tính, các đại lượng... đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong
thực tiễn hoạt động của con người, thấy được các mối quan hệ biện chứng giữa các
dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm.
2


Vì vậy giải tốn có lời văn là một hoạt động gồm các thao tác xác lập mối quan

hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài tốn, chọn
được phép tính thích hợp, trả lời đúng câu hỏi của bài tốn có lời văn nói chung và
dạng tốn có lời văn lớp 4 nói riêng là:
+ Tìm số trung bình cộng.
+ Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.
+ Tìm phân số của một số.
+ Tìm hai số khi biết tổng hoặc hiệu và tỉ số của hai số đó.
+ Tính chu vi, diện tích của một số hình đã học.
Ngồi ra cịn có dạng tốn về ứng dụng tỷ lệ bản đồ.
Đặc điểm của học sinh tiểu học là nhanh nhớ nhưng cũng chóng quên, kỹ năng
tính tốn cịn nhầm lẫn, đó cũng là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện
các bước giải một bài tốn có lời văn mà các em phải suy nghĩ, tìm tịi cách giải cũng
như vận dụng khả năng trình bày diễn đạt đúng ngơn ngữ tốn học. Do đó, để đạt
hiệu quả trong giảng dạy nói chung và trong việc giúp đỡ học sinh giải tốt toán có lời
văn thì người GV cần nắm bắt được khả năng của từng học sinh để vận dụng những
hiểu biết đó vào trong q trình dạy tốn có hiệu quả.
2.2. Thực trạng về giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 4 ở trường Tiểu học
Minh Tiến II - Ngọc Lặc trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Đặc điểm tình hình của địa phương
Trong những năm học gần đây, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo đồng thời
nhà trường cũng làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục nên nhận thức của người dân,
của các phụ huynh HS đối với công tác giáo dục đã có phần đổi mới. Tuy nhiên
trường Tiểu học Minh Tiến II đóng trên địa bàn của một xã đặc biệt khó khăn, nhiều
HS thuộc gia đình hộ nghèo, trình độ dân trí cịn thấp và người dân chủ yếu là người
dân tộc Mường. Nhiều gia đình, bố mẹ đi làm ăn xa hoặc bố mẹ không cùng chung
sống với nhau, con cái phải ở với ông bà nên việc người dân quan tâm đến công tác
giáo dục chung của xã cịn nhiều hạn chế, coi đó là nhiệm vụ của các thầy các cô.
Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến công tác giáo dục, đến việc học của các
em nên nhiều HS đến trường còn thiếu sách vở, đồ dùng học tập (việc chuẩn bị chưa
đầy đủ), về nhà không ôn bài, không được kèm cặp, nhắc nhở. Cũng có số ít phụ

huynh quan tâm nhưng họ gặp hạn chế trong việc hướng dẫn con cái học tập, đặc biệt
là việc hiểu biết để kèm cặp giải tốn có lời văn cho con em mình là một vấn đề khó.
2.2.2. Đối với giáo viên
Giáo viên giảng dạy khối 4 của nhà trường là những giáo viên trẻ, khoẻ, nhiệt
tình, u nghề và có trình độ chun mơn đạt chuẩn và trên chuẩn; có đầy đủ các tài
liệu và đồ dùng dạy học. Đồng thời sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường qua
việc dự giờ, góp ý cũng như chỉ đạo có hiệu quả về cơng tác chun mơn.
Tuy vậy, một số GV vẫn cịn lúng túng trong việc đổi mới phương pháp dạy học
môn Tốn, cách dạy cịn rập khn, máy móc, chưa linh hoạt, sáng tạo. Mặt khác có
những GV cịn nhiều hạn chế trong xác định dạng toán trong dạy học.
2.2.3. Đối với học sinh

3


- Lớp 4, các bài toán hợp chiếm đa số, hầu như trong một bài của một tiết học, bài
học nào cũng có ít nhất là một bài tốn giải. Dạng toán hợp là dạng toán mà học sinh
lớp 4 gặp khó khăn nhiều hơn trong q trình học tốn. Vì từ ở lớp 1, lớp 2, lớp 3, HS
đang chủ yếu học về các bài toán đơn với câu hỏi cụ thể, rõ ràng chỉ cần làm một đến
hai phép tính (hoặc ba phép tính). Đặc biệt ở những lớp học trước HS ít có thói quen
tìm hiểu, phân tích đề tốn để tìm “cái đã cho” và “cái cần tìm”. Các câu hỏi ở bài
tốn hợp có tính chất bắc cầu. Nghĩa là để trả lời được câu hỏi cuối cùng của bài tốn
(tức là tìm đáp số) thì học sinh phải suy luận ra câu hỏi “ẩn” dựa vào những dự liệu
của bài toán đã cho. Và đặc biệt phải liên hệ được với những kiến thức đã học. Cách
suy luận này ở HS còn rất yếu và các em chưa có thói quen tóm tắt đề bằng sơ đồ.
- Các em thường gặp rất nhiều khó khăn trong khi giải tốn có lời văn ở tất cả các
bước giải tốn, các em thường phân tích đề tốn một cách máy móc, thiếu linh hoạt,
tư duy, phán đốn chậm. Chủ yếu là phân tích theo hướng tư duy đã được gợi ý theo
mẫu hay trong từng bài cụ thể theo hướng dẫn của GV.
- Khi viết câu trả lời thường không chặt chẽ, nhiều khi thiếu hợp lý, thậm chí

khơng đúng; kĩ thuật tính tốn đơi khi nhầm lẫn, cịn chưa hiểu rõ ý nghĩa của phép
tính trong cách giải.
- Đa phần HS thường xác định sai dạng tốn, suy luận chưa hợp lí dẫn đến việc
giải tốn sai.
- HS tiểu học thường thiếu kiên trì, chưa chịu khó thực hiện những địi hỏi sự cẩn
thận. Do trình độ tiếp thu có hạn nên lười suy nghĩ làm cho xong việc. Một số em ý
thức còn chưa cao, thiếu tự giác trong học tập.
2.2.4. Hiệu quả của thực trạng
Từ thực trạng trên dẫn đến chất lượng dạy học giải tốn có lời văn cho HS lớp 4
chưa cao, kết quả điều tra học sinh lớp 4 về giải các dạng tốn có lời văn đã học vào
thời điểm đầu năm học như sau:
Năm học

