Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

(Luận văn thạc sĩ) nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc chuyển đổi phương thức canh tác nương rẫy vùng cao truyền thống sang canh tác nông lâm kết hợp tại xã chiềng san, huyện mường la, tỉnh sơn la​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.97 KB, 93 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ nông nghiệp và PTnT

Trường đại học lâm nghiệp
---------------------------------------

BCH TH THU HNG

nghiên cứu C S KHOA HỌC CHO VIỆC CHUYỂN ĐỔI
PHƯƠNG THỨC CANH TÁC NƯƠNG RẪY VÙNG CAO TRUYỀN
THỐNG SANG CANH TÁC NÔNG LÂM KẾT HỢP TẠI XÃ CHIỀNG
SAN, HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

LuËn Văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Hà Tây, 2007


Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ nông nghiệp và PTNT

Trường đại học lâm nghiệp
---------------------------------------

BCH TH THU HNG

nghiên cứu C S KHOA HỌC CHO VIỆC CHUYỂN ĐỔI
PHƯƠNG THỨC CANH TÁC NƯƠNG RẪY VÙNG CAO TRUYỀN
THỐNG SANG CANH TÁC NÔNG LÂM KẾT HỢP TẠI XÃ CHIỀNG


SAN, HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

Chuyªn ngành: Lâm Học
MÃ số: 60.62.60

Luận Văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Phú Hùng

Hà Tây, 2007



1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Vùng trung du miền núi nước ta chiếm khoảng 3/4 diện tích tồn quốc,
nơi tập trung các đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Trên diện tích đồi núi
đó, đồng bào các dân tộc thực hiện phương thức sản xuất du canh, phát nương
làm rẫy với những lồi cây có hiệu quả kinh tế thấp, khơng có khả năng bảo
vệ mơi trường, chống xói mịn và làm cho đất ngày càng trở nên thoái hoá.
Xã Chiềng San, huyện Mường La, tỉnh Sơn La là một xã miền núi, nằm trong
diện 135 cần được chính phủ hỗ trợ. Người dân địa phương chủ yếu là dân tộc
Thái, H'Mông, họ thường sống tập trung thành các bản phân bố ở các chân
núi và các dải núi cao và xa. Sống ở nơi có nhiều tiềm năng cho sự phát triển
như: Diện tích bình qn trên đầu người lớn, khí hậu mưa ẩm, rừng có khả
năng phục hồi nhanh, hệ động thực vật phong phú... Tuy nhiên canh tác NR
độc canh và săn bắt cạn kiệt đã làm cho rừng và đất xung quanh nơi ở của
người dân bị suy thối một cách nhanh chóng, cuộc sống người dân ln

trong tình trạng đói nghèo và lạc hậu, làm cho họ trở thành những người tác
động nhiều nhất vào tài nguyên thiên nhiên, nhưng cũng là những người có
cuộc sống khó khăn nhất, được hưởng lợi ít nhất từ rừng.
Tập quán đốt nương làm rẫy dẫn đến nguyên nhân của các vụ cháy
rừng lớn, nhỏ trên phạm vi toàn xã. Diện tích đất đai được đồng bào sử dụng
làm nương rẫy cho năng suất thấp, nên mặc dù diện tích canh tác lớn nhưng
người dân vẫn không đủ lương thực cho cuộc sống hàng ngày, trong xã vẫn
cịn tình trạng người dân bị thiếu đói, chưa đủ lương thực phục vụ cho nhu
cầu tối thiểu hàng ngày. Xã Chiềng San lại nằm trong vùng phịng hộ đầu
nguồn Sơng Đà tỉnh Sơn La, do đó vai trị phịng hộ đầu nguồn vơ cùng quan
trọng. Việc bảo tồn và phát triển rừng để cung cấp ổn định nguồn nước, ngăn


2

cản xói mịn bồi lấp lịng hồ, duy trì cơng suất và tuổi thọ cơng trình thuỷ điện
ngày càng bức thiết. Làm sao sớm ổn định cuộc sống của người dân, giảm bớt
sự lệ thuộc của thu nhập từ các hoạt động phá rừng, từng bước chuyển hướng
canh tác nương rẫy truyền thống sang trồng rừng NLKH, nhằm tăng diện tích
rừng vùng đầu nguồn, hạn chế xói mịn là những vấn đề cần được giải quyết ở
xã Chiềng San. Xuất phát từ những lý do trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc chuyển đổi phương thức canh tác
nương rẫy vùng cao truyền thống sang canh tác nông lâm kết hợp tại xã
Chiềng San, huyện Mường La, tỉnh Sơn La”.


3

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu CTNR và NLKH trên thế giới

1.1.1. Canh tác nương rẫy
Canh tác nương rẫy là một hình thức sản xuất nông nghiệp lâu đời gắn
liền với đồng bào các dân tộc thiểu số vùng rừng núi không chỉ ở nước ta mà
còn ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là vùng nhiệt đới. Là một trong những
hình thái nơng nghiệp cổ sơ nhất. Đó là phương thức phát đốt, khởi đầu của
nền trồng trọt. Nông nghiệp phát đốt đã được áp dụng từ kỷ nguyên Neolithic,
không những ở các vùng nhiệt đới ở Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Á Thái Bình
Dương mà cịn cả ở Châu Âu, bao gồm nhiều dân tộc với nhiều nguồn gốc
khác nhau (Spenser,1986). Người nguyên thủy, khởi đầu dựa vào các đám
cháy tự nhiên rồi về sau mới biết phát đốt để gieo trồng. Tại các vùng nhiệt
đới, á nhiệt đới nền công nghiệp cổ sơ ấy tồn tại cho đến ngày nay với nhiều
tên gọi khác nhau: Ladang Huma (Indonesia), Jhum (India), Chena
(Srilanca)...Trong tiếng việt gọi là “Canh tác nương rẫy”.
Có nhiều khái niệm về CTNR nhưng khái niệm được dùng nhiều nhất
“Canh tác nương rẫy (Shingting cultivation) được coi là những hệ thống canh
tác nơng nghiệp trong đó đất được phát quang để canh tác trong một thời gian
ngắn hơn thời gian bỏ hóa” (Conklin, 1957). Phản ảnh quan điểm động, một
định nghĩa mới gần đây được xuất hiện "Du canh là một chiến lược quản lý
tài nguyên trong đó đất đai được luân canh nhằm khai thác năng lượng và vốn
dinh dưỡng của phức hệ thực vật - đất của hiện trường canh tác" (Mc Grath,
1987). Các định nghĩa này nhằm nhấn mạnh và chú ý nhiều về tính chiến lược
của quản lý tài nguyên rừng thông qua CTNR, về cả một q trình khép kín
của nơng nghiệp DC trong q trình ln canh, bỏ hố, phục hồi độ phì đất và
rừng, điều mà ít người quan tâm, chú ý tới. (theo Võ Đại Hải, 2003 [8]).
Về chiến lược phát triển kinh tế bền vững, DC không được nhiều nước coi
trọng bởi DC được coi như là sự lãng phí về sức người, tài nguyên đất đai, là


