Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

(Luận văn thạc sĩ) nghiên cứu kiến thức bản địa trong quản lý, sử dụng và phát triển rừng của cộng đồng người hmông xã tả phìn huyện sapa tỉnh lào cai​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.07 KB, 139 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ nông nghiệp và PTNT

Trường đại học lâm nghiệp việt nam

phạm thạch

Nghiên cứu kiến thức bản địa
trong quản lý, sử dụng và phát triển rừng của cộng đồng
người hmông xà tả phìn - huyện sapa - tỉnh lào cai

Chuyên ngành lâm học

MÃ số: 60.52.14
Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Đề tài thạc sỹ
Tên đề tài:

Người hướng dẫn khoa học

Nghiên cứu chế độ sấy Thanh hao hoa vàng

TS. đặng tùng hoa

dùng làm nguyên liệu chiết xuất Artemisinin.

Lời cảm ơn
Hà Tây - 2007



1

đặt vấn đề
Trong thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, nhân loại đang đứng trước
thảm hoạ suy thoái môi trường trên toàn cầu, các nước trong đó có Việt Nam
đà đề ra nhiều giải pháp bảo vệ và phục hồi môi trường, trong đó giải pháp
quản lý rừng bền v÷ng cã mét ý nghÜa to lín trong viƯc duy trì và bảo vệ môi
trường sinh thái. Muốn quản lý rừng bền vững thì việc nghiên cứu các giải
pháp để quản lý và sử dụng hợp lý rừng là vô cùng cần thiết.
Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân các dân tộc ít người ở miền núi nói
chung và cộng đồng người Hmông ở SaPa nói riêng có đời sống gắn bó
với rừng và cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào rừng. Chính vì thế họ có
một hệ thống kiến thức bản địa rất phong phú liên quan đến việc bảo vệ,
phát triển và sử dụng hợp lý tài nguyên rừng. Sự hiểu biết về hệ thống
kiến thức bản địa của người Hmông sẽ giúp cho các nhà quản lý, các nhà
hoạch định chính sách cũng như các cán bộ khuyến nông khuyến lâm đề
ra được các giải pháp phù hợp với nhận thức, điều kiện tự nhiên, kinh tế
xà hội của cộng đồng, qua đó làm tăng hiệu quả và tính bền vững cho các
dự án hay chương trình phát triển nông thôn cũng như trong quá trình
quản lý, bảo vệ rừng của chính cộng đồng.
Tuy nhiên, cùng với xu thế hội nhập và giao lưu văn hoá, sự tác động
của nền kinh tế thị trường, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và sự
gia tăng dân số một cách nhanh chóng thì những kiến thức văn hóa truyền
thống của người Hmông đà và đang bị mai một dần theo thời gian. Đây là một
điều đáng tiếc bởi vì rất nhiều kỹ thuật truyền thống đà mang lại hiệu quả cao,
được thử thách qua hàng thế kỷ, có sẵn ở địa phương, rẻ tiền, phù hợp với văn
hóa, xà hội và phong tục tập quán mà không dễ gì các giải pháp kỹ thuật ở các
nước phát triển có được. Do đó các kiến thức bản địa của đồng bào Hmông
cần phải được nghiên cứu, phơc håi vµ l­u trun.



2

Hơn nữa, ngày nay vai trò của cộng đồng trong việc quản lý và bảo vệ
rừng đà được thừa nhận, cộng đồng đà trở thành một chủ thể có đủ tư cách
pháp nhân để quản lý rừng, đồng thời rừng cũng được xem như là một trong
những cơ sở hạ tầng quan trọng nhất đối với sự ổn định và phát triển của cộng
đồng vùng cao. Vì vậy việc nghiên cứu kiến thức bản địa của cộng đồng
người Hmông, sau đó sưu tập và lưu truyền lại phục vụ cho chính cộng đồng
những chủ thể quản lý rừng lại càng cần thiết hơn.
Xuất phát từ tính cấp thiết của vấn đề đà nêu, chúng tôi chọn và thực hiện
đề tài " Nghiên cứu kiến thức bản địa trong quản lý, sử dụng và phát triển
rừng của cộng đồng người Hmông xà Tả Phìn, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai".


3

Chương 1

tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1. Tổng quan về nghiên cứu kiến thức bản địa trên thế giới
1.1.1. Khái niệm về kiến thức bản địa
Kiến thức bản địa là hệ thống kiến thức của các dân tộc bản địa, hoặc
của một cộng đồng tại một khu vực cụ thể nào đó. Nó tồn tại và phát triển
trong những hoàn cảnh nhất định với sự đóng góp của mọi thành viên trong
cộng đồng (người già, trẻ, đàn ông, phụ nữ) ở một vùng địa lý xác định [21].
Theo Charyulu (1998) [11], kiến thức bản địa không giới hạn ở nhóm
bộ lạc hay người dân gốc ở một vùng nào đó, nó cũng không giới hạn đối với
người dân ở nông thôn. Thường mỗi cộng đồng đều có những kiến thức bản

địa - từ thành thị đến nông thôn, từ dân định cư đến dân di cư, từ người bản
địa đến người nhập cư.
Những người dân bản địa trên khắp thế giới đều chiếm giữ những
vùng nông nghiệp sinh thái khác nhau đà tạo ra những bộ kiến thức có liên
quan đến nhân chủng học, địa lý, nông nghiệp, bệnh cây, côn trùng, khoa
học đất, xà hội học nông thôn, khuyến nông, y học dân tộc, giáo dục, lâm
nghiệp, nông lâm kết hợp, sinh thái nông nghiệp, ngôn ngữ học, thực vật,
cây thuốc, nghề cá, quản lý tài nguyên và quản lý cộng đồng (Warren,
1995). Kho kiến thức này được biết đến bởi nhiều tên gọi như "Kiến thức
bản địa", "Kiến thức truyền thống", "Kiến thức kỹ thuật bản địa" (Howes &
Chambers, 1980), "Kiến thức địa phương", "Kiến thức văn hoá truyền
thống", "Kiến thức sinh thái truyền thống", và "Kiến thức môi trường truyền
thống" (Johnson, 1992). Những thuật ngữ đó hơi khác nhau đối với những
người sử dụng khác nhau. Tuy nhiên, thuật ngữ Kiến thức bản địa được
sử dụng rộng rÃi hơn cả [7].


