Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 giải tốt các bài toán chuyển động đều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.93 KB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Bậc Tiểu học được đánh giá là bậc học rất quan trọng trong việc đặt nền
móng cho việc hình thành nhân cách của học sinh. Trên cơ sở cung cấp cho học
sinh những tri thức ban đầu về tự nhiên và xã hội, nhằm phát triển năng lực nhận
thức, trang bị các phương pháp và kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn cho học sinh, góp phần phát huy và bồi dưỡng những năng lực,
những phẩm chất, những tình cảm tốt đẹp của người Việt Nam. Trong các môn học
ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, mơn Tốn có một vị trí rất quan trọng.
Đã có một quan điểm lý luận dạy học Toán cho rằng dạy học Toán là dạy
học các hoạt động toán học. Ở đây, chúng ta hiểu các hoạt động Toán học là các
cơng việc của người làm tốn. Giáo viên dạy và học sinh học cách thực hiện các
công việc của người làm toán. Hoạt động cơ bản nhất của người làm toán là giải
toán. Thành thử, giải toán rất quan trọng trong dạy học Toán. Trong thực tế, ở Tiểu
học giải tốn có thể sử dụng vào hầu hết các khâu trong q trình dạy học.
Là dạng tốn xuất hiện muộn trong chương trình Tốn lớp 5 nói riêng và
chương trình tốn Tiểu học nói chung, nhưng dạng tốn có nội dung về chuyển
động đều là một trong những bài tốn điển hình giữ vị trí quan trọng trong chương
trình Tốn 5. Ngồi việc củng cố cho học sinh tiểu học những kiến thức, kỹ năng
toán học và giải một số bài tốn về chuyển động đều thì khi giải các bài tốn loại
này địi hỏi học sinh phải nắm vững các đơn vị kiến thức đã học, các công thức
toán học về chuyển động đều. Đồng thời biết vận dụng một cách linh hoạt, tích
cực, sáng tạo các cơng thức đó trong việc rèn kỹ năng giải tốn. Khi khai thác các
dữ kiện của bài tốn cần tìm ra các đại lượng có mối liên hệ với nhau, từ đó địi hỏi
khả năng suy luận về các tình huống khác nhau của bài toán về chuyển động đều.
Khi dạy học toán giải các bài toán về chuyển động là cơ hội giúp các em
nhận thức về các đơn vị của chuyển động, biết được mối liên tưởng trong thao tác
tư duy, phân tích, tổng hợp và so sánh cùng với trí tưởng tượng khơng gian và vận
dụng các kỹ năng tốn học có quan hệ với nhau.
Thơng qua dạy các bài toán về chuyển động nhằm rèn luyện cho học sinh
hình thành và phát triển năng lực tư duy như vẽ hình, cách ghi đúng kí hiệu, khả


năng tổng hợp khái quát, trừu tượng hoá, suy luận logic và trình bày các kết quả
theo một trình tự hợp lý làm cơ sở cho quá trình nhận biết và học tốn có liên quan
đến đại cương các đơn vị chuyển động ở các lớp sau này. Đặc biệt, nếu học sinh có
kĩ năng thành thạo khi giải các bài về chuyển động đều sẽ tạo cho các em nền tảng
vững chắc để học tốt mơn Vật lí ở các cấp học trên.
Q trình dạy học sinh giải các bài tốn về chuyển động ở lớp 5 khơng chỉ là
q trình hình thành ở học sinh một hệ thống những tri thức, kỹ năng và kỹ xảo
của các nội dung cơ bản trong chương trình mơn tốn ở Tiểu học mà còn phải bảo
đảm tối đa, làm cho hoạt động tư duy của học sinh phát triển tích cực, độc lập sáng
tạo. Qua đó cịn phát triển ngơn ngữ nói chung cũng như thuật ngữ tốn học nói
riêng trên cơ sở giúp học sinh biết cách sử dụng cơng thức tính, kỹ năng học tốn
vào việc giải quyết những tình huống, tính tốn cụ thể trong thực tiễn cuộc sống
hàng ngày.
1


Thơng qua hoạt động giải các bài tốn về chuyển động sẽ giúp cho học sinh
hình thành thói quen làm việc khoa học, kiên trì, bền bỉ phát huy được tính độc lập
sáng tạo trong suy nghĩ tích cực tư duy, chính xác và tính trung thực trong đời sống
con người.
Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bậc tiểu học, cụ thể là nhiều năm
liền dạy lớp 5, bản thân tơi cũng đã suy nghĩ tìm tịi cho mình cách giải quyết
những vấn đề khó trong giảng dạy. Thực tế cho thấy, khi học tốn có rất nhiều học
sinh cũng đã nắm được lí thuyết nhưng do các em nắm lí thuyết một cách máy móc
nên khi vận dụng vào thực hành gặp nhiều lúng túng.
Do vậy việc tìm ra biện pháp giúp học sinh giải tốn chuyển động đều dễ
dàng hơn có vai trị hết sức quan trọng, là cơ sở ban đầu cho quá trình dạy và học
tốn về sau. Như thế, người giáo viên khơng chỉ dừng lại ở mức độ giúp học sinh
độc lập, tự giác, tích cực giải và tính tốn đúng các bài tốn mà cịn dạy cho học
sinh nắm được phương pháp giải, quy trình giải thích hợp về các điều kiện liên

quan đến bài tốn. Khi có phương pháp, kĩ năng giải các bài toán về chuyển động
đều tốt là cơ hội tốt nhất để học sinh hình thành và phát triển năng lực Toán học, là
việc làm cần thiết nhằm góp phần nâng cao hiệu quả việc giải một bài tốn có liên
quan đến rất nhiều đơn vị kiến thức. Chính vì vậy, tơi đã quyết định chọn và
nghiên cứu đề tài: "Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 giải tốt các bài toán về
chuyển động đều".
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Bản thân tên đề tài đã chỉ rõ mục đích nghiên cứu: "Một số biện pháp giúp học
sinh lớp 5 giải tốt các bài toán về chuyển động đều". Trong nội dung đề tài này
tôi đi sâu nghiên cứu những vấn đề sau:
- Nghiên cứu nội dung chương trình mạch kiến thức tốn chuyển động đều trong
chương trình Tốn 5, tìm hiểu các dạng tốn về chuyển động đều ở mức độ nâng
cao.
- Điều tra khảo sát, tìm hiểu thực trạng vấn đề giúp học sinh lớp 5 giải các bài
toán về chuyển động đều ở cấp tiểu học.
- Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp nhằm rèn kĩ năng giải các bài toán về
chuyển động đều cho học sinh lớp 5.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các bài toán về chuyển động xuất hiện trong chương trình Tốn 5 cuối
bậc Tiểu học, sau khi học sinh đã được học đầy đủ các kiến thức về số tự nhiên,
một phần ban đầu về số hữu tỉ và các nội dung cơ bản ở Tiểu học. Dạng toán
này dựa trên cơ sở sự phối hợp các kiến thức, kĩ năng đã học tạo nên các dữ liệu
của bài tốn. Chính vì vậy, đối tượng tơi chọn ở đây là học sinh khối lớp 5 trong
trường.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong những năm học qua, tôi đã liên tục trực tiếp giảng dạy lớp 5, dự giờ, theo
dõi kết quả học tập của học sinh và có kế hoạch nghiên cứu, thực nghiệm trong
quá trình giảng dạy thực tiễn.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên đây cần phải có phương pháp tối ưu để dạy
học sinh giải toán về “các bài tốn chuyển động” có chất lượng, tơi đã sử dụng

