Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

(Luận văn thạc sĩ) điều tra và đánh giá nguồn tài nguyên cây thuốc ở vườn quốc gia cát bà và vùng đệm (hải phòng) làm cơ sở cho công tác bảo tồn và sử dụng bền vững​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 98 trang )

bộ giáo dục và đào tạo

bộ nông nghiệp và ptnt

trường đại học lâm nghiệp
-------------------------------

Cao thị Hải Xuân

Điều tra và đánh giá nguồn tài nguyên cây thuốc ở vườn
quốc gia cát bà và vùng đệm (hải phòng) làm cơ sở cho
công tác bảo tồn và sử dụng bền vững

Chuyên ngành Lâm học
MÃ số: 60 62 60

luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Người hướng dẫn khoa học:

GS.TSKH. nguyễn nghĩa thìn

Hà Tây - 2006


bộ giáo dục và đào tạo

bộ nông nghiệp và ptnt

trường đại học lâm nghiệp
--------------------------



Cao thị Hải Xuân

Điều tra và đánh giá nguồn tài nguyên cây thuốc ở
vườn quốc gia cát bà và vùng đệm (hải phòng) làm cơ
sở cho công tác bảo tồn và sử dụng bền vững

Chuyên ngành Lâm học

luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Hà Tây - 2006


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài tốt nghiệp trong chương
trình đào tạo Thạc sỹ Lâm nghiệp, chuyên ngành Lâm học tại Khoa Đào tạo
Sau đại học - Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, bản thân ó nhn s
ng h giỳp ca các thầy cô giáo Khoa Đào tạo Sau đại học - Trường Đại
học Lâm Nghiệp, Ban giám đốc và cán bộ công nhân viên Vườn Quốc gia Cát
Bà, UBND huyện Cát Hải và người dân đảo Cát Bà cùng bạn bè đồng nghiệp
về mọi mặt.
Nhân dịp này tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS.
TSKH. Nguyễn Nghĩa Thìn - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học
Quốc gia Hà Nội, đã chỉ dẫn và giúp đỡ tơi hồn thành bản luận văn.
Trong q trình thực hiện do còn hạn chế về mặt thời gian, trình độ nên
bản luận văn cịn nhiều thiếu sót. Tơi mong muốn nhận được những đóng góp
ý kiến quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa học và bạn bè đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!


Hải Phòng, ngày 30 tháng 7 năm 2006
Tác giả

Cao Thị Hải Xuân


MỞ ĐẦU

Tài nguyên thực vật rừng là nguồn tài nguyên vô giá mà thiên nhiên đã
ban tặng cho con người, đặc biệt là nguồn tài nguyên cây thuốc. Từ thuở xa
xưa cho đến ngày nay, đồng bào các dân tộc anh em trên đất nước ta đã khơng
ngừng tìm tịi, nghiên cứu sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc chữa bệnh.
Cùng với những kinh nghiệm cổ truyền của dân tộc, sự phát triển khoa học kỹ
thuật đã chứng minh cơ sở khoa học của những cây thuốc qua thành phần hoá
học, tác dụng kháng khuẩn, sát trùng... chúng ta càng thấy rõ giá trị của nó.
Các cây thuốc phân bố rộng và đa dạng. Số loài cây thuốc được ghi nhận vào
năm 2006 là có 3849 lồi chiếm khoảng 35% trong hệ thực vật Việt Nam.
Tuy nhiên hiện nay, sự đa dạng sinh học nói chung, đa dạng cây thuốc
nói riêng đang bị tổn thương và suy thoái nghiêm trọng, nguyên nhân sâu xa
do sự gia tăng dân số và sự đói nghèo. Một ngun nhân khơng kém phần
quan trọng, do nhận thức chưa đúng đắn về nguồn tài nguyên cây rừng, người
ta chỉ hiểu đơn giản là cung cấp gỗ mà ít chú ý tới giá trị các sản phẩm khác.
Chính vì vậy đã dẫn đến q trình khai thác quá mức, sử dụng lãng phí và làm
suy giảm một cách nhanh chóng nguồn tài nguyên cây thuốc quý giá này. Hơn
thế nữa, một thực tế khi hoàn cảnh sống thay đổi thì kinh nghiệm về sử dụng
cây thuốc chữa bệnh ngày bị mai một.
Cùng với tốc độ phát triển kinh tế xã hội một cách nhanh chóng thì
chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thử thách lớn khi môi trường ngày càng
bị ô nhiễm, thiên tai xảy ra liên tiếp, xuất hiện nhiều bệnh tật mới mà thuốc

tây dần dần khơng thể chữa được. Vì vậy, hiện nay không chỉ các nước đang
phát triển mà cả những nước phát triển đang quan tâm đến việc sử dụng có
hiệu quả nguồn tài nguyên cây thuốc.


Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, Vườn Quốc gia Cát Bà
- Thành phố Hải Phịng khơng nằm ngồi tình trạng trên, các hệ sinh thái bị
rối loạn và suy giảm tính đa dạng sinh học ở nhiều khu vực trong vườn.
Ở Vườn Quốc gia Cát Bà cho đến nay các cơng trình nghiên cứu có tính
hệ thống về khu hệ thực vật, tổ thành thực vật và việc đánh giá tính đa dạng
sinh vật mới đang được tiến hành. Còn nghiên cứu về cây thuốc vẫn chưa
được quan tâm chú ý đến nhiều.
Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Điều tra
và đánh giá nguồn tài nguyên cây thuốc ở Vườn Quốc gia Cát Bà và vùng
đệm (Hải Phòng) làm cơ sở cho công tác bảo tồn và sử dụng bền vững”.