4

Kiến thức bản địa được diễn tả qua nhiều ngôn tõ kh¸c nhau nh­ng thùc
chÊt chóng cã sù thèng nhÊt cao về nghĩa đó là:
Thứ nhất, kiến thức bản địa là những kinh nghiệm được đúc rút và lưu
truyền qua nhiều thế hệ của một cộng đồng dân cư nhất định của một địa
phương nhất định. Nó cũng được hiểu là tập hợp những thông tin làm cơ sở
của một hệ thống xà hội. Hệ thống thông tin bản địa là động lực và sự tác
động liên tục bởi sự sáng tạo từ nội lực, sự thực nghiệm cũng như sự giao diện
với hệ thống bên ngoài.
Thứ hai, kiến thức bản địa nói một cách rộng rÃi là tri thức được sử dụng
bởi những người dân địa phương trong cuộc sống ở một môi trường nhất định.
Thứ ba, kiến thức bản địa là nhóm kiến thức được tạo ra bởi mét nhãm

ng­êi qua nhiỊu thÕ hƯ sèng vµ cã quan hệ chặt chẽ với thiên nhiên trong một
vùng nhất định. Nói một cách khái quát, kiến thức bản địa là những kiến thức
được rút ra từ môi trường địa phương, vì vậy nó gắn liền với nhu cầu của con
người và điều kiện địa phương.
Thứ tư, kiến thức bản địa là kiến thức địa phương, dạng kiến thức được
tạo bởi một nền văn hoá hay một xà hội nhất định. Đây là kiến thức cơ bản
cho việc ra quyết định ở mức địa phương về nông nghiệp, chăm sóc sức khoẻ,
chế biến thức ăn, giáo dục, quản lý tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động
chủ yếu khác của cộng đồng nông thôn.
Thứ năm, kiến thức bản địa là kiến thức của một cộng đồng nhất định
phát triển xuyên thời gian và liên tục phát triển. Kiến thức bản địa được hình
thành dựa vào kinh nghiệm của đời sống, nó thường xuyên được kiểm nghiệm
trong quá trình sử dụng, thích hợp với văn hoá và môi trường địa phương năng
động và biến đổi.


5

Tóm lại, kiến thức bản địa là những nhận thức, những hiểu biết về môi
trường sinh sống được hình thành từ cộng đồng dân cư ở một nơi cư trú nhất
định trong lịch sử tồn tại và phát triển cộng đồng.
Khái niệm về kiến thức bản địa còn được thể hiện qua việc xác định đặc
điểm của nó. Kiến thức bản địa có nhiều đặc điểm nổi bật trong đó chứa nhiều
những ưu điểm và hạn chế do không phù hợp môi trường tự nhiên và xà hội
hiện tại. Kiến thức bản địa có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Những ưu điểm:
Kiến thức bản địa được hình thành và biến đổi liên tục qua nhiều thế hệ
trong cộng đồng địa phương nhất định. Kiến thức bản địa là sản phẩm được
tạo ra bởi quá trình lao động sản xuất của cả cộng đồng. Theo thời gian các
kinh nghiệm truyền thống này được cải tiến để ngày càng hoàn thiện hơn

nghĩa là hiệu quả cao hơn và thích ứng cao hơn với các thay đổi của môi
trường tự nhiên và môi trường xà hội.
Trong quá trình giao lưu, nhiều tập quán sản xuất từ vùng khác đà du
nhập vào. Sau đó, các kỹ thuật này dần được cải biến để thích hợp với địa
phương và dần trở thành một phần của kiến thức bản địa. Các kiến thức không
còn ý nghĩa thì mất đi và được thay thế bởi những kiến thức mới thích hợp.
Kiến thức bản địa có khả năng thích ứng cao với môi trường riêng của
từng địa phương - nơi đà hình thành và phát triển kiến thức đó. Do được hình
thành và phát triển ở địa phương hơn nữa lại được tồn tại lâu đời nên kiến thức
bản địa có khả năng thích ứng rất cao với điều kiện cụ thể ở nơi đang sử dụng
chúng.
Kiến thức bản địa do toàn thể cộng đồng sáng tạo ra qua lao động trực
tiếp. Nó được hình thành một cách tự nhiên trong quá trình lao động của một
hoặc một nhóm người gồm cả đàn ông, đàn bà, người già, trẻ nhỏ.


6

Kiến thức bản địa được lưu giữ bằng trí nhớ và được truyền bá từ thế hệ
này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, thơ ca, tế lễ và nhiều tập tục khác.
Kiến thức bản địa gắn liền hài hoà với nền văn hoá, tập tục địa phương.
Vì vậy, khả năng ứng dụng, tiếp thu trong cộng đồng là rất dễ dàng. Trong
thực tế ta thấy có những kỹ thuật mới đưa lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhưng
không được dân chúng chấp nhận do trái với phong tục tập quán, văn hoá của
địa phương.
Kiến thức bản địa có giá trị cao trong việc xây dựng các mô hình phát
triển nông thôn bền vững theo hướng người dân tham gia và ít tốn kém.
Kiến thức bản địa có tính đa dạng cao vì chúng được hình thành trong
những điều kiện khác nhau và được mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi trong cộng
đồng hình thành nên trong nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn

nuôi, chế biến, sử dụng lâm sản...
+ Những hạn chế
Kiến thức bản địa của các dân tộc cũng như tính đa dạng của nó đang
dần bị lÃng quên trong sự phát triển và biến đổi xà hội. Nền kinh tế thị trường,
hàng hoá là nguyên nhân rất quan trọng dẫn tới sự lÃng quên kỹ thuật gây
trồng nhiều loài bản địa.
Sự khai thác tài nguyên quá mức cũng là nguyên nhân mai một dần kiến
thức bản địa, nạn phá rừng làm mất hầu hết các loại cây thuốc truyền thống
của người dân dẫn đến mất cả kiến thức bản địa về khai thác, chế biến và sử
dụng chúng.
Sự thay đổi của xà hội và gia đình truyền thống cũng làm gián đoạn
việc truyền thụ kiến thức bản địa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Thái độ nhận thức không đúng về kiến thức bản địa cũng có thể gây
tổn thất lớn cho kiến thức bản địa.


7

1.1.2. Tình hình nghiên cứu kiến thức bản địa trong quản lý và sử dụng
rừng trên thế giới
Trong quá khứ những người bên ngoài (ví dụ các nhà khoa học xà hội,
khoa học tự nhiên và nông nghiệp, các nhà sinh học, các thế lực thuộc địa) đÃ
bỏ qua hoặc coi nhẹ kiến thức bản địa, đà mô tả kiến thức bản địa như là những
kiến thức nguyên thủy, đơn giản, không thay đổi, "không hiểu biết" hoặc dân
gian. Sự thờ ơ có tính chất lịch sử đó (bất chấp các nguyên nhân - sự phân biệt
chủng tộc, sự vị chủng, hoặc chủ nghĩa đổi mới, với niềm tin hoàn toàn vào các
phương pháp khoa học) đà góp phần làm cho các hệ thống kiến thức bản địa bị
suy sụp bëi sù thiÕu hơt trong sư dơng vµ øng dơng các hệ thống kiến thức này.
Hơn nữa, ở một số qc gia, sù tuyªn trun cđa chÝnh qun cho r»ng văn hóa
bản địa và các kỹ thuật bản địa là lạc hậu hoặc quá hạn và đồng thời đẩy mạnh