các phương pháp:
- Dùng hình vẽ biểu diễn quan hệ giữa các đại lượng dựa trên cơ sở phân
tích và tổng hợp bài toán.
2


- Phương pháp quan sát: Quan sát học sinh trong khi học sinh thực hiện
giải toán, từ việc đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời bằng miệng đến việc làm bài
tập trên bảng, trong vở, bài kiểm tra.
- Phương pháp thực hành luyện tập.
- Phương pháp điều tra theo phiếu an-ket.
- Phương pháp thực nghiệm.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận:
Đặc điểm tư duy của học sinh tiểu học nói chung và tư duy tốn học của học sinh
tiểu học nói riêng cịn mang tính cụ thể, hình thức. Dựa vào các hình ảnh trực quan học
sinh mới hiểu các mối quan hệ sâu sắc, khó phát hiện, các dấu hiệu bản chất. Học sinh
tiểu học thường nhầm lẫn giữa dấu hiệu bản chất với dấu hiệu không bản chất nên
thường gặp khó khăn trong q trình lĩnh hội các khái niệm và các thao tác có liên quan
đến khái niệm. Học sinh dễ lẫn lộn các đối tượng có liên quan với nhau.
Hoạt động phân tích, tổng hợp của học sinh cịn kém, đặc điểm trí nhớ của học sinh
tiểu học là ghi nhớ trực quan, hình ảnh phát triển hơn ghi nhớ từ ngữ lơgíc. Học
sinh thường ghi nhớ một cách máy móc khơng có nội dung.
Sự chú ý có chủ định của học sinh cịn yếu, sự chú ý địi hỏi phải có động cơ gần
thúc đẩy. Khả năng điều chỉnh chú ý chưa mạnh nên dễ bỏ quên lời, sót từ, nhầm lẫn.
Đặc điểm tưởng tượng của học sinh tiểu học thường đứt đoạn nên khi tái hiện
khơng có tính lơgíc hợp lí, chịu ảnh hưởng của ấn tượng trực tiếp. Những đặc điểm
này chi phối rất nhiều đến quá trình dạy học ở tiểu học nói chung và dạy mơn tốn
lớp 5 nói riêng, đặc biệt là dạy nội dung “giải các bài tốn về chuyển động đều”
địi hỏi học sinh phải tư duy tưởng tượng cao.

Toán chuyển động đều chiếm một vị trí rất quan trọng trong chương trình tốn
lớp 5. Bài tốn chuyển động đều là bài tốn có chứa ba đại lượng: Quãng đường
(s), vận tốc (v), thời gian (t) liên hệ với nhau bởi quan hệ:
s = v  t ( Hoặc v = s : t hay t = s : v)
Nhờ các tình huống chuyển động đều hết sức đa dạng trong đời sống mà các
mối quan hệ không hề đơn giản lúc ẩn, lúc hiện; biến hóa khơn lường trong các
tình huống khác nhau. Chính vì thế mà ta có thể nói tốn chuyển động đều là loại
toán phong phú bậc nhất ở bậc tiểu học. Việc giải các bài toán chuyển động đều rất
tốt trong việc phát triển tư duy, sáng tạo cho các em học sinh. Mặt khác, vì tốn
chuyển động đều liên quan trực tiếp đến số đo thời gian nên toán chuyển động đều
cịn có tác dụng rất lớn trong việc thực hành, củng cố kiến thức về số đo thời gian
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Trong chương trình Tiểu học, tốn chuyển động đều được học ở lớp 5 là loại
toán mới, lần đầu tiên học sinh được học. Nhưng thời lượng chương trình dành cho
loại tốn này nói chung là ít: 3 tiết bài mới, 3 tiết luyện tập sau mỗi bài mới, 3 tiết
luyện tập chung. Sau đó phần ơn tập cuối năm một số tiết có bài tốn nội dung
chuyển động đều đan xen với các nội dung ôn tập khác.
3


Với loại tốn khó, đa dạng, phức tạp như loại tốn chuyển động đều mà thời
lượng dành cho ít như vậy, nên học sinh không được củng cố và rèn luyện kĩ năng
nhiều chắc chắn không tránh khỏi những vướng mắc, sai lầm khi làm bài.
Qua nhiều năm thực dạy lớp 5, bản thân tôi thấy trong dạy và học tốn chuyển
động đều giáo viên và học sinh có những tồn tại vướng mắc như sau:
- Chưa củng cố rèn luyện kĩ năng giải loại toán này một cách hệ thống, sâu sắc,
việc mở rộng hiểu biết và phát triển khả năng tư duy, trí thơng minh, óc sáng tạo
cho học sinh còn hạn chế.
- Học sinh chưa được rèn luyện giải theo hệ thống dạng bài nên khả năng nhận
dạng bài, và vận dụng phương pháp giải cho từng dạng bài chưa sâu. Dẫn đến học

sinh lúng túng, chán nản khi gặp loại toán này.
- Đa số giáo viên chưa nghiên cứu để khai thác hết kiến thức, dạy máy móc,
chưa chú trọng làm rõ bản chất tốn học, nên học sinh chỉ nhớ công thức và vận
dụng công thức làm bài, chứ chưa có sự sáng tạo trong từng bài tốn tình huống
chuyển động cụ thể có trong cuộc sống.
- Khi làm bài nhiều em không đọc kĩ đề bài, suy nghĩ thiếu cẩn thận, hấp tấp
nên bỏ sót dữ kiện đề bài cho.
- Nhiều học sinh khơng nắm vững kiến thức cơ bản, tiếp thu bài máy móc, chỉ
làm theo mẫu chứ chưa tự suy nghĩ để tìm cách giải.
Cuối năm học 2015-2016, để chuẩn bị cho dạy năm học tới (năm học 2016 2017) tôi đã cho học sinh làm một bài kiểm tra, với thời gian làm bài 20 phút.
Bài 1: Quãng đường từ nhà chị Hoa đến Thị trấn là 43 km. Trên đường đi từ
nhà đến Thị Trấn, chị Hoa đi bộ 7 km rồi mới đi xe máy trong một giờ rưỡi thì tới
nơi. Tính vận tốc xe máy?
Bài 2: Một người đi xe máy đi từ A lúc 7 giờ 20 phút với vận tốc 42 km/giờ,
đến B lúc 11 giờ. Tính độ dài quãng đường AB.
Kết quả thu được: (Tổng số học sinh được làm bài: 25 em)
Điểm 9,10
SL
TL(%)
2