4


ngun nhân gây nên xói mịn và thối hố đất, dẫn đến tình trạng sa mạc hố
sảy ra nghiêm trọng. Phá rừng để làm NR trong một giai đoạn rồi di chuyển
sang một khu rừng khác có thể lãng phí nếu nhận thức rừng chỉ có giá trị duy
nhất là từ gỗ (Grinnell, 1977, Arca, 1987 [32]).
Có thể nói CTNR hiện nay đang là vấn đề được các nhà khoa học tập
trung nghiên cứu trên nhiều góc độ khác nhau.
Có nhiều nghiên cứu trên thế giới về CTNR. Dựa trên những ý kiến và quan
điểm của nhiều nhà nghiên cứu, Katherine (1991) đã tổng hợp những quan
điểm chủ yếu về CTNR quay vịng (CTNR truyền thống).
Trong một cơng trình nghiên cứu về mối tương quan giữa việc sử dụng
NR với độ phì của đất ta thấy tần số sử dụng đất có ảnh hưởng lớn tới độ phì
đất. Amason và đồng tác giả (1982) (theo Võ Đại Hải, 2003 [8]), đã nghiên
cứu hai đám nương của Mianma, cả hai đều được trồng ngô, một đám làm rẫy
trên 100 năm với chu kỳ bỏ hoá 5 - 15 năm, một đám đã không sử dụng trên
50 năm. Trên đám nương bỏ hoá 50 năm, năng suất cây trồng đã tăng lên gấp
đơi. Điều cơ bản chính là thời gian bỏ hố càng dài, đất phục hồi lại độ phì
càng tốt. Phục hồi lại độ phì của đất qua bỏ hố là một cách thích ứng của
nơng nghiệp DC nhằm sản xuất lương thực mà khơng cần sử dụng tới bón
phân.
Phương thức DC, bỏ hố đứng về mặt sinh thái mà nói hồn tồn hợp
lý nếu thời gian bỏ hố hồn tồn được duy trì (Moran, 1981) (theo Võ Đại
Hải, 2003 [8]). Bỏ hoá thành rừng cũng gọi là "bỏ hoá dài ngày" được coi như
thành công khi nương phát và trồng trọt được "hưu canh" để tái sinh lại rừng
"rậm". Theo cổ truyền xưa nay, đó vẫn là hình thức DC phổ biến nhất trong
vùng nhiệt đới, nếu nương không lớn chỉ giống như các lỗ trống xuất hiện
trên rừng và được "nhanh chóng hàn gắn" vết thương và tái sinh lại sẽ tiếp
diễn ngay. Rừng xung quanh sẽ là nguồn gieo giống cho lập địa và sẽ bảo vệ
cho nó chống lại gió mạnh và xói mịn (UNESCO/UNEP, 1978). Các loài cây



5

rừng mưa khơng thể tái sinh được ngồi mơi trường rừng. Qua việc tạo nên
các NR không lớn, và giữ lại các mảnh rừng quanh để làm nguồn gieo giống,
người sử dụng tích cực điều khiển q trình tái sinh của rừng theo đúng quy
luật tự nhiên vốn có của nó (Clarke, 1976, Gomer Poma, 1972) (theo Võ Đại
Hải, 2003 [8]).
Tại Châu Phi thường có những NR gần nhà, NR xa nhà thường được
gây trồng một thời gian ngắn và bỏ hố khá lâu. Rẫy gần nhà có xu hướng
được canh tác lâu hơn và thời kỳ bỏ hoá ngắn hơn và trong một số vùng
chúng trở thành những vườn hộ thâm canh. Càng đa dạng và có cơ sở di
truyền rộng, hệ DC nông nghiệp sinh thái càng ổn định. Qua việc kết hợp với
loài cây trồng khác nhau. giống khác nhau, NR khác nhau, người dân DC cố
gắng xây dựng một hệ thống bền vững và ổn định nhất để đảm bảo an toàn
lương thực.
Từ những điểm đã trình bày có thể diễn tả mơ hình biến động sinh thái
rừng nhiệt đới qua DC như sau (phỏng theo Jordan, 1985) (theo Võ Đại Hải,
2003 [8]).
+ Chu kỳ du canh bỏ hoá
Dựa vào các tài liệu tham khảo và nghiên cứu, Katherinewarrner đã đưa
ra 6 giai đoạn trong chu kì DC, trong đó người dân DC cần đề ra những quyết
định then chốt về vị trí, thời gian, lồi cây trồng và đầu tư lao động, 6 giai
đoạn đó là: chọn lập địa và phát quang, đốt, trồng, làm cỏ và bảo vệ, thu
hoạch, diễn thế.
+ Thường nông dân DC có quyền chọn NR ở bất cứ nơi nào trong rừng. Cũng
có các cộng đồng dân tộc quy định vùng được tiến hành làm NR. Ở các vùng
ẩm thuộc Đông Nam Á và lưu vực sông Ama zon người dân thường lựa chọn
rừng nguyên sinh hoặc rừng thứ sinh để làm NR. Ngồi ra NR cịn được lựa
chọn dựa vào cự li cách xa nhà hoặc thơn bản, lồi cây có thể gây trồng và lao
động sẵn có.



6

+ Phát quang thường được tiến hành vào đầu mùa khơ để có thời gian cho cây
khơ và có thể đốt được.
Kĩ thuật quản lí thơng thường được áp dụng để duy trì diễn thế rừng là
chặt chọn. Các lồi cây có giá cao được giữ lại trong khi phát dọn, một số có
thể chặt tái sinh chồi hoặc chặt ở tầm ngang bụng (Fosbrooke, 1974,
Devevan, 1984) (theo Võ Đại Hải, 2003 [8]). Những cây gỗ tốt có khả năng
sản xuất hạt, dầu hoặc quả ăn được, theo thường lệ được bảo vệ suốt trong
thời kì canh tác và khi nương được bỏ hoá, chúng là cơ sở cho giai đoạn đầu
tiên của quá trình diễn thế (Devevan 1984, Engle, 1984, Yandyi, 1982) (theo
Võ Đại Hải, 2003 [8]).
Đốt vô cùng quan trọng để cây trồng đạt năng suất mà tốn ít lao dộng.
Rambo (1981) đốt có 6 ảnh hưởng tốt
1. Dọn quang được thực bì khơng cần thiết trên nương;
2. Làm thay đổi cấu tượng của đất để trồng cây dễ dàng;
3. Nâng cao độ phì của đất nhờ tro;
4. Làm giảm độ chua của đất ;
5. Làm tăng khả năng dễ tiêu của chất dinh dưỡng trong đất;
6. Làm giảm các quần thể vi sinh vật côn trùng và hạt cỏ trong đất.
Chọn thời điểm đốt chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thời tiết và tốt nhất kết thúc
vào ngay trước khi mùa mưa tới.
NR nhiều tầng, xen canh rất đa dạng giống như cấu trúc của rừng tự
nhiên có thể tìm thấy tại vùng Amazon và Đơng Nam Á. Thường thì nương
được trồng với đa dạng các lồi cây và giống cây lương thực phân bố trên
toàn nương (Maran, 1981) (theo Võ Đại Hải, 2003 [8]), còn phổ biến nhất ở
vùng Amazon là dạng hình theo "đám" hoặc khóm nhỏ độc canh. Nhìn chung
người dân DC cố gắng nhanh chóng tạo nên lớp che phủ mặt đất bằng cách

duy trì các lồi cây đã có từ trước hoặc sử dụng nhiều giống khác nhau của
từng loài lương thực.