một nền văn hóa quốc gia và một ngôn ngữ nhằm vào phí tổn của các nền văn
hóa thiểu số. Sự giáo dục chính thống ở nhà trường thường củng cố thái độ tiêu
cực đó. Một vài người dân và cộng đồng địa phương đà mất lòng tin vào khả
năng của họ để tự giúp họ trở nên độc lập với những giải pháp từ bên ngoài để
giải quyết vấn đề của địa phương của họ [21].
Kiến thức bản địa thực sự chỉ mới được các nhà khoa học và quản lý
quan tâm đến trong vòng vài thập kỷ qua, khi mà nhiều quốc gia và các dự án
phải nỗ lực tìm ra những phương sách để bảo đảm cho sự phát triển bền vững
ở các nước nghèo lẫn các nước giầu. Theo D. Michael Warren, thuật ngữ kiến
thức bản địa được Robert Chambers dùng đầu tiên trong một ấn phẩm phát
hành năm 1979, tiếp theo đó được Brokensha và D.M. Warren sử dụng vào
năm 1980 và tiếp tục phát triển cho đến ngày nay [3].
Nhận thức được tầm quan trọng của kiến thức bản địa, đến nay đà có rất nhiều
công trình nghiên cứu về kiến thức bản địa ở hầu khắp các nước trên thế giới và kiến
thức bản địa ngày càng có vai trò quan trọng trong các dự án phát triển nông thôn.


8

Một mạng lưới quốc tế nghiên cứu và sử dụng kiến thức bản địa đà được thành
lập năm 1987 thông qua Trung tâm nghiên cứu kiến thức bản địa phục vụ phát triển
nông nghiệp (CIKARD) ở trường đại học Iowa State, Hoa Kỳ. Tại Hà Lan, Trung
tâm thông tin về nông nghiệp bền vững và đầu tư thấp từ bên ngoài (ILEIA) cũng là
một trong những tổ chức đang tập trung sự chú ý vào kiến thức bản địa.
Hiện nay, nhiều quốc gia châu á và châu Mỹ La tinh cũng đang xúc tiến
thành lập mạng lưới trao đổi thông tin về kiến thức bản địa nhằm phục vụ cho
các chương trình khuyến nông, khuyến lâm.
Rõ ràng kiến thức bản địa đang nhận được sự quan tâm, chú ý của nhiều
nhà nghiên cứu khoa học cũng như các dự án và tổ chức quốc tế. Tuy nhiên
các nghiên cứu trước đây về kiến thức bản địa chủ yếu chỉ dừng lại ở mức độ

đánh giá định tính và thử nghiệm trong phòng. MÃi cho đến những năm gần
đây, các phương pháp thực nghiệm nghiên cứu trong nông nghiệp ở các môi
trường phức tạp, đa dạng và đầy rủi ro đà được quan tâm một cách đáng kể.
Các hạn chế của việc thử nghiệm trong phòng đà được nhận biết một cách rõ
ràng. Vấn đề chính là chúng không phản ánh đầy đủ được các điều kiện của
người sử dụng [19].
Gần đây, việc quản lý lâm nghiệp bản địa đà trở thành mối quan tâm của cả
khoa học lâm nghiệp và sự hợp tác phát triển lâm nghiệp. Trước đây lâm nghiệp xÃ
hội và lâm nghiệp tập quán không được đề cập tới, đặc biệt lâm nghiệp cộng đồng đÃ
bị bỏ qua trong rất nhiều trường hợp [25], trong khi đó những sáng kiến và quản lý
rừng bản địa lại rất có giá trị. MÃi cho đến gần đây, sự phát triển trong phạm vi lâm
nghiệp chuyên nghiệp và các dự án được bảo trợ từ bên ngoài được chia ra từ sự phát
triển trong phạm vi lâm nghiệp bản địa và các sáng kiến địa phương, một lĩnh vực
chính đà được nghiên cứu bởi các nhà nhân chủng học.


9

Trong 2 thËp kû qua ng­êi ta ®· chó ý rất nhiều đến việc điều chỉnh hoạt động
quản lý rừng hướng vào các nhu cầu có liên quan đến rừng của người dân địa phương
trong các nước nhiệt đới. Những cách tiếp cận này tới rừng bắt đầu vào cuối thập kỷ
70 như là kết quả của việc nhận ra cuộc khủng hoảng về năng lượng của những người
dân nghèo [28] . TiÕp ®ã ng­êi ta cịng nhËn ra r»ng việc sử dụng rừng của cộng
đồng địa phương không bị hạn chế trong phạm vi gỗ (nhiên liệu), mà bao gồm rất
nhiều những lâm sản ngoài gỗ như thức ăn, cây thuốc và thức ăn cho súc vật. Nhận
thức về sự tác động của người dân bản địa đến rừng gồm hai khía cạnh, một mặt
người ta cho rằng sự tham gia của người dân địa phương sẽ cải thiện việc sử dụng các
nguồn tài nguyên của con người và bởi vậy nó sẽ là công cụ trong việc cải thiện vấn
đề quản lý rừng. Mặt khác, người ta còn cân nhắc rằng việc phát triển cộng đồng
không nên chỉ tâp trung vào việc đạt được các nhu cầu có liên quan đến rừng của

người dân địa phương từ rừng mà còn tập trung vào việc khuyến khích người dân địa
phương tự đáp ứng những nhu cầu riêng của họ bằng cách chăn nuôi, trồng trọt [29].
Ngày nay lâm nghiệp chuyên nghiệp đà quan tâm rất nhiều đến sự
thành công của lâm nghiệp bản địa và quá trình truyền thông và tổng
hợp đà được mở ra [22]. Kết quả của chiến lược lâm nghiệp xà hội
nhằm không chỉ điều chỉnh việc quản lý rừng theo các nhu cầu của
người dân địa phương mà còn khuyến khích sự tự nỗ lực của bản thân
họ [29]. Chiến lược lâm nghiệp xà hỗi đầu tiên dựa trên sự thuật lại có
chọn lọc của các kiến thức thực tế của lâm nghiệp chuyên nghiệp theo
tập quán. Nhưng từ những nỗ lực buổi ban đầu này đà làm tăng sự nhận
thức về vai trò của rừng trong các chiến lược sinh kế của người dân địa
phương. Người ta còn thấy rằng các cộng đồng địa phương không chỉ
khai thác rừng để đạt hàng loạt các nhu cầu gia đình mà trong nhiều
trường hợp còn chủ động trong việc quản lý rừng. Bởi vì tầm quan trọng
của tài nguyên rừng đối với cộng đồng địa phương, nên họ đà phát triển