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CÂY THUỐC
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG CÂY THUỐC Ở MỘT
SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Vấn đề Dân tộc, Thực vật học đã được hình thành ngay từ khi xuất hiện
con người để sống và đấu tranh chống chọi với thiên nhiên, con người đã sử
dụng các cây cỏ phục vụ cho cuộc sống của mình (như cây làm thức ăn, cây
làm nhà ở, cây làm thuốc, cây đầu độc chim thú...). Từ những kinh nghiệm đó
dần dần đã hình thành một khoa học gọi là Dân tộc Thực vật học. Nó nghiên
cứu mối quan hệ giữa các dân tộc khác nhau với các loài cây cỏ phục vụ cho
cuộc sống của họ. Nhân dân ta đã biết sử dụng cây cỏ làm thuốc từ rất lâu.
Trong sự phát triển của loài người, mỗi dân tộc mỗi quốc gia đều có những
nền Y học cổ truyền riêng, việc tìm nguồn thức ăn, nước uống với cây thuốc
chỉ là một. Và các kinh nghiệm dân gian được nghiên cứu ở các mức độ khác

nhau tùy thuộc vào sự phát triển của quốc gia đó.
Lịch sử nền Y học Trung Quốc đầu thế kỷ thứ II, người ta đã biết dùng
thuốc là các loài cây cỏ để chữa bệnh như: sử dụng nước chè (Thea sinensis)
đặc để rửa vết thương và tắm ghẻ [27]. Trong cuốn sách "Cây thuốc Trung
Quốc" xuất bản 1985 đã liệt kê một loạt các cây cỏ chữa bệnh như: Rễ gấc
(Momordica cochinchinensis) chữa nhọt độc, viêm tuyến hạch, hạt gấc trị
sưng tấy đau khớp, sốt rét, vết thương tụ máu; Cải soong (Nasturtium
officinale) giải nhiệt, chữa lở mồm, chảy máu chân răng, bướu cổ. Từ những
kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa học đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về
các loài cây, về các sản phẩm chiết từ cây cỏ để chữa trị và đã đúc rút thành
những cuốn sách có giá trị. Từ đời nhà Hán (168 năm trước CN) tại Trung
Quốc trong cuốn sách "Thủ hậu bị cấp phương" tác giả đã kê 52 đơn thuốc
chữa bệnh từ các loài cây cỏ. Vào giữa thế kỷ XVI Lý Thời Trân đã thống kê


được 12000 vị thuốc trong tập "Bản thảo cương mục" được NXB. Y Học trích
dẫn 1963 [27].
Theo Fujiki (Nhật Bản) cùng các nhà khoa học ở Viện hàn lâm Hoàng
Gia Anh thì Chè xanh (Thea sinensis L.) cịn ngăn chặn sự phát triển các loại
ung thư gan, dạ dày nhờ chất Gallat epigallocatechine (Theo báo KH & ĐS số
46, 1996). Thần Nông là người đã sưu tầm và ghi chép nên 365 vị thuốc đông
y trong cuốn sách “Mục lục thuốc thảo mộc”. Từ thời cổ xưa các chiến binh
La Mã đã biết dùng dịch cây Lô hội (Aloe barbadensis Mill.) để rửa vết
thương, vết loét,... chóng lành sẹo [27] mà ngày nay khoa học đã chứng minh
là dịch cây có tác dụng liền sẹo thơng qua khả năng kích thích tổ chức hạt và
tăng nhanh q trình biểu mơ hóa [27]. Hay kinh nghiệm của người cổ Hy
Lạp và La Mã dùng vỏ quả óc chó (Juglans regia L.) để chữa vết loét, vết
thương..., lâu ngày không liền sẹo [27].
Ở Cu Ba, người ta đã dùng bột papain lấy từ mủ cây Đu đủ (Carica
papaya) để kích thích tổ chức hạt ở các vết thương phát triển [27].

Ở Pê Ru người ta dùng hạt của cây Sen cạn (Tropaeolum majus) để điều
trị bệnh phổi và bệnh đường tiết niệu [27].
Y học dân tộc Bun Ga Ri "Đất nước của hoa hồng" đã coi Hoa hồng là
một vị thuốc chữa được nhiều bệnh, người ta đã dùng cả hoa, lá, rễ để làm
thuốc tan huyết ứ và bệnh phù thũng. Ngày nay người ta đã chứng minh rằng
trong cánh Hoa hồng có chứa một lượng tanin, glucosid, tinh dầu đáng kể.
Tinh dầu này không chỉ để chế nước hoa mà còn được dùng để chữa nhiều
bệnh.
Nhân dân Ấn Độ dùng lá cây Ba ché (Desmodium triangulare) sao vàng
sắc đặc để chữa kiết lỵ và tiêu chảy.


Đồng bào Philíppin dùng vỏ cây Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa) sắc làm
thuốc cầm máu, hoặc tán bột rắc lên mụn nhọt, vết lở loét làm chúng chóng
khỏi [27]. Tỏi được dùng để chống bệnh đau màng óc, xơ động mạch, huyết
áp cao, ung thư, viêm đường ruột... Lá của cây (Psychotria rubra) được phụ
nữ Philippin dùng chữa kinh nguyệt khơng đều, lá và hoa chữa ho, giun, giúp
tiêu hóa tốt. Galien đã xem tỏi (Allium sativum) là một loại thuốc chữa bệnh
của người nơng thơn có tác dụng lợi tiểu, trị giun, giải độc, chữa hen xuyễn,
vàng da, đau răng và các bệnh về da.
Ở Malaixia cây Húng chanh (Coleus amboinicus) dùng lá sắc cho phụ nữ
sau khi đẻ uống hoặc lấy lá giã nhỏ vắt nước cốt cho trẻ uống trị sổ mũi, đau
họng, ho gà...
Ở Căm pu chia, Malaixia, dùng tồn cây Hương nhu tía (Ocimun
sanctum) rễ trị đau bụng, sốt rét, nước lá tươi trị long đờm hoặc lá giã nát dắp
trị bệnh ngoài da, khớp [27].
Trong chương trình điều tra cơ bản nguồn tài nguyên thiên nhiên ở khu
vực Đông Nam Á, Perry đã nghiên cứu hơn 1000 tài liệu khoa học về thực vật
và dược liệu đã được công bố và đã được các nhà khoa học kiểm chứng
(Trong đó có 146 lồi có tính kháng khuẩn) và tổng hợp thành cuốn sách về

cây thuốc vùng Đông và Đông Nam Á "Medicinal Plants of East and
Sontheast Asia"1985 [27].
Cùng với phương thức chữa bệnh theo kinh nghiệm Y học cổ truyền, các
nhà khoa học trên thế giới cịn đi sâu tìm hiểu nghiên cứu cơ chế và các hợp
chất hóa học trong cây cỏ có tác dụng chữa bệnh. Tokin, Klein, Penneys, đã
công nhận rằng hầu hết cây cỏ đều có tính kháng sinh đó là một trong các yếu
tố miễn dịch tự nhiên. Tác dụng kháng khuẩn là do các hợp chất tự nhiên hay
gặp như: các chất Phenolic, antoxyan, các dẫn chất quinon, alcaloid,
heterosid, flavonoid, saponin... [27]. Theo Anon. (1982) trong vòng gần hai