7

Nghiên cứu q trình CTNR thì NR quay vịng được chú ý nhiều hơn
NR tiến triển. Tuy nhiên, các quan điểm đánh giá về CTNR tiến triển tương
đối đồng nhất. Võ Đại Hải (2003) [8]. đã tổng hợp các quan điểm đánh giá
như sau:
- CTNR thường gắn với du cư của bộ tộc. Họ tiến hành CTNR khơng
có ý thức quay trở lại nương cũ và sử dụng triệt để độ phì tự nhiên của đất sau
khi phát quang rừng. Qua một thời gian, cả bản làng di chuyển tới nơi mới
còn rừng để tiếp tục làm NR.
- Do sử dụng liên tục NR nên khi bỏ hố độ phì đất giảm mạnh, cỏ
chiếm ưu thế trên NR và rừng gieo giống xung quanh cũng bị phá mạnh, khả
năng phục hồi rừng rất khó khăn và cần thời gian dài. Do vậy kiểu CTNR này
gây tác hại xấu đến môi trường, hạn chế khả năng diễn thế phục hồi lại rừng
và độ phì đất.
Tóm lại, từ những nghiên cứu của các nhà khoa học về CTNR giúp mọi
người có cái nhìn đúng hơn về bản chất của CTNR và phân biệt được các kiểu
CTNR, đặc biệt CTNR quay vòng (luân hồi) và CTNR tiến triển. Những đặc
điểm của CTNR nhằm hiểu rõ hơn về người dân DC: họ có kiến thức, hiểu
biết về môi trường xung quanh và vận dụng một cách thích ứng để tiến hành
canh tác nơng nghiệp trong những khu rừng nhiệt đới ẩm và mối quan hệ giữa
thực vật rừng và đất rừng mỏng manh, dễ dàng bị phá vỡ khi tác động vào hệ
sinh thái rừng nhiệt đới. Họ biết cách quản lí rừng và tạo điều kiện cho canh
tác nông nghiệp được liên tục, lâu dài và bền vững ở mức độ nhất định. Ít ra
từ đó mọi người nhìn người DC khơng phải dưới con mắt của những người
phá rừng là chủ yếu. Đất đai bỏ hoá sau NR thường chúng ta cho là đất hoang

hố, khơng sử dụng nhưng thực chất đang nằm trong chuỗi diến thế của rừng
và nằm trong quá trình sử dụng khép kín của hệ thống CTNR. Cho tới nay
một quan niệm chung vẫn phổ biến là CTNR gây phá hoại mơi trường, làm
thối hố đất và là một trong những nguyên nhân chính gây mất rừng ở nhiều


8

nước trong khu vực Châu Á và Thái Bình Dương. Chính phủ tất cả các nước
có canh tác DC đều tiến hành nhiều chính sách, biện pháp thay thế canh tác
DC. Tổ chức nông lâm kết hợp thế giới viết tắt là ICRAF cũng có một chiến
lược tồn cầu: Lựa chọn các kiểu canh tác khác thay thế canh tác DC vì
những tác động xấu của nơng nghiệp DC tới môi trường. (theo Võ Đại Hải,
2003 [8]).
1.1.2. Nông lâm kết hợp
Nông lâm kết hợp bao gồm các hệ canh tác SDĐ khác nhau; trong đó
các lồi cây thân gỗ sống lâu năm (cây gỗ, cây bụi, các cây thuộc họ cau dừa,
tre nứa) được kết hợp với các loài cây nông nghiệp, hoặc vật nuôi trên cùng
một đơn vị diện tích đất đai canh tác, đã được quy hoạch sử dụng trong sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi hoặc thuỷ sản. Chúng được kết hợp
với nhau trong không gian hoặc theo trình tự về thời gian. Giữa chúng ln có
tác động qua lại lẫn nhau cả về phương diện sinh thái, kinh tế theo hướng có
lợi. King 1979; BD Lundgren và TB Raintree (1983); Hurley (1983), Nair
(1989) Chun-K-Lai (1991), (theoVũ Biệt Linh, Nguyễn Ngọc Bình, 1995 [12]).
Khái niệm NLKH trên đây, được chấp nhận rộng rãi trên thế giới.
Chính vì vậy từ năm 1984 trở lại đây câu hỏi “nơng lâm kết hợp là gì?” ít
được nhắc đến trong nghiên cứu. Thay vào đó việc xác định các phương thức
canh tác NLKH đã thành một trong những chủ đề chính của các nghiên cứu.
Đề tài này cũng hướng vào việc xác định các phương thức NLKH thay cho
CTNR truyền thống là chủ yếu.

Năm 1967 và 1969 FAO đã quan tâm đến phát triển NLKH và đi đến
một sự thống nhất đúng đắn “áp dụng biện pháp NLKH là phương thức tốt
nhất để SDĐ rừng nhiệt đới một cách hợp lý, tổng hợp nhằm giải quyết vấn
đề lương thực, thực phẩm và sử dụng lao động dư thừa đồng thời thiết lập cân
bằng môi trường sinh thái” [33]


9

Tháng 5/1990 hội thảo quốc tế về NLKH hợp ở Châu Á Thái Bình
Dương gồm 12 nước thành viên tham gia trong đó có Việt Nam được tổ chức
tại Băng Cốc - Thái Lan. Hội nghị đã đưa ra một số lý do để tiến hành phương
thức CTNR đó là vùng Châu Á Thái Bình Dương do có dân số chiếm 69%
dân số thế giới, trong khi đó chỉ có 28% đất canh tác nông nghiệp so với đất
canh tác toàn thế giới. Do mâu thuẫn dân số và đất đai canh tác mà hàng năm
khoảng 2 triệu ha rừng bị tàn phá, nên cần có những giải pháp về NLKH.
Theo thống kê của FAO tính đến năm 1990 đã có tới 117 quốc gia trên thế
giới áp dụng phương thức NLKH. [34]
Trong thực tế canh tác NLKH đã có nhiều hệ thống mang lại hiệu quả cao
[12], như:
- Hệ thống Taungya (Taungya system): Hệ canh tác này được đặc trưng
bởi sự kết hợp giữa việc trồng cây nông nghiệp và cây lâm nghiệp trong giai
đoạn đầu của trồng rừng. Như vậy mục đích chính của hệ canh tác là trồng
rừng, cây nông nghiệp chỉ là kết hợp trong một vài năm đầu.
- Rừng rẫy luân canh: Trong chu trình CTNR truyền thống giai đoạn bỏ
hóa (fellow) là rất quan trọng để phục hồi độ phì của đất. Trong những năm
gần đây thuật làm giàu (enricher fellow) được áp dụng rộng rãi và có thể chia
thành 2 phương án: Một là, bỏ hóa làm giàu kinh tế, nghĩa là làm tăng giá trị
kinh tế của thảm thực vật hữu canh bằng cách trồng thêm các cây gỗ có giá trị
hàng hóa và cây lương thực, thực phẩm khác; ví dụ MH trồng Song Mây ở