10

hệ thống quản lý tài nguyên rừng riêng biệt của riêng họ. Thực tiễn quản
lý bao gồm việc bảo vệ có mục đích của rừng tự nhiên, sự biên đổi của rừng
tự nhiên thành rừng có tài nguyên giàu có, sự thiết lập trong trồng rừng hỗn
loài và thiết lập hệ thống nông lâm nghiệp trong đó sản phẩm mùa màng và
thức ăn gia súc liên quan đến việc chăm sóc các nguồn tài nguyên rừng. Ngoài
ra, người ta thấy rằng nhiều cộng đồng địa phương đà xây dựng và phát triển
những thể chế cho việc kiểm soát cách tiếp cận, và khai thác các nguồn tài
nguyên rừng [28].
Một trong các yếu tố quan trọng ban đầu của cách tiếp cận có định
hướng là ý tưởng, mà người dân địa phương, trên nền tảng của những nhu cầu
và kiến thức địa phương, có thể phát triển các cách thức bản địa riêng của họ

trong việc quản lý và sử dụng tài nguyên rừng, những cách thức này không
cần thiết phải giống những cái đà được cân nhắc kỹ bởi cán bộ quản lý rừng
chuyên nghiệp. Sự thích hợp của kiên thức bản địa về quản lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên nhận được sự quan tâm ngày một tăng kể từ đầu những
năm 1980. Từ đó đến nay, việc nghiên cứu khoa học lâm nghiệp đà tập trung
ngày một nhiều vào các đặc điểm cụ thể và tự nhiên của việc quản lý rừng bản
địa, đánh giá tiềm năng của sự kết hợp việc quản lý rừng theo cách chuyên
nghiệp và theo kiến thức bản địa [29].
Theo Francois (1994) [20], những người dân bản địa đà phát triển rất
nhanh bởi việc tÝch lịy nh÷ng kiÕn thøc vỊ thÕ giíi xung quanh họ. Chính
những kiến thức này đà làm cho họ hoàn thiện được rất nhiều phương pháp có
kết quả, bền vững và hoà hợp với môi trường trong công tác quản lý tài
nguyên và sử dụng đất. Nền kinh tế và văn hóa bản địa đều dựa trên những kỹ
thuật bao gồm chăn nuôi du mục, những dạng khác nhau của nông lâm kết
hợp, ruộng bậc thang, săn bắn, chăn nuôi và nghề cá.


11

Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu khác của nhiều nhà khoa học
trên thế giới như công trình nghiên cứu của Paul Hebinck (1996) về Mạng lưới kiến
thức chính thống và không chính thống trong bảo tồn lâm nghiệp ở Zimbabue đÃ
cho thấy để quản lý và bảo tồn rừng bền vững phải dựa vào tri thức địa phương. Kết
quả nghiên cứu của Ruguelito M. Pastores và Romeo .E. San Buenaventura (1996)
đà chỉ ra rằng những người dân bản xứ đóng góp rất to lớn và giữ vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc tìm hiểu và lựa chọn những loài cây có đặc tính sinh thái và đặc
tính sinh học phù hợp ở địa phương,... Điều này thèng nhÊt víi kÕt ln cđa Normita
G.L. (1993) khi nghiªn cứu về Những loài cây bản địa cho chương trình xây dựng
nhà ở ở Cavite và Negros Occidental, Philippines [3].
Tuy nhiên, kiến thức bản địa vẫn chỉ được sử dụng nhiều trong việc dự

đoán và phần lớn các thông tin được chúng tạo ra chỉ là định tính và có tính
chất cục bộ mặc dù chúng đà được chọn lọc và thích ứng qua thời gian. Cần
phải làm nhiều việc hơn nữa để phát triển việc sử dụng chúng trong tổng kết
và điều khiển quá trình nghiên cứu cũng như tìm cách kết hợp các dữ liệu định
tính mà chúng tạo ra để chúng có thể được ứng dụng trong các nghiên cứu
chuyên đề và được trình bày theo cách mà có thể ảnh hưởng rộng lớn hơn đến
thể chế và chính sách [18], [26].
Những thất bại của các hoạt động do Ngân hàng thế giới (WB) tài trợ đÃ
đề cập đến sự yếu kém mang tính hệ thống này vốn đà tồn tại trong công tác
khuyến nông, khuyến lâm. Do thiếu các cơ chế phản hồi trong hệ thống, các
kiến thức bản địa đà không được phối hợp trong nghiên cứu và thực nghiệm.
Điều này đà tạo ra các khuyến nghị không phù hợp và sự thiếu đồng thuận của
người dân địa phương.
Gần đây, các dự án của ngân hàng thế giới có sự tham gia nhiều hơn
bao gồm điều lệ đất đai bản địa và các chương trình quản lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên. Các ví dụ bao gồm chương trình làm mẫu để bảo vệ rừng mưa


12

nhiệt đới Brazin và dự án quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên Colombia.
Sáng kiến này đà cung cấp những phương pháp mới để quản lý có hiệu quả
nguồn tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa sống còn đối với kinh tế và sự bền
vững về môi trường bản địa và những cộng đồng nông thôn sống ở trong rừng.
Theo Merrill-Sands và Collion (1992) [23], phát triển các phương pháp
lượng hóa các kiến thức bản địa có thể sẽ rất có ích cho việc tạo lập chính sách.

1.2. Tình hình nghiên cứu kiến thức bản địa trong quản lý và sư
dơng rõng ë ViƯt Nam
Cịng nh­ nhiỊu n­íc kh¸c ë Đông Nam á, nông dân Việt Nam đà có

truyền thống về sản xuất nông nghiệp và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên
từ hàng ngàn năm nay. Cộng đồng 54 dân tộc anh em sinh sống trên nhiều
vùng sinh thái đa dạng trên phạm vi toàn quốc đà sáng tạo ra một kho tàng đồ
sộ về các kiến thức quản lý tài nguyên thiên nhiên và kiến thức về phát triển
sản xuất nông lâm nghiệp. Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề nghiên cứu về kiến
thức bản địa nói chung và kiến thức bản địa trong quản lý và sử dụng rừng nói
riêng ở Việt Nam còn rất mới mẻ.
Chính trong điều kiện môi trường sinh thái đang bị suy thoái và cuộc sống
của con người đang gặp ngày càng nhiều khó khăn, thách thức thì chúng ta mới
bắt đầu thừa nhận rằng kiến thức bản địa là nguồn tài nguyªn qc gia quan
träng, cã thĨ gióp Ých rÊt nhiỊu cho quá trình phát triển sản xuất theo phương
sách ít tốn kém, có sự tham gia của người dân và đạt được sự bền vững cao [4].
Bên cnh đó, các nghiªn cứu về kiến thức bản địa liªn quan đến lĩnh
vực quản lý sử dụng rừng cũng được quan t©m. Các nhóm cng ng c
nghiên cu ch yu l các nhóm dân tộc Dao, Mường, Ty, Nùng, Thái (ở
vùng núi phía Bắc), Mnông ở Tây Nguyên hay Cờ Tu ở Thừa Thiên Huế. Các
công trình nghiên cứu của tác giả Hong Xuân Tý (2000) [11], Lê Trọng Cúc
(1998) [2], Hong Cầm (1998) [1], Nguyễn Văn Thường (2003) [14] v của


