Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

(Luận văn thạc sĩ) nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh thái và kỹ thuật nhân nuôi loài nhím đuôi ngắn (hystrix brachyura) tại đăklăk​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 73 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

QUÁCH ĐỨC HẠNH

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC,
SINH THÁI VÀ KỸ THUẬT NHÂN NI LỒINHÍM
ĐI NGẮN (Hystrix brachyura ) TẠI ĐĂK LĂK
CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.60

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ TÂY- 2007


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

QUÁCH ĐỨC HẠNH


NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC,
SINH THÁI VÀ KỸ THUẬT NHÂN NI LỒI
NHÍM ĐUÔI NGẮN (Hystrix brachyura )
TẠI ĐĂK LĂK

CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TIẾN SỸ NGUYỄN XUÂN ĐẶNG

HÀ TÂY- 2007


3

LỜI NĨI ĐẦU
Luận văn được hồn thành theo chương trình đào tạo cao học khoá 12
trường Đại học Lâm Nghiệp Việt Nam( khố 3 tại Đại học Tây Ngun).
Tơi xin chân thành cám ơn Ban giám hiệu, Khoa sau đại học và các thầy cô
giáo trường Đại học Lâm Nghiệp và trường Đại học Tây Nguyên ; đặc biệt là TS.
Nguyễn Xuân Đặng – người trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình giúp đỡ,
truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm q báu và đã giành những tình cảm tốt
đẹp cho tôi trong thời gian học tập cũng như trong q trình hồn thành luận văn.
Nhân dịp này tơi xin tỏ lòng biết ơn Ban lãnh đạo và CBCNV các Vườn
Quốc gia Yok Đôn, Chư Yang Sinh, Khu BTTN Nam Ka, Ea Sô, Hồ Lăk,...đã tạo
điều kiện cho tôi trong thời gian thực tập.
Tôi cũng xin cám ơn các ông Hoàng Xuân Thanh, Ngô Xuân Thắng, Trần
Công Huê, Triệu Văn Vỵ và một số gia đình khác... đã giúp đỡ cho tơi trong q

trình thực tập thu thập số liệu để hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã làm việc với sự nổ lực và cố gắng hết sức, nhưng do hạn chế về
trình độ, thời gian, do thiếu thốn về kinh phí, thiết bị ..nên luận văn cịn có nhiều
hạn chế và thiếu sót.
Tơi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng q giá của những
nhà khoa học và các bạn bè đồng ngiệp.

Xin chân thành cám ơn.
Tháng 3 năm 2007
Tác giả.
Quách Đức Hạnh


4

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
NỘI DUNG

STT

Trang

2.1

Địa điểm, thời gian và số lượng mẫu nhím nghiên cứu

7

3.1


K ích th ước trung bình của nh ím ni tại Đăk Lăk

17

3.2

Sự khác nhau về hình thái trâm ở các phần cơ thể của nhím

19

3.3

Số đo một số nội quan của nhím trưởng thành

20

3.4

Theo dõi lượng thức ăn ngày và đêm của nhím

26

3.5

Khẩu phần thức ăn cho nhím ni tại hộ Hồng Xn Thanh

27

3.6


Khẩu phần thức ăn cho nhím ni tại hộ Ngơ Xn Thắng

27

3.7

khẩu phần thức ăn cho nhím ni tại hộ Trần Cơng H

28

3.8

Khẩu phần thức ăn cho nhím ni tại trung tâm giống Đăk Lắc

28

3.9

Khối lượng TB các chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn của nhím

29

3.10

Tuổi đẻ lần đầu thành cơng ở nhím ni

30

3.11


Tần số xuất hiện một số dấu hiệu động dục của nhím cái

31

3.12

Thời điểm giao phối của nhím ni ở hộ Hồng Xn Thanh

32

3.13

Khoảng cách giữa 2 lần giao phối ở đàn nhím hộ Hồng Xn
Thanh

32

3.14

Thời gian mang thai của nhím ni tại Đăk Lắc

33

3.15

Số trường hợp nhím đẻ ban ngày và đêm ( 2/2005 - 4/2007 )

34

3.16


Khoảng cách bình quân giữa hai lứa đẻ tại một số hộ ni

35

3.17

Số ngày nhím mẹ cho con bú ở một số hộ ni

36

3.18

Tăng trưởng khối lượng của nhím ni ở hộ Hồng Xn Thanh

37

3.19

Tăng trưởng khối lượng của nhím nuôi ở hộ Ngô Xuân Thắng

38

3.20

Tăng trưởng khối lượng của nhím ni ở hộ Trần Cơng H

38

3.21


Tăng trưởng khối lượng của nhím ni ở trung tâm giống Đăk Lắc

39

3.22

Khẩu phần thức ăn cơ bản cho nhím ni

45

3.23

Tỉ lệ cho thịt của nhím ni

51

3.24

Tổng hợp chi phí đầu tư và hiệu quả ni nhím hàng năm

52

Hình 3.1: Sơ đồ chuồng ni nhím

41


5


MỤC LỤC
Lời nói đầu
Danh mục các bảng biểu, hình ảnh
Mục lục

Trang

ĐẶT VẤN ĐỀ

7

Chƣơng 1 : TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

9

1.1 Tổng quan về họ nhím
1.2 Nghiên cứu nhím ở ngồi n ước
1.2 Tình hình nghiên cứu nhím ở Việt Nam

9
9
11

Chƣơng 2: MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

13

2.1 Mục tiêu nghiên cứu


13

2.1 Đối tượng nghiên cứu

13

2.3 Địa điểm và thời gian nghiên cứu

13

2.4 Nội dung nghiên cứu

15

2.4.1 Trong thiên nhiên

15

2.4.2 Trong điều kiện nuôi

15

2.5 Phương pháp nghiên cứu
2.5.1 Nghiên cứu trong thiên nhiên

15
15

2.5.2 Nghiên cứu trong điều kiện


16

2.5.3 Nghi ên cứu t ài li ệu

17

Chƣơng 3 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1 Đặc điểm sinh học, sinh thái của nhím đi ngắn

