Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Phuong Thuoc Quy cua nguoi Viet Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.91 KB, 28 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Phương Thuốc Quý của người Việt Nam Bài Thuốc "Ngự Tửu Minh Mạng Thang". Đám cưới vua Hàm Nghi Toa thuốc này truyền tụng từ lâu ở Huế, được đồn là do vài vị ngự y chép được. Trong sách Nguyễn triều cố sự ; Huyền thoại về Danh lam xứ Huế (1996), tác giả Bửu Kế chép ra hai bài thuốc vua Minh Mạng như sau theo tài liệu của Lương Y Tuệ Tâm: I. Nhất dạ ngũ giao Thành phần: 1 - Nhục thung dung 12g 2 - Táo nhân 8g 3 - Xuyên Qui 20g 4 - Cốt toái bổ 8g 5 - Cam cúc hoa 12g 6 - Xuyên ngưu tất 8g 7 - Nhị Hồng sâm 20g 8 - Chích kỳ 8g 9 - Sanh địa 12g 10 - Thạch hộc 12g 11 - Xuyên khung 12g 12 - Xuyên tục đoạn 8g 13 - Xuyên Đỗ trọng 8g 14 - Quảng bì 8g 15 - Cam Kỷ tử 20g 16 - Đảng sâm 10g.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> 17 - Thục địa 20g 18 - Đan sâm 12 g 19 - Đại táo 10 quả 20 - Đường phèn 300 g (Toa này có người nói là „Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử“ nghĩa là có một lần làm thụ thai... song sinh!!) Cách ngâm: Đường phèn để riêng, 19 vị thuốc trên đem ngâm với 3 lít rượu nếp ngon trong 5 ngày đêm. ngày thứ sáu, nấu nửa