8

Điểm 7,8
SL
TL(%)
9

36


Điểm 5,6
SL
TL(%)
10

40

Điểm dưới 5
SL
TL(%)
4

16

Những tồn tại cụ thể trong bài làm của học sinh:
Bài 1: Học sinh làm sai do không đọc kĩ đề bài, bỏ sót dữ kiện cho của bài
toán “chị Hoa đi bộ 7 km rồi mới đi xe máy” nên đã vận dụng cơng thức tính
ngay vận tốc ô tô là: 43 : 1,5 = 28,66 (km/giờ).
Bài 2: Học sinh sai vì một số em khi tìm ra thời gian đi là:
11 giờ – 7 giờ 20 phút = 3 giờ 40 phút
Vì vận tốc cho được tính bằng đơn vị km/giờ, thì thời gian tương ứng phải là
giờ. Nhưng do không chú ý đến điều này nên đã đổi:
Đổi: 3 giờ 40 phút = 220 phút
Rồi vận dụng cơng thức tính qng đường là:
42  220 = 9240 (km)
4


2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Từ thực trạng trên, để giúp các em học sinh nắm được cách giải và thực hành

giải được các bài tập về chuyển động đều, tơi có mạnh dạn đưa ra một số biện pháp
sau:
2.3.1. Biện pháp1: Dạy học giúp học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản, làm rõ
bản chất mối quan hệ giữa các đại lượng: vận tốc, quãng đường, thời gian.
Để làm được điều này thì ngay trên lớp, khi dạy bài mới tôi đã chú trọng
giúp học sinh hiểu rõ bản chất toán học, hiểu rõ ý nghĩa, bản chất của nội dung
kiến thức. Hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu kiến thức bằng hiểu biết của mình dựa
trên những gợi ý, rồi tơi mới hướng dẫn học sinh chốt kiến thức.
Để học sinh hiểu rõ, nắm chắc bản chất của vận tốc, bằng các ví dụ cụ thể
sách giáo khoa, giúp học sinh hiểu: Nếu đem chia quãng đường đi được cho thời
gian đi qng đường đó thì sẽ được vận tốc trung bình của động tử. Hay gọi tắt là
vận tốc của động tử. Vận tốc = Quãng đường : thời gian
Để học sinh hiểu rõ ý nghĩa của vận tốc là chỉ rõ sự chuyển động nhanh hay
chậm của động tử tôi đã lấy 1 ví dụ để hướng dẫn học sinh như sau:
Ví dụ: Hai người cùng xuất phát một lúc từ A đi đến B. Mỗi giờ người thứ
nhất đi được 25 km, người thứ hai đi được 20 km. Hỏi ai đến B trước?
Bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Người thứ nhất A
B
QĐ trong 1 giờ: 25 km
Người thứ hai A
B
QĐ trong 1 giờ : 20 km
Từ sơ đồ học sinh dễ dàng nhận thấy người đến B trước là người đi nhanh
hơn. Qua đó học sinh hiểu rõ bản chất “Vận tốc chính là quãng đường đi được
trong một đơn vị thời gian.”
Trong quá trình dạy học hình thành quy tắc, cơng thức tính tơi đặc biệt lưu ý
học sinh những vấn đề sau để học sinh tránh được những nhầm lẫn khi làm bài.
- Đơn vị vận tốc thường phụ thuộc vào đơn vị quãng đường và đơn vị thời
gian. Chẳng hạn:

s  km
sm
t  giờ
v  km/giờ
t  phút v  m/phút
- Đơn vị thời gian phụ thuộc vào đơn vị quãng đường và vận tốc.
Chẳng hạn: s km
v km/giờ t  giờ
- Đơn vị quãng đường phụ thuộc vào đơn vị vận tốc và thời gian.
Chẳng hạn: v km/giờ
v  m/giờ
t  giờ
s  km
t  giờ
sm
- Các đơn vị của đại lượng khi thay vào công thức phải tương ứng với nhau.
Số đo thời gian khi thay vào công thức phải viết dưới dạng số tự nhiên, số thập
phân, phân số.
2.3.2. Biện pháp 2: Phân dạng các bài toán chuyển động đều.
5


Trong thực tế, các tình huống chuyển động vơ cùng phong phú, chính vì sự
phong phú đó mà các bài toán chuyển động đều cũng rất đa dạng về nội dung.
Việc phân chia dạng toán để giúp các em nhận dạng là vơ cùng quan trọng. Nó
giúp các em nắm phương pháp giải một cách có hệ thống và giúp các em rèn luyện
kĩ năng được nhiều hơn. Trong quá trình giảng dạy, củng cố kiến thức và bồi
dưỡng học sinh năng khiếu về loại tốn chuyển động đều tơi đã thực hiện phân
dạng như sau:
* Dạng 1: Các bài tốn có 1 chuyển động tham gia.