17
17

3.1.1 Đặc điểm hình thái ngồi

17

3.1.2 Số đo các cơ quan nội quan

20

3.1.3 Phân bố

21

3.1.4 Nơi sống

21

3.1.5 Tập tính


22

3.1.6 Đặc điểm ăn uống

24


6

3.1.7 Đặc điểm sinh sản

30

3.1.8 Đặc điểm sinh trưởng

30

3.2 Kỹ Thuật nhân ni nhím đi ngắn

39

3.2.1 Chuồng trại

39

3.2.2 Con giống

42

3.2.3 Phương tiện, thiết bị bắt nhím để theo dõi và vận chuyển


43

3.2.4 Thức ăn, khẩu phần ăn

44

3.2.5 Chăm sóc, quản lý theo dõi

45

3.2.6 Bệnh tật và biện pháp phòng, trị

49

3.3 Hiệu quả kinh tế và khả năng nhân ni nhím ở Đăk Lắc

50

3.3.1 Hiệu quả kinh tế

50

3.3.2 Khả năng nhân ni nhím tại Đăk Lắc

53

Chƣơng 4 : KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

55


4.1 Kết luận

55

4.1.1 Đặc điểm sinh học sinh thái

55

4.1.2 Kỹ thuật ni nhím

55

4.1.3 Hiệu quả kinh tế và khả năng ni nhím ở Đăk Lắc

56

4.2 Tồn tại

56

4.3 Khuyến nghị

56

Tài liệu tham khảo

57

Phụ lục


60


7

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tài nguyên thú rừng của tỉnh Đăk Lăk có tính đa dạng sinh học cao với nhiều
lồi thú kinh tế quan trọng. Thống kê ban đầu đã ghi nhận được ở Đăk Lăk có 93
lồi thú thuộc 26 họ và 16 bộ [18]. Tuy nhiên, rừng ở Đăk Lăk đã bị tàn phá nặng
nề trong nhiều thập kỷ qua do nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân sâu xa quan
trọng nhất là do dân số tăng nhanh. Vì nhu cầu mưu sinh, người ta đã phá rừng để
lấy gỗ và các lâm sản khác, lấy đất rừng để canh tác và trồng cây công nghiệp.
Rừng bị tàn phá đã thu hẹp nơi cư trú của động vật rừng. Cùng với nó là việc săn
bắn thú rừng lấy thịt và các sản phẩm, việc quản lý bảo vệ động vật rừng chưa tốt,
việc mua bán vận chuyển trái phép động vật rừng diễn ra khắp nơi, phong trào ăn
đặc sản thịt động vật rừng ngày một gia tăng. Hậu quả là tài nguyên thú rừng bị
giảm sút nghiêm trọng về số lượng chất lượng. Nhiều lồi có nguy cơ bị tuyệt
chủng trong tự nhiên như: hổ, voi, bò xám, bò tót, bị rừng, gấu, báo...
Nhím đi ngắn (Hystrix brachyura) là lồi thú có giá trị kinh tế cao. Theo
Lê Hiền Hào (1973) thịt nhím rất ngon, chất lượng cao. Mật nhím được nhân dân sử
dụng phổ biến như mật gấu để chữa bệnh đau mắt, đau lưng và xoa bóp chấn
thương. Dạ dày nhím được dùng để chữa bệnh đau dạ dày. Ở Trung Quốc, thịt, ruột
già, gan và cả phân nhím được dùng để chữa các bệnh phong nhiệt. Lơng nhím
được dùng trong sản xuất một số mặt hàng mỹ nghệ.
Ở Việt Nam, nhím đi ngắn chưa có tên trong Sách đỏ Việt Nam (2000) và
Danh mục các loài thực vật rừng quí hiếm ban hành kèm theo Nghị định
32/2006/NĐ-CP của Chính Phủ, nhưng trên thế giới nhím là lồi thú q hiếm đang
bị đe doạ ở mức VU- sẽ nguy cấp theo Danh lục đỏ IUCN (2006).
Do có giá trị kinh tế cao nên nhím đi ngắn ln là mục tiêu săn bắt ráo riết

của nhân dân các địa phương. Hiện nay, số lượng nhím trong tự nhiên đã giảm sút
nhiều về số lượng so với một hai chục năm trước đây, chỉ còn gặp những cá thể nhỏ
(dưới 12 kg), rất ít cịn gặp được những cá thể lớn như trước đây (20-25 kg). Do số
lượng trong tự nhiên cịn q ít, khơng đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của xã
hội, nên người dân ở nhiều địa phương trong cả nước và ở Đăk Lăk đã tự phát thuần


8

hố nhân ni nhím đi ngắn. Theo một số tài liệu, người đầu tiên ni nhím đi
ngắn thành cơng ở Việt Nam có lẽ là ơng Phạm Ngọc Tn ở ấp Bến Đình xã
Nhuận Đức huyện Củ Chi TP Hồ Chí Minh. Ơng bắt đầu ni từ năm 1988, đến nay
đã có trên 200 con bố mẹ. Một số người dân ở Sơn La bắt đầu ni nhím đi ngắn
từ khoảng năm 1992; người dân Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh bắt đầu ni từ 1996,..
Đến nay, việc ni nhím đã lan ra nhiều nơi nhiều địa phương khác: Bắc Giang, Lai
Châu, Hưng Yên, Hà Tây, Hà Nội, Ninh Bình, Bình Phước, Đồng Nai, Đak Lăk,
Đăk Nông, Lâm Đồng, Gia Lai,... Riêng ở Đăk Lăk người nuôi sớm nhất được cho
là ông Triệu Văn Vỵ ở thôn Kim châu xã Hoà Hiệp, Huyện Krơng Ana. Ơng bắt
đầu ni năm 1996, tuy nhiên đàn nhím của ơng khơng phát triển lắm và đến 2006
đã bán cho người khác.
Nhìn chung, việc ni nhím đi ngắn trên cả nước tuy đã có nhiều hộ thực
hiện, nhưng tỷ lệ ni thành cơng cịn rất ít, thất bại nhiều. Ngun nhân chính của
tình trạng này là do thiếu hiểu biết về các đặc điểm sinh học sinh thái, tập tính sống
của lồi nhím; thiếu các tài liệu tổng kết kinh nghiệm và phổ biến kỹ thuật ni.
Nhằm góp phần cải thiện tình hình ni nhím ở Đăk Lăk nói riêng và ở Việt Nam
nói chung, chúng tôi đã chọn thực hiện đề tài “ Nghiên cứu các đặc điểm sinh học
sinh thái và kỹ thuật nhân ni lồi nhím đi ngắn (Hystrix brachyura) tại
Đăk Lăk”. Chúng tơi hy vọng kết quả đề tài sẽ góp phần vào việc phát triển việc
ni nhím đi ngắn ở nước ta, giảm nguy cơ cho loài thú này trong tự nhiên, góp
phần cung cấp thịt nhím cho thị trường, tăng thu nhập và đem lại hiệu quả kinh tế

cho người ni, nhím có thể sẽ là con giống ni mới góp phần đa dạng hố cơ cấu
giống vật ni ở địa phương.