13

nhiều tác giả khác l những nghiên cứu cụ thể về kinh nghiệm v thực hnh
bản địa, nghiên cứu về luật tục. Những nghiên cứu ny cho thấy kiến thức bản
địa l nguồn lực quan trọng đối với bảo tồn v phát triển rừng nếu chúng được
phát huy v kết hợp sử dụng với các kiến thức khoa học tiên tiến, phù hợp.
Trong công trình Nghiên cứu kiến thức bản địa trong quản lý và sử dụng
thực vật lâm sản ngoài gỗ của cộng đồng người Vân Kiều ở thôn Là Tó, xà Húc
Nghì, huyện Đa Krông, tỉnh Quảng Trị Hàn Tuyết Mai (2005) [8] đà kết luận:
Người Vân Kiều ở thôn Là Tó có kho kiến thức khá phong phú về sử dụng v

quản lý ti nguyên rừng. Kiến thøc cđa hä tån t¹i d­íi nhiỊu d¹ng lo¹i, mét số
mang giá trị bảo tồn v văn hoá có giá trị cao. Kiến thức quản lý dưới dạng cơ
chế tự quản có thể phát huy hiệu quả cao nếu được khuyến khích v tạo cơ hội
sử dụng. Tuy nhiên, cùng với sự mất đi của ti nguyên rừng, kho kiến thức của
họ cũng đang bị mai một dần, thậm chí một số kiến thức hon ton không còn.
Nghiên cứu sử dụng ti nguyên rừng theo quan điểm sinh thái văn hóa
của cộng đồng người Thái, Hmong v Kinh ở khu vực miền núi huyện Yên
Châu, vùng Tây Bắc Việt Nam dưới khía cạnh về giới của tác giả Đặng Tùng
Hoa (2000) [5] đà chỉ ra rằng:
- Trong các điều kiện tự nhiên khác nhau mỗi dân tộc có những phương
thức v cơ cấu sử dụng đất đai khác nhau. Dân tộc Thái canh tác ruộng nước
v nương rẫy, trong đó nương rẫy l chủ yếu. Trong khi dân tộc Hmong canh
tác nương rẫy trên vùng đất dốc, thì dân tộc Kinh canh t¸c rng n­íc và ph¸t
triĨn kinh tÕ v­ên l chủ yếu.
- Các hình thức sử dụng phong phú từ cây rừng v sản phẩm của nó
chứng minh rằng rừng chiếm một vị trí rất quan trọng trong đời sống của các
đồng bo dân tộc Thái v Hmong. Dân tộc Kinh sử dụng sản phẩm rừng ít
hơn so với hai dân tộc nói trên. Sản phẩm chính của rừng bao gồm: củi, gỗ
lm nh, gỗ cho thủ công nghiệp, thức ăn cho người v gia súc, sợi, chất
nhuộm cũng như cây dược liệu.


14

Từ đó tác giả đà đưa ra kết luận: Cần phải có những nghiên cứu tương
tự tiếp theo bởi vì ®iỊu kiƯn tù nhiªn và kinh nghiƯm trun thèng cđa các dân
tộc khác nhau theo từng địa phương, từng vùng v từng cộng đồng để lm cơ
sở cho phát triển Lâm nghiệp xà hội bền vững. Những công trình nghiên cứu
sâu hơn nữa về truyền thống dân tộc v việc sử dụng ti nguyên của các dân
tộc ny cũng như nhiều dân tộc khác l rất cần thiết cho việc phát triển Lâm

nghiệp xà hội phù hợp với sinh thái, kinh tế, chính sách v văn hóa.
Trong đề án "Nghiên cứu kiến thức bản địa trong việc bảo vệ, phát triển
và sử dụng hợp lý tài nguyên rừng của một số dân tộc ít người thuộc huyện
Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang: thực trạng và xu hướng phát triển" của tác giả
Lê Thị Diên (2002) [3] đà khẳng định: Để có một chương trình phát triển bền
vững, chúng ta cần nghiên cứu cả hệ thống kiến thức hiện đại và hệ thống kiến
thức bản địa để cải thiện ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống ưu thế và tạo điều kiện
cho sự phát triển phù hợp trong các cộng đồng bản địa. Do vậy, việc kết hợp sử
dụng kiến thức bản địa và kiến thức hiện đại trong các cơ quan khuyến nông,
khuyến lâm là điều quan trọng để đạt được sự phát triển nông lâm nghiệp bền
vững. Các hệ thống kiến thức bản địa cung cấp một khung tham khảo nhằm tăng
cường hoạt động của các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, điều đó dẫn
đến việc tổ chức lại hoạt động của cán bộ khuyến nông, khuyến lâm cho phù hợp
với hoàn cảnh địa phương cần tiến hành phổ cập.
Đề tài Nghiên cứu kiến thức bản địa của người Mạ và Stiêng về quản
lý và sử dụng rừng để đề xuất giải pháp quản lý bền vững vườn quốc gia Cát
Tiên của Nguyễn Huỳnh Thuật (2005) [13] đà kết luận: Các cộng đồng Mạ
và Stiêng đà và đang có cuộc sống dựa vào các tài nguyên rừng, đất, nước và
đa dạng sinh học. Sinh kế của người dân vẫn phụ thuộc rất lớn vào các tài
nguyên này và do đó một số các kiến thức bản địa về rừng, đất, nước và đa
dạng sinh học đà được bảo lưu hay thÝch øng trong bèi c¶nh míi.


15

Tác giả Trần Thị Hương (2004) [6] khi nghiên cứu về "Kiến thức bản
địa về tài nguyên và môi trường trong dự án phát triển lâm nghiệp Vườn quốc
gia Xuân Sơn- Phú Thọ" đà kết luận: Điều kiện tự nhiên và xà hội đà góp
phần làm phong phú thêm kho tàng kiến thức bản địa trong bảo vệ, phát triển
và sử dụng tài nguyên rừng tại Vườn quốc gia Xuân Sơn. Tuy nhiên, với diện