trăm năm trở lại đây, ít nhất đã có 121 hợp chất hóa học tự nhiên đã nắm được
cấu trúc, mà được chiết từ cây cỏ với mục đích làm thuốc hoặc từ đó tổng hợp
nên các loại thuốc chữa trị có hiệu quả. Như từ cây Lơ hội (Aloe vera) theo
Gotthall (1950) đã phân lập được chất Glycosid barbaloin có tác dụng với vi
khuẩn lao người và tác dụng với Baccilus subtilic [27]. Lucas và Lewis
(1944) đã chiết từ Kim ngân (Lonicera sp.) một hoạt chất có tác dụng với các
loài vi khuẩn gây bệnh tả lị, mụn nhọt [27]. Người ta cũng đã chiết được
becberin từ cây Hoàng liên (Coptis chinensis). Theo Gilliver (1946) thì
Becberin có tác dụng chữa bệnh đường ruột và kiềm chế một số giống vi
khuẩn làm hại cây cơí. Theo Schlederre (1962) thì nó có thể chữa khỏi bệnh
Bouton d'orient [27]. Lebedev thì có nhận xét Becberin có tác dụng đối với tụ
cầu, liên cầu, trực khuẩn ho gà, trực khuẩn lị, thương hàn, và trực khuẩn lao
[27]. Trong lá và rễ Hẹ (Allium odorum) có các hợp chất Sulfua, saponin và
chất đắng. Năm 1948, Shen - Chi - Shen phân lập được một hoạt chất Odorin
có tác dụng ít độc với động vật cao cấp, nhưng lại có tác dụng kháng khuẩn.
Trong hạt phát hiện thấy có thêm Alcaloid có tác dụng với vi khuẩn Gram+,
Gram -, Nấm [27]. Trong nhiều loài Ba gạc (Rauwolfia sp.) chiết được chất
Resecpin, Serpentin làm thuốc hạ huyết áp. Chất Vinblastin, Vincristin được
chiết từ cây Dừa cạn (Catharanthus roseus) vừa có tác dụng hạ huyết áp vừa

làm thuốc chống ung thư máu. Hoặc strophantin được chiết từ các loài Sừng
dê (Strophanthus sp.) dùng làm thuốc trợ tim đã nhiều thập kỷ nay. Vài chục
năm gần đây, ứng dụng các thành tựu nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính của các
hợp chất hóa học tự nhiên, bằng con đường tổng hợp hoặc bán tổng hợp hóa
học, một số loại thuốc hiện đại có hiệu quả chữa bệnh cao lần lượt ra đời.
Gần đây, theo thống kê của tổ chức Y học thế giới (WHO) thì đến năm
1985 đã có gần 20.000 loài thực vật (Trong tổng số 250.000 loài đã biết) được
sử dụng làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất để chế biến thuốc [27]. Trong


đó ở Ấn Độ có khoảng 6.000 lồi [27]. Trung Quốc 5.000 loài [27]; Vùng
nhiệt đới Châu Mỹ hơn 1.900 lồi thực vật có hoa [27]. Theo số liệu của
WHO thì mức độ sử dụng thuốc càng ngày càng cao: ở Trung Quốc tiêu thụ
hàng năm hết 700.000 tấn dược liệu [27], sản phẩm thuốc Y học dân tộc đạt
giá trị hơn 1,7 tỉ USD vào năm 1986 [27]. Tổng giá trị về thuốc có nguồn gốc
thực vật trên thị trường Âu - Mỹ và Nhật Bản vào năm 1985 là hơn 43 tỉ
USD. Tại các nước có nền cơng nghiệp phát triển từ năm 1976 - 1980 đã tăng
từ 335 triệu USD lên 551 triệu USD. Còn ở Nhật Bản, năm 1979 nhập 21.000
tấn, đến năm 1980 tăng lên 22.640 tấn dược liệu, tương đương 50 triệu USD
[27]. Điều này chứng tỏ rằng ở các nước công nghiệp phát triển cây thuốc
phục vụ cho nền Y học cổ truyền cũng phát triển mạnh. Cây thuốc là loại cây
kinh tế, nó cung cấp nhiều loại thuốc dân tộc và thuốc hiện đại trong việc bảo
vệ, chăm sóc sức khỏe con người (Theo Tun ngơn Chiang Mai, 1988).
Trên thế giới có rất nhiều loài cây thuốc quý hiếm nhưng do con người
khai thác quá bừa bãi cho nên rất dễ trở thành tuyệt chủng. Do các hoạt động
nhất định của con người mà nhiều loài động thực vật trên thế giới đã vĩnh
viễn bị mất đi, hoặc đang bị đe dọa gay gắt về khả năng sống sót của chúng
(Theo cơng ước đa dạng Sinh học - 1992). Theo Raven (1987) và Ole
Harmann (1988) trong vòng hơn trăm năm trở lại đây, có khoảng 1.000 lồi
thực vật có lẽ đã bị tuyệt chủng, có tới 60.000 lồi có thể bị gặp rủi ro hoặc sự

tồn tại của chúng là mỏng manh vào giữa thế kỷ tới, nếu chiều hướng đe dọa
này vẫn tiếp diễn. Trong số những loài thực vật đã bị mất đi hoặc đang bị đe
dọa gay gắt, đương nhiên có nhiều lồi cây thuốc. Như ở Banglađét có loài
Tylophora indica. dùng để chữa bệnh hen, loài Zanonia indica để tẩy xổ;
trước kia có khá nhiều nay có nguy cơ bị tuyệt chủng (Theo Islam A.S, 1991)
[27]. Ba gạc (Rauvolfia serpentina (L.) Benth. ex Kurz) hàng chục năm liền
khai thác ở Ấn Độ, Srilanka, Bangladét, Thái Lan... với khối lượng từ 400 -