9

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Tổng quan về họ Nhím (Hystricidae)
Họ Nhím hay Họ Nhím cựu lục địa (Hystricidae) thuộc phân bộ Dạng nhím
(Hystricomorpha), bộ Gậm Nhấm (Rodentia). Theo hệ thống phân loại mới nhất
của Wilson et al (2005) thì họ Nhím (Hystricidae) có 3 giống và 11 lồi như sau:
Bộ Gậm nhấm - Rodentia
Phân bộ Hình nhím - Hystricomorpha
Họ Nhím - Hystricidae
Giống Atherurus
1. Đon châu phi - Atherurus africanus
2. Đon châu á - Atherurus macrourus
Giống Hystrix
3. Nhím bờm - Hystrix cristata
4. Nhím - Hystrix africaeaustralis
5. Nhím bờm ấn độ - Hystrix indica
6. Nhím đi ngắn - Hystrix brachyura
7. Nhím java - Hystrix javanica
8. Nhím borneo - Hystrix crassispinis
9. Nhím inđơnêxia - Hystrix pumila
10. Nhím sumatra - Hystrix sumatrae
Giống Trichys
11. Nhím đi dài - Trichys fasciculata
Thú họ Nhím có đặc điểm nổi bật nhất là cơ thể được bao phủ bởi các gai

trâm cứng, nhọn, sắc thay cho bộ lơng ở các lồi thú khác. Chiều dài các trâm có thể
tới 30-35cm. Nhím khơng thể phóng trâm gai vào kẻ thù, nhưng khi bị tấn cơng
nhím có thể quay mông lại, dựng đứng các trâm nhọn lên rồi chạy lùi lại hoặc đứng
yên chờ kẻ thù lao tới đâm phải trâm cứng. Các trâm dễ dàng rụng, đâm sâu vào cơ
thể kẻ thù và gây chết cho chúng.


10

Nhím có cơ thể to ngắn và mập, nặng tới gần 30 kg, chân ngắn, bàn chân có
5 ngón với các vuốt khoẻ. Nhím thích gậm nhấm, răng cửa lớn, cơ hàm khoẻ. Theo
Lekagul et al. (1973) mặc dù thức ăn chính của nhím là các loại củ, quả, vỏ cây
nhưng nhím cũng gặm xương động vật để điều chỉnh hàm răng và bổ sung canxi và
phốt pho cho cơ thể. Chúng đôi khi công xương động vật về hang, tích tụ thành
đống.
Sọ có phần trán và mũi phồng to, đặc biệt là ở giống Hystrix, mào chẩm lớn.
Hố trước mắt khá lớn cho các cơ nhai lớn đi qua. Các dãy răng khá song song với
nhau. Bầu nhĩ khá nhỏ và khơng có giá trị định loại. Chiều dài và tỷ lệ của các
xương mũi là đặc điểm định loại rất quan trọng. Các răng cửa khá lớn, có màu đỏ
hoặc vàng ở mặt trước. Răng cửa phát triển trong suốt cuộc đời. Răng trước hàm và
răng hàm có mặt nhai phẳng với nhiều gơ men răng phức tạp.
Giống Hystrix có các xương mũi dài và phồng, thường bắng ½ chiều dài
mũi-chẩm, ít nhất là 50 mm. Đi ngắn, ngắn hơn 20% chiều dài thân-đầu, múp
đi có túm lơng gai chun hố thành gai kêu (hình ống rỗng, phồng). Các gai
chuyên hoá cao và khá dài trên lưng. Giống Atherurus có xương mũi thường ngắn
hơn 30% chiều dài mũi-chẩm, không dài quá 30 mm. Đuôi khá dài, bằng 33-50%
chiều dài thân-đầu, có túm gai kêu ở múp đi, các gai biến dạng thành chuổi hạt
dài. Gai trên lưng kém phát triển.
Nhìn chung, các lồi nhím hoạt động về đêm hoặc lúc hồng hơn, trong điều
kiện ni chúng có thể hoạt động cả ban ngày. Nhím sống chủ yếu ở các hang ngầm

dưới đất do chúng tự đào hoặc sử dụng các hang có sẵn. Trong mỗi hang thường là
bố mẹ và các con sinh ra. Nhím cái có 2-3 đơi vú nằm ở bên hơng. Nhím sinh sản 12 lứa trong năm và mỗi lứa đẻ 1-5 con, thường là 2 con.

1.2 Những nghiên cứu về nhím ở ngồi nƣớc.
Các lồi nhím trên thế giới đã được phát hiện, phân loại và nghiên cứu từ khá
lâu. Một số loài nhím phân bố ở Đơng Nam Á như nhím đi ngắn, nhím bờm,
nhím đi chổi Á châu...Trong đó Nhím đi ngắn( Hystrix brachyura ) đã được
nhà động vật học người Thuỵ điển Carolus Linnaeus ( 1707-1778) phát hiện đầu


11

tiên năm 1758 ở Malacca Malaysia (ảnh 1), Nhím bờm (Hystrix Hodgsoni.Gray
1847) đã được nhà động vật học người Anh Geoge Robert Gray( 1808-1872) phát
hiện 1847. Nhím klos ( Acanthion klossi Thomas) đã được nhà động vật học người
Anh Thomas Bell FRS(1792- 1880) phát hiện.
Về phân loại nhím có các nghiên cứu của Morisson scott, Wilson(1993) “Mammal
Species of the World, A Taxonomic and Geographic Reference”, McKenna,
Malcolm C., and Susan K. Bell (1997) “Classification of Mammals: Above the
Species Level”...
Nghiên cứu về tập tính, đặc điểm sinh học của nhím có các tác giả như Nowak,
Ronald M.(1999)“Walker's Mammals of the World”, Macdonald, David (1984)
“The Encyclopedia of Mammals”, Corbet, G.B., and Hill, J.E.(1992)” The
mammals of the Indomalayan region”, Hole, Robert B. Jr.(2003) “A Checklist of the
Mammals of the World: Rodentia 3 (Hystricomorpha)”, Lekagul B. & J. A. Mc
Neely, (1988)” Mammals of Thailand”....
Riêng về nhím đi ngắn, hầu hết các nghiên cứu chỉ có một số ít thơng tin ở mức
độ phân loại, một số đặc điểm hình thái ngồi...Những đặc điểm về sinh sản, sinh
trưởng, phổ thức ăn, chế độ và khẩu phần ăn, kỹ thuật nhân nuôi... hầu như chưa
được nghiên cứu và đề cập đến

1.3 Tình hình nghiên cứu nhím ở Việt Nam
Họ Nhím nói chung và lồi nhím đi ngắn nói riêng cịn ít được nghiên cứu
ở Việt Nam. Cho đến nay các nghiên cứu mới chỉ tập trung vào xác định thành phần
lồi, vùng phân bố và tình trạng khai thác sử dụng ở các địa phương.
Đặng Huy Huỳnh và cs. (1994)[9], trong cơng trình “Danh lục thú
(Mammalia) Việt Nam” sử dụng hệ thống phân loại của Morrison-Scott trước đây
đã thống kê ở Việt Nam có 4 lồi thuộc họ Nhím là: đon (Atherurus macrourus),
nhím đi ngắn (Acanthion brachyurus), nhím klơs (Acanthion klossi) và nhím bờm
(Acanthion subcristatum). Tuy nhiên, dựa trên các kết quả nghiên cứu phân loại học
gần đây Wilson et al (2005) cho rằng cả 3 tên nhím nêu trên chỉ là đồng danh của