- Loại 1: Các bài tốn giải bằng cơng thức cơ bản.
Các cơng thức vân dụng là: v = s : t
t = s:v
s= vt
Đối với loại tốn này thì việc nhận dạng rất đơn giản. Các em chỉ cần đọc kĩ
đề bài, xác các định yếu tố đã cho, yếu tố cần tìm có thể xác định được cách làm.
Ví dụ 1: Một người chạy được 60m trong 10 giây. Tính vận tốc chạy của
người đó.
Ví dụ 2: Một người đi từ A lúc 6 giờ 30 phút, đến B lúc 9 giờ, dọc đường
người đó nghỉ 30 phút. Hỏi:
a) Người đó đi từ A đến B (không kể thời gian nghỉ) mất bao lâu?
b) Người đó đi với vận tốc là bao nhiêu?
Ví dụ 3: Một ca nơ đi với vận tốc 15,2 km/giờ. Tính qng đường đi được
của ca nơ trong 3 giờ.
Ví dụ 4: Trên quãng đường 23,1 km, một người đi xe đạp với vận tốc 13,2
km/giờ. Tính thời gian đi của người đó.
Ví dụ 5: Tìm vận tốc của một ơ tơ, biết ơ tơ đó đi được 120 km trong 2 giờ
30 phút.
Ví dụ 6: Bình đi xe đạp với vận tốc 15 km/giờ từ nhà đến bến xe hết nửa giờ.
Hỏi nhà Bình cách bến xe bao nhiêu ki-lơ-mét?
- Loại 2: Các bài tốn vận dụng 3 tính chất trong tốn chuyển động đều.
Để có thể đưa một số bài toán chuyển động đều về các dạng tốn điển hình
thì trong q trình dạy hình thành cơng thức tính vận tốc, qng đường, thời gian
tơi hướng dẫn để học sinh nhận ra mối quan hệ tỉ lệ giữa 3 đại lượng đó như sau:
+ Trong cùng t thì s đi được và v là hai đại lượng tỉ lệ thuận;
+ Trên cùng một s thì v và t là hai đại lượng tỉ lệ nghịch;
+ Với cùng một v, s và t là hai đại lượng tỉ lệ thuận.
Các bài toán chuyển động, nhiều bài khi mới đọc đề tưởng như rất khó, rất
phức tạp nhưng biết chuyển về dạng tốn này thì việc giải bài toán trở nên dễ dàng
hơn rất nhiều.

Một số bài toán chuyển động đều có thể đưa về các dạng tốn điển hình nhờ
vào mối quan hệ tỉ lệ giữa các đại lượng như:
+ Tìm 2 số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của chúng.
+ Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của chúng.
Ví dụ 1: Một người đi bộ từ A đến B, trên nửa quãng đường đầu mỗi giờ đi
được 6 km, trên nửa quãng đường sau mỗi giờ đi được 4 km. Tìm vận tốc của
trung bình của người ấy khi đi trên cả quãng đường AB.
Tóm tắt:
v = 6 Km/giờ

A

v = 4 Km/giờ

C
vtb

B

6


Thời gian trung bình của người ấy đi được 1 km trên quãng đường AC là:
1:6=

1
(giờ)
6

Thời gian trung bình của người ấy đi được 1 km trên quãng đường CB là:

1:4=

1
(giờ)
4

Thời gian trung bình để người ấy đi được 2 km trên quãng đường AB là:
1 1 5
 
(giờ)
6 4 12

Vận tốc trung bình của người ấy đi trên cả quãng đường AB là:
2:

5
= 4,8 (km/giờ)
12

Đáp số: 4,8 km/giờ
Ví dụ 2: Lúc 6 giờ sáng, một người đi xe máy từ A với vận tốc 35 km/giờ để
tới B dự họp. Đi được

1
quãng đường, người ấy phải dừng lại 20 phút sau đó tiếp
3

tục đi với vận tốc 45 km/giờ để tới B kịp giờ đã định. Tính quãng đường từ A đến B?
Giải
20 phút

v = 35 Km/giờ
v = 45 Km/giờ

A

B

35
7
Tỉ số giữa vận tốc định đi và thực đi là
= . Trên cùng một quãng đường
45
9

vận tốc và thời gian là hai đại lượng tỉ lệ nghịch. Vậy tỉ số giữa thời gian định đi
và thực đi là

9
7

? phút

Ta có sơ đồ:
Thời gian định đi:
Thời gian thực đi:

20 phút
? phút

Thời gian thực đi là:

20 : (9 - 7)  7 = 70 (phút)
đổi: 70 phút =

7
giờ
6

Quãng đường từ A đến C là:
7
45  = 52,5 (km)
6

Quãng đường AB dài là:
52,5 : 2  3 = 78,75 (km)
Đáp số: 78,75 km
7


Ví dụ 3: Một người đi xe máy từ A sau khi đi 1 giờ người ấy giảm tốc độ bằng

3
5

vận tốc ban đầu thì đến B chậm hai giờ. Nếu người ấy đi thêm 50 km nữa sau đó mới
giảm vận tốc như trên thì tới B chậm 1 giờ 20 phút. Tính quãng đường từ A đến B?
Cách giải:
- Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài tốn dưới dạng sơ đồ đoạn thẳng:
1 giờ

A


C

50 km

B

D

Với bài toán này tôi đã hướng dẫn học sinh nhận dạng và đưa về dạng tốn
điển hình như sau:
+ Tỉ số giữa vận tốc thực đi và vận tốc định đi trên quãng đường CD là
+ Tỉ số giữa thời gian thực đi và thời gian định đi là:

3
5

5
3

+ Hiệu giữa thời gian định đi và thực đi trên quãng đường CD là:
2 giờ - 1 giờ 20 phút = 40 phút.
- Xác định dạng tốn điển hình rồi giải tốn: Ở bài toán này ta đã biết tỉ số
hai thời gian là

5
3

, hiệu giữa hai thời gian là 40 phút. Đây chính là dạng tốn điển


hình “Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của 2 số đó”. Học sinh sẽ dễ dàng giải được
bài tốn này như sau:
? phút
Ta có sơ đồ:
Thời gian thực đi:
Thời gian định đi:
40 phút
? phút
Thời gian thực đi trên quãng đường là:
40 : (5 – 3)  5 = 100 (phút)

100 phút =

5
giờ
3

Thời gian định đi là:

100phút – 40phút = 60 phút
60 phút = 1 giờ
Vận tốc người ấy định đi là:
50 : 1 = 50 (km/giờ)
Theo đề bài ta có tỉ số giữa vận tốc thực đi và vận tốc định đi trên quãng
đường CB là

3
.
5


Tỉ số giữa thời gian thực đi và thời gian định đi là:
Ta có sơ đồ:

Thời gian thực đi:
Thời gian định đi:

5
3
2 giờ

? giờ

Thời gian người ấy định đi trên quãng đường CB là:
2 : (5 – 3)  3 = 3 (giờ)
Quãng đường AB dài là: 50  1 + 50  3 = 200 (km)
8


Đáp số: 200 (km)
* Dạng 2: Toán về hai chuyển động cùng chiều
Sau khi học sinh được làm quen với 3 đại lượng: vận tốc, quãng đường, thời
gian. Học sinh biết cách tính một trong 3 đại lượng khi biết 2 đại lượng cịn lại.
Sách giáo khoa có cùng chiều đuổi nhau ở 2 tiết luyện tập chung (Bài 1 – T144);
Khi hướng dẫn học sinh giải bài toán này tôi đã giúp học sinh giúp học sinh rút ra
nhận xét quan trọng như sau:
Hai động tử chuyển động cùng chiều với vận tốc v1 và v2 (v1 > v2), cùng xuất
phát một lúc, ở cách nhau một đoạn đường s thì thời gian để chúng gặp nhau là:
tgn = s : (v1 - v2)
( tgn : Thời gian để 2 động tử gặp nhau)
A