500 hoặc 1.000 tấn vỏ rễ/năm, xuất sang thị trường Âu - Mỹ, hiện nay đã trở
nên cạn kiệt. Song song với các nghiên cứu về sử dụng cây thuốc, một vấn đề
cấp bách khác đó là bảo tồn các lồi cây thuốc đó cũng cần được đặt ra. Tại
Hội nghị Quốc tế về bảo tồn quỹ gen cây thuốc họp từ ngày 21 đến 27 tháng 3
năm 1983 tại Chieng Mai - Thái Lan, hàng loạt các cơng trình nghiên cứu về
tính đa dạng và việc bảo tồn cây thuốc được đặt ra khẩn thiết [27].
Để phục vụ cho mục đích sức khỏe con người, cho sự hưng thịnh của
nước nhà và sự phát triển không ngừng của xã hội, để chống lại các bệnh nan
y, thì sự cần thiết là phải kết hợp giữa Đông - Tây Y, giữa Y học hiện đại với
kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc. Chính từ những kinh nghiệm truyền
thống đó của họ là chìa khóa để nhân loại khám phá ra những loaị thuốc có
ích trong tương lai. Cho nên việc khai thác kết hợp với bảo tồn các loài cây
thuốc là điều hết sức quan trọng. Các nước trên thế giới đang hướng về thực
hiện chương trình Quốc gia kết hợp sử dụng, bảo tồn và phát triển cây thuốc
[27].
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG CÂY THUỐC Ở VIỆT
NAM
Từ bao đời nay nền Y học cổ truyền của Việt Nam đã có nhiều bài thuốc,
cây thuốc được áp dụng chữa bệnh trong dân gian có hiệu quả. Qua quá trình
phát triển của dân tộc, các kinh nghiệm dân gian q báu đó đã dần đúc kết
thành những cuốn sách có giá trị và lưu truyền rộng rãi trong nhân dân ta.

Ngay từ thời vua Hùng Vương dựng nước (2900 năm TCN) qua các văn
tự Hán Nơm cịn sót lại (Đại Việt sử ký ngoại ký, Lĩnh nam chích quái liệt
truyện, Long uy bí thư...) và qua các truyền thuyết, tổ tiên ta đã biết dùng cây
cỏ làm gia vị kích thích sự ngon miệng và chữa bệnh [27]. Theo Long Uý
chép lại, vào đầu thế kỷ II TCN có hàng trăm vị thuốc từ đất Giao Chỉ như: Ý


dĩ (Coix lachryma - jobi), Hoắc hương (Pogostemon cablin),... được người
Tàu đưa về nước để giới thiệu sử dụng [27].
Cùng với sự tiến hóa của lịch sử, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của
nhân dân cũng dần phát triển, nó gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của các
danh Y nổi tiếng đương thời.
Đời nhà Lý (1010 - 1224) nhà sư Nguyễn Minh Khơng tức Nguyễn Chí
Thành đã dùng nhiều cây cỏ chữa bệnh cho dân và cho nhà Vua, nên được tấn
phong “Quốc sư” triều Lý.
Đời nhà Trần (1225 - 1399) có sự kiện, Phạm Ngũ Lão thừa lệnh Hưng
Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn, thu thập trông một vườn thuốc lớn để chữa
bệnh cho quân sỹ, trên núi gọi là "Sơn Dược" hiện vẫn cịn di tích để lại tại
một quả đồi thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng. Chu Tiên
biên soạn cuốn sách "Bản thảo cương mục toàn yến" là cuốn sách thuốc đầu
tiên xuất bản năm 1429 [27]. Có hai Danh y nổi tiếng cùng thời đó là Phạm
Cơng Bân (vào thế kỷ XIII) và người thầy thuốc nổi tiếng là Tuệ Tĩnh, tên
thực là Nguyễn Bá Tĩnh (vào thế kỷ XIV). Ông biên soạn bộ "Nam dược
Thần hiệu" gồm 11 quyển với 496 vị thuốc nam, trong đó có 241 vị thuốc có
nguồn gốc thực vật và 3932 phương thuốc đơn giản để trị 184 chứng bệnh của
10 khoa lâm sàng. Ông đã khẳng định vai trò của thuốc nam trong đời sống.
Trong "Nam dược Thần hiệu" có ghi: Tơ mộc (Caesalpinia sappan) vị mặn,
tính bình khơng độc, trừ huyết xấu, trị đau bụng, thương phong sưng lở [27],
Thanh Hao (Artemisia apiacea) chữa chứng sốt, lị...[27]. Sử quân tử
(Quisqualis indica) có vị ngọt, tính ơn, khơng độc vào hai kinh tỳ và vị, chữa

5 chứng cam trẻ em, tiểu tiện, sát khuẩn, chữa tả lị, còn làm thuốc mạnh tỳ vị,
chữa hết thẩy các chứng lở ngứa của trẻ em [27]. "Sầu đâu rừng (Brucea
javanica) vị đắng, tính hàn, có độc, sát trùng, trị đau ruột non, nhiệt trong
bàng quang, điên cuồng và ghẻ lở [27]... Tuệ Tĩnh được coi là một bậc Danh


y kỳ tài trong lịch sử Y học nước ta, là "Vị thánh thuốc nam". Ông chủ trương
lấy "Nam dược trị nam nhân". Trong bộ sách quý của Ông về sau bị quân
minh thu gần hết nay chỉ còn lại [27]:
- "Nam dược thần hiệu"
- "Tuệ Tĩnh y thư"
- "Thập tam phương gia giảm"
- "Thương hàn tam thập thất trùng pháp"
Đến thời Lê Dụ Tông xuất hiện Hải Thượng Lãn Ông - tên thực là Lê
Hữu Trác (1721 - 1792). Ông là người am hiểu nhiều về y học, sinh lý học,
đọc nhiều sách thuốc. Trong 10 năm khổ công tìm tịi nghiên cứu Ơng viết bộ
"Lãn Ơng tâm lĩnh" hay "Y tôn tâm lĩnh" gồm 66 quyển đề cập tới nhiều vấn
đề về y dược. Như: "Y huấn cách ngơn", "Y lý thân nhân", "Lý ngơn phụ
chính", "Y nghiệp thần chương" xuất bản năm 1772. Trong bộ sách này ngoài
sự kế thừa "Nam dược Thần hiệu" của Tuệ Tĩnh Ông còn bổ sung thêm 329 vị
thuốc mới. Trong quyển "Lĩnh nam bản thảo" Ông đã tổng hợp được 2854 bài
thuốc chữa bệnh bằng kinh nghiệm dân gian. Mặt khác Lãn Ông mở trường
đào tạo y sinh, truyền bá tư tưởng và hiểu biết của mình về y học. Do vậy Lãn
Ơng được mệnh danh là ơng tổ sáng lập ra nghề thuốc Việt Nam [27].
Cùng thời với Hải Thượng Lãn Ơng cịn có hai trạng ngun là Nguyễn
Nho và Ngô Văn Tĩnh đã biên soạn bộ "Vạn phương tập nghiêm" gồm 8
quyển xuất bản năm 1763 [27].
Trong thời kỳ 1884 - 1945, thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân,
loại Y học dân tộc nước ta ra khỏi chính sách bảo hộ, việc nghiên cứu cây
thuốc gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên có một số nhà thực vật học, dược học,

người Pháp nghiên cứu nhưng với mục đích chính là khai thác tài nguyên.