12

một lồi duy nhất là nhím đi ngắn (Hystrix brachyura). Như vậy, ở Việt Nam,
thuộc họ Nhím chỉ có 2 lồi là đon (Atherurus macrourus) và nhím đi ngắn
(Hystrix brachyura).
Về phân bố của nhím ở Việt Nam đã được nhiều tác giả đề cấp đến như Đào
Văn Tiến, Đặng Huy Huỳnh, Cao Văn Sung, Lê Vũ Khôi, Trần Hồng Việt, Nguyễn
Xuân Đặng, …. Hiện nay đã xác định được nhím đi ngắn có phân bố ở hầu hết
các vùng rừng núi của nước ta: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tun Quang,
Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Hồ Bình, Thanh Hố, Nghệ An, Hà Tỉnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Gia Lai, Đăk Lăk,
Lâm Đồng, Đồng Nai.
Nghiên cứu sâu hơn về đặc điểm sinh học sinh thái chỉ có một số ít cơng
trình như: “Thú kinh tế Miến Bắc Việt Nam” của Lê Hiền Hào (1973) [5], “Những
loài gậm nhấm ở Việt Nam” của Cao Văn Sung và cs (1980) [17], “Gậm nhấm
(Rodentia) Việt Nam” của Cao Văn Sung và Nguyễn Minh Tâm (đang in). Các
nghiên cứu đã cho thấy, nhím đi ngắn là loài thú sống ở rừng với các dạng sinh
cảnh khác nhau (rừng cây gỗ, rừng hỗn giao, trảng cây bụi,..). Nhím sống dưới đất

tự đào hang hoặc sử dụng các hang có sẵn, sống đơi (đơn thê) và theo nhóm gia
đình, kiếm ăn lúc hồng hơn và đêm. Nhím nhút nhát, trốn tránh kẻ thù thụ động (co
mình dương gai đe doạ), tuy nhiên, đôi khi cũng tấn công cắm gai vào kể thù.Thức
ăn gồm đa dạng các loài củ, rễ, quả và vỏ cây hoang dã và cây trồng. Nhím trưởng
thành sinh dục ở khoảng 1.5 – 2 năm tuổi, mỗi năm có 2 mùa sinh sản, mỗi lứa đẻ
khoảng 2-4 con.
Gần đây, xuất hiện một số tài liệu bàn về kỹ thuật ni nhím của Nguyễn
Lân Hùng (1997) [7], Nguyễn Lân Hùng và cs. (2005) [8], Phạm Nhật và Nguyễn
Xuân Đặng (2005) [15] và một số bài viết trên các Báo Tuổi trẻ, Báo Nông nghiệp,
Báo Nông thôn ngày nay, Báo Sài gịn giải phóng[13], [2], [3], [16], [24],…Các bài
viết đã nêu lên một số tình hình và kỹ thuật ni nhím theo kinh nghiệm của người
dân, một số địa chỉ ni nhím hiện nay. Mặc dù, cách thức nuôi rất khác nhau về
chuồng trại, thức ăn và chế độ chăm sóc, nhưng cho thấy là có thể ni được nhím,


13

do ít bệnh tật, dễ chăm sóc, thức ăn có thể tận dụng; ni nhím đem lại hiệu quả
kinh tế khá cao ở thời điểm hiện nay.
Hiện nay, ở Đăk Lăk việc ni nhím cịn rất ít và rất mới.Thống kê sơ bộ
mới chỉ có khoảng một hai chục hộ đang nuôi, hộ nhiều nhất là khoảng 20-30 con
trở lại. Nhìn chung chuồng trại, cách thức và kỹ thuật ni dưỡng tự phát rất khác
nhau, do người nuôi thiếu kinh nghiệm, thiếu tài liệu kỹ thuật nên hiệu quả và kết
quả thu được rất khác nhau.
CHƢƠNG 2

MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM,
THỜI GIAN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
 Tìm hiểu một số đặc điểm sinh học, sinh thái của lồi nhím đi ngắn, làm cơ sở

cho việc nhân nuôi chúng trong điều kiện nhân tạo.
 Đúc kết kinh nghiệm, bước đầu xây dựng kỹ thuật nhân ni lồi nhím đi
ngắn qui mơ hộ gia đình.
 Đánh giá tình trạng ni nhím ở địa phương và đánh giá hiệu quả kinh tế của
việc ni lồi thú này.
2.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là lồi nhím đuôi ngắn (Hystrix brachyura) trong tự
nhiên và trong điều kiện nuôi.
2.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ năm 2004 đến 2007 tại môi trường tự nhiên và
trong điều kiện nuôi.
+ Nghiên cứu trong tự nhiên: Đã tiến hành điều tra nghiên cứu tại các khu vực rừng
thuộc 5 đơn vị với tổng thời gian hoạt động trên hiện trường là 107 ngày (Bảng 1).


14

+ Trong điều kiện nuôi: Tiến hành theo dõi nghiên cứu tại cơ sở ni nhím của
Trung tâm Giống cây trồng, vật ni Đăk Lăk và 16 hộ ni nhím khác trong tỉnh
với tổng số nhím theo dõi là 193 cá thể (Bảng 2.1).
Bảng 2.1: Địa điểm, thời gian và số lƣợng mẫu nhím nghiên cứu

KBTTN Nam Ka, huyện Lăk

2004 - 2007

Tổng số
ngày
49


VQG Chư Yang Sinh, huyện Krông Bông

2006 - 2007

14

KBTTN EaSô, huyện Ea Kar

2005 - 2007

18

VQG Yok Đôn, huyện Buôn Đôn

2006 - 2007

12

Khu Rừng đặc dụng, huyện Krông Năng

2006 - 2007

14

Địa điểm trong thiên nhiên

Thời gian

Tổng cộng:


107
Số mẫu
nhím
12

Địa điểm trong điều kiện nuôi

Thời gian

Trung Tâm GCT&VN Đăk Lăk

2006 – 2007

Hộ Hồng Xn Thanh, Eakao, TP.BMT.

2004 – 2007

23

Hộ Ngơ Xn Thắng, H.Krông Buk.

2004 - 2007

30

Hộ Nguyễn Văn Tân, TP.BMT.

2004 - 2007

5


Hộ Trần Công Huê, 202 Y Wang, TP.BMT

2004 - 2007

14

Hộ Triệu Văn Vỵ, Hồ Hiệp, H. Krơng Ana.

2004 - 2006

13

Nguyễn Thị Hường, xã Ea Yông, H.KrôngPach.

2005-2007

13

Phùng Bá Long, xã Eaktur, Huyện Krơng Ana.

2006 – 2007

3

Trần Đình Dũng, Xã Hồ Thắng, TP. BMT

2006 – 2007

7


Đinh Tấn Khang, Phường Tân Lập, TP. BMT

2006 – 2007

5

Nguyễn Văn Cường, Khối 8, Phường Tân Tiến,

2006 – 2007

11

2005 – 2007

27

2006 – 2007

2

TP. BMT.
Ngô Đức Thạnh, Khối 4 thị trấn Kiến Đức,
huyện Đăk Lấp, Đăk Nơng.
Đồn Văn Báu, Xã Thuận Hạnh, H. Đăk Song,
Đăk Nông.