Luangan Dayaks của (Weistock, 1984), trồng cây gỗ đa mục đích xen ruộng
bậc thang ở Ifugao ở Phippin (Conklin, 1980). (theoVũ Biệt Linh, Nguyễn
Ngọc Bình, 1995 [12]). Hai là bỏ hóa làm giàu sinh học nghĩa là tăng khả
năng cải tạo đất của thảm thực vật hữu canh bằng các cây cải tạo đất.
- Trồng xen theo đường băng (alley cropping): Là một kỹ thuật canh tác
NLKH trong đó có cây họ đậu cố định đạm mọc nhanh, được trồng thành
hàng và theo đường đồng mức, giữa hai hàng cây này người ta canh tác cây


10

nông nghiệp. Kỹ thuật này được nghiên cứu tại Viện Nông Nghiệp Nhiệt đới
Quốc tế ở Ibanda (Wilson và Kang, 1980). (theo Vũ Biệt Linh, Nguyễn Ngọc
Bình, 1995 [12]). Hệ canh tác này cung cấp gỗ củi, thức ăn gia súc và vật liệu
ép xanh để nâng cao độ phì của đất và tăng năng suất cây trồng. Kỹ thuật này
tỏ ra thích hợp trên đất dốc, vì băng cây có tác dụng ngăn cản sự xói mịn rửa
trơi đất.
- Phối hợp cây gỗ với chăn nuôi: Một hệ canh tác NLKH bao gồm chăn
ni có thể phối hợp để tận dụng điều kiện sinh thái, kinh tế và giải quyết khó
khăn cho cộng đồng. Falvey và Andrews (1978) (theo Vũ Biệt Linh, Nguyễn
Ngọc Bình, 1995 [12]) đã thơng báo về một thử nghiệm trồng Bạch Đàn và
trồng Thông ở cao nguyên phía Bắc Thái Lan. Ở Malaysia người ta đã nuôi
Cừu và gia cầm dưới tán rừng cây Cao Su. Việc nuôi Ong mật dưới tán rừng
cũng khá phổ biến ở các nước Đông Nam Á.
Một trong những thành cơng cần được đề cập tới đó là việc các nhà
khoa học của Trung tâm phát triển nông thôn Bapstit Minđanao Philippiness
tổng hợp, hoàn thiện và phát triển từ những năm 1970 đến nay (theo Nguyễn
Xuân Quát, 1996 [17]) đó là MH kỹ thuật canh tác đất dốc SALT (Slopping
Agricultural Land Technology). Trải qua một thời gian dài nghiên cứu và
hoàn thiện, đến năm 1992 các nhà Khoa học đã cho ra đời 4 MH tổng hợp về

kỹ thuật canh tác Nông nghiệp bền vững trên đất dốc và được các tổ chức
quốc tế ghi nhận.
+ Mơ hình SALT 1 (Slopping Agricultural Land Technology): Kỹ thuật
canh tác nông nghiệp trên đất dốc. Đây là mơ hình SDĐ tổng hợp đơn giản
dựa trên cơ sở phối hợp tốt các biện pháp bảo vệ đất với sản xuất lương thực.
Với cơ cấu cây trồng được sử dụng để đảm bảo được sự ổn định và có hiệu
quả nhất là 25% cây lâm nghiệp, 75% cây nông nghiệp (cây nông nghiệp
hàng năm 50% và cây lâu năm 25%).


11

+ Mơ hình SALT 2 (Simple Agro - Livestock Technology): Kỹ thuật
nơng - súc đơn giản. Đây là mơ hình SDĐ tổng hợp dựa trên cơ sở phát triển
MH SALT1, có dành một phần đất trong MH để chăn ni theo phương thức
Nông - Lâm - Súc kết hợp. Cơ cấu SDĐ thích hợp ở đây là 40% diện tích
dành cho nông nghiệp, 20% cho cây lâm nghiệp, 20% cho chăn ni, 20%
làm nhà và chuồng trại.
+ Mơ hình SALT 3 (Sustainable Agro-Forest Land Technology): Kỹ
thuật canh tác Nông - Lâm kết hợp bền vững. Đây là mơ hình SDĐ tổng hợp
dựa trên cơ sở kết hợp trồng rừng quy mô nhỏ với việc sản xuất lương thực,
thực phẩm. Cơ cấu SDĐ thích hợp ở mơ hình này là 40% diện tích dành cho
nơng nghiệp, 60% dành cho cây lâm nghiệp, MH này đòi hỏi đầu tư cao cả về
nguồn lực và vốn liếng cũng như sự hiểu biết.
+ Mô hình SALT 4 (Small Agro-Fruit Livehood Technology): Kỹ thuật
sản xuất nông lâm nghiệp với cây ăn quả kết hợp với quy mơ nhỏ. Đây là mơ
hình SDĐ tổng hợp được xây dựng trên cơ sở hồn thiện những mơ hình nói
trên. Cơ cấu SDĐ dành cho lâm nghiệp 60%, dành cho nông nghiệp 15% và
dành cho cây ăn quả là 25% diện tích. Đây là MH địi hỏi đầu tư cao về nguồn
lực, vốn, kiến thức và kinh nghiệm.

Nhiều nước trên thế giới đã áp dụng hệ thống canh tác này:
Ở Malaysia kết hợp chăn nuôi Gà và Cừu dưới rừng Cao Su và cây họ
dầu, đã tăng thêm nguồn thu nhập từ thịt, mỡ và tăng lượng phân bón cho đất,
giảm công làm cỏ.

Ở Braxin, cây Syzygium aromeficum được trồng kết hợp với cây Hồ
Tiêu đen (pipennnigrun), trong 25 năm trở lại đây đã trồng trên 500ha, có
50% diện tích đang cho thu hoạch. Ở miền nam Brazil có khoảng 30000 ha
cây Cao Su trong đó có 2000 ha cây cao su trồng kết hợp với kakao theo
phương thức bố trí 2 hàng Kakao có 2 hàng Cao Su.


12

Ở Thái Lan để SDĐ hiệu quả, nhà nước đã có chủ trương phát triển
theo mơ hình NLKH, kết quả đã thành công trong các nông trường trồng Ngô,
Dứa ở vùng Hang Khoai, tạo ra các khu rừng hỗn giao gồm nhiều tầng: Rừng
+ cỏ, rừng + cây họ đậu ở KhonKaen.
MH trồng xen giữa các lồi cây cơng nghiệp, lương thực và Tre nứa ở
Ấn Độ theo hệ thống NLKH được bố trí rất khoa học và hết sức chặt chẽ có
tính tốn đến sự phát triển kinh tế, xã hội cụ thể nơi gây trồng.
Trên sườn dốc của đỉnh KiLimajaco ở Tanzania, bộ tộc Chagga trồng
xen kẽ cây hoa màu vào rừng nhiệt đới, họ làm theo cấu trúc của rừng tự
nhiên, giữ lại các cây cao nhất và tạo ra nhiều tầng cây ăn quả khác nhau, ở
tầng cao nhất họ trồng Chuối và Đu đủ, Ổi, kế đến là Cà phê và cuối cùng là
Rau, Cá được ni trong các kênh tưới tiêu, Lợn, Dê, Bị, Gà cung cấp một
lượng protein rất có giá trị và phân của chúng là nguồn phân bón hữu ích.
Ở Indonexia từ năm 1972, việc chọn đất để trồng cây lâm nghiệp đều
do Công ty Lâm nghiệp nhà nước tổ chức. Nông dân được cán bộ Công ty
hướng dẫn trồng cây nông lâm nghiệp sau khi trồng cây nông nghiệp hai năm

bàn giao lại rừng cho Công ty, sản phẩm nông nghiệp họ tồn quyền sử dụng.
Cũng ở Inđơnêxia, trên đất dốc nhỏ hơn 220 được trồng cây hàng năm với các
biện pháp chống xói mịn như đắp bờ, trồng cây theo đường đồng mức, trồng
băng phân xanh. Trên đất dốc 20o - 30o trồng cây lâu năm và cây ăn quả.
Hệ thống NLKH ở Inđônêxia.
+ Hệ thống Pekarangan: Vườn hộ Pekarangan là sự kết hợp cây ngắn
ngày, cây lâu năm và vật ni trong các khu vực quanh nhà. Nó là một HTCT
được xác định để phục vụ một loạt các chức năng khác nhau về kinh tế, sinh
học tự nhiên và văn hoá xã hội.
+ Hệ thống Kebun-talun: Gồm 3 giai đoạn phát triển: Kenbun (vườn),
kenbun campuran (vườn hỗn giao) và talun (vườn hỗn giao xen cây rừng hay