Trong q trình tìm ra các lồi cây thuốc thì xuất hiện một số vấn đề về
cách bào chế, tính kỵ thuốc, kiêng các chất trong khi dùng thuốc cần được
giải quyết. Cuốn "Bắc nam dược tính" (1937) của Vũ Như Lâm đã đề cập tới
dược tính, cơng dụng, cách bào chế, sự kiêng kỵ của một số vị thuốc Bắc,
Nam [27].
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với phương châm của
Đảng đề ra tự lực cánh sinh, tự cung tự cấp, ngành y tế đã đưa được thuốc
nam vào phát huy vai trị to lớn của nó. xây dựng nên "Toa căn bản", nêu các
phương pháp chữa bệnh bằng 10 vị thuốc thông thường [27].
Từ ngày thống nhất đất nước, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực,
quan tâm đến công tác điều tra nghiên cứu nguồn cây thuốc ở Việt Nam, phục
vụ cho vấn đề sức khỏe toàn dân. Bộ Y tế cũng tạo điều kiện cho Đông y phát
triển, nên việc nghiên cứu thuốc nam được xúc tiến mạnh mẽ. Nhà nước đã tổ
chức lại mạng lưới Y học từ Trung ương đến địa phương, thành lập Viện Y
học dân tộc để đào tạo y, bác sĩ; các bệnh viện Y học dân tộc, hội đông y...
Cho sưu tầm các nguồn tài liệu về thuốc nam, tổ chức điều tra, phân loại, tìm
hiểu dược tính, thành phần hóa học, lập bản đồ dược liệu trong cả nước và sản
xuất các loại thuốc từ nguồn cây cỏ có trong thiên nhiên. Vấn đề này đã được
Đỗ Tất Lợi dày công nghiên cứu trong nhiều năm và đã được xuất bản nhiều
tài liệu trong việc sử dụng của đồng bào dân tộc về vấn đề cây, con dùng làm
thuốc. Đáng chú ý nhất là năm 1957 đã biên soạn bộ "Dược liệu học và các vị
thuốc Việt Nam" gồm 3 tập. Năm 1961 tái bản in thành 2 tập. Trong đó tác
giả đã mơ tả và nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc nam [27].
Từ 1962 - 1965 Đỗ Tất Lợi lại cho xuất bản bộ " Những cây thuốc và vị
thuốc Việt Nam" gồm 6 tập. Đến năm 1969 tái bản thành 2 tập, trong đó giới
thiệu trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động vật và khống vật. Ơng
đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung về cây thuốc liên tục trong các cơng trình của



Ông được tái bản nhiều lần vào các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995. Lần
tái bản thứ 7 (1995) số cây thuốc của Ông nghiên cứu đã lên tới 792 loài [27]
và gần đây nhất là lần tái bản thứ 13 (2005). Trong đó Ơng đã mơ tả tỉ mỉ tên
khoa học, phân bố, cơng dụng, thành phần hóa học, chia tất cả các cây thuốc
đó theo các nhóm bệnh khác nhau [18]. Đây là một bộ sách có giá trị lớn về
khoa học và thực tiễn, kết hợp giữa khoa học dân gian với khoa học hiện đại.
Năm 1978, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chủ trương phát triển Y học
dân tộc với phương châm: "Thừa kế phát huy, phát triển Y học dân tộc cổ
truyền và kết hợp Đông y với Y học hiện đại để xây dựng nền Y học Việt
Nam". Năm 1980 Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chương đã giới thiệu 519 loài cây
thuốc, trong đó có 150 lồi mới phát hiện "Sổ tay cây thuốc Việt Nam" [27].
Liên quan đến vấn đề cây thuốc, Viện dược liệu, tập thể các nhà khoa học đã
xuất bản cuốn "Dược điển Việt Nam" tập I, II đã tổng kết các cơng trình
nghiên cứu về cây thuốc trong những năm qua [27]. Viện Dược liệu (Bộ Y tế)
cùng với hệ thống trạm nghiên cứu dược liệu, điều tra ở 2795 xã, phường,
thuộc 351 huyện, thị xã của 47 tỉnh, thành phố trong cả nước, đã có những
đóng góp đáng kể trong công tác điều tra sưu tầm nguồn tài nguyên cây thuốc
và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc trong Y học cổ truyền dân gian. Kết quả
được đúc kết trong "Danh lục cây thuốc miền Bắc Việt Nam", "Danh lục cây
thuốc Việt Nam", tập "Atlas (bản đồ) cây thuốc" đã thống kê và công bố một
danh sách về cây thuốc từ 1961 - 1972 ở Miền Bắc là 1.114 loài, từ 1977 1985 ở Miền Nam là 1119 loài. Tổng hợp trong cả nước đến năm 1985 là
1.863 loài và dưới loài, phân bố trong 1.033 chi, 236 họ, 101 bộ, 17 lớp, 11
ngành được xếp theo hệ thống của nhà thực vật học Takhtajan [27] và mỗi
loài đều giới thiệu công dụng và cách sử dụng chúng. Đề cập tới cây thuốc
trong hệ thực vật Việt Nam, Võ Văn Chi là người từ lâu có nhiều tâm huyết.
Năm 1976, trong luận văn PTS. khoa học của mình, Ông đã thống kê có 1.360