15


Đặng Văn Tĩnh, Xã Thuận Hạnh, H. Đăk Song,

2006 – 2007

2

2006 – 2007

3

Mai Xuân Y, Huyện Đăk Min , Đăk Nông.

2005 – 2006

9

Nguyễn Ngọc Hùng, Thôn Đăk Trung, xã Đăk

2005 – 2007

14

Đăk Nông.
Bùi Văn Trúc, Xã Thuận Hạnh, H. Đăk Song,
Đăk Nông.

Mạnh, Huyện Đăk Min , Đăk Nông.
Tổng cộng:

193


2.4. Nội dung nghiên cứu
2.4.1. Trong thiên nhiên
- Đặc điểm sinh cảnh nơi sống, hang tổ của nhím
- Thức ăn của nhím trong thiên nhiên
- Tập tính hoạt động của nhím: kiếm ăn, trốn tránh/tấn công kẻ thù,…
- Mùa sinh sản và số lượng con sinh ra trong các lứa.
2.4.2. Trong điều kiện ni
- Đặc điểm hình thái ngồi và nội quan của nhím
- Thành phần thức ăn trong điều kiện mi
- Nhu cầu khối lượng thức ăn trong điều kiện nuôi
- Tập tính hoạt động trong điều kiện ni
- Sinh sản và sinh trưởng của nhím ni
- Kỹ thuật ni: chuồng trại, con giống, chăm sóc, phịng chống bệnh dịch,…
- Hiệu quả kinh tế ni nhím
- Tiềm năng phát triển nghề ni nhím ở Đăk Lăk
2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.5.1.Nghiên cứu trong thiên nhiên
-

Phỏng vấn các cán bộ lâm nghiệp làm công tác quản lý bảo vệ rừng tại các khu
BTTN, vườn quốc gia; phỏng vấn các thợ săn, người săn bẫy thú rừng, người


16

dân sống ven rừng khu vực có nhím sinh sống...phỏng vấn về nơi sống, hang ổ,
tập tính hoạt động, mùa sinh sản, v.v...
-


Khảo sát thực địa tại các khu BTTN, VQG hoặc các lâm phần khác để mô tả
sinh cảnh ( nơi sống ) của nhím. Tìm và đào hang nhím để mơ tả cấu trúc hang.

2.5.2 Nghiên cứu nhím trong điều kiện nuôi
-

Quan sát để mô tả đặc điểm hình thái ngồi: các số đo thân- đầu, dài đi, cao
tai, cân trọng lượng cơ thể, phân loại và đo chiều dài các loại lơng, chụp ảnh
tồn thân và lơng.

-

Mổ nhím để mơ tả nội quan, cân và đo các nội quan: Thực quản, dạ dày, ruột
non, ruột già, ruột tịt, gan, phổi, tuyến tuỵ, thận, dịch hoàn...

- Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng:
+ Xác định các loại thức ăn của nhím: Cho nhím ăn thử các loại thức ăn để
xác định những loại nhím ưa thích nhất. Quan sát thức ăn của nhím ở các cơ sở ni
khác nhau.
+ Xác định lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày: Cân lượng thức ăn cấp cho
nhím trong ngày và lượng thức ăn nhím bỏ thừa trong ngày . Lượng thức ăn tiêu thụ
bằng lượng thức ăn cấp trừ đi lượng thức ăn thừa quy ra cho một cá thể. Thí nghiệm
này tiến hành trong 10 ngày liên tục vào các tháng 1, 4, 7, 10.
- Nghiên cứu sinh trưởng: Định kỳ cân và đo kích thước cơ thể nhím từ sơ sinh đến
thành thục sinh dục. Số cá thể cân càng nhiều càng tốt, trung bình 10 cá thể. Mơ tả
các biến đổi hình thái và màu sắc của nhím theo lứa tuổi.
- Nghiên cứu tập tính: Hàng ngày theo dõi mơ tả các dạng tập tính của nhím: cách
thức vận động đi lại , ngủ, nghỉ ngơi, chơi đùa.
- Nghiên cứu sinh sản: Theo dõi để xác định tuổi trưởng thành sinh dục của nhím
đực, nhím cái. Mơ tả các biểu hiện động dục, sự giao phối, mang thai và sinh con,

số con đẻ mỗi lứa, trọng lượng sơ sinh, cách thức chăm sóc con, thời gian ni con
bằng sữa...
- Nghiên cứu bệnh: Theo dõi phát hiện các bệnh, mô tả các biểu hiện lâm sàng,
phương pháp phòng và trị. Phỏng vấn kinh nghiệm của các cơ sở nuôi khác nhau.


17

- Nghiên cứu kỹ thuật nhân nuôi: Quan sát và tổng kết kinh nghiệm nuôi của các cơ
sở khác nhau về kỹ thuật làm chuồng, khẩu phần ăn, cách chăm sóc, phịng và trị
bệnh,…
2.5.3 Nghiên c ứu t ài li ệu
Tra cứu,tìm hiểu, gạn lọc và thu thập các thơng tin về nhím nói chung và
nhím đi ngắn nói riêng đã được đăng tải trên sách, báo, tạp chí, tài liệu, trên mạng
... Kế thừa các nghiên cứu về nhím cuả các tác giả đi trước

CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm sinh học, sinh thái của nhím đi ngắn
3.1.1. Đặc điểm hình thái ngồi
Nhím là lồi gặm nhấm lớn nhất ở Việt Nam. Nhím trưởng thành nặng trung
bình 9-15 kg, cũng có trường hợp gặp cá thể nặng đến 20 kg; dài thân-đầu trung
bình 600-900 mm, dài đuôi 85-140 mm, dài tai 25-40 mm, dài bàn chân sau 80-90
mm, vòng ngực 400-600 mm, vòng bụng 600-800 mm. Công thức răng: 1/1 0/0 1/1
3/3 x 2 = 20, nhím khơng có răng nanh, răng cửa rất dài (2-3 cm) và thường xuyên
phát triển, răng trước hàm và răng hàm có mắt nhai tù, nhiều gờ nếp.