B
v1
S
v2 
- Loại 1: Hai động tử chuyển động trên cùng một quãng đường, khởi
hành cùng một lúc
a) Ví dụ: Lúc 7 giờ sáng một ơ tô khởi hành từ A với vận tốc 60 km/giờ đi về phía
B. Cùng thời điểm đó tại một điểm C (trên đường từ A đến B và cách A 25 km)
một người đi xe máy với vận tốc 45 km/giờ về phía B. Hỏi: Lúc mấy giờ thì hai xe
gặp nhau? Chỗ gặp nhau cách nhau bao xa. Biết rằng quãng đường AB dài 120
km.
Đối với các bài toán loại toán này cần hướng dẫn học sinh nhận dạng được
bài tốn rồi vận dụng cơng thức suy luận được rút ra ở trên để giải. Tôi đã hướng
dẫn học sinh nhận dạng bằng cách:
+ Xác định xem bài toán có mấy chuyển động.
+ Biểu diễn các chuyển động trên sơ đồ đoạn thẳng.
+ Xét xem các động tử đó chuyển động cùng chiều hay ngược chiều.
+ Vận dụng công thức để tính.
b)Bài tập vận dụng:
Bài 1: Quãng đường AB dài 180 km. Một ô tô đi từ A đến B với vận tốc 54
km/giờ, cùng lúc đó một xe máy đi từ B đến A với vận tốc 36 km/giờ. Hỏi kể từ
lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ ô tô gặp xe máy ?
Bài 2: Quãng đường AB dài 276 km. Hai ô tô khởi hành cùng một lúc, một
xe đi từ A đến B với vận tốc 42 km/giờ, một xe đi từ B đến A với vận tốc 50
km/giờ. Hỏi kể từ lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ hai ô tô gặp nhau ?
Bài 3: Một ô tô và một xe máy khởi hành cùng một lúc và đi ngược chiều
nhau. Ơ tơ đi từ A với vận tốc 48,5 km/giờ, xe máy đi từ B với vận tốc 33,5
km/giờ. Sau 1 giờ 30 phút ô tô và xe máy gặp nhau tại C. Hỏi quãng đường AB dài
bao nhiêu km?
- Loại 2: Hai động tử chuyển động trên cùng một quãng đường, khởi

hành không cùng một lúc.
a) Ví dụ: Lúc 8 giờ sáng, một người đi xe đạp từ A với vận tốc 15 km/giờ về
phía B. 40 phút sau một người đi xe máy với vận tốc 35 km/giờ đuổi theo người đi
xe đạp. Hỏi:
9


2 xe gặp nhau lúc mấy giờ?
Chỗ gặp nhau cách nhau bao xa? Biết rằng quãng đường AB dài 20 km.
Đối với loại toán này cần hướng dẫn học sinh phân tích đề bài và nhận dạng
tốn như sau:
1) Xác định xem bài tốn có mấy chuyển động.
2) Biểu diễn các chuyển động trên sơ đồ đoạn thẳng.
3) Xác định thời gian xuất phát của các động tử và thuộc loại chuyển động
cùng chiều hay ngược chiều. (ở ví dụ này thời gian chuyển động không cùng một
lúc, và là chuyển động cùng chiều nhau)
4) Chuyển bài toán về loại toán 2 động tử chuyển động xuất phát cùng một
lúc. (ở ví dụ này đưa về cùng thời điểm xuất phát của động tử chuyển động sau.
Từ đó tính được khoảng cách giữa 2 xe lúc 8 giờ 40 phút)
b) Bài tập vận dụng:
Bài 1: Một người đi xe đạp từ A đến B với vận tốc 12 km/giờ. Sau 3 giờ một
xe máy cũng đi từ A đến B với vận tốc 36km/giờ. Hỏi kể từ lúc xe máy bắt đầu đi,
sau bao lâu xe máy đuổi kịp xe đạp?
Bài 2: Một xe máy đi từ A lúc 8 giờ 37 phút với vận tốc 36 km/giờ. Đến 11
giờ 7 phút một ô tô cũng đi từ A đuổi theo xe máy với vận tốc 54 km/giờ. Hỏi ô tô
đuổi kịp xe máy lúc mấy giờ?
Bài 3: Lúc 6 giờ, một ô tô chở hàng đi từ A với vận tốc 45 km/giờ. Đến 8
giờ, một ô tô du lịch cũng đi từ A với vận tốc 60 km/giờ và đi cùng chiều với ô tô
chở hàng. Hỏi đến mấy giờ thì ơ tơ du lịch đuổi kịp ơ tơ chở hàng?
* Dạng 3: Tốn về chuyển động ngược chiều

SGK giới thiệu bài toán về 2 động tử chuyển động ngược chiều gặp nhau
Bài 1 – trang 145).
Khi hướng dẫn học sinh giải bài tốn này tơi đã giúp học sinh rút ra nhận
xét quan trọng như sau:
- Hai động tử chuyển động ngược chiều với vận tốc v 1 và v2, cùng xuất phát
một lúc, ở cách nhau một đoạn s thì thời gian để chúng gặp nhau là:
tgn = s : (v1 + v2)
( tgn : Thời gian để 2 động tử gặp nhau)
A
C
B
v1
S
 v2
Đối với dạng tốn về hai chuyển động ngược chiều, tơi chia thành các trường
v1
v2
hợp sau:
Trường hợp 1:

A

B

Nếu tại cùng một thời điểm vật thứ nhất xuất phát từ A với vận tốc V1 đi về
phía B. Vật thứ hai xuất phát từ B với vận tốc V2 đi về phía A thì thời gian để hai
vật chuyển động đến chỗ gặp nhau trên đường đi được xác định bởi công thức:
t = s : (v1 + v2)
10



(s là chiều dài của quãng đường AB)
Ví dụ: Lúc 8 giờ sáng một người đi ô tô xuất phát từ A với vận tốc 45
km/giờ về phía B, cùng thời điểm đó một người đi xe máy xuất phát từ B với vận
tốc 35 km/giờ về phía A. Hỏi:
Lúc mấy giờ thì hai xe gặp nhau?
Chỗ gặp nhau cách nhau bao xa? Biết rằng quãng đường AB dài 200 km.
Trường hợp 2:
v1