Lớp

Tổng
số HS

Điểm 9-10

Điểm 7-8

Điểm 5-6

Điểm dưới 5

SL
%
SL
%

SL %
SL
%
2015-2016 4A
25
0
0
6 24,0 12 48,0
7
28,0
2016-2017 4A
27
0
0
7 25,9 11 40,7
9
33,3
Từ thực trạng trên, tơi đã nghiên cứu, tìm hiểu, đề xuất, áp dụng “Một số biện
pháp nâng cao chất lượng giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 4” ở trường Tiểu
học Minh Tiến II – Ngọc Lặc.
2.3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng giải tốn có lời văn cho học sinh
lớp 4
Trước thực trạng trên tôi đã áp dụng một số biện pháp rèn kỹ năng Giải tốn có
lời văn cho học sinh lớp 4 theo định hướng phát triển tư duy, phát triển trí thơng
minh, linh hoạt sáng tạo và khả năng phân tích tổng hợp cho HS nhằm nâng cao hiệu
quả giờ dạy, nâng cao chất lượng mơn Tốn cho học sinh như sau:
2.3.1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm, xây dựng kế hoạch cụ thể cho
từng môn học và sự phối kết hợp với phụ huynh trong công tác giáo dục học sinh
4



- Ngay từ đầu năm học, tôi tiến hành phối hợp với GV chủ nhiệm năm trước, kết
hợp với điều tra thực tế để nắm rõ đặc điểm tình học sinh của lớp như hồn cảnh gia
đình của từng HS, khả năng học tập, số điện thoại và nơi ở của gia đình học sinh, …
để xây dựng kế hoạch giảng dạy, kế hoạch chủ nhiệm của lớp. Trong kế hoạch đó,
xây dựng kế hoạch cụ thể từng tháng, từng em về những ưu điểm, cũng như tồn tại về
từng mơn học, trong đó có mơn Tốn. Đối với mơn Tốn, tơi tìm hiểu, thống kê chi
tiết từng HS theo từng nội dung kiến thức mà các em đã đạt dược hoặc chưa đạt được
để có biện pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng HS.
- Thông qua các buổi họp phụ huynh, tuyên truyền, vận động để các phụ huynh
thấy được sự quan trọng của việc học tập của các em... đồng thời trao đổi, bàn bạc
tìm ra các biện pháp để các em học tốt các môn học nói chung và mơn tốn nói riêng.
Đề nghị phụ huynh quan tâm, tạo điều kiện để các em đến trường có đẩy đủ sách giao
khoa và đồ dùng học tập cần thiết; đồng thời phối hợp với phụ huynh HS cùng kết
hợp động viên học sinh đi học chuyên cần, thực hiện tốt nhiệm vụ của người HS cũng
như kèm cặp HS học tập ở nhà thông qua sổ liên lạc, điện thoại hoặc đến nhà trao đổi
trực tiếp... việc học tập của HS.
2.3.2. Biện pháp 2: Chuẩn bị kĩ cho việc học tốt mơn Tốn
Trong q trình giảng dạy GV không nhất thiết bắt buộc học sinh phải nhớ đây là
dạng toán nào nhưng phải xác định được bài toán này thuộc dạng toán nào đã học?
Bởi sự phân chia các dạng tốn hợp chỉ có tính tương đối nhằm giúp HS làm quen và
biết cách giải một số loại toán hợp khác. Điều chủ yếu là GV phân tích kĩ từng mẫu
bài tốn, biết lập luận một cách logic để tìm ra cách giải nhanh và đúng. HS phải biết
xác định đâu là giả thiết, đâu là kết luận của bài tốn, từ đó tìm ra cách giải tương
ứng của mỗi dạng tốn.
Từ cơ sở trên, tơi có phương hướng giải quyết vấn đề giúp HS hình thành kĩ năng,
kĩ xảo trong việc giải toán. Muốn giải được toán, học sinh cần nắm được các bước,
phương pháp chung giải tốn có lời văn như sau:
+ Bước 1: Đọc kĩ đề toán, xác định bài toán cho biết gì và bài tốn hỏi gì?
Mỗi đề tốn bao giờ cũng đều có hai bộ phận: Bộ phận thứ nhất là những điều đã

cho, bộ phận thứ hai là cái phải tìm. Muốn giải bất kì bài tốn nào học sinh cũng cần
phải xác định đúng hai bộ phận đó.
Chúng ta cần tập trung vào những từ quan trọng (từ khóa) của đề tốn, từ nào
chưa hiểu thì phải tìm hiểu ý nghĩa của nó.
HS cũng cần phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất của đề tốn, những gì khơng
thuộc về bản chất của đề tốn để hướng sự chú ý của mình vào những chỗ cần thiết.
+ Bước 2: Tóm tắt đề tốn bằng sơ đồ, hình vẽ hoặc ngơn ngữ, kí hiệu ngắn gọn.
Thơng qua đó để thiết lập mối liên quan cái đã cho và cái cần phải tìm.
+ Bước 3: Phân tích các mối quan hệ giữa các “ dữ kiện” đã cho với “kết luận” để
tìm ra cách giải bài tốn. Kết quả các bước này là xác định một trình tự để giải bài
toán.

5


Thực chất của việc giải toán là bắt những chiếc cầu từ cái đã cho và cái phải tìm.
Có nhiều phương pháp để bắc được những chiếc cầu đó, và đó chính là q trình
phân tích bài tốn. Thơng thường ở tiểu học thường dùng các cách sau:
Suy nghĩ theo đường lối phân tích: Tập trung suy nghĩ vào câu hỏi của bài toán,
nghĩ xem muốn trả lời được câu hỏi của bài tốn thì phải biết những gì và phải làm
những phép tính gì? Trong những điều cần biết đó cái nào đã cho sẵn trong đề tốn,
cái nào phải tìm? Muốn tìm được cái này thì phải biết những gì và làm phép tính
gì?... Cứ như thế suy nghĩ từ câu trả lời của bài toán trở về các điều đã cho của bài
toán. Đây là cách hay dùng nhất.
Cũng có thể suy nghĩ xem từ các điều đã cho trong từng bài tốn có thể suy ra
điều gì, tính ngay được cái gì? Từ những cái đó có thể suy ra hoặc tính được điều gì
giúp ích cho việc giải bài tốn khơng?.... Như thế ta suy luận dần dần: Từ những điều
đã cho đến câu hỏi của bài tốn.
Ngồi ra trong một số bài tốn chúng ta phải kết hợp cả hai cách nói trên để giải
quyết bài tốn.