13

vườn rừng). Trong giai đoạn kebun, hệ thống có 3 tầng: Tầng thấp bao gồm
các loại thực vật bò sát mặt đất cao khoảng 30 cm; tầng cao từ 50 cm đến 1 m
chiếm ưu thế bởi rau xanh và tầng trên bao gồm bắp, thuốc lá, khoai mì hoặc
dây leo họ đậu mọc trên giàn tre. Sau hai năm, cây con của các loại cây lâu
năm bắt đầu phát triển khiến diện tích đất để canh tác hoa màu giảm xuống.
Khi đó kebun từ từ chuyển sang kebun campuran, trong đó những cây chịu
bóng như khoai mơn chiếm khoảng khơng phía dưới 1m, khoai mì hình thành
tầng thứ 2 từ 1m đến 2m và tầng thứ 3 là chuối và cây lâu năm. Sự đa dạng tự
nhiên trong kebun campuran tăng cường vấn đề bảo vệ đất, nước, xói mòn.
Sau khi thu hoạch hoa màu ngắn ngày trong kebun campuran, cánh đồng có
thể được bỏ hoang khoảng 2 - 3 năm được chiếm ưu thế bởi cây lâu niên.
Trong giai đoạn này được biết như talun và là giai đoạn cao đỉnh của hệ thống
kebun talun. Talun được chiếm ưu thế bởi sự kết hợp cây lâu niên và tre, hình
thành 3 tầng. Giai đoạn talun có thể kèm theo một sự đa dạng của hình dạng
như khoảng rừng nhỏ, tre và sự kết hợp cây lâu niên.

Tóm lại, những kiến thức về canh tác NLKH cho thấy triển vọng của
hệ canh tác này là có thể ngăn chặn được sự suy giảm độ phì của đất, đồng
thời giải quyết tốt các vấn đề về lương thực, thực phẩm, thu hút lao động và
lập lại cân bằng sinh thái của mơi sinh góp phần ổn định sản xuất NLKH trên
đất dốc.
1.2. Nghiên cứu về CTNR và NLKH ở Việt Nam
1.2.1. Canh tác nương rẫy
Vào giai đoạn từ 1943 đến 1960 rừng Việt Nam còn nhiều (năm 1943
tỷ lệ che phủ đạt 43,8%), rừng chưa được quản lý. Đây là giai đoạn hưng
thịnh nhất của nền nông nghiệp DC của thế kỷ XX. Người dân DC tự do phát
nương làm rẫy, khai thác các sản phẩm từ rừng nên đời sống của đồng bào no
đủ, ở giai đoạn này đã có những bản làng định cư từ lâu và đến thời điểm này
khơng cịn chịu sự bóc lột của thực dân phong kiến nữa nên đã có sự phát


14

triển đáng kể trong đời sống, văn hoá tinh thần nhất là một số tỉnh miền núi
phía bắc như Hồ Bình, Sơn La…Mặc dù canh tác DC ở giai đoạn này phát
triển cực thịnh, nhưng chưa ảnh hưởng nhiều đến rừng. Đặc điểm canh tác ở
giai đoạn này là thời gian bỏ hoá dài và rừng quanh bản làng được quản lý tập
thể theo hình thức cộng đồng với các luật tục riêng. Mỗi bản làng có cách
quản lý rừng như hình thức "rừng ma" hoặc "rừng thiêng", nơi cấm khai thác,
săn bắn, đốt nương làm rẫy. Đó chính là những khu rừng đầu nguồn bảo vệ
cuộc sống của họ. Canh tác DC vẫn được đảm bảo nghiêm ngặt những kỹ
thuật cổ truyền và đảm bảo thời gian bỏ hoá tương đối dài. Võ Đại Hải (2003)
[8].
Sang giai đoạn 1960 -1980 là giai đoạn sau cải cách ruộng đất, đi vào
làm ăn tập thể. Ở thời kỳ này, chính sách chung của Nhà nước là hạn chế phá
rừng làm NR, tập trung khai phá ruộng nước nên đã hạn chế được việc DC.

Năm 1967 thực hiện chính sách của Nhà nước về việc vận động đồng bào dân
tộc miền núi ĐCĐC, đồng bào miền xuôi đi xây dựng vùng kinh tế mới, cùng
với việc mở rộng diện tích ruộng bậc thang để trồng lúa nước đã làm tăng sản
lượng lúa nước và khuyến khích khai hoang trồng cây cơng nghiệp và cây ăn
quả lâu năm ở vùng núi. Một loạt các nông trường và lâm trường quốc doanh
đã được thành lập. Tuy nhiên, dân số tăng nhanh, đời sống đồng bào trở nên
khó khăn, thiếu đói hơn giai đoạn trước. Thiếu lương thực đồng bào quay lại
phá rừng làm NR, nạn phá rừng diễn ra khá mạnh và bắt đầu gây ra sự mất
cân bằng về sinh thái, làm mất tính bền vững. Võ Đại Hải (2003) [8].
Trước tình hình đó, từ năm 1973 - 1979, Nhà nước bắt đầu đưa ra chính
sách trồng rừng. Nhà nước cấp gạo và cây giống để cho nhân dân trồng và
chăm sóc, nhưng hiệu quả thấp. Đời sống vẫn tiếp tục khó khăn, cũng nằm
trong tình trạng chung của nơng dân cả nước. Võ Đại Hải (2003) [8].
Giai đoạn 1981 - 1987 Tuy có chỉ thị khốn 100 của Trung ương, giao
khốn thẳng đến người dân, chỉ thị này phù hợp với người nông dân đồng