A

v2

t0v1

B

C

Vật thứ nhất xuất phát từ A với vận tốc V1 đi về phía B. Sau khoảng thời
gian t0 vật thứ hai xuất phát từ B với vận tốc V 2 đi về phía A thì thời gian để vật
thứ hai chuyển động tới chỗ gặp vật thứ nhất được xác định bởi công thức:
t = (s – t0 v 1) : (v1+ v2)
Ví dụ: Lúc 6 giờ sáng một người đi xe đạp từ A với vận tốc 15 km/giờ về
phía B. 40 phút sau một người đi xe máy từ B với vận tốc 35 km/giờ về phía A.
Hỏi:
a) Lúc mấy giờ thì hai xe gặp nhau?
b) Chỗ gặp nhau cách A bao xa? Biết rằng quãng đường AB dài 50 km.
v

v1
v1
v
Trường hợp 3:
2

A

C

O

2

B

Tại một điểm O trên đường từ A đến B, vật thứ nhất đi về phía A với vận tốc
v1, Vật thứ hai đi về phía B với vận tốc V2 thì khoảng thời gian để hai vật chuyển
động cách xa nhau một khoảng s0 được xác định bởi công thức:
t = s0 : (v1 + v2)
Ví dụ: Lúc 8 giờ sáng một người đi ô tô xuất phát từ A với vận tốc 45
km/giờ về phía B. Cùng thời điểm đó, một người đi xe máy xuất phát từ B với vận
tốc 35 Km/giờ về phía A. Hỏi:
a) Lúc mấy giờ thì hai xe gặp nhau?
b) Chỗ gặp nhau cách A bao xa? Biết rằng quãng đường AB dài 200 km.
Tóm lại để giải được các bài toán dạng này, chúng ta cần hướng dẫn các em
nhận dạng toán trên cơ sở đọc đề, phân tích đề, xác định xem bài tốn có mấy
chuyển động. Nếu là 2 chuyển động thì chuyển động cùng chiều hay ngược chiều.
Thời điểm xuất phát cùng một lúc hay hai thời điểm khác nhau. Nếu xuất phát
cùng một lúc thì vận dụng cơng thức được rút ra ở trên để tính. Cịn xuất phát ở hai

thời điểm khác nhau thì chuyển về thời điểm xuất phát cùng một lúc để tính.
* Bài tập vận dụng:
Bài 1: Hai ô tô xuất phát từ A và B cùng một lúc và đi ngược chiều nhau, sau
2 giờ chúng gặp nhau. Quãng đường AB dài 180 km. Tìm vận tốc của mỗi ô tô,
2
biết vận tốc ô tô đi từ A bằng vận tốc ô tô đi từ B.
3

11


Bài 2: Một ô tô và một xe máy khởi hành cùng một lúc và đi ngược chiều
nhau. Ơ tơ đi từ A với vận tốc 48,5 km/giờ, xe máy đi từ B với vận tốc 33,5
km/giờ. Sau 1 giờ 30 phút ô tô và xe máy gặp nhau tại C. Hỏi quãng đường AB dài
bao nhiêu ki-lô-mét?
* Dạng 4: Chuyển động trên dịng nước
a) Ví dụ: Một tàu thủy khi xi dịng một khúc sơng hết 5 giờ và khi ngược dịng
khúc sơng đó hết 7 giờ. Hãy tính chiều dài khúc sơng đó, biết rằng vận tốc dịng
nước là 60 m/phút.
- Trước khi hướng dẫn học sinh nhận dạng và tìm phương pháp giải bài
tốn, Qua bài tập số 4 – SGK trang 162 tôi hướng dẫn để học sinh hiểu rằng:
Nếu dịng nước chảy thì bản thân dòng nước cũng là một chuyển động. Cho
nên khi vật chuyển động trên dịng nước thì dịng nước có ảnh hưởng đến chuyển
động của vật, cụ thể:
+ Vận tốc xuôi dòng = Vận tốc thực + Vận tốc dòng nước
+ Vận tốc ngược dòng = Vận tốc thực – Vận tốc dịng nước
Từ hai cơng thức trên suy ra:
+ Vận tốc xi dịng - Vận tốc ngược dịng = Vận tốc dịng nước  2
Ở bài tốn này tơi cũng giúp học sinh nhận dạng và tìm phương pháp giải
như sau:

Từ vận tốc dịng nước là 60 m/phút ta tìm được mức chênh lệch (hay hiệu)
giữa vận tốc xi dịng và vận tốc ngược dòng. Từ tỉ số giữa thời gian xi dịng
và thời gian ngược dịng ta suy ra được tỉ số giữa vận tốc ngược dịng. Bài tốn
chuyển về dạng điển hình “Tìm 2 số khi biết hiệu và tỉ số của 2 số đó”. Tìm vận
tốc xi dịng hoặc ngược dịng ta tìm được chiều dài khúc sông.
(lưu ý: đơn vị thời gian và đơn vị vận tốc ở bài này chưa tương ứng với nhau)
b) Bài tập vận dụng:
Bài 1: Một thuyền máy đi xi dịng từ bến A đến bến B. Vận tốc của thuyền
máy khi nước lặng là 22,6 km/giờ và vận tốc dòng nước là 2,2 km/giờ. Sau 1 giờ
15 phút thì thuyền máy đến bến B. Tính độ dài qng sơng AB.
Bài 2: Một con thuyền đi với vận tốc 7,2 km/giờ khi nước lặng, vận tốc của
dòng nước là 1,6 km/giờ.
a) Nếu thuyền đi xi dịng thì sau 3,5 giờ sẽ đi được bao nhiêu ki – lô – mét?
b) Nếu thuyền đi ngược dịng thì cần bao nhiêu thời gian để đi được qng
đường như khi xi dịng trong 3,5 giờ ?
Bài 3: Một tàu thủy khi xi dịng có vận tốc 28,4 km/giờ, khi ngược dịng
có vận tốc 18,6 km/giờ.
Tính vận tốc của tàu thủy khi nước lặng và vận tốc của dòng nước?
2.3.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh nắm chắc các bước giải toán
* Hướng dẫn học sinh theo 4 bước như sau:
- Bước 1: Tìm hiểu đề
+ Yêu cầu học sinh đọc thật kĩ đề toán, xác định đâu là cái đã cho, đâu là
những cái phải tìm.
12


+ Hướng dẫn học sinh tập trung suy nghĩ vào những từ quan trọng của đề
toán, từ nào chưa hiểu ý nghĩa phải tìm hiểu ý nghĩa của nó.
+ Hướng dẫn học sinh cần phát hiện rõ những gì thuộc về bản chất của đề
tốn, những gì khơng thuộc về bản chất của đề toán để hướng học sinh vào chỗ cần thiết.