Bảng 3.1 Kích thƣớc trung bình nhím ni ở Đăk Lăk.
Tuổi


Dài chi trƣớc ( cm )

Dài chi sau ( cm )

Dài thân ( cm )

Đực

Cái

Đực

Cái

Đực

Cái

1 tuần

2,4

2,3

2,3

2,2

15,8


15,7

2 tuần

3,1

3,0

2,9

2,8

21,2

21,1

3 tuần

3,8

3,6

3,5

3,4

27,1

25,6


1 tháng

4,9

4,8

4,6

4,4

33,9

32.7


18

3 tháng

6,6

6, 4

6,2

6,0

38,3

37,8


6 tháng

8,7

8,5

8,3

8,1

43,4

42,1

9 tháng

12,1

11,8

11,7

11,5

49,6

47,7

12 tháng


13,2

12,9

12,8

12,6

60,2

58,3

Nhím có hình dạng khá nặng nề, di chuyển hơi chậm chạp, mình trịn, đầu to,
mõm ngắn có 4 răng cửa dẹp và rất sắc. Mắt nhỏ, tai nhỏ, chân ngắn (4 chi ), hai chi
sau hơi ngắn hơn hai chi trước. Móng chân nhọn sắc dùng để bới rễ, củ cây rừng và
đào hang trú ẩn. Nhím có đặc điểm nổi bật khác hẳn các lồi thú khác, đó là nó có
bộ lơng biến thành gai hoặc trâm cứng nhọn (cịn gọi là lơng tiêm, lơng trâm, lơng
nhím...) bao phủ khắp trên thân, thường dựng đứng xù ra để tự vệ khi gặp kẻ thù.
Đặc biệt là lơng đi có hình dạng như cốc rỗng, khi khua vào nhau tạo ra âm thanh
để đoe doạ kẻ thù. Hình dạng nhím đực và cái trưởng thành rất giống nhau .
Lơng trâm của nhím trưởng thành hầu hết có màu đen-trắng, tuy nhiên cũng
có trường hợp cá biệt có màu trắng tuyền như ở trại nhím Tn – Hồ Củ chi TP.
HCM. Số lượng lơng trâm của một cá thể ước tính là từ 20.000 đến 30.000 chiếc.
Hình thái lơng trâm ở các phần khác nhau của thân không giống nhau (Bảng 3.2).
Trên lưng, nhất là ở nữa phần sau lơng trâm có hình trịn, nhọn, cứng, dài tới 20-25
cm, khúc đen, khúc trắng. Phía dưới bụng lơng trâm hình sợi cứng, đen sẩm. Sau
gáy có hàng trâm dài dựng ngược như cái mào. Các trâm ở múp đi có đầu phình
rỗng, màu trắng gọi là lơng chng vì khi gặp gió hoặc khi con vật di chuyển và
chạm với nhau tạo thành tiếng kêu đặc biệt.

Bình thường, lơng nhím nằm rạp xuống và chỉa ra phía sau. Nhưng khi bị
đoe doạ hoặc giận dữ, lơng được dựng lên ngay tức khắc. Con nhím dậm chân và
rung lắc các lông đuôi tạo ra các âm thanh đoe doạ kẻ thù. Nếu tiếp tục bị đoe doạ
và cùng đường, con nhím có thể lùi lại để đâm lơng vào kẻ thù, lơng có thể cắm vào
kẻ địch và rời, rụng ra.


19

Bảng 3.2 Sự khác nhau về hình thái trâm ở các phần cơ thể của nhím
Vị trí

Màu sắc

Chiều dài

Đặc điểm

( cm )

Trâm gáy

Trắng-Trắng đục

9-14

Trâm lưng dài

Trắng, có khoang đen


15-35

hơi mềm

dài 1/3 lông ở gốc.

Sợi mềm
Dài nhất trong các loại
trâm, thon nhỏ từ chân
lơng ra đầu chóp

Trâm lưng cứng Trắng, có khoang đen

12-17; 7-

Cứng, nhọn sắc, rỗng bên

( 3 loại kích cỡ ở đoạn giữa khoảng

12; 5-8

trong, hơi phình ở đoạn

xen nhau).

giữa; chiếm tỷ lệ nhiều

1/3 lông.

nhất, phủ hầu hết phần

thân phía trên.
Trâm bụng,

Đen nhạt- đen sẫm

4-7

Gai nhỏ và sợi nhỏ.

3 -7

Chóp

ngực, đầu và
hai bên cổ
Trâm đi hình Trắng- trắng đục
chng

hình

cốc

rỗng

ngược, dẹp; cọng sợi nhỏ;
trâm đuôi khua vào nhau
tạo ra âm thanh.

Khi tự vệ hoặc khi bị bắt, nhím có thể rụng nhiều lông, nhưng sau một thời
gian các lông mới lại mọc trở lại. Đã có nhiều lời đồn sai lệch là nhím có thể bắn

lơng, nhưng thật ra nhím khơng bắn được lơng mà chỉ có thể rụng, rời ra hoặc cắm
vào kẻ thù. Lơng nhím khơng có chất độc nhưng vi khuẩn trên lơng có thể gây
nhiễm trùng.
Bàn chân trước của nhím có 4 ngón, chân sau có 5 ngón. Kích thước bàn
chân nhím trưởng thành 5-7cm. Da chân con lớn có màu đen, con nhỏ có màu trắng
đục xen hồng. Ngón chân có móng rất sắc và khoẻ dùng đào bới. Dấu chân nhím


20

khi đi bình thường chỉ có các dấu ngón chân, khi nhím hoảng sợ chạy thì nén cả bàn
chân xuống.
3.1.2. Số đo các cơ quan nội quan
Qua giải phẩu 3 con nhím (2 nhím rừng, 1 nhím ni, chiều dài thân-đầu
trung bình là 0.6m, khối lượng thân trung bình là 9,8kg) đã thu được kết quả như ở
Bảng 3.3
Bảng 3.3 Số đo một số nội quan của nhím trƣởng thành
Cơ quan

Khối lƣợng

Chiều dài

Chỉ số*

Gan

240-260 g

0.0255


Dạ dày

220-250 g

0.0240

Tim

90-120 g

0.0107

Thận

50-70 g

0.0061

Phổi

160-180 g

0.0173

Ruột già

450-470 g

1,7- 2,2 m


3,25

Ruột non

200-240 g

3,0 – 4,0 m

5.8

Dương vật
Cuống họng

6-8 cm
14-16 cm

Ghi chú: Chỉ số được tình bằng khối lượng hoặc chiều dài của nội quan chia cho
khối lượng hoặc chiều dài thân-đầu của cá thể tương ứng.
Đáng lưu ý là ruột của nhím khá dài (ruột non trung bình 3,5 m, ruột già
trung bình 2,0 m). Schieck et al (1985) cho rằng kích thước của ruột già và ruột tịt
phản ánh chế độ thức ăn của động vật. Động vật ăn thức ăn nhiều xơ (thực vật) có
ruột già và ruột tịt lớn hơn và dài hơn so với động vật ăn thức ăn động vật. Nghiên
cứu của Nguyễn Xuân Đặng và cs. (1990) [4] cho thấy chỉ số ruột già (tỷ lệ chiều
dài ruột già so với chiều dài thân-đầu) của thú các loài cầy (thú ăn thịt là chủ yếu) là
0,34-0,43. Ở nhím chỉ số ruột già là 3,25 lớn rất nhiều so với chỉ số ruột già của thú
ăn thịt, thể hiện sự thích nghi của nhím đối chế độ ăn tạp với thức ăn thực vật là chủ
yếu.