tích ruộng nước còn rất ít; đời sống người dân gặp nhiều khó khăn trong sản
xuất nông nghiệp, cũng như những rào cản trong tiếp cận sử dụng hợp lý và
quản lý tài nguyên rừng, toàn bộ các hộ gia đình trong vườn quốc gia được
xếp vào diện nghèo đói. Điều này ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại của kiến thức
bản địa và phát huy tiềm năng về điều kiện tự nhiên của khu vực, gây sức ép
lớn đến tài nguyên rừng.
Cho đến nay, có nhiều chương trình, dự án trong nước, quốc tế đà và
đang tiến hành tại Việt Nam đều sử dụng hệ thống các kiến thức bản địa tích
cực cho mục tiêu phát triển kinh tế - xà hội ở nông thôn và miền núi như dự
án tăng cường năng lực nông lâm kết hợp ở Việt Nam, dự án tăng cường năng
lực quốc gia để thực thi kế hoạch hành động lâm nghiệp nhiệt đới ở Việt Nam
(FAO - GCP/VIE/020/ITA), chương trình hợp tác lâm nghiệp Việt Nam Thụy Điển, chương trình hợp tác Lâm nghiệp Việt Nam - Phần Lan, chương
trình xoá đói giảm nghèo, chương trình giao đất giao rừng,... Hầu hết các
chương trình và dự án trong quá trình hoạt động đều chỉ ra rằng: Người dân
địa phương phần lớn là những cộng đồng dân tộc ít người, vì vậy truyền thống
văn hóa cũng như các biện pháp sử dụng đất của họ cần được xem xét kỹ
lưỡng khi xây dựng các chương trình phổ cập và đưa ra những chiến lược lựa
chọn. Sự khác nhau về ngôn ngữ cần được quan tâm vì nhiều người dân không
nói được tiếng Kinh.
Chương trình hợp tác Lâm nghiệp Việt Nam - Hà Lan sau khi tiến hành
thực hiện giai đoạn I ở tỉnh Bắc Cạn đà chỉ ra rằng, cán bộ phổ cập thiếu
những trang bị thích hợp cũng như tài liệu cho đào tạo phổ cập. Mặc dầu có


16

những hướng dẫn kỹ thuật cho cả nước nhưng việc thử nghiệm các hướng dẫn
đó ở điều kiện địa phương là rất hạn chế. Hệ thống phổ cập cần phát triển các
quy trình dễ áp dụng, phù hợp với điều kiện của từng địa phương và đảm bảo
tính bền vững của các giải pháp phổ cập.

Các chương trình và các dự án đều nhận thấy rằng, để việc phổ cập
và chuyển giao các kỹ thuật sản xuất nông lâm nghiệp của các cán bộ
khuyến nông, khuyến lâm được tốt, đều phải dựa trên những kinh
nghiệm sẵn có của nông dân. Để có thể thành lập được mạng lưới phổ
cập có hiệu quả, nhất thiết phải thành lập ở cấp dưới xÃ, tức là tại cấp
thôn/bản. Ngay tại cấp thôn/bản đà có sẵn kỹ năng và kiến thức để có
thể thành lập nên các nhóm phổ cập. ở hầu hết các thôn/bản đều có các
nông dân đà có sẵn các kỹ năng và kiến thức lập kế hoạch tốt, sẵn sàng
đón nhận vai trò lÃnh đạo nhóm (Dự án FAO - GCP/VIE/020/ITA) [6].
Từ thực tiễn nghiên cứu các nhà khoa học đà chỉ ra rằng: Miền núi không
thể phát triển một cách hợp lý và bền vững bằng những chương trình mang
tÝnh cơc bé chØ hoµn toµn tËp trung vµo chun giao công nghệ trọn gói. Trong
khi các giải pháp kỹ thuật tiên tiến được đưa ra áp dụng vào thực tiễn sản xuất
đang gặp phải những khó khăn và thậm chí bị thất bại, thì việc ứng dụng các
kỹ thuật bản địa nhằm phát triển nông lâm nghiệp bền vững ở vùng cao chắc
chắn sẽ rất năng động và thu được hiệu quả cao. Như vậy, kiến thức bản địa cã
mét vai trß rÊt lín trong viƯc chun giao kü thuật nhằm phát triển nông thôn
miền núi của nước ta.
Ngoài ra, việc nghiên cứu kiến thức bản địa trên thực tế không chỉ đơn
thuần là vấn đề kỹ thuật và kinh tế mà còn góp phần bảo vệ nền văn hóa giàu
bản sắc dân tộc của nước ta.


17

1.3. Đánh giá chung
Như vậy, cho đến nay đà có nhiều công trình nghiên cứu về kiến thức bản
địa trên thế giới đà được công bố. Hầu hết các công trình đều khẳng định rằng
kiến thức bản địa vẫn còn là một nguồn tài nguyên chưa được sử dụng đầy đủ
trong các hoạt động phát triển. Nó cần được nghiên cứu rộng rÃi hơn và cần được

kết hợp trong các hoạt động nghiên cứu và khuyến nông, khuyến lâm nhằm đề ra
những chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững hơn.
Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu của các tác giả trên thế
giới chỉ tập trung vào nghiên cứu hệ thống kiến thức bản địa trong lĩnh vực
nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, thú y,... mà ít chú ý đến những kiến
thức bản địa trong lĩnh vực lâm nghiệp.
ở Việt Nam, việc nghiên cứu sâu rộng về vấn đề này hiện nay còn rất hạn
chế, các nghiên cứu mới chỉ được tiến hành lồng ghép trong các dự án và các
chương trình khác, phạm vi khảo sát cũng chỉ giới hạn trong những kiến thức nông
nghiệp chủ yếu về trồng trọt, chăn nuôi,... còn thiếu nhiều mặt chưa đề cập đến
như bảo vệ thực vật, thú y, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, cây thuốc,... Hơn nữa,
những nghiên cứu mới chỉ mang tính chất thống kê và dựa vào ý kiến của cộng
đồng nhiều hơn là việc phân tích, đánh giá các kết quả thu thập được trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế - xà hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
Để làm phong phú hơn kho tàng nghiên cứu hệ thống kiến thức bản địa
trong quản lý và sử dụng rừng của các dân tộc ít người ở miền núi phía Bắc
Việt Nam, Đề tài tập trung phân tích một cách toàn diện hệ thống kiến thức kỹ
thuật bản địa trong quản lý và sử dụng rừng của đồng bào Hmông sống ở xÃ
Tả Phìn huyện Sapa - Lào Cai trên các phương diện kinh tế - xà hội và bảo vệ
môi trường sinh thái. Ngoài việc phân tích định tính các kết quả thu được, đề
tài sẽ định lượng một số vấn đề có thể thực hiện được để phục vụ cho việc đề
xuất các giải pháp rất thiết thực nhằm bảo tồn, phát triển và bổ sung kiến thức
bản địa trong bảo vệ, phát triển và sử dụng rừng trên địa bàn nghiên cứu.