+ Bước 4: Thực hiện các phép tính theo trình tự giải đã có để đi tới đáp số.
Sau quá trình nghĩ tìm cách giải và thiết lập được trình tự giải bài tốn, chúng ta
thực hiện các phép tính và đi đến kết quả. Mỗi bài giải đều có hai phần: Các câu lời
giải và các phép tính. Việc viết câu lời giải phải ngắn gọn và đúng yêu cầu nội dung
của bài toán và ứng với một câu lời giải là một phép tính kèm theo.
Sau khi giải xong một phép tính hay một bài tốn đều phải tiến hành cơng việc
thử lại xem phép tính hay đáp số của bài tốn đó đã đúng hay chưa.
Đối với những bài tốn q đơn giản thì có thể bỏ bớt một vài bước hoặc một vài
hoạt động trong các bước trên.
Tuy nhiên với những HS hoàn thành tốt thì khuyến khích cho các em giải bài tốn
bằng nhiều cách. Phân tích, so sánh tìm ra cách giải hay nhất, hợp lí nhất. Đây là cách
rất tốt để HS tự rèn luyện cho mình năng lực suy nghĩ độc lập, linh hoạt, trí thơng
minh và óc sáng tạo.
Ví dụ: Với bài tốn: “ Hai vịi nước cùng chảy vào một bể được 962 lít. Vịi thứ
nhất chảy trong 21 giờ, vòi thứ hai chảy trong 16 giờ. Hỏi mỗi vịi chảy được bao
nhiêu lít nước? (Số lít nước mỗi vòi chảy trong mỗi giờ là như nhau)”

Bài giải
Cách giải thơng thường:
Tổng số giờ của hai vịi nước chảy là:
21 + 16 = 37
(giờ)
Mỗi giờ một vòi chảy được là:

6


962 : 37 = 26 (lít)
Vịi thứ nhất chảy được là:
26 x 21 = 546 (lít)

Vịi thứ hai chảy được là:
26 x 16 = 416 (lít)
Đáp số: Vịi thứ nhất: 54 lít
Vịi thứ hai: 416 lít.
Giải bằng cách khác:
Mỗi giờ một vòi chảy được là :
962 : ( 21 + 16 ) = 26 (lít)
Vịi thứ nhất chảy được là :
Học sinh lớp 4A
26 x 21 = 546 (lít)
trình bày bài giải bằng 2 cách
Vòi thứ hai chảy được là:
26 x 16 = 416 (lít)
Đáp số: Vịi thứ nhất: 546 lít
Vịi thứ hai: 416 lít.
2.3.3. Biện pháp 3: Người giáo viên phải nắm vững nội dung giải tốn có lời
văn ở lớp 4 và giúp học sinh nắm vững cách giải các dạng tốn đó
Nội dung các bài tốn có lời văn ở lớp 4 là:
- Tìm số trung bình cộng.
- Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.
- Tìm phân số của một số.
- Tìm hai số khi biết tổng hoặc hiệu và tỉ số của hai số đó.
- Tính chu vi, diện tích của một số hình đã học.
- Ngồi ra cịn có dạng tốn về ứng dụng tỷ lệ bản đồ.
Nhìn chung, các bài tốn có lời văn dạng tốn tổng hợp ở lớp 4 yêu cầu HS phải
biết trình bày lời giải đầy đủ đúng với phép tính tương ứng và có đáp số. Trong đó,
tên đơn vị phải viết đúng như quy định. Từ đó tơi đã định hướng cho HS giải tốn
như sau:
2.3.3.1. Dạng bài tốn tìm số trung bình cộng:
Dạng tìm số trung bình cộng HS cần nắm được hai bước giải và thực hiện tốt hai

bước giải đó (khơng kể bước trung gian nếu có).
Bước 1: tính tổng các số đó
Bước 2: chia tổng đó cho các số hạng
Bài 3 (SGK – trang 28): Số đo chiều cao của 5 học sinh lớp bốn lần lượt là
138cm, 132cm, 130cm, 136cm, 134cm. Hỏi trung bình số đo chiều cao của mỗi em là
bao nhiêu xăng-ti- mét? [1].
Đây là dạng bài toán HS chỉ cần vận dụng vào kiến thức cơ bản là làm được, do
đó HS ít phải đầu tư suy luận mà chủ yếu là vận dụng vào kỹ năng cộng, chia nên HS
chỉ cần thực hiện.
Bài giải
Trung bình số đo chiều cao của mỗi em là:
7


(138 + 132 + 130 + 136 + 134) : 5 = 134 (cm)
Đáp số: 134 cm
Bài 4 (SGK – Trang 28): Có 9 ơ tơ chuyển thực phẩm vào thành phố, trong đó có
5 ơ tơ đi đầu, mỗi ô tô chuyển được 36 tạ và 4 ô tô đi sau, mỗi ô tô chuyển được 45
tạ. Hỏi trung bình mỗi ơ tơ chuyển được bao nhiêu tấn thực phẩm? [1].
Đây là dạng bài toán mà qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 4, tôi thấy HS phần lớn
chỉ lấy (36 tạ + 45 tạ): 2. Do đó, khơng những HS sai về kiến thức mà khi chia 81cho
2 thì khơng hết được nên HS đều để dư là 1. Trái lại, khi đã nói đến tìm số trung bình
cộng thì “khơng bao giờ có dư”.
Chính từ lý do trên tôi đã định hướng cho HS cách giải bài tốn này như sau:
+ Số trung bình cộng ở đây là 9 ô tô (tức là 1 ô tô) chứ không phải là của 5 ô tô đi
trước (là 1); ô tô đi sau (là 1) mà chia cho 2.
+ Mà ta phải tính được số sản phẩm của 5 ô tô đi đầu chuyển được và số sản
phẩm của 4 ô tô đi sau chuyển được rồi chia cho tổng số các ô tô ở đây là 9 (9 ô tô)
+ Cách giải như sau:
5 ô tô đi đầu chuyển được số sản phẩm là:

5 x 36 = 180 ( tạ)
4 ô tô đi sau chuyển được số sản phẩm là:
4 x 45 = 180 (tạ)
Trung bình mỗi ơ tô chuyển được số sản phẩm là:
(180 + 180) : 9 = 40 (tạ)
Đổi 40 tạ = 4 tấn
Đáp số: 4 tấn.
+ Lưu ý HS cần phải đọc kỹ câu hỏi vì đơn vị cho là tạ, câu hỏi thì lại là tấn, nên
nếu học sinh cứ quen cách trả lời ở lớp 1, 2, 3 thì sẽ đẫn đến sai lời giải thứ 3 dẫn tới
bài toán thực hiện chưa hồn chỉnh. Cụ thể như các ví dụ sau:
Bài 3 ( SGK – Trang 37): Một cửa hàng ngày đầu bán được 120m vải, ngày thứ 2
1
2

bán được bằng
số mét vải bán trong ngày đầu, ngày thứ ba bán được gấp đơi
ngày đầu. Hỏi trung bình mỗi ngày cửa hàng bán được bao nhiêu mét vải? [1].
- Đây là dạng bài toán HS gặp rất nhiều lúng túng trong quá trình làm bài. Vì hầu
hết khi đọc xong đề bài HS khơng phân tích được đề bài. Vả lại vốn ngơn ngữ suy
luận của HS cịn hạn chế, dẫn đến có rất ít HS tự làm được kiểu bài toán này.
- Cần định hướng cho HS giải như sau:
+ Ta thấy đề bài chỉ cho ta biết về số liệu cụ thể của ngày đầu. Vậy ta cần phải
tìm được số vải của ngày thứ hai và ngày thứ ba dựa vào số vải của ngày đầu.
+ Tóm tắt đề bài bằng sơ đồ đoạn thẳng một cách hợp lý nhất. Theo sơ đồ sau:
Ngày thứ hai :
120m
Ngày thứ nhất:
Ngày thứ ba:

8



+ Nhìn vào sơ đồ ta giải bài tốn như sau:
Bài giải
Ngày thứ hai bán được số mét vải là:
120: 2 = 60 (m)
Ngày thứ ba bán được số mét vải là:
120 x 2 = 240 (m)
Trung bình mỗi ngày cửa hàng bán được số mét vải là:
(120 + 60 + 240) : 3 = 140 (m)
Đáp số: 140 m
2.3.3.2. Dạng bài tốn về tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó:
Ở dạng này HS này cần xác định được dạng tốn thơng qua việc xác định các
thuật ngữ “tổng, hiệu, số lớn, số bé” các thuật ngữ này đôi khi tường minh, đôi khi
không tường minh (tuổi cha hơn tuổi con là 25, cha và con cộng lại là 75) nên xác
định cho tường minh các thành phần ứng với công thức là rất quan trọng. Nắm chắc
cách giải và kĩ thuật tính tốn có liên quan. Giải được bài toán đúng lời văn ngắn gọn
đầy đủ chính xác. Cụ thể như các ví dụ sau:
Bài 2 (SGK – Trang 48): Tuổi chị và tuổi em cộng lại được 36 tuổi. Em kém chị 8
tuổi. Hỏi chị bao nhiêu tuổi, em bao nhiêu tuổi? [1].
- Đối với dạng bài toán này phải giúp học sinh hiểu rõ và xác định được đâu là số
lớn, đâu là số bé.
- Vẽ sơ đồ và cần phải giải bài toán theo cách vẽ sơ đồ. Vậy giải bài toán như sau:
? tuổi
Tuổi của em là:
Tuổi em:
(36 – 8) : 4 = 14 (tuổi)
8 tuổi 36 tuổi
Tuổi của chị là:
Tuổi chị:

36 – 14 = 22 (tuổi)
? tuổi
(hoặc 14 + 8 = 22 (tuổi))
Đáp số: Em: 14 tuổi
Chị: 22 tuổi.
Thử lại: 14 + 22 = 36
22 – 14 = 8
Ví dụ: Bài toán: Mẹ hơn em 25 tuổi, sau đấy 5 năm tổng số tuổi của hai mẹ con
em là 53 tuổi. Tính số tuổi của mỗi người hiện nay?
- Đây là dạng bài tốn tìm hai số khi biết tổng và hiệu vẫn liên quan đến tính tuổi.
Nhưng khi đọc xong đề bài có rất ít HS hiểu được đề bài. Do đó GV cần định hướng
cho HS đọc kỹ đề bài và hiểu được từ “sau đấy 5 năm” có nghĩa là sau 5 năm nữa thì
tổng số tuổi của hai mẹ con mới là 53 tuổi.
- Vậy để tính được tuổi của mỗi người hiện nay ta phải dựa vào tuổi của hai mẹ
con sau 5 năm rồi lấy số tuổi đó trừ đi 5.
- Hướng dẫn vẽ sơ đồ:
Tuổi mẹ:
Tuổi con:

5tuổi

25 tuổi

53 tuổi

9


Bài giải
Vì sau 5 năm mẹ tăng 1 tuổi, thì con cũng tăng 1 tuổi. Ta có:

Tuổi mẹ sau 5 năm nữa là:
(53 + 25) : 2 = 39 (tuổi)
Tuổi mẹ hiện nay là:
39 – 5 = 34 (tuổi)
Tuổi con hiện nay là:
34 - 25 = 9 (tuổi)
Đáp số: Mẹ: 34 tuổi
Con: 9 tuổi

GV hướng dẫn giải Tốn: Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó- Lớp 4A
Ví dụ: Bài tốn: Một hình chữ nhật có chu vi 84 cm, chiều dài hơn chiều rộng
6cm. Tính diện tích hình chữ nhật đó?
- Thực ra bài tốn này HS thường nhầm lẫn cả chu vi là tổng của hai số. Do đó,
đối với dạng bài tốn này cần hướng dẫn HS nắm vững tổng hai số có nghĩa là số đo
của một chiều dài và chiều rộng.
- Vì vậy khi biết cả chu vi ta phải tìm nửa chu vi.
- Hướng dẫn học sinh giải bài toán này như sau:
Nửa chu vi hình chữ nhật là:
84 : 2 = 42 (cm)
Ta có sơ đồ:
Chiều dài:
6cm
42cm
Chiều rộng:
Chiều dài hình chữ nhật là:
(42 + 6) : 2 = 24 (cm)
Chiều rộng hình chữ nhật là:
24 – 6 = 18 (cm)
Diện tích hình chữ nhật là:
24 x 18 = 432(cm2)

10


Đáp số: 432 cm2
2.3.3.3. Dạng bài tốn về tìm phân số của một số.
- Đối với dạng bài toán này, thực ra là dạng bài tốn tìm 1 phần mấy của một số,
nhưng được phát triển ở mức độ cao hơn có liên quan đến phân số.
- Tuy vậy, trong khi giải tốn vẫn có nhiều HS bị nhầm lẫn là lấy số đó để chia
cho phân số. Nếu vậy thì áp dụng vào quy tắc chia một số cho một phân số sẽ hồn
tồn sai.
- Chính vì thế khi dạy dạng bài toán này, GV cần lưu ý HS phải ln ln nhớ lấy
số đó chia, nhân với phân số rồi thực hiện tính. Nhưng như thế thì vẫn cịn có nhiều
HS bị nhầm lẫn nên để HS nhớ một cách đơn giản nhất là: Lấy số đó chia cho mẫu số
rồi nhân với tử số hoặc nhân tử số chia cho mẫu số.
8
9