21

3.1.3 Phân bố
Theo các tài liệu của Lê Hiền Hào (1973) [5]; Cao Văn Sung và cs., (1980)
[17], Đặng Huy Huỳnh và cs., (1994) [9], Cao Văn Sung và cs.(2007), lồi nhím

đi ngắn có ở một số nước châu Á như: Nêpan, Miến điện, Thái Lan, Lào,
Campuchia, Việt Nam, Trung Quốc, Singapore... Ở Việt Nam, nhím là lồi thú phổ
biến gặp ở các địa phương thuộc vùng núi và trung du như Cao Bằng, Bắc Kạn,
Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Hồ Bình, Thanh Hố,
Nghệ An, Hà Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Đà
Nẵng, Khánh Hoà, Gia Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng, Đồng Nai.
Ở Đăk Lăk, theo nghiên cứu của chúng tơi nhím gặp ở hầu hết các địa
phương trong tỉnh như các huyện: Lăk, Krông bông, Ea Kar, Mdrăc, Buôn Đôn, Ea
Soup, Krơng Ana, Ea Hleo, Krơng Buk.
3.1.4. Nơi sống
Nhím cư trú ở các dạng rừng khác nhau trên núi đất hoặc trong các thung
lũng của núi đá. Đặc biệt, hay gặp nhím ở các khu rừng cây gỗ xen lẫn lồ ô tre nứa,
hoặc các trảng cây bụi nơi có nương rẫy trồng các loại củ quả, hoa màu. Nhím
thường ở nơi có địa hình đồi núi thấp, thoai thoải, cũng gặp nhím ở nương rẫy bỏ
hoang, rừng tái sinh sau nương rẫy và nghĩa địa của đồng bào thiểu số Êđê, Mnơng
nơi có tục cúng thức ăn cho người chết.
Trong tự nhiên nhím ẩn nấp trong hang do chúng tự đào hoặc sử dụng hang
của lồi khác. Nhím cũng đơi khi ở trong các bụi rậm, kẽ đá, hốc đá, hốc cây...
Chúng tơi đã quan sát một số hang nhím trong thiên nhiên và nhận thấy hang nhím
có cấu tạo khá đơn giản. Hang rộng khoảng 40-50 cm, sâu khoảng 0,3 – 1,0 m,
thường đào vào ụ đất, tổ mối, gốc cây, ngang các vách dốc thoai thoải. Hang thường
có vài nhánh ngóc nghách để dễ tẩu thốt khi bị đào bắt. Tổng chiều dài của hang có
thể tới 10-15 m. Mỗi hang thường có 1 cặp nhím kết đơi trong mùa sinh sản hoặc
cả 1 bầy gia đình 5-7 con.



22

3.1.5. Tập tính
 Hoạt động trong thiên nhiên
Trong thiên nhiên nhím sống thành đơi hoặc gia đình, đơi khi cũng sống riêng lẻ.
Nhím hoạt động về đêm, thường từ 21 giờ đến 3-4 giờ sáng, tuy nhiên thời gian
hoạt động cịn phụ thuộc với tuần trăng, độ an tồn của vùng sống. Nếu an tồn
nhím có thể hoạt động sớm hơn. Khi hoạt động nhím đi lại chậm chạp, lơng đi va
vào nhau tạo thành tiếng kêu như chng. Nhím thường đi theo lối mịn, khi gặp trở
ngại thường khơng dám vượt qua mà tìm cách đi vịng. Trong q trình hoạt động
nếu gặp kẻ thù nhím thường lẫn tránh, không chủ động tấn công, nhưng khi gặp kẻ
thú tấn cơng nhím tự vệ bằng cách giấu mặt xuống đất, xù lông lên, giậm chân và
khua lông đuôi tạo ra âm thanh khị khịt để đoe doạ xua đuổi kẻ thù. Theo Lê Hiền
Hào (1973) [5], trong trường hợp bị kẻ thù đuổi riết, nhìm chuyển sang thế tấn cơng
khá quyết liệt. Lúc đó cịn vật vừa chạy vừa xù bộ lông gai tua tủa mở mặt lưng, và
bằng những bước giật lùi bất ngờ nó xơ mạnh cá người vào đối phương, một số lông
gai tụt ra cắm vào đối phương, làm đối phương phải bỏ chạy.
 Tiếp xúc với người
Nhím hoang dã rất nhút nhát, khi bị dính bẫy thường lồng lộn tìm cách tẩu thốt
và thường tự cắn đứt chi trước để thốt khỏi thịng lọng bẫy. Khi được đem về
chuồng để ni, nhím thường chạy trốn và đôi khi đâm thẳng đầu vào tường dẫn
đến tử vong. Thấy người là nhím dựng lơng, tỏ ra e dè, sợ sệt, tìm cách rúc đầu vào
chỗ khuất. Vì vậy, ban đầu khi mới đem nhím rừng về ni, phải để nó n tĩnh và
che kín chuồng lại. Tốt hơn là thả nó ở chung với một con nhím nhà khác giới hay
nhím đã thuần hố, dần dần nó sẽ trở nên dạn dĩ hơn.
Nhím đã thuần hố, ni lâu hoặc nhím ni từ thế hệ F1 trở đi tỏ ra khá dạn dĩ
và tiếp xúc thân thiện với người ni. Ở Sơn La, có những con rất quen với người
ni, chủ nó có thể bồng bế nhím đi chơi và có hộ thả nhím rong ngồi vườn như

chó, gà, heo.


23

 Quan hệ bầy đàn
+ Nhím đực và nhím đực: Nhím đực khác bầy thả vào cùng nhau sẽ đánh
nhau và cắn chết nhau. Tại các hộ ni nhím ở Đăk Lăk đã xảy ra các trường hợp
này do không phân biệt rõ giới tính. Nhím đực thường đánh cắn nhau rất dữ dội dẫn
đến tử vong. Nhím dùng răng cửa cắn vào đầu, mặt, hơng của đối thủ; có lúc dùng
đầu húc đối thủ văng lên rớt ra xa hoặc lao đầu đâm vào đối thủ.
Nhím đực trong đàn thường có tính bảo vệ bầy đàn và lãnh thổ rất cao, khi
có một con đực khác xuất hiện, nó thường chiến đấu cho đến khi có một con bị chết
hoặc được mang đi nơi khác. Khi có người lạ đến gần chuồng, nhím đực thường xù
lơng, rung đi và dậm chân để đoe doạ với mục đích bảo vệ bầy đàn.
Ngay trong đàn, khi con đực con 4-5 tháng tuổi là con đực đầu đàn cũng
đánh cắn xua đuổi. Có lẽ bản năng này cũng có ở một số lồi khác, để giữ vi trí độc
tơn, con đực đầu đàn thường cắn chết những con đực con. Ở hộ Triệu Văn Vỵ, do
nhím được ni chung với nhau từ 1997 đến 2006, chỉ tồn tại một số con non cái
được sinh ra, còn các con đực non khác bị con đực đầu đàn cắn chết.
+ Nhím đực và nhím cái: Việc thả chung ghép đơi dễ dàng, ít xảy ra đánh nhau,
dù có một con là nhím hoang dã mới bắt về ni. Ban đầu thả chung, chúng cịn có
vẻ xa lạ và có thể gây gổ, nhưng sau một vài ngày là chúng trở nên thân thiện với
nhau.
+ Nhím bố mẹ và nhím con: Nhím mẹ này thường cắn con con của nhím khác, vì
vậy khi nhím sinh con cần phải tách riêng ra và chân tường chuồng ni cần phải
xây, che kín để nhím con khơng chạy sang chuồng khác. Nhím mẹ khi sinh và ni
nhím con, nếu đẻ 2-3 con và do thiếu chất dinh dưỡng khơng đủ sữa, nó có thể cắn
chết bớt đi 1 con con. Khi con con trên một tháng tuổi, nhím mẹ động dục lại và
thường chối bỏ đánh đuổi con con, có trường hợp cắn con tử vong. Nhím con cách