18

Chương 2

Mục tiêu, nội dung và phương pháp nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- VỊ lý ln: HƯ thèng hãa và xác định được vai trò của kiến thức bản
địa trong quản lý, sử dụng và phát triển rừng của đồng bào Hmông xà Tả Phìn,
huyện SaPa, tỉnh Lào Cai
- Về thực tiễn: Đề xuất một số giải pháp bảo tồn, phát triển và bổ sung
kiến thức bản địa trong quản lý, sử dụng và phát triển rừng của đồng bào
người Hmông xà Tả Phìn, huyện SaPa, tỉnh Lào Cai

2.2. Phạm vi nghiên cứu
XÃ Tả Phìn có 3 dân tộc sinh sống là Hmông, Dao và Kinh trong đó
Hmông chiếm 58,5%, người Dao chiếm 40,0%, còn lại là người Kinh. Do có
dân số đông, lại sống chủ yếu ở nông thôn và làm nông - lâm nghiệp nên
những phương thức canh tác và các hoạt động hàng ngày của cộng đồng người
Hmông và người Dao có ảnh hưởng lớn đến tính bền vững của hoạt động kinh
doanh nông - lâm nghiệp. Trong khuôn khổ một luận văn Thạc sỹ, hạn chế về
thời gian và nhân lực, đề tài chỉ nghiên cứu những kiến thức bản địa có liên
quan đến quản lý, sử dụng và phát triển rừng của cộng đồng có dân số đông
nhất trong xà đó là cộng đồng người Hmông.

2.3. Ni dung nghiên cu
Với phạm vi nghiên cứu đà trình bày, để đạt được mục tiêu nghiên cứu,
đề tài tiến hành nghiên cứu các nội dung sau:
- Lịch sử cộng đồng Hmông xà Tả Phìn và quá trình quản lý rừng tại đây.
- Hệ thống kiến thức bản địa trong quản lý, sử dụng và phát triển rừng
của cộng đồng người Hmông xà Tả Phìn


19

- ảnh hưởng của một số yếu tố đến kiến thức bản địa trong quản lý, sử

dụng và phát triển rừng của cộng đồng người Hmông xà Tả Phìn.
- Các giải pháp để bảo tồn, phát triển và bổ sung kiến thức bản địa trong
quản lý, sử dụng và phát triển rừng của cộng đồng người Hmông xà Tả Phìn.

2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Nghiờn cu tài liệu thứ cấp
- Các kết quả nghiên cứu liên quan tới người Hmông.
- Các công trình nghiên cứu, khoá luận tốt nghiệp có liên quan đến kiến
thức bản địa.
- Tài liệu về điều kiƯn tù nhiªn, kinh tÕ, x· héi cđa hun Sapa và xà Tả Phìn.
- Báo cáo kết quả thống kê hiện trạng sử dụng đất của xà Tả Phìn năm 2006.
- Báo cáo quy hoạch sử dụng đất đai xà Tả Phìn, huyện Sapa, tỉnh Lào
Cai giai đoạn 2004 - 2010.
- Các báo cáo định kỳ hàng tháng, hàng quý về công tác quản lý sử
dụng rừng và tài nguyên rừng của xà Tả Phìn.
- Bản đồ hiện trạng tài nguyên rừng của huyện SaPa.
- Những văn bản pháp luật và chính sách về quản lý sử dụng rừng và tài
nguyên rừng.
- Sổ tay kiểm lâm địa bàn xà Tả Phìn.
2.4.2. Chọn điểm nghiên cứu
Điểm nghiên cứu được lựa chọn dựa trên tiêu chí:
(1) Cư trú lâu đời trên địa bàn nghiên cứu và sinh sống quần tụ thành cộng
đồng thôn bản tương đối đồng nhất về mặt dân tộc;
(2) Cuộc sống của cộng đồng này còn phụ thuộc rất lớn vào rừng và gắn
bó mật thiết với rừng;
(3) Đa đạng về sử dụng tài nguyên rừng;
(4) Giao thông tương ®èi thn lỵi.


20


Lào Cai là tỉnh miền núi có 25 dân tộc sinh sống. Sapa là một huyện miền
núi điển hình, là nơi sinh sống của cộng đồng gồm 15 dân tộc đó là các dân tộc:
Hmông, Dao, Kinh, Dáy, Tày,... XÃ Tả Phìn nằm ở phía Bắc huyện SaPa, cách
trung tâm huyện 12 km. Trên địa bàn xà có 3 dân tộc: Hmông, Dao và Kinh,
trong đó dân tộc Hmông chiếm gần 60%. XÃ có 5 thôn trong đó có 3 thôn với
100% dân tộc Hmông sinh sống đó là: thôn Suối Thầu, thôn Lủ Khấu và thôn
Can Ngài. Đây là các xà có tiềm năng phong phú và đa dạng về tài nguyên rừng,
có nguồn lao động dồi dào với những truyền thống văn hoá lâu đời.
Với các tiêu chí nêu trên, 3 thôn Suối Thầu, Lủ Khấu và thôn Can Ngài
sẽ đại diện tương đối tốt cho khu vực nghiên cứu của đề tài, nhưng do điều
kiện và thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài chỉ chọn 2 thôn Can Ngài và
thôn Suối Thầu làm địa điểm nghiên cứu.
2.4.3. Điều tra hin trng
Đề tài sử dụng phương pháp điều tra xà hội học để thu thập số liệu
ngoài hiện trường.
Phương pháp điều tra xà hội học chủ yếu được phát triển từ phương

pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA). Tuy nhiên, do
có sự khác biệt về ngôn ngữ nên khi điều tra cần phải tăng cường quan sát, kết
hợp phỏng vấn đồng thời quan sát trên đối tượng cụ thể. Đề tài sử dụng một
số công cụ PRA trong quá trình điều tra như sau:
- Phỏng vấn thông tin viên;
- Thảo luận nhóm;
- Phỏng vấn hộ gia đình;
- Phỏng vấn sâu.
+ Phỏng vấn thông tin viên
Tại mỗi thôn tiến hành phỏng vấn 4 người gồm: trưởng thôn, già làng,
thầy mo, hội trưởng hội Phụ nữ thôn nhằm thu thập các thông tin về: Tổng số
dân của thôn, thành phần dân tộc; Hiện trạng tài nguyên rừng của thôn, những