15

bằng, nhưng lại tỏ ra ít phù hợp với đồng bào miền núi. Mức nộp sản nông
nghiệp quá cao đã không động viên được người dân đầu tư vào quản lý và
SDĐ. Ruộng lúa nước nhiều nơi bị bỏ hoang, người dân tập trung phát rừng
làm NR hoặc khai thác gỗ để bán lấy tiền. Đây là thời kỳ rừng bị tàn phá nặng
nề, thời gian bỏ hoá bị rút ngắn lại còn 6 - 7 năm. Do vậy, DC dần mất tính
bền vững và ổn định, làm đời sống của đồng bào tiếp tục khó khăn hơn nữa.
Võ Đại Hải (2003) [8]
Từ năm 1988 đến nay, sau khi có chủ trương khốn 10, sau đó là chính
sách giao đất nông, lâm nghiệp về giao quyền SDĐ lâu dài cho người dân, đã
khuyến khích người dân đầu tư vào sản xuất, tự giác làm ăn, học hỏi kinh
nghiệm sản xuất của nhau, không ỉ lại trông chờ vào nhà nước và vì vậy

người dân miền núi cũng phải bước vào guồng quay của cơ chế đổi mới này.
Những mơ hình NLKH ra đời dần thay thế cho CTNR truyền thống, bước đầu
mang lại hiệu quả kinh tế, dần dần cải thiện đời sống của một bộ phận dân cư
miền núi. Tuy nhiên với điều kiện đặc biệt và khó khăn như ở các vùng miền
núi nước ta thì khơng phải mọi người đều nhanh chóng bắt kịp và chuyển đổi
cách làm ăn. Nói chung nhiều đồng bào khơng có đủ điều kiện và để đảm bảo
cuộc sống, họ vẫn phải tiếp tục DC, cho dù họ biết rằng DC không những
khơng đảm bảo được cuộc sống mà cịn làm suy thoái nguồn tài nguyên vốn
đang dần cạn kiệt, ngăn cản sự tái tạo lại rừng do thời gian bỏ hóa quá ngắn
(2- 3 năm) và làm xuống cấp môi trường nhưng họ vẫn phải làm vì khơng cịn
cách lựa chọn nào khác. Võ Đại Hải (2003) [8]
Ở Việt Nam CTNR đang là vấn đề rất được quan tâm và có rất nhiều
cơng trình nghiên cứu về CTNR.
Trường Đại học Nơng nghiệp I Hà Nội phối hợp với Viện Khoa học Kỹ
thuật Nông nghiệp Việt Nam (VASI) và trung tâm Quốc tế nghiên cứu về
NLKH (ICRAF) đã tiến hành tổ chức hội thảo về "Kinh nghiệm quản lý đất
bỏ hoá sau NR ở Việt Nam tại thị xã Bắc Kạn. Hội thảo đã báo cáo các chương


16

trình nghiên cứu về quản lý đất bỏ hố sau NR ở Việt Nam [30]. Trong đó có
các báo cáo cơng trình nghiên cứu như:
Các tác giả Phạm Xn Hồn, Ngơ Đình Quế (theo Trần ĐứcViên,
2001[30]), nghiên cứu khả năng phát triển cây Quế trên đất NR ở Yên Bái và
Bắc Thái như một sự thay thế CTNR truyền thống hoặc quản lý đất bỏ hố
một cách tích cực và có hiệu quả. Ở Yên Bái, rừng quế hỗn giao được coi là
có ưu thế hơn rừng quế trồng thuần nhờ sự phục hồi rừng nhanh, đa dạng sinh
học cao, không bị sâu bệnh và giúp đất phục hồi cho chu kỳ canh tác tiếp theo
sau 10 - 15 năm.

Các tác giả Hà Đình Tuấn, Oliver Husson, Ngơ Đình Quế, Đỗ Đình
Sâm, Đinh Thanh Giang, (theo Trần ĐứcViên, 2001 [30]), nghiên cứu một số
biện pháp kỹ thuật canh tác bền vững trên đất dốc đề nâng cao năng suất cây
trồng. Nghiên cứu về sức ép DC và mối quan hệ giữa DC với độ che phủ rừng
các tác giả từ dự án kỹ thuật Việt Nam - Đức vùng đầu nguồn Sông Đà
(1993), (theo Trần ĐứcViên, 2001[30]) đưa ra khái niệm về chỉ số DC được
tính bởi tỷ số giữa diện tích đất bỏ hố (cây bụi, cây gỗ rác…) với diện tích
NR hiện tại. Nếu chỉ số đó bằng 1 sẽ chỉ ra rằng 1ha đất bỏ hoá tương ứng với
1 ha NR. Nếu chỉ số đó nhỏ hơn 1có nghĩa là một phần đất bỏ hố đã sử dụng
vào mục đích khác và sức ép du canh NR khơng lớn nghĩa là người DC có ít
điều kiện để đất bỏ hoá lâu hơn.
Kết quả nghiên cứu nhiều năm của Bùi Quang Toản (1990), (theo Trần
ĐứcViên, 2001[30]) trên đất NR Tây Bắc cho thấy mỗi năm tầng đất canh tác
bị bào mòn từ 1,5-3 cm, mỗi ha mất khoảng 200-300 tấn. Nghiên cứu xói mịn
ở Tây Ngun trên đất Bazan Bùi Quang Mỹ (1980), (theo Trần Đức Viên,
2001 [30]) cho thấy lượng xói mịn sảy ra trên đất trồng lúa nương ở độ dốc 8
- 15o là khá lớn: 130 tấn/ha.
Các nghiên cứu về xói mịn xảy ra dưới thảm thực vật của Bùi Danh
Ngô (1996), (theo Trần ĐứcViên, 2001 [30]) cho thấy trên nương Sắn ở độ
dốc 25o có lượng xói mịn là 1,62 tấn/ha/năm, cịn dưới cây bụi dày đặc chỉ có


17

0,64 tấn/ha/năm. Nghiên cứu trên đất Bazan Tây Nguyên, Nguyễn Ngọc Lung
(1993), (theo Trần ĐứcViên, 2001 [30]) cho thấy so với rừng chưa khai thác
có 3 tầng thì lượng xói mòn dưới trảng cỏ dày đặc (1 tầng thảm tươi) và cây
bụi tăng không nhiều (rừng 3 tầng 1,28 tấn/ha/năm, cỏ dày đặc 1,32 tấn/ha/năm
cây bụi 1,90 tấn/ha/năm. Do vậy nếu như tiến hành DC kiểu lỗ trống, diện
tích bao phủ xung quanh rẫy cịn lớn và do thực bì nhanh chóng hồi phục thì

xói mịn diễn ra khơng phải là nghiêm trọng.
Đất canh tác sau NR giảm dần hàm lượng mùn, tăng độ chua và giảm
lượng kiềm trao đổi, giảm dần lượng lân dễ tiêu mà lượng lân này liên quan
chặt tới năng suất lúa nương Bùi Quang Toản (1990) (theo Trần ĐứcViên,
2001 [30])
Viện khoa học Lâm nghiệp (2001) [31] xây dựng chuyên đề về CTNR.
Chuyên đề đã giới thiệu các cơng trình nghiên cứu về đánh giá hiện trạng
CTNR ở Tây Nguyên (1998 - 1999) (Đỗ Đình Sâm và cộng sự), CTNR của
một số dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên (Võ Đại Hải, Trần Văn Con, Nguyễn
Xuân Quát và cộng sự), kết quả nghiên cứu xây dựng mơ hình CTNR theo
hướng SDĐ bền vững ở Tây Bắc (Ngơ Đình Quế và cộng sự). Các tác giả đã
phân tích khá sâu sắc về tập quán CTNR ở Tây Nguyên và các chính sách,
giải pháp sử dụng hợp lý đất rừng. Giới thiệu kết quả bước đầu khảo nghiệm
4 mơ hình sử dụng cây họ đậu để làm tăng độ che phủ, phục hồi nhanh độ phì
đất bỏ hố và làm tăng năng suất cây trồng nông nghiệp
Những nghiên cứu về hệ CTNR ở Việt Nam được Tiến sỹ Đỗ Đình
Sâm (1994) [35] tập hợp trong các cơng bố bằng tiếng Anh “shifting cultivation
in Viet Nam: its social, economic and environmentalvalues relative to
alternative land use”. Theo Đỗ Đình Sâm, diện tích NR chiếm khoảng 3,5
triệu ha, với số người CTNR khoảng 3 triệu người trên cả nước, trong đó 2,2
triệu người đã ĐCĐC còn khoảng 800.000 vẫn sống DCDC, chủ yếu là người
H'Mông và người Dao với số hộ đói nghèo chiếm tới 20 - 30%. Nơng nghiệp