lồi cây thuốc thuộc 192 họ trong ngành hạt kín ở Miền Bắc. Đến năm 1991,
trong một báo cáo tham gia Hội thảo quốc gia về cây thuốc lần thứ II tổ chức
ở thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã giới thiệu một danh sách các loài cây
thuốc Việt Nam có 2.280 lồi cây thuốc bậc cao có mạch, thuộc 254 họ trong
8 ngành. Có thể nói cơng bố này đã giới thiệu một số lượng cây thuốc lớn
nhất. Xét về thành phần các taxon cây thuốc đã biết hiện nay ở Việt Nam,
theo Viện Dược liệu, phần lớn là cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm
dân gian. Số còn lại khoảng dưới 5% là ghi nhận theo tài liệu của nước ngoài.
Trong tổng số trên 2.000 loài và dưới lồi cây thuốc, có tới gần 90% là cây
mọc tự nhiên. Chúng chủ yếu tập trung chủ yếu trong các quần thể rừng với
trữ lượng lớn, còn khoảng trên 10% là cây trồng. Cây trồng được sử dụng làm
thuốc bao gồm: Cây thuốc nhập nội, cây thuốc trồng vốn có ở Việt Nam hoặc
các loại cây trồng khác có bộ phận được sử dụng làm thuốc. Ngồi ra cũng có
nhiều cơng trình về cây thuốc Việt Nam thuộc các địa phương hoặc thuộc các
phạm vi nhỏ cũng đã được cơng bố:
Đỗ Huy Bích, Bùi Xn Chương và một số người khác đã cho ra cuốn
"Sổ tay cây thuốc Việt Nam" (1980) và "Tài nguyên cây thuốc Việt Nam"
(1993) với hàng năm có khoảng 300 lồi cây thuốc được khai thác và sử dụng
ở các mức độ khác nhau trong tồn quốc [27].
Trần Đình Lý (1995) và cộng sự cho xuất bản cuốn "1900 lồi cây có
ích" [27]. Trong số các lồi cây thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam,
có 76 lồi cho nhựa thơm, 160 lồi có tinh dầu, 260 lồi cho dầu béo, 600 lồi
chứa tanin, 50 lồi cây gỗ có giá trị cao, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây.
Vương Thừa Ân cho ra đời cuốn "Thuốc quý quanh ta" vào năm 1995
[27]; "Cây thuốc trong trường học" của Ngô Trực Nhã (1985).
Năm 1996, Võ Văn Chi cho ra đời quyển "Từ điển cây thuốc Việt Nam"
đã mô tả kỹ 3200 cây thuốc Việt Nam [27]. Đây là một cơng trình có ý nghĩa


khoa học và thực tiễn rất lớn phục vụ cho ngành dược và các nhà thực vật

học. Ngồi ra, cịn rất nhiều bài báo đăng trong tạp chí Trung ương, địa
phương đều giới thiệu về cây thuốc, bài thuốc và tác dụng làm thuốc của cây
cỏ quanh ta. Như vậy, nguồn cây cỏ được sử dụng làm thuốc rất phong phú.
Theo Đỗ Huy Bích, Nguyễn Tập, Lê Tùng Châu... hàng năm, nước ta đã khai
thác và sử dụng tới 300 loài cây thuốc ở các mức độ khác nhau [1]. Thật khó
mà thống kê được một cách đầy đủ khối lượng dược liệu tự nhiên được khai
thác bởi lẽ hàng năm ngồi cơ sở sản xuất của nhà nước cịn có những cơ sở
của tư nhân, của những ơng lang bà mế và người dân từng địa phương tự thu
hái về chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian. Theo Nguyễn Khang và Vũ
Quang Chương [27] thì trong vịng vài chục năm gần đây nước ta đã xuất
khẩu một lượng dược liệu khá lớn khoảng 20 triệu USD và lượng tinh dầu là
20 - 30 triệu USD chưa kể giá trị xuất khẩu tiểu ngạch và buôn lậu qua biên
giới của tư thương [27]. Song đối với các dân tộc Việt Nam thì ít có cơng
trình nghiên cứu đến, có thể nói cơng trình đầu tiên của Võ Thị Thường
(1986) đã nghiên cứu các loài cây ăn được của đồng bào Mường trong đó tác
giả đã giới thiệu 89 lồi thuộc 38 họ [27]. Tác giả cũng đã đưa ra một số nhận
xét giữa việc sử dụng một số cây của đồng bào Mường với điều kiện sống và
nơi sống của họ.
Đặc biệt, năm 1994, trong cơng trình nghiên cứu cây thuốc Lâm Sơn Lương Sơn - Hà Sơn Bình, Nguyễn Nghĩa Thìn đã giới thiệu 112 lồi thuộc
50 họ [27]. Năm 1990 - 1995 trong hội thảo quốc tế lần thứ 2 về Dân tộc sinh
học tại Côn Minh - Trung Quốc, tác giả cũng đã giới thiệu lịch sử nghiên cứu
về vấn đề Dân tộc dược học, giới thiệu 2.300 loài thuộc 1.136 chi, 234 họ
thuộc 6 ngành thực vật có mạch bậc cao ở Việt Nam được sử dụng làm thuốc
và giới thiệu hơn 1.000 bài thuốc mà được thu thập ở Việt Nam cũng như một
số loài được sử dụng. Năm 2001, Ông cùng một số cộng sự nghiên cứu vấn đề


thực vật học dân tộc: Cây thuốc của đồng bào Thái ở Con Cng - Nghệ An,
trong đó nghiên cứu về vấn đề thực vật được sử dụng làm thuốc trong đời
sống đồng bào Thái, về văn hóa cũng như phong tục tập quán của đồng bào