quy định về quản lý, sử dụng tài nguyên rừng; Những ngày lễ héi liªn quan


21

đến rừng, những phong tục tập quán, câu chuyện dân gian, bài thơ , bài hát có
liên quan đến rừng; Những cây thuỗc nam đang sử dụng và phát triển tại thôn,
những bài thuốc gia truyền; Những kiến thức, kỹ thuật mới về rừng được du
nhập vào thôn,... (xem phụ biểu 05)
+ Thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm được thực hiện sau khi phỏng vấn thông tin viên. Tiến
hành 3 cuộc th¶o ln nhãm víi tỉng sè 17 ng­êi gåm: (1) nhóm cán bộ gồm
7 người với đầy đủ cả nam và nữ; (2) nhóm phụ nữ gồm 5 người; (3) nhóm
nam giới gồm 5 người. Các cuộc thảo luận nhóm được tiến hành dựa trên
khung thảo luận nhóm chuẩn bị sẵn (xem phụ biểu 04) về các chủ đề: Lịch sử
thôn; Một số các mốc quan trọng trong thôn; Kiến thức về lâm sản gỗ, lâm
sản ngoài gỗ: tên địa phương các loài, cách thức, kỹ thuật khai thác...; Cách
thức, kỹ thuật đốt nương làm rẫy
+ Phỏng vấn hộ gia đình
Tiến hành phỏng vấn 60 hộ gia đình trong 2 thôn, mỗi thôn chọn 30 hộ
gia đình theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên (theo bảng phỏng vấn phần
phụ biểu 03) có cả nam, nữ, người già, người trẻ về những kiến thức quản lý
và sử dụng tài nguyên rừng, đất trên các lĩnh vực như: nghề rừng, cây thuốc,
các hoạt động trong quản lý bảo vệ liên quan đến kiến thức bản địa hiện đang
được áp dụng tại địa phương.
+ Phỏng vấn sâu
Phương pháp thu thập số liệu gồm pháng vÊn mét sè ng­êi cung cÊp
th«ng tin chÝnh cịng như các hộ và quan sát trên thực địa.Trong khi nghiên
cứu thực địa, đề tài đà xây dựng các bảng câu hỏi bán định hướng để phỏng
vấn các hộ gia đình

Trước khi tiến hành điều tra, chúng tôi đà trao đổi nội dung với cán bộ
nông, lâm nghiệp huyện, cán bộ lÃnh đạo địa phương qua đó nắm bắt được
quan điểm của cán bộ lÃnh đạo đối với hệ thống kiến thức bản địa và để có sự
giúp đỡ trong tổ chức công việc điều tra.


22

Công việc điều tra được tiến hành tại các buổi trao đổi ý kiến với cán bộ lÃnh
đạo địa phương và cộng đồng dân cư tại hộ gia đình, trên ®ång rng, ®åi, rõng.
Thêi gian pháng vÊn ®­ỵc bè trÝ vào lúc thuận tiện cho công việc của
người dân vào lúc nông nhàn, buổi tối, trưa, ngày lễ hội.
2.4.4. Tổng hợp và xử lý s liu
Sau khi đà có được các thông tin và các số liệu cần thiết, đề tài tiến
hành tổng hợp và xử lý số liệu.
Quá trình xử lý và phân tích số liệu được thực hiện với sự trợ giúp của
máy vi tính theo các phương pháp thống kê toán học và phương pháp phân
tích tổng hợp kết hợp với các bảng biểu.
Trên cơ sở kết quả số liệu về tự nhiên, xà hội đà được tính toán, đề tài đưa
ra những giải pháp nhằm bảo tồn, phát triển và bổ sung kiến thức bản địa trong
quản lý, sử dụng và phát triển rừng của cộng đồng người Hmông tại địa phương.
Toàn bộ các số liệu điều tra được tổng hợp và đánh giá theo sơ đồ dưới đây:
Thông tin về điều
kiện tự nhiên

Thông tin về kiến
thức bản địa

Thông tin về điều
kiện kinh tế

- xà hội nhân văn

Phân tích
tổng hợp

Xác minh lại
thông tin còn nghi
vấn

Đề xuất
những giải pháp

Hình 2.1. Sơ đồ tổng hợp thông tin
Sơ đồ tổng hợp thông tin


23

Chương 3

Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xà hội của
khu vực nghiên cứu
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1.Vị trí địa lý
XÃ Tả Phìn nằm ở phía Bắc huyện Sa Pa. Cách trung tâm huyện Sa Pa
12 km, tiếp giáp với các xÃ:
- Phía Bắc giáp xà Phìn Ngan huyện Bát Sát;
- Phía Nam giáp xà Sa Pả huyện Sa Pa;
- Phía Tây giáp xà Bản Khoang huyện Sa Pa;
- Phía Đông giáp xà Trung Chải huyện Sa Pa.

Với vị trí gần trung tâm huyện nên tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào
Hmông gặp gỡ giao lưu mua bán với các dân tộc khác dẫn tới sự giao thoa
kiến thức bản địa với các dân tộc khác.
3.1.2. Địa hình
XÃ Tả Phìn n»m trong khu vùc nhiỊu nói cao vµ dèc lín trên 300, độ cao bình
quân trên 1.500m thấp dần từ phía Tây sang phía Đông. Địa hình chia cắt mạnh, đặc
trưng chung của các xà vùng cao. Các thôn bản nằm tập trung trong thung lũng
được bao quanh bởi các d·y nói cao, d·y nói cao nhÊt cã ®é cao trên 2.200m.
Do địa hình của xà phức tạp và đa dạng đà tạo ra sự đa dạng trong canh
tác, sinh hoạt và hình thành lên hệ thống kiến thức bản địa phong phú.
3.1.3. Khí hậu
XÃ Tả Phìn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng
khí hậu ôn đới, đặc biệt mùa hè mát, mùa đông rét, mưa nhiều từ tháng 5 đến
tháng 10. Mùa đông thường kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, thời tiết
lạnh giá, sương mù và mưa phùn, có năm l¹nh xt hiƯn tut (1980, 2000).


24

Do ảnh hưởng của địa hình nên khí hậu Tả Phìn có các đặc trưng sau:
- Nhiệt độ bình quân năm là 16.8oC;
- Lượng mưa trung bình năm 2.700 mm;
- Độ ẩm không khí từ 86 - 90%;
- Lượng bốc hơi 20 - 30%, mây mù xuất hiện trung bình 120 ngày/năm
kèm theo mưa phùn;
- Hướng gió thịnh hành là hướng Đông Nam - Tây Bắc, ngoài ra do địa
hình bị chia cắt nên còn chịu ảnh hưởng của luồng gió Quý Hồ xuất hiện vào
các tháng 5, 6, 7.
Với nhiệt độ thấp, lượng mưa lớn, khí hậu thời tiết mát mẻ vào mùa hè
tương đối thuận lợi cho phát triển các loài cây trồng đặc sản cây dược liệu,

hoa. Khí hậu phân bố theo mùa đà tạo ra mùa vụ trong việc khai thác các loại
lâm sản khác nhau.
3.1.4. Sông suối, thuỷ văn
Trên địa bàn xà không có sông lớn, chỉ có hai hệ thống suối là suối
Sả Séng và suối Thầu, hai suối này gặp nhau cách trung tâm xà 250 m,
các suối chảy theo hướng từ Tây sang Đông và chảy ra xà Trung Chải.
Ngoài ra, trong xà còn có các suối nhỏ với lưu lượng nước nhỏ.
Nhìn chung, các suối trong xà nhiều đoạn có độ dốc lớn tạo thành khe
sâu, lưu lượng nước thay đổi theo mùa không ổn định. Nhưng đây lại là nguồn
nước chính phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp và đời sống sinh hoạt của
người dân.
Do nguồn nước hạn chế nên nhiều diện tích đất không thể canh tác vào
mùa khô, vào thời điểm này người dân chuyển sang làm nghề đan lát, dệt vải
và vào rừng khai thác các loài lâm sản.


×