18

DC ở nước ta tồn tại ở tất cả vùng núi phía Bắc vào Nam, tỷ lệ gia tăng dân số
ở các vùng này cao 3 - 5%, quy mô gia đình lớn (7 - 9 người). Sự gia tăng dân
số tự nhiên cao cùng với phong trào di dân lên miền núi từ miền xuôi đã tạo ra
sức ép to lớn lên tài nguyên ở miền núi và làm cho tình hình khó khăn lại

càng khó khăn hơn.
Qua điều tra đánh giá thực trạng CTNR của các tỉnh Tây Ngun, Đỗ
Đình Sâm, Phạm Đình Tam, Nguyễn Trọng Khơi (2000) [19] nhận thấy rằng:
Sau khi bỏ hoá 1 năm thảm thực vật đã hồi phục độ tàn che trên 50% và sau 8
năm nếu khơng có tác động đốt phá thì độ che phủ đạt 85% và có nơi 95%.
Đặc biệt là một số rẫy trồng đậu xanh có thời gian đất nghỉ 1 năm là 8 - 9
tháng thì cây cỏ phục hồi cũng đạt độ che phủ 40%. Như vậy ở dạng bỏ hố
trên 5 năm đã có khả năng đạt được mức độ rừng thưa và nếu có biện pháp
bảo vệ thì độ tàn che có thể càng tăng lên.
Nguyễn Từ Siêm và Thái Phiên [21] trên nhiều vùng đồi đất ở Miền
Bắc (1965, 1986, 1995, 1998). Nhìn chung các nghiên cứu trên đã khẳng định
xói mịn, rửa trôi là nguy cơ căn bản làm cho đất dốc ở Việt Nam nói chung
và đất CTNR nói riêng nhanh chóng bị thối hố. Vì vậy, trong SDĐ bền vững
phải có biện pháp chống xói mịn, rửa trơi.
Nhìn chung các kết quả nghiên cứu về sử dụng NR đều đưa ra một nhận xét
thống nhất như sau:
Về khía cạnh xã hội: CTNR là một tập quán canh tác lâu đời của người
dân, khơng địi hỏi mức đầu tư cao, kỹ thuật canh tác đơn giản phù hợp với
khả năng của người dân bản địa, nên người dân chấp nhận NR một cách tự
nhiên để sản xuất ra lúa gạo.
Về khía cạnh kinh tế: Năng xuất CTNR khơng cao nên kiểu canh tác
này chỉ đáp ứng những nhu cầu cung cấp lương thực tại chỗ cho người dân,
do đó đồng bào dân tộc thiểu số sống nhờ nương rẫy đa phần là nghèo khó.
Về khía cạnh mơi trường sinh thái: Độ phì của đất trong hệ CTNR giảm
rất nhanh, nguy cơ thoái hoá đất lớn. Xét về mặt tài nguyên rừng thì CTNR là
ngun nhân chính của việc mất rừng.


19


Mặc dù những nghiên cứu đã chỉ ra những mặt hạn chế của CTNR,
phản ánh sự cần thiết phải cải tiến loại hình SDĐ này để chúng đạt hiệu quả
cao hơn và đề xuất những hướng đi để phát triển nền nông nghiệp ổn định
trên đất dốc, đặc biệt là hướng phát triển hệ thống NLKH.
- Các nghiên cứu về chuyển hoá nương rẫy thành rừng NLKH
Nghiên cứu về chuyển đổi hệ thống canh tác trên đồi sinh thái vùng núi
dốc tỉnh Sơn La của Nguyễn Tiến Mạnh - Lê Thế Hoàng (1999) [13] đã nhấn
mạnh cần đưa hệ thống canh tác tiến bộ và sử dụng hợp lý đầy đủ đất đồi núi
dốc dưới góc độ bảo vệ, bồi dưỡng đất và môi trường sinh thái gắn liền với hệ
thống nông nghiệp bền vững đồng thời phải xem xét dưới góc độ xã hội.
Các tác giả Phạm Văn Điển, Phạm Xuân Hoàn, Phạm Thanh Tú (2004)
[6] Đã xây dựng kỹ thuật chuyển hoá NR thành rừng NLKH ở vùng núi, trung
du Việt Nam. Các mơ hình thí nghiệm được quy hoạch và thiết kế xây dựng
rừng NLKH trên đất NR theo quy mơ hộ gia đình.
Nhóm tác giả: Ngơ Đình Quế, Đinh Văn Quang, Đinh Thanh Giang
(2005) [20] đã nghiên cứu xây dựng mơ hình ln canh rẫy nhằm rút ngắn
thời gian bỏ hố ở Tây Bắc. Các mơ hình thí nghiệm được xây dựng trên hệ
thống CTNR của một số dân tộc vùng Tây Bắc chủ yếu của người Dao và
người H'Mông, tiến hành từ năm 1997 - 1999. Các tác giả đã nghiên cứu đưa
ra một số giải pháp trồng xen cây họ đậu trên đất NR ở Hồ Bình và Sơn La.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các loài cây họ đậu trồng xen như: Đậu triều Ấn
Độ, Cốt khí, Keo dậu, đều phát huy được tác dụng bảo vệ và cải tạo đất, độ
phì của đất tăng lên, năng suất các loài cây trồng như Lúa, Ngô cao hơn rất
nhiều so với những nơi không trồng xen. Những nơi trồng cây họ đậu phủ kín
sau 3 năm nâng cao độ phì đất, hạn chế xói mịn, thời gian bỏ hố rút ngắn 2 3 năm so với bỏ hố tự nhiên.
Cơng trình nghiên cứu chuyển hoá NR thành rừng NLKH cung cấp
LSNG ở vùng hồ huyện Mường La, tỉnh Sơn La của Phạm Văn Điển (2005) [5].