Thái [27].
Bên cạnh ý nghĩa sử dụng cây thuốc trong Y học dân tộc, theo kết quả
nghiên cứu của: Nguyễn Văn Đàn, Nguyễn Việt Tựu (1986), Trịnh Gia Ân,
Phạm Đình Sửu (1971, 1979), Lê Tùng Châu (1991)... nguồn cây thuốc ở Việt
Nam đã và có nhiều triển vọng là ngun liệu cho cơng nghiệp dược, chiết
xuất các hợp chất tự nhiên để làm thuốc. Chỉ tính trong vịng hơn chục năm
lại đây đã có 701 lồi cây thuốc được điều tra tính kháng khuẩn và một số lồi
cây thuốc chính thức được đưa vào sản xuất thuốc đại trà như: Vằng đắng
(Coscinium fenestratum), Sừng dê (Strophanthus divergens), Ba gạc
(Rauvolfia verticillata)... [27]. Ngoài ra vấn đề tìm kiếm các thuốc mới từ
nguồn cây cỏ ở Việt Nam cũng đầy triển vọng. Theo công bố của Trần Ngọc
Ninh (1994), Lê Trần Đức (1995), các nhà khoa học Việt Nam bước đầu đã
chiết được hợp chất Taxol từ các lồi Thơng đỏ (Taxus spp.), có tác dụng
chống ung thư.
Tóm lại kinh nghiệm dùng các lồi cây cỏ để chữa bệnh của đồng bào ta
là phong phú, đa dạng. Đây là kết quả của một quá trình lâu dài từ thế kỷ này
sang thế kỷ khác của cả dân tộc, thậm chí họ phải đổ cả máu để đúc kết thành
những kinh nghiệm truyền thống. Việc ứng dụng những kinh nghiệm dân gian
và nghiên cứu Dân tộc thực vật học ở Việt Nam nói chung và đối với dân tộc
Thái nói riêng là rất cần thiết để góp phần phát triển nền kinh tế của đồng bào
dân tộc. Để phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp cũng như góp phần bảo tồn
đa dạng sinh học, bảo tồn nguồn gen, bảo tồn những kinh nghiệm phong phú
và quý báu của đồng bào dân tộc, nhiệm vụ tiếp theo của chúng ta là kiểm kê,
bổ sung và hệ thống hóa các cây thuốc của đồng bào dân tộc sử dụng một


cách khoa học giúp cho việc lựa chọn nghiên cứu và phát triển chúng trong
tương lai.
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG CÂY THUỐC Ở CÁT


Trước đây ở đảo Cát Bà cũng như nhiều vùng miền núi khác, việc chăm
sóc sức khoẻ, khám và chữa bệnh cho người dân cịn rất hạn chế và khó khăn.
Mặt khác, với cuộc sống trong rừng - nơi có nhiều lồi cây cung cấp nguồn
dược liệu phong phú và đa dạng, người dân địa phương đã tự tìm hiểu và tìm
ra được rất nhiều lồi cây rừng có tác dụng chữa được nhiều bệnh. Những tri
thức và kinh nghiệm sử dụng những loài cây để chữa bệnh đã được người dân
địa phương gìn giữ và lưu truyền lại qua nhiều đời, nhiều thế hệ sau.
Đến nay, một phần nhỏ người dân, đặc biệt là các ông lang, bà mế ở đây
cũng đã đưa một số loài cây thuốc về trồng trong vườn nhà. Tuy nhiên, với số
lượng nhỏ và một số lồi khơng thể gây trồng được nên họ vẫn khai thác
nguồn tài nguyên cây thuốc trong rừng để bán, chữa bệnh cho người dân
trong vùng và người dân đánh cá từ các tỉnh khác đến.
Bên cạnh việc phát triển kinh tế - xã hội như ở Cát Bà thì việc quản lý,
bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn cây thuốc cũng như việc bảo tồn tri thức
văn hố này là vơ cùng cấp thiết.
Trên thực tế, từ trước đến nay chưa có một cơng trình nghiên cứu nào
hoặc một dự án nào nhằm thống kê cũng như trồng thử nghiệm và bảo tồn về
các lồi cây thuốc hiện có trong nguồn gen thực vật của Vườn Quốc gia Cát
Bà.
Năm 2003, theo kết quả sơ bộ giữa Phịng Hố bảo vệ thực vật - Viện
Hoá học cùng với dự án Tibotec (Vương quốc Bỉ) đã xác định Vườn Quốc gia
Cát Bà có khoảng 400 lồi cây thuốc. Từ tình hình trên kết hợp với việc bảo


tồn một số lồi cây thuốc đặc trưng có thể bị tuyệt chủng; năm 2005, Vườn
Quốc gia Cát Bà cũng đã tiến hành trồng thử nghiệm khoảng 80 loài cây
thuốc trên diện tích 4 ha dưới tán rừng trồng. Đến nay, kết quả thực hiện mới
chỉ đưa về trồng được khoảng 40 loài.



CHƯƠNG 2. MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
TËp hỵp thành phần các loài cây thuốc và các bài thuốc mà đã được
người dân ở Cát Bà sử dụng.
Phân tích đánh giá tính đa dạng các loài cây thuốc về các mặt: thành
phần, dạng sống, các bộ phận sử dụng, sự phân bố và các bệnh chữa trị.
2.2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tồn bộ những thực vật bậc cao có mạch làm thuốc ở Vườn Quốc gia
Cát Bà và vùng đệm.
2.3. NỘI DUNG
- Tập hợp và hệ thống hố các thơng tin về tài nguyên cây thuốc ở Vườn
Quốc gia Cát Bà từ trước đến nay.
- Điều tra kinh nghiệm của ông lang, bà mế.
- Điều tra và thu mẫu trên thực địa.
- Xác định tên khoa học và xây dựng danh lục.
- Phân tích và đánh giá tính đa dạng trên các mặt: thành phần, dạng sống,
các bộ phận sử dụng, sự phân bố và các bệnh chữa trị.
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Do mỗi một đối tượng nghiên cứu có những đặc trưng riêng nên phải có
những phương pháp khác nhau. Để thực hiện mục tiêu và nội dung trên chúng
tôi tiến hành các phương pháp sau:


- Phương pháp kế thừa có phê phán các kết quả đã được điều tra trước
đây
Đây là phương pháp đã được nhiều nhà chuyên môn thực hiện. Việc kế
thừa các thành quả có sẵn là vơ cùng cần thiết, nhưng có chọn lọc.
- Phương pháp điều tra phỏng vấn người dân về những kinh nghiệm sử
dụng các loài cây làm thuốc.