+ Hướng dẫn học sinh tóm tắt đề bằng sơ đồ, hình vẽ, kí hiệu, ngơn ngữ
ngắn gọn. Sau đó yêu cầu học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại nội dung đề toán.
- Bước 2: Xây dựng chương trình giải
Từ tóm tắt đề, thơng qua đó giúp học sinh thiết lập mối quan hệ giữa cái đã
cho và cái phải tìm. Ở đây cần suy nghĩ xem: Muốn trả lời câu hỏi của bài tốn thì
cần biết những gì? Cần phải làm những phép tính gì? Trong những điều ấy cái gì
đã biết, cái gì chưa biết? Muốn tìm cái chưa biết ấy thì lại phải biết cái gì?…Cứ
như thế ta đi dần đến những điều đã cho trong đề toán. Từ những suy nghĩ trên học
sinh sẽ tìm ra con đường tính tốn hoặc suy luận đi từ những điều đã cho đến đáp
số của bài toán.
Đây là một bước rất quan trọng và vai trò của người giáo viên là đặc biệt
quan trọng. Để phát huy được tính tích cực, khả năng sáng tạo của học sinh tôi đã
tổ chức, hướng dẫn, gợi cho học sinh những nút thắt quan trọng để học sinh thảo
luận, tìm cách giải quyết tháo những nút thắt đó.
- Bước 3: Thực hiện chương trình giải.
+ Dựa vào kết quả phân tích bài tốn ở bước hai, xuất phát từ những điều đã
cho trong đề toán học sinh lần lượt thực hiện giải bài toán.
+ Lưu ý học sinh trình bày bài giải khoa học, lập luận chặt chẽ, đủ ý,…
- Bước 4: Kiểm tra kết quả
Học sinh thực hiện thử lại từng phép tính cũng như đáp số xem có phù hợp
với đề tốn khơng. Cũng cần sốt lại câu lời giải cho các phép tính, các câu lập
luận đã chặt chẽ đủ ý chưa.
Ngoài 4 bước giải trên trong dạy học nhất là dạy đối tượng học sinh khá, giỏi
cần giúp học sinh khai thác bài toán như:
+ Có thể giải bài tốn bằng cách khác khơng?
+ Từ bài tốn có thể rút ra nhận xét gì? Kinh nghiệm gì?
+ Từ bài tốn này có thể đặt ra các bài toán khác như thế nào? Cách giải ra sao?
* Bài tập vận dụng
Ví dụ: Lúc 7 giờ sáng, một ô tô tải khởi hành từ A đến B với vận tốc 65 km/
giờ. Đến 8 giờ 30 phút một xe ô tô chở khách đi từ B về A với vận tốc 75 km/giờ.

Hỏi sau mấy giờ thì 2 xe gặp nhau? Biết A cách B là 657,5 km.
- Bước 1: Tìm hiểu đề
+ Yêu cầu học sinh đọc kĩ đề, xác định những cái đã biết, những cái cần tìm.
+ Tóm tắt bài tốn bằng sơ đồ đoạn thẳng.
7 giờ
657,5 km
8 giờ 30 phút
A
B
C
65 km/giờ
75 km/giờ
+ Học sinh dựa vào sơ đồ tóm tắt để nêu lại đề tốn.
- Bước 2: Xây dựng chương trình giải.
13


Giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận các câu hỏi gợi ý sau:
+ Trong bài toán này em thấy có mấy động tử chuyển động và nó chuyển
động như thế nào với nhau? (Có 2 động tử chuyển động trên cùng một quãng
đường, đây là chuyển động ngược chiều gặp nhau, xuất phát không cùng một lúc.)
+ Để giải được bài toán này cần chuyển về bài toán dạng nào? (Dạng toán 2
động tử chuyển động ngược chiều gặp nhau, xuất phát cùng một lúc)
+ Làm cách nào để có thể chuyển về dạng tốn đó? (Tìm xem đến 8 giờ 30
phút khi xe khách xuất phát thì xe tải đã đi được bao nhiêu km, quãng đường còn
lại hai xe cịn phải đi là bao nhiêu?)
+ Để tìm được thời gian gặp nhau ta làm như thế nào? (Lấy quãng đường
chia cho tổng vận tốc)
- Bước 3: Trình bày bài giải
Bài giải

Khi ơ tơ khách xuất phát thì ô tô tải đã đi được thời gian là:
8 giờ 30 phút – 7 giờ = 1 giờ 30 phút
Đổi : 1 giờ 30 phút = 1,5 giờ
Khi ô tô khách xuất phát thì ơ tơ tải đã đi được quãng đường là:
65  1,5 = 97,5 (km)
Quãng đường còn lại 2 xe phải đi là: 657,5 – 97,5 = 560 (km)
Sau 1 giờ cả 2 xe đi được: 65 + 75 = 140 (km)
Thời gian để 2 ô tô gặp nhau là:
560 : 140 = 4 (giờ)
Đáp số: 4 giờ
- Bước 4: Kiểm tra đánh giá kết qủa
+ Học sinh tự kiểm tra kết quả hoặc đổi vở để kiểm tra kết quả của nhau.
+ Học sinh thử lại kết quả dựa vào các dữ liệu đã cho của bài toán.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Từ việc nghiên cứu, vận dụng các biện pháp dạy giải toán chuyển động đều
cho học sinh lớp 5C, năm học 2016 – 2017, với đề khảo sát cũng như ở cùng kì
năm ngối (như đã nêu ở phần thực trạng), kết quả làm bài của học sinh đã có sự
tiến bộ rõ rệt, cụ thể như sau:
KẾT QUẢ: (Trên tổng số 25 học sinh)
Điểm 9,10
Điểm 7,8
Điểm 5,6
Điểm dưới 5
SL
TL(%)
SL
TL(%)
SL
TL(%)
SL