20


Việc chuyển hoá NR thành rừng NLKH sẽ mang lại hiệu quả cao cả về
kinh tế và môi trường sinh thái. Rừng NLKH cho sản phẩm đa dạng, năng
suất cao và bền vững, góp phần vào giải quyết xung đột trong SDĐ dốc nhờ
sự kết hợp giữa cây nông nghiệp và cây lâm nghiệp một cách hài hoà, người
dân tránh khỏi cái bẫy luẩn của đói nghèo. Chuyển hố NR thành rừng NLKH
là q trình chuyển hố từ khai thác bóc lột tự nhiên sang nền sản xuất đa
canh. Do đó những kỹ thuật, kinh nghiệm chuyển hố NR cần được nghiên
cứu áp dụng vào sản xuất thực tế sản xuất nông lâm nghiệp hiện nay, đặc biệt
là vấn đề hiệu quả và tính bền vững trong SDĐ nương rẫy.
Theo quy hoạch SDĐ, nương rẫy chỉ có thể canh tác trên đất nông
nghiệp mà không thể "đặt nhầm chỗ" trên vùng đất dốc, đỉnh núi thuộc vùng
đất của lâm nghiệp. Xã hội khơng chấp nhận việc SDĐ "sai mục đích". Vì vậy
NR phải nhường chỗ cho hệ canh tác lâm nghiệp, trong đó có rừng NLKH [6]
1.2.2. Nơng lâm kết hợp
NLKH được coi như là biện pháp kỹ thuật trong SDĐ, là phương thức
bao gồm hệ thống cây trồng phong phú cả về chủng loại cách phối trí và hiệu
quả. Theo Lê Hữu Phước (1987) [16] NLKH là phương thức sử dụng hợp lý
đất đai theo một hệ thống canh tác trồng cây nông nghiệp (cây dài ngày cho
nông sản, cây hàng năm cho lương thực thực phẩm) xen với cây gỗ củi và cây
làm thức ăn cho gia súc để phát triển chăn nuôi trên cùng một mảnh đất.
Ở nước ta những nghiên cứu về phát triển hệ thống NLKH đã trở thành
nội dung quan trọng trong sản xuất nơng lâm nghiệp trên đất dốc. Hồng H,
Nguyễn Đình Hưởng, Nguyễn Ngọc Bình (1997) [10] đã tổng kết mơ hình
NLKH ở Việt Nam. Cơng trình đã được tổng hợp đánh giá hiệu quả và khả
năng áp dụng trong điều kiện cụ thể của mỗi vùng.
Trong chương trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật, cấp nhà nước về
NLKH, (CT: 0402) từ 1981 - 1985, do Bộ trưởng Bộ Lâm Nghiệp Phan Xuân



21

Đợt làm chủ nhiệm; đã xúc tiến một bước quan trọng trong việc tổng kết và
xây dựng các mơ hình NLKH mới cho từng vùng (đề tài NC: 040201, do KS
nguyễn Ngọc Bình, trưởng phịng nghiên cứu NLKH của viện KHLN làm chủ
nhiệm), đồng thời nghiên cứu các chính sách có liên quan đến việc phát triển
sản suất NLKH [12].
Cơng tác nghiên cứu đã làm rõ các kinh nghiệm truyền thống hiện có
về NLKH của nhân dân, đồng thời nghiên cứu và bắt đầu vạch ra các yêu cầu
và nguyên tắc về NLKH trên từng vùng đất đai, gắn liền với điều kiện kinh tế
xã hội cụ thể; nghiên cứu bổ sung thêm các kỹ thuật mới để hoàn thiện các
kiến thức và kinh nghiệm SDĐ đã có.
Với chương trình nghiên cứu NLKH 5 năm (1981 - 1985). Lần đầu tiên ở
Việt Nam [12]. Việc nghiên cứu đánh giá về NLKH đã được xem xét, và thực
hiện trên các quan điểm khoa học, bảo đảm tính lý luận, thực tiễn và tính hệ
thống chặt chẽ, dựa trên các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của mỗi vùng
đất đai. Trên 30 loại mơ hình NLKH đã được đánh giá và đề xuất kế hoạch
mở rộng. Nhiều hội thảo đã được tổ chức ở trong nước, nhiều kiến thức và
tiến bộ về kỹ thuật NLKH đã được tập huấn và phổ cập. Một số kinh nghiệm
và kết quả nghiên cứu về NLKH ở Việt Nam đã được giới thiệu ở nhiều nước
trên thế giới
Trong chương trình nghiên cứu tiếp theo của Nhà nước (1986 - 1990)
[12]. Những nội dung nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật về NLKH được tập
trung vào các vùng đất hoang, hơn 14 triệu ha, trong đó có 10.950.000 ha là
diện tích đất đồi núi trọc, đang bỏ hoang. Đã nghiên cứu sử dụng tập đoàn cây
họ đậu thân gỗ, và các cây nơng nghiệp có khả năng cố định Nitơ từ khí
quyển để ngồi chức năng quan trọng cung cấp lương thực, thực phẩm và gỗ,
củi các mơ hình NLKH thực nghiệm, cịn khả năng quan trọng khác là, ngăn
chặn được các q trình thối hoá đang diễn ra ở vùng đất đồi núi trọc; đồng
thời, cải tạo và nâng cao tính chất và độ phì của đất.



22

Chương trình nghiên cứu tiếp theo của nhà nước (1991-1995) [12], về
phục hồi rừng và phát triển lâm nghiệp, NLKH được xem như một phương án
sản suất chủ yếu, để xây dựng các mơ hình Lâm nghiệp xã hội tại các địa bàn
sản suất Lâm nghiệp quan trọng trong toàn quốc: Tây nguyên, Duyên Hải
Trung bộ; Trung du, miền núi Bắc Bộ, và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Nhiều
vấn đề về cơ cấu cây con nông nghiệp, lâm nghiệp đã được đặt ra ở vùng đất
ngập mặn ven biển, đất phèn mạnh, đất dốc vùng đồi núi, đến các chế độ canh
tác NLKH trên đất dốc; vấn đề chế biến lâm, nông, thuỷ sản đã được đặt ra;
vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm nông lâm; cũng như cơ chế chính sách
cũng đã được nghiên cứu để áp dụng thích hợp cho từng vùng cụ thể v.v..
Bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, Việt Nam còn được giúp đỡ của các
tổ chức quốc tế: FAO, UNDP, SIDA, JICA, và đặc biệt tổ chức APAN (Tổ
chức mạng lưới NLKH châu Á Thái Bình Dương) [12] như:
SIDA (1989 - 1992) giúp đỡ nghiên cứu, phổ cập các kiến thức về
NLKH để xây dựng các trang trại lâm nghiệp ở vùng trung tâm miền bắc Việt
Nam, nâng cao khả năng sản xuất nguyên liệu gỗ, tre nứa, cung cấp đầy đủ,
kịp thời, và ổn định cho nhà máy giấy Bãi Bằng, do Thụy Điển giúp Việt
Nam xây dựng. FAO giúp xây dựng chương trình NLKH (1987 - 1989), thực
hiện ở vùng đất cát ven biển, thuộc 6 xã của huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An,
trên diện tích 4540 ha, với dân số 38.768 người và huyện Ba Vì trên đất đồi
trọc thối hố mạnh, diện tích 30.000 ha.
Trong mạng lưới NLKH Châu Á Thái Bình Dương (APAN)GCP/RAS/133/JPN;
Việt Nam là một trong 10 nước thành viên trong 3 năm (1992- 1994), APAN
đã giúp đỡ tổ chức các hội thảo Quốc tế vùng ở Việt Nam về NLKH và Ngư
lâm kết hợp; giúp tổ chức các hội thảo quốc gia về NLKH, Việt Nam đã tham
gia các các lớp tập huấn về NLKH và trao đổi thông tin về lĩnh vực này, in ấn

tài liệu v.v..
- JICA trong hai năm gần đây đã giúp Việt Nam tổ chức hội thảo về
NLKH trong chương trình lâm nghiệp xã hội ở vùng Tây Nguyên, giúp


×