Ví dụ: Bài tốn: Một trưịng học có 432 học sinh nữ, số học sinh nam bằng
số học sinh nữ. Hỏi trường học đó có tất cả bao nhiêu học học sinh?
- Đối với dạng bài tốn này khơng tóm tắt đề bài.
- Hướng dẫn HS tìm số HS nam bằng cách lấy số HS nữ là 432 chia cho tổng số
phần là 9, có nghĩa là 1 phần bằng nhau của HS nữ cũng chính là 1 phần bằng nhau
của HS nữ cũng chính là một phần bằng nhau của HS nam.
- Lấy một phần bằng nhau của HS nữ nhân với tổng số phần của HS nam.
- Lấy số HS nữ cộng với HS nam thì được số HS của cả trường.
Số học sinh nam của trường đó là:
(432: 9) x 8 = 384 (học sinh)
Trường học đó có tất cả số học sinh là:
432 + 334 = 816 (học sinh)
Đáp số: 816 học sinh

2.3.3.4. Dạng bài tốn về tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số đó:
Mục tiêu cụ thể khi dạy dạng này xác định dạng tốn thơng qua việc xác định các
thuật ngữ “tổng, tỉ số” các thuật ngữ này đôi khi không tường minh (ẩn trong dạng
tốn khác)
Ví dụ: Một cửa hàng ngày thứ nhất bán được 123m vải. Ngày thứ hai bán được
1
4 số mét vải

gấp 3 lần ngày thứ nhất. Như vậy trong hai ngày cử hàng bán được
hiện có ? Hỏi cửa hàng có tất cả bao nhiêu mét vải, cịn lại bao nhiêu mét vải?
- HS phải nắm được 3 bước giải (khơng kể bước trung gian nếu có) đó là:
Bước 1: Tìm tổng số phần bằng nhau
Bước 2: Tìm giá trị một phần bằng nhau
Bước 3: Tìm hai số + giải được bài tốn chính xác ngắn gọn
- Đây là dạng bài toán khi vừa được tiếp cận học sinh thường nhầm lẫn với dạng
bài tìm phân số của một số vì HS hiểu một cách máy móc. Số đã biết bằng tổng, phân
số bằng tỷ số.
- Nên khi dạy dạng bài toán này phải lưu ý HS phân biệt được tổng thì phải là hai
số. tỉ số là phần của số này so với số kia.

11


- Ví dụ: Hiện nay tổng số tuổi của hai bố con là 50. tuổi bố gấp 4 lần tuổi con.
Tính tuổi của mỗi người sau 5 năm?
+ Đối với bài toán này cần hướng dẫn học sinh hiểu, bố gấp 4 lần tuổi con, có
nghĩa là tuổi bố tương ứng với 4 phần, con tương ứng với 1 phần.
+ Từ đó định hướng cho học sinh cách vẽ sơ đồ, tính tuổi của mỗi người hiện nay.
Rồi tính tuổi của mỗi người sau 5 năm như sau:
Bài giải:

Ta có sơ đồ:
? tuổi
Bố:

50 tuổi

Con:
? tuổi

Tổng số phần bằng nhau là:
4 + 1 = 5 (phần)
Tuổi bố hiện nay là:
(50: 5) x 4 = 40 (tuổi)
Tuổi con hiện nay là:
50 – 40 = 10 (tuổi)
Tuổi bố sau 5 năm là:
40 + 5 = 45 (tuổi)
Tuổi con sau 5 năm là:
10 + 5 = 15 (tuổi)
Đáp số: Bố: 45 tuổi
Con: 15 tuổi
2.3.3.5. Dạng bài tốn tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó:
Mục tiêu cần làm cho HS xác định được dạng tốn thơng qua các thuật ngữ “hiệu,
tỉ số” các thuật ngữ này nhiều khi không tường minh nắm chắc các bước giải
như dạng tốn Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó. Cụ thể như sau:
Ví dụ: Bài tốn: Một trang trại có số gà trống kém số gà mái là 1295 con gà.
Biết rằng 8 lần số gà trống thì bằng số gà mái. Tính số gà mái của trang trại đó?
- Khi dạy dạng bài tốn này, sau khi tóm tắt bài tốn này sau khi tóm tắt bằng sơ
đồ, HS thường nhầm lẫn với dạng bài toán về tổng hoặc không xác định được số lớn
bằng mấy phần, số bé là mấy phần.

- Đối với bài toán này HS dễ nhầm lẫn số gà trống là 8 phần, còn gà mái là 1
phần. Nhưng thực tế gà mái mới là 8 phần, còn gà trống chỉ là 1 phần. Do HS chưa
hiểu cụm từ “8 lần số gà trống thì bằng số gà mái”.
- Từ phân tích trên định hướng cho HS cách giải như sau:
Bài giải:
Ta có sơ đồ:
? con
Số gà mái:

12


1295con

Số gà trống:
?con

Hiệu số phần bằng nhau là
8 – 1 = 7 (phần)
Số gà mái là:
(1295 : 7) x 8 = 1480 (con)
Số gà trống là
1480 – 1295 = 185 (con)
Đáp số: Gà mái: 1480 con
Gà trống: 185 con
2.3.3.6. Dạng tốn: Tính chu vi , diện tích một số hình đã học :
- Dạng toán này GV hướng dẫn HS tóm tắt bằng ký hiệu tốn học: cách tóm tắt
này thường ngắn gọn, xúc tích, được áp dụng với các bài tốn có liên quan đến các
cơng thức cơ bản mà HS phải nhớ được các ký hiệu của từng đại lượng. Song ở mơn
tốn lớp 4 thường là các ký hiệu đối với bài tốn về hình học. Như: S: diện tích, P:

chu vi, h: chiều cao, a: độ dài đáy.
Ví dụ: Một mảnh đất trồng hoa hình bình hành có độ dài đáy 40 dm, chiều cao 25
dm. Tính diện tích mảnh vườn đó .
Đối với bài tốn trên học sinh có thể tóm tắt như sau :
Hình bình hành có:
a: 40dm, h: 25dm
S : … dm2 ?
Sau khi tóm tắt được bài tốn nêu trên, HS sẽ tính được diện tích của hình bình
hành theo cơng thức: S = a x h
- GV phải rèn cho HS kỹ năng phân tích, suy luận trên sự tóm tắt bài tốn để xác
lập các phép tính sao cho phù hợp, cụ thể người GV phải nêu ra hệ thống câu hỏi
như: tìm số đó bằng cách nào? làm phép tính gì? làm thé nào để tìm được?
- Lời giải trước mỗi phép tính thường là những câu ngắn gọn, sát với nội dung
phép tính sắp trình bày.
Ví dụ: Bài 3 (SGK – trang 85) [1].
Bài giải
Chiều dài mảnh đất hình chữ nhật là:
( 307 + 97 ) : 2 = 202 ( m )
Chiều rộng mảnh đất hình chữ nhật là:
202 – 97 = 105 ( m )
a. Chu vi mảnh đất đó là:
( 202 + 105 ) x 2 = 614 ( m )
b. Diện tích hình chữ nhật là:
202 x 105 = 21210 ( m2 )
Đáp số:
a. 614 m
b. 21210 m2

13



- GV cần hướng dẫn HS tự kiểm tra lại kết quả của bài toán bằng cách hướng dẫn
các em nhìn vào u cầu của bài tốn và sự liên quan giữa các đại lượng, yếu tố, kết
quả đã phù hợp với các điều kiện mà bài toán đưa ra chưa ? các phép tính trong bài đã
chính xác chưa ?
2.3.4. Biện pháp 4: Tổ chức dạy học theo nhóm
- Trong tiết học Toán việc tổ chức cho HS hoạt động theo nhóm là rất cần thiết.
Hoạt động nhóm trong tiết Tốn giúp các em tự tìm tịi, chiếm lĩnh kiến thức mới, có
tác dụng gợi mở HS sử dụng các kiến thức và kĩ năng về mơn Tốn mà các em đã
được lĩnh hội và rèn luyện để diễn đạt những ý kiến của mình, tham gia một chuỗi
các hoạt động học tập dưới sự hướng dẫn của GV, được khuyến khích để trao đổi các
kinh nghiệm và được tạo cơ hội làm việc hợp tác với nhau.
Đặc điểm tâm lí của HS Tiểu học là ham hiểu biết, ưa hoạt động, giàu trí tưởng
tượng cho nên khi dạy học tơi ln gợi trí tị mị, tránh đơn điệu về hình thức hoạt
động. Cịn đặc điểm nhận thức của HS là đi từ tư duy cụ thể đến tư duy trừu tượng,
cho nên khi tổ chức dạy học theo nhóm trong mơn Tốn tơi chia thành các nhóm từ 2
đến 4 HS: theo tổ, dãy, bàn, cặp…Tùy theo mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập. Ví
dụ: Tiết dạy về kiến thức mới tơi chia theo nhóm: 4 HS (nhóm ngẫu nhiên),….
Tiết dạy luyện tập tơi chia theo nhóm: 2 học sinh.
Tiết dạy thực hành tơi chia theo nhóm: Tổ.
Tiết dạy ơn tập tơi chia theo nhóm: 2; 3 học sinh
Chia nhóm trong giờ học tốn cũng có nhiều cách khác nhau. Như:
Cách 1: Các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ định (nhóm cùng
trình độ, nhóm theo sở trường…). Ví dụ:
- Nhóm chia ngẫu nhiên, nhiều trình độ: Cho HS đếm từ 1 đến 4 vịng quanh lớp.
Các nhóm được thành lập bởi các em có cùng số hoặc lập một bộ từ 1 đến 4. Hoặc
phát cho mỗi HS một tấm bìa có vẽ biểu tượng, HS tìm bạn có cùng biểu tượng hợp
thành một nhóm.
- Nhóm hình thành có chủ định:
GV lần lượt đọc tên HS vào từng nhóm.

GV chia nhóm cố định và đặt tên cho mỗi nhóm. Khi có lệnh của GV, các em tự
giác thành lập nhóm như nhóm tổ, dãy.
- Chia nhóm tình bạn: HS được phép chọn bạn lập thành một nhóm với số người
do GV định trước.
Cách 2: Các nhóm hoạt động trong cả tiết học hoặc thay đổi trong từng phần của
tiết học (kiểm tra bài cũ, dạy kiến thức mới, luyện tập, củng cố)
Cách 3: Các nhóm được thảo luận cùng một nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác
nhau. Ví dụ:
- Nhóm cùng thảo luận một nhiệm vụ: Cùng làm một bài tập hoặc cùng tìm
hiểu một vấn đề.
- Nhóm thảo luận nhiều nhiệm vụ khác nhau. Ví dụ: mỗi nhóm thực hành đo một
đoạn thẳng.

14


Trong hoạt động nhóm, tơi cho HS phân cơng mỗi em thực hiện một phần việc,
mọi cá nhân trong nhóm đều phải làm việc để giúp đỡ nhau tìm hiểu và giải quyết
vấn đề. Sau đó đại diện nhóm trình bày kết quả trước lớp; các nhóm cịn lại chất vấn,
bổ sung.
\\

Tổ chức hoạt động nhóm học tập trong giờ học mơn Tốn – Lớp 4A
Như vậy: Trong một tiết học Tốn, hoạt động học tập theo nhóm cũng góp phần
quan trọng vào kết quả học tập. Dạy học theo nhóm chính là hình thức giảng dạy đặt
HS vào mơi trường học tập tích cực, giúp HS mở rộng suy nghĩ và thực hành các kĩ
năng tư duy toán như: phân tích, tổng hợp, khái quát,... được tạo điều kiện để hoạt
dộng với các bạn làm cho các em có hứng thú, tích cực hơn nữa trong học tập mơn
Tốn. Đặc biệt trong hoạt động thảo luận nhóm tơi hướng dẫn HS hoàn toàn tuân thủ
theo các nguyên tắc tổ chức dạy học theo nhóm, đàm thoại và thảo luận đối với tất cả

các môn học và phải phù hợp với nội dung, kiến thức mơn Tốn.
2.3.5. Biện pháp 5: Xây dựng phong trào học Tốn ngồi giờ
- Với các biện pháp trên, hàng tuần tôi thường kiểm tra một số học sinh trong lớp
(cụ thể những HS học chưa hồn thành kiến thức, kỹ năng) ở tiết ơn luyện Tốn, tơi
thấy kỹ năng giải tốn của các em có phần tiến bộ hơn. Tuy nhiên, hàng tháng tôi
cũng ra cho các em làm một số bài tốn giải có lời văn dạng tương tự (khơng giống
hồn tồn với đề bài trong SGK), tôi nhận thấy các em lập sơ đồ và giải tốn vẫn cịn
lúng túng, chưa đạt u cầu. Vì thế, hàng tháng tơi lại tổ chức thi đua giữa các nhóm
học tập về lập sơ đồ và giải tốn với những đề tốn khơng có ở SGK để các em giải
tốn hồn chỉnh hơn (có phát thưởng). Ví dụ:
+ Mỗi nhóm cử 2 em, u cầu em đạt mức độ hoàn thành tốt bài học lập sơ đồ
phân tích, em học ở mức độ hồn thành hoặc chưa hồn thành sẽ dựa vào sơ đồ phân
tích để giải tốn.
* Nhóm nào làm nhanh, đúng, chính xác sẽ được nhận thưởng (phần thưởng có
khi chỉ là một chiếc bút hay là một bơng hoa…). Bên cạnh đó để tạo khơng khí vui
vẻ, tinh thần đồng đội cho các em, trong giờ sinh hoạt (ơn luyện Tốn) tơi thường tổ
chức cho các em giải toán tiếp sức với phương thức sau:
+ Mỗi dãy chọn 3 em (2 dãy 6 em), chia thành 2 đội A và B, mỗi đội 3 em. Các
em bốc thăm đề toán:
15


* Yêu cầu tiếp sức như nhau: em đầu tiên sẽ tóm tắt đề tốn xong sẽ chuyển sang
bạn tiếp theo lập sơ đồ phân tích và em cuối cùng sẽ giải bài tốn.
Ví dụ bài tốn: Một người mua gà nhiều hơn vịt là 32 kg. Hỏi người đó mua bao
nhiêu kg mỗi loại. Biết rằng khối lượng gà gấp 5 lần khối lượng vịt ?
* Thực hiện trò chơi như sau:
* Em thứ nhất:
Tóm tắt:
? kg

Vịt :
32kg
Gà :
? kg
* Em thứ hai: Lập sơ đồ phân tích:
Hiệu số phần bằng nhau: 5 - 1 = 4 (phần))
Vịt = Hiệu(32) : hiệu số phần(4) ¿ số phần của vịt (1)
Gà = Hiệu + vịt
Bài giải:
* Em thứ ba:
Hiệu số phần bằng nhau là:
5 – 1 = 4 ( phần)
Khối lượng vịt người đó mua là:
32 : 4 x 1 = 8 (kg)
Khối lượng gà người đó mua là:
32 + 8 = 40 (kg)
Đáp số: Vịt: 8kg
Gà: 40 kg
- Ngoài ra tơi cịn tổ chức cho HS học Tốn ngồi giờ bằng các hình thức như: Tổ
chức trị chơi học tập Tốn hay học Tốn ngồi lớp học để tạo khơng khí thoải mái,
kích thích hứng thú học tập mơn Tốn cho HS, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học
mơn Tốn.

Tổ chức trị chơi học tập Tốn
Tổ chức học tập Tốn
trong lớp học (buổi 2)- Lớp 4A
ngồi lớp học (buổi 2)- Lớp 4A
- Đối với HS có năng khiếu mơn Tốn: Để phát triển tư duy, tính tích cực, sáng
tạo của HS đồng thời để phát hiện nhiều HS có năng khiếu Tốn, thỉnh thoảng tơi ra
đề tốn và yêu cầu HS trả lời nhanh kết quả bài học trong 3-5 giây bằng miệng hoặc

làm nhanh trên vở nháp, bảng con. .....
16


Ví dụ: Dựa vào tóm tắt sau, em hãy trả lời kết quả bài tốn: (hoặc ghi phép
tính giải ở bảng con...)
? tuổi
Con:
Bố:

54 tuổi

? tuổi
Khi HS nêu kết quả GV yêu cầu HS giải thích thực cáchiện bài làm.
Đồng thời tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường tổ chức thành lập các câu lạc
bộ, trong đó có câu lạc bộ “Toán tuổi thơ”, mỗi tháng tổ chức cho học sinh giao lưu
một lần để HS vừa củng cố được kiến thức đã được học, vừa phát huy được tính tích
cực, sáng tạo, đồng thời rèn sự mạnh dạn, tự tin cho HS trong học Toán.

Khai mạc giao lưu
Câu lạc bộ “Toán tuổi thơ”
trường Tiểu học Minh Tiến II

Học sinh Phạm Văn Thắng – Lớp 4
được trao giải Nhất Giao lưu
Câu lạc bộ “Tốn tuổi thơ”

Từ đó bồi dưỡng HS có năng khiếu, tổ chức cho HS tham gia giao lưu các câu lạc
bộ cấp huyện, trong đó có câu lạc bộ “Em yêu Toán”.


Học sinh trường Tiểu học Minh Tiến II đạt 1 giải nhất, 1 giải Nhì, 1 giải Ba, 4
giải Khuyến khích trong giao lưu câu lạc bộ “Em yêu Toán, Tiếng Việt” cấp huyện
Xây dựng và thực hiện tốt phong trào học Tốn ngồi giờ cũng chính là một trong
những biện pháp tổ chức nâng cao chất lượng mơn Tốn cho HS.
17


2.3.6. Biện pháp 6: Đánh giá, nhận xét học sinh thường xuyên, phù hợp
Kết quả học Toán của HS phản ánh kết quả dạy của giáo viên. Căn cứ kết quả học
Tốn của HS, tơi điều chỉnh cách dạy cho phù hợp. Do vậy, trong dạy học Toán việc
đánh giá kết quả học tập của HS vừa đóng vai trị “ bánh lái” vừa giữ vai trò “động
lực” dạy học. Nó định hướng, thúc đẩy mạnh mẽ động lực dạy học và là giai đoạn
cuối cùng của một hoạt động dạy học. Đặc biệt hiện nay đang thực hiện Thông tư số
22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 về Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số 30/2014/TTBGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì việc
chấm chữa bài cho học sinh càng quan trọng, đòi hỏi GV sau mỗi đơn vị học tập
trong tiết Toán phải đánh giá nhận xét HS một cách cụ thể không chung chung mà
chỉ ra được biện pháp cho các em sửa sai. Việc làm này đã khuyến khích HS học tập
chủ động, tích cực, sáng tạo, theo năng lực cá nhân, tránh gây căng thẳng làm mất
tính tự tin của HS. Để khích lệ HS vươn lên trong học tập, tơi thường nhận xét ngắn
gọn bằng lời hay viết vào vở HS, chỉ rõ chỗ học sinh làm chưa đúng, đặc biệt thể hiện
tình cảm với HS trong nhận xét.
Ví dụ: Nếu khi chấm bài HS biết cách giải nhưng tính sai kết quả thì khi chấm bài
GV nhận xét: "Con hiểu bài, biết vận dụng nhưng nếu tính tốn cẩn thận con sẽ đạt
kết quả cao", hay bài HS làm chưa đúng lời giải GV nhận xét: “Con lưu ý cách đặt lời
giải cho phù hợp nhé!”, hay HS làm bài tốt thì GV nhận xét: “Con làm bài tốt. Cô
khen!”...

Minh họa việc chấm, nhận xét bài làm trong vở Tốn cho học sinh lớp 4A.
Ngồi việc đánh giá HS tơi cịn cho học sinh tự đánh giá kết quả của bản thân và

của bạn bằng lời hay bằng chấm đúng, sai (ghi bằng bút chì) vào vở để tạo cơ hội cho
HS học tập bạn, mạnh dạn tự tin hơn trong học Toán.
Nhận xét đánh giá sau mỗi tiết học Tốn sẽ giúp ích rất nhiều cho việc hỗ trợ học
tập của HS, nắm bắt được kết quả học tập của các em. Do thường xuyên được chấm
bài nên các em cố gắng nhiều lần và bản thân tôi cũng điều chỉnh được nhiệm vụ học
tập cho HS đến khi đạt được mục tiêu.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

18


Bằng những kinh nghiệm dạy học, tôi đã áp dụng một số biện pháp trên vào dạy
cho HS giải toán có lời văn ở lớp 4, các em đã nhận biết được dạng tốn, chịu khó tư
duy và biết cách dùng từ để đặt lời giải đúng với phép tính mà bài toán yêu cầu. Các
em học tập tự giác và tìm ra cách giải hay. Kết quả điều tra cuối 2 năm học đạt được
như sau:
Năm học

Lớp

Tổng
số HS

2015-2016
2016-2017

4A
4A

25

27

Điểm 9-10

Điểm 7-8

Điểm 5-6

Điểm dưới 5

SL
9
11

SL
10
12

SL %
6 24,0
4 14,8

SL
0
0

%
36,0
40,7


%
40,0
44,4

%
0
0

So sánh kết quả điều tra sau khi áp dụng sáng kiến, tôi nhận thấy tỉ lệ HS khi áp
dụng thực nghiệm HS giải tốn có lời văn nhanh, đúng theo u cầu của đề bài,
khơng cịn HS khơng biết giải tốn có lời văn. Kết quả học tập mơn Tốn của hai lớp
có tiến bộ rõ rệt so với chất lượng trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Chính vì lẽ đó tơi khẳng định rằng đồng nghiệp giảng dạy lớp 4 của trường Tiểu
học Minh Tiến II nói riêng và các trường Tiểu học có cùng đặc điểm trình độ học
sinh lớp 4 như trường Tiểu học Minh Tiến II nói chung nếu áp dụng các biện pháp tôi
đã áp dụng và đề xuất trong sáng kiến kinh nghiệm thì chắc chắn chất lượng giải tốn
có lời văn cho học sinh lớp 4 sẽ đạt hiệu quả tốt.
PHẦN 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Trong thực tế giảng dạy và qua thời gian nghiên cứu và áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm, tôi nhận thấy: Để nâng cao chất lượng học tập cho HS người GV:
* Không nên làm thay cho học sinh quá nhiều như:
- Đọc đề toán cho HS nghe mà học sinh ít được đọc.
- Tóm tắt đề tốn cho HS hoặc cho những HS học ở mức độ hoàn thành tốt làm,
những em khác ngồi quan sát hoặc nghe nên không nhớ được (vì sợ khơng kịp thời
gian).
- Thường thì GV hỏi, HS nêu và GV giải bài toán lên bảng để hình thành khái
niệm, do đó khơng phát huy được tính tích cực của HS, HS thường chỉ ngồi thụ động:
nghe và làm theo.
- GV ít cho HS trình bày nhiều cách giải khác nhau của một bài tốn vì sợ mất
thời gian. Mặt khác, sợ các em chưa hoàn thành kiến thức, kỹ năng áp dụng nhầm lẫn

cách này sang cách khác.
* Tìm ra những phương pháp dạy học tích cực, phù hợp với năng lực của HS:
- Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh HS, đặc biệt quan tâm nhiều đến HS chưa hồn
thành mơn Tốn.
- Kết hợp chặt chẽ quá trình hoạt động giữa lên lớp và ngồi giờ, tổ chức trị chơi
học tập để thay đổi hình thức dạy học, tạo khơng khí học tập vui vẻ, thoải mái.
- Tận tụy với cơng việc, nhiệt tình với HS. Tìm hiểu HS để phát hiện ra nguyên
nhân khiến HS đạt được cũng như chưa đạt được kết quả trong học tập. Từ đó phát
19


huy điểm mạnh, khắc phục điểm ở HS chưa đạt được. Người GV khơng những phải
có kiến thức vững chắc phương pháp giảng dạy hay mà GV cần phải cho HS rèn
luyện, thực hành nhiều.
- GV phải tiếp tục học tập, tìm tịi, sáng tạo, trau dồi vốn sống kinh nghiệm để
dạy học tốt hơn .
- Ngoài ra, GV phải phân loại đối tượng HS trong lớp, đặc biệt quan tâm đến HS
chưa hồn thành kiến thức, kỹ năng ln thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học,
kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS để phù hợp với thực tiễn và đối tượng HS.
Cần phải gần gũi động viên HS, khích lệ các em hứng thú trong học tập. phải làm cho
mọi HS trong lớp đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng cơ bản đồng thời chú ý đến đối tượng
HS hoàn thành kiến thức, kỹ năng ở mức độ hồn thành tốt để các em khơng thấy
nhàm chán vì bài học quá dễ. GV chỉ là người hướng dẫn, giúp đỡ HS tự đi tìm kiến
thức và lĩnh hội kiến thức đó dưới những phương pháp tích cực nhất của mình, có
như thế giờ học tốn mới đem lại hiệu quả như mong muốn.
Còn với HS thì phải:
- Có ý thứ tự học, tự tìm hiểu.
- Sau mỗi bài toán học sinh phải biết xem xét lại kết quả mình làm để giúp các em
tự tin hơn khi giải quyết một vấn đề.
- Trong khi giải phải tự đặt câu hỏi: " Làm phép tính đó để làm gì? " từ đó có

hướng giải đúng và chính xác.
- Phải có đủ các loại sách vở phục vụ cho môn học, chuẩn bị bài và đồ dùng đầy
đủ trước khi đến lớp
- Tuân thủ các nguyên tắc học Tốn của thầy cơ đã hướng dẫn.
Sáng kiến kinh nghiệm đã hồn thành nhưng chắc chắn sẽ có những nội dung
chưa được trọn vẹn, tôi rất mong được sự góp ý của các đồng chí lãnh đạo, của đồng
nghiệp để bản thân có những bài học quý báu góp phần nâng cao chất lượng dạy học
mơn Tốn lớp 4 cũng như chất lượng dạy học các môn học khác của trường Tiểu học
Minh Tiến II nói riêng và chất lượng dạy học của ngành giáo dục đạt kết quả tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Minh Tiến, tháng 4 năm 2017
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
HIỆU TRƯỞNG

Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, khơng sao chép của
người khác.
Người viết

Vương Thị Hằng

Bùi Thị Luyến

20



×