nhau một vài tháng tuổi, có thể thả chung một chuồng mà khơng đánh cắn nhau.
Nhím bố chỉ chấp nhận con ruột của nó (dưới 1-2 tháng tuổi) và sẽ cắn chết
con của con nhím khác. Nhím bố săn sóc con của nó rất khéo, nó liếm lơng chơi đùa
và che chắn bảo vệ con con.


24

 Ngủ và nghỉ ngơi
Nhím hoang dã là lồi ăn đêm, ban ngày ẩn nấp và ngủ trong hang, hốc cây
hoặc bụi rậm. Đêm xuống, khi tối trời và yên tĩnh mới ra khỏi hang đi kiếm ăn,
phạm vi hoạt động có thể đến 3-4 km, thường đi về trên cùng lối đi quen thuộc.
Trong điều kiện nuôi, người nuôi thường cho nhím ăn vào ban ngày (buổi
sáng và chiều) nhím cũng ra ăn, nhưng sau đó chui vào tổ nghỉ ngơi hoặc ngủ ngay,
nhím hoạt động hầu như trong suốt đêm. Khi nghỉ ngơi, nhím nằm úp dựa vào nhau,
hai chân trước duỗi ra, hai chi sau duỗi sang một bên. Khi ngủ, nhím nằm nghiêng
duỗi bốn chi sang một bên, có con ngủ say chổng cả bốn chi lên.
Chúng tôi thử nghiệm chỉ để thức ăn ban ngày, ban đêm cất đi thì thấy nhím
cũng chuyển sang ăn ban ngày. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngằn thì thấy có
sức khoẻ của nhím có biểu hiện khơng tốt, sinh trưởng kém.
 Chơi đùa
Nhím cũng hay đùa nghịch và liếm láp lẫn nhau, nhất là nhím trên 1 tháng
tuổi thường xuyên đùa giỡn với nhau và thích sống bầy đàn. Nhím ít gây gỗ đánh
nhau vì tranh giành thức ăn.
3.1.6. Đặc điểm ăn uống
 Thức ăn
Nhím là lồi gặm nhấm, thức ăn chủ yếu là thực vật, gồm các loại rễ, củ, quả,
hạt, của các loài cây hoang dã và cây trồng, măng tre nứa. Nhím cũng ăn một số
động vật nhỏ như giun, côn trùng, xác động vật bị thối nhưng với tỷ lệ rất thấp. Đôi
khi nhím cũng gặm nhấm xương, các mẩu gỗ để đáp ứng nhu cầu chất khoáng,

canxi, phốt pho cho cơ thể và sự phát triển liên tục của răng cửa.
Theo Lê Hiền Hào (1973) [5] và Cao Văn Sung và cs. (1980) [17], thức ăn
của nhím trong thiên nhiên rất đa dạng, gồm trên 50 loài cây hoang dã và cây trồng
khác nhau. Các loài rễ-củ như củ mài, củ đắng (Dioscorea sp.), sa nhân (Alpinia
globosa), bán hạ (Arisaema dracontium), ráy, củ dong, riềng dại, chuối rừng, đu


25

đủ, xoan và nhiều loài hoà thảo. Các loại quả chín rụng trên mặt đất như vả, sung,
bứa, dọc, muỗm, sấu, dâu da đất, me rừng, vải rừng, trám, gắm, giẻ gai, chay, ổi, đu
đủ, chuối,…Các loại lương thực trồng ven rừng như các loại đậu, lạc, khoai lang,
khoai sọ, khoai mơn, củ từ, các loại quả họ Bầu bí (Cucurbitaceae), dứa, các loại
rau cải, cà chua, cà rốt,…
Quan quan sát và thử nghiệm tại các cơ sở ni nhím, chúng tơi cũng ghi
nhận được nhím ăn khoảng trên 84 loại thức ăn khác nhau trong điều kiện nuôi, bao
gồm:
-

Củ, quả: sắn, khoai lang, khoai tây, khoai mỡ, khoai sọ, khoai tím, khoai nước,
củ từ, cà rốt, su hào, su su, bí đỏ, bí chanh, bí đao, dưa hấu, dưa leo, dưa gang,
dưa bở, củ chuối, củ môn ngứa, củ dong riềng, củ bình tinh, củ sắn dây, chuối,
đu đủ, ổi, mít, lê, cam, bưởi, nho, táo, hồng, hồng xiêm, lê ki ma, sơ ri, mận, trái
roi, mía, thanh long, vải, xoài, nhãn, khế, dâu gia, mãng cầu, sung, quả mít
non,...

-

Các loại hạt có nhiều tinh dầu, tinh bột như: ngô, lúa gạo, đậu tương, đậu phông,
đậu xanh, hạt kê, hạt hướng dương, hạt dẻ, hạt quả cày, quả dừa..


-

Các loại mầm mộng như: giá đậu, mầm lúa, mầm khoai

-

Thân thực vật như: ngô, chuối, khoai môn

-

Rễ cây : Rễ cau, rễ dừa

-

Rau, lá: rau muống, rau khoai lang, bắp cải, rau cải, bắp sú, rau mồng tơi, sà
lách, lá mơn ngứa, lá đu đủ, rau dền, lá bầu bí, lá dâu, lá keo tai tượng, lá keo
dậu, cỏ voi, cỏ ghi nê, cỏ ruzi...

-

Thức ăn khác: cơm, cám tổng hợp nuôi gà,heo, thịt lợn luộc.
Tuy ăn thức ăn đa dạng nhưng người ni thường cho nhím ăn những loại

thức ăn rẻ dễ kiếm, dễ dự trữ như: rau muống, rau khoai lang, mơn, bí đỏ, củ sắn, củ
khoai lang, củ chuối, bắp hạt, hạt mít, đậu tương, đậu xanh..và các loại trái cây
trong vườn như : ổi, mít, chuối, bơ, mận, dừa...
 Tập tính ăn



×