Đối tượng phỏng vấn được lựa chọn là những người có hiểu biết về cây
thuốc cũng như khả năng chữa bệnh cho gia đình và cộng đồng. Khi tiến hành
phỏng vấn, cần phải có thái độ tốt để hồ mình vào cuộc sống của họ, tạo
niềm tin để họ thấy rõ việc làm này mang lại lợi ích cho chính bản thân họ.
Để thực hiện phương pháp này cần có sự giúp đỡ của cán bộ địa phương
cũng như cán bộ Vườn Quốc gia Cát Bà trước khi điều tra.
- Phương pháp chuyên gia: Dựa vào các kinh nghiệm của người chuyên
gia nhất là việc xác định tên khoa học.
- Phương pháp thu mẫu và xử lý mẫu vật
- Phương pháp xác định tên khoa học và danh lục
- Phương pháp đánh giá tính đa dạng tài nguyên cây thuốc


CHƯƠNG 3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI KHU VỰC
NGHIÊN CỨU
Cát Hải là một huyện đảo của Thành phố Hải Phòng, được thành lập
năm 1977 trên cơ sở sáp nhập hai huyện Cát Hải và Cát Bà, nằm ở phía Đơng
Nam thành phố Hải Phịng.
Vườn Quốc gia Cát Bà được thành lập theo quyết định số 79 CT ngày
31/12/1986 của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng.
Ngày 20/10/1998 theo công văn số 1737 NN của Chủ tịch hội đồng bộ
trưởng, Vườn Quốc gia Cát Bà được chuyển giao cho Bộ Lâm nghiệp (nay là
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thơn).
Ngày 06/4/2004 Thủ tướng Chính Phủ đă ban hành Quyết định số
333/QĐ-TTg về việc chuyển Vườn Quốc gia Cát Bà về thành phố Hải Phòng
quản lý.
Ngày 29/12/2004 Vườn Quốc gia Cát Bà - khu bảo tồn thiên nhiên quốc
gia và khu dự trữ sinh quyển thế giới quần đảo Cát Bà được UNESCO chính
thức cơng nhận.
3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN

3.1.1. Địa lý
Từ Đình Vũ đến đảo Cát Hải chỉ có 3,5 km, từ đảo Cát Hải sang đảo Cát
Bà chỉ có 1 km.
Nếu lấy tuyến bến Triều (Quảng Ninh) qua rìa Tây Nam đảo Cát Bà làm
ranh giới thì phía Đông Bắc của tuyến là khu vực đảo Cát Bà, có những đặc
trưng của vùng vịnh đảo và phía Tây Nam của tuyến là khu vực đảo Cát Hải


gồm đảo Cát Hải và phần đất của Xã Phù Long, Cái Viềng của Cát Bà mang
tính chất của mơi trường vùng Cửa sơng hình phễu Bạch Đằng.
Vườn Quốc gia Cát Bà nằm ở phía Đơng Bắc huyện đảo Cát Hải, cách
trung tâm thành phố Hải Phòng 45 hải lý.
Toạ độ địa lý: từ 200 43’ 50” đến 200 51’ 29” độ vĩ Bắc
và 1060 58’ 20” đến 1070 10’ 05” độ kinh Đơng.
Phía Bắc giáp xã Gia Luận, phía Đơng giáp vịnh Hạ Long, phía Nam và
phía Tây giáp thị trấn Cát Bà và các xã Xuân Đám, Trân Châu và Hiền Hào.
Tổng diện tích vườn là 15.200 ha, trong đó rừng núi đá chiếm 9.800 ha
cịn lại 5.400 ha mặt nước biển.
3.1.2. Địa hình, địa chất thổ nhưỡng
3.1.2.1. Địa hình
Cát Bà là đảo núi đá có diện tích khoảng 200 km2 ; ngồi ra cịn có
khoảng 366 hịn đảo lớn nhỏ khác trong hệ thống quần đảo Nam vịnh Hạ
Long.
Đảo chính Cát Bà cùng 366 hịn đảo lớn nhỏ khác nhau tạo nên vùng núi
non hiểm trở, trong đó phần lớn có độ cao trung bình từ 50 m đến 200 m.
Đỉnh cao nhất là đỉnh Cao Vọng 322 m ở phía Bắc của hịn đảo chính. Địa
hình rất phức tạp gồm những dãy núi đá vôi xen kẽ với thung lũng đất bồi,
một số thung lũng là địa bàn chính của dân cư trên đảo. Ở giữa đảo có một
thung lũng hẹp dài theo hướng Tây Bắc - Đơng Nam. Địa hình núi đá vơi tạo
cho nơi đây rất nhiều hang động và hiểm trở, làm giữ lại được các kiểu rừng

mưa nhiệt đới thường xanh đặc trưng cho vùng ven biển miền Bắc Việt Nam
nơi trú ngụ của các lồi động vật có giá trị.


3.1.2.2. Địa chất thổ nhưỡng
Đảo Cát Bà có lịch sử kiến tạo địa chất lâu dài và phức tạp, cách đây
khoảng 370 triệu năm (thời đại cổ sinh) với nền đá mẹ chủ yếu là đá hoa
cương ở nhiều dạng khác nhau, diệp thạch sét và lẫn với nhiều khoáng vật
khác.
Trên nền địa chất đó nhờ q trình rửa trơi, phong hoá, bồi tụ đã tạo nên
các loại đất khác nhau trong từng khu vực của đảo và có thể chia thành 5
nhóm chủ yếu.
+ Nhóm đất trên núi đá vơi.
+ Nhóm đất feralit nâu vàng phát triển trên sản phẩm đá vơi ít chua hay
gần trung tính, tầng đất dầy.
+ Nhóm đất vùng thung lũng cạn phát triển trên đá vơi hoặc sản phẩm đá
vơi, tầng đất dày.
+ Nhóm đất vùng thung lũng ngập nước phát triển chủ yếu do quá trình
bồi tụ, mùa mưa thường ngập nước tầng mặt trung bình hoặc mỏng.
+ Nhóm đất bồi ngập ven biển.
3.1.3. Khí hậu thuỷ văn
Chế độ gió: Đảo Cát Bà nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có
gió mùa tây nam về mùa hạ và gió mùa đơng bắc về mùa đơng. Do vị trí của
đảo và cấu tạo hình lịng chảo nên Cát Bà chịu ảnh hưởng của khí hậu đại
dương và khí hậu thung lũng núi đá vơi.
Chế độ nhiệt: Hàng năm có hai mùa chính, mùa nóng từ tháng 5 đến
tháng 10, với nhiệt độ bình quân biến động từ 290C đến 300C và mùa lạnh từ
tháng 11 đến tháng 4 năm sau với nhiệt độ bình quân từ 140C đến 160C tổng
giờ nắng là 1926,4 giờ nắng / năm.



×