TL(%)
5
20
11
44
9
36
0
0
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Thực tế dạy học hằng năm cho thấy: Tốn chuyển động đều trong chương
trình tốn Tiểu học nói chung và chương trình Tốn lớp 5 nói riêng là một trong
những nội dung quan trọng để giúp học sinh nắm vững kiến thức kỹ năng của mơn
Tốn trong trường Tiểu học cũng như vận dụng vào cuộc sống của các em sau này.
Tôi thấy phần kiến thức về tốn chuyển động đều rất khó vì nó có các tình huống
14


chuyển động đa dạng trong đời sống mà nội dung của nó lại rất phong phú. Nhưng
đã nói ở phần thực trạng, thời gian dành cho phần này rất ít cụ thể: 3 tiết lý thuyết,
2 tiết luyện tập và rải rác ít bài của phần ơn tập cuối năm. Điều đó đặt ra u cầu
việc dạy "Các bài tốn về chuyển động" ở lớp 5 nói riêng và dạy học tốn nói
chung phải đảm bảo tính khoa học giáo dục, tính chính xác, tính sư phạm và phát
huy được tính sáng tạo của học sinh.
Để làm được điều này giáo viên cần khơng ngừng nâng cao trình độ về toán
học và phương pháp dạy học toán bằng nhiều con đường như đào tạo, tự học tự
nghiên cứu qua các chuyên đề, tài liệu chuyên môn, sách nâng cao thông tin giáo
dục tiểu học, sách tham khảo, chuyên đề về phương pháp dạy toán ở tiểu học...
Khi tổ chức, hướng dẫn dạy và học phải để các em được hoạt động nhiều, tự

học sinh giải quyết các vấn đề nêu ra dưới sự hướng dẫn của giáo viên như tìm
hiểu đề, đến cách giải và tự kiểm tra, đánh giá làm hồn thiện được các khâu đó
một phần người thầy giáo đã biết khơi dậy trong tâm hồn học sinh lịng say mê,
đức tính tự tin tìm tịi và khả năng lao động, sáng tạo bằng sức lao động của mình.
Để giúp học sinh nắm chắc phần này tơi thấy sự cần thiết phải tìm các giải
pháp giúp các em. Năm học 2016 – 2017, tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một số biện
pháp giúp học sinh lớp 5 giải tốt các bài toán về chuyển động đều” và đã thu được
kết quả như trên. Qua theo dõi trong quá trình thực tế giảng dạy, tơi nhận thấy biện
pháp dạy toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5 của tôi, đã bước đầu thu được
kết quả tốt. Học sinh nắm chắc kiến thức, hiểu được bản chất của vấn đề, tiếp thu
bài tốt, chất lượng học tập đồng đều hơn.
3.2. Kiến nghị
Qua việc nghiên cứu và vận dụng trong giảng dạy tìm ra một số biện pháp giúp học
sinh lớp 5 giải tốt các bài toán về chuyển động đều, tôi nhận thấy kết quả thu được
rất khả quan thông qua bài kiểm tra chứng tỏ việc áp dụng các giải pháp trên rất
phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh. Giúp học sinh nắm được nhiều cách
làm bài và làm bài chủ động theo quy trình rõ ràng, không phụ thuộc vào quy tắc
sách giáo khoa. Vậy để giáo viên có thể dạy tốt và học sinh có thể làm tốt các bài
tốn về chuyển động đều, tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
* Đối với Phòng giáo dục: Cần tổ chức các chuyên đề trao đổi kinh nghiệm về
dạy học mơn Tốn sau mỗi năm học cho giáo viên dạy lớp 4, 5 trong toàn huyện.
* Đối với Ban giám hiệu các nhà trường: Cần xây dựng đội ngũ giáo viên dạy
lớp 5 nhiều năm, để giáo viên có điều kiện nghiên cứu sâu chương trình và đúc rút
kinh nghiệm trong dạy học.
* Đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy: Cần phải soạn bài và nghiên cứu bài tốt
trước khi đến lớp. Đặc biệt giáo viên cần mạnh dạn áp dụng những biện pháp dạy
học mới trong quá trình giảng dạy để đúc rút kinh nghiệm khi cho rằng biện pháp
ấy sẽ mang lại hiệu quả cao hơn trong dạy học. Giáo viên cần thường xuyên kiểm
tra các khả năng nắm kiến thức và kĩ năng thực hành của học sinh đặc biệt là học
sinh trung bình và đối tượng học sinh chưa hoàn thành. Giáo viên cần mở rộng và

nâng cao kiến thức cho học sinh có năng khiếu.
15


Để giúp các em nắm chắc kiến thức và giải được các bài tốn chuyển động
đều từ dễ đến khó, giáo viên cần:
1) Trang bị cho học sinh một cách có hệ thống các kiến thức cơ bản, cũng
như các quy tắc, công thức. Nắm vững bản chất mối quan hệ giữa 3 đại lượng: vận
tốc, thời gian, quãng đường để vận dụng giải toán.
2) Người giáo viên cần biết phân dạng, hệ thống hóa các bài tập theo dạng
bài. Giúp học sinh nắm phương pháp giải theo dạng bài từ đơn giản đến phức tạp.
3) Tập cho học sinh đọc và phân tích đề kĩ lưỡng trước khi làm bài. Cần rèn
luyện cho học sinh phương pháp suy luận chặt chẽ, trình bày bài đầy đủ, ngắn gọn,
chính xác. Một điều quan trọng là giáo viên phải biết khơi gợi sự tị mị, hứng thú
học tập, khơng nản chí trước những khó khăn trước mắt.
Trên đây là những kinh nghiệm tơi rút ra trong q trình giảng dạy. Sau khi
đã áp dụng và bước đầu có kết quả đáng kể tại đơn vị trường mà tôi đang công
tác. Tuy nhiên, đây chỉ là những kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi nên đề tài
không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận đựơc sự đóng góp ý
kiến của các cấp lãnh đạo, các đồng nghiệp, để tôi học tập, bổ sung hoàn thiện
kiến thức cũng như phương pháp giảng dạy của mình.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2018
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.
NGƯỜI VIẾT


Trịnh Anh Đào

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Toán 5.
2. Dạy lớp 5 theo chương trình tiểu học mới - Tài liệu bồi dưỡng giáo viên Nhà xuất bản Giáo dục.
3. Hỏi - Đáp về dạy học Toán - Nguyễn Ánh (chủ biên) - Nhà xuất bản Giáo
dục.
4. Em muốn giỏi toán 5 - Nhà xuất bản Giáo dục.
5. 10 chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi toán 4-5 -Tác giả: Trần Diên Hiển NXB Giáo dục
6. Tuyển tập các bài toán hay lớp 5. Nhiều tác giả - NXB Đại học Quốc gia

17


18


MỤC LỤC:
STT

Tên tiêu mục

Trang

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1


Lí do chọn đề tài

1.2

Mục đích nghiên cứu của đề tài

1.3

Đối tượng nghiên cứu

1.4

Phương pháp nghiên cứu

1-2
2
2
2-3

II. PHẦN NỘI DUNG
2.1

Cơ sở lí luận của vấn đề

3

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN.


3-4

2.3

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

5-14

2.4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.

14

III. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
3.1

Kết luận

14-15

3.2

Kiến nghị

15-16

Tài liệu tham khảo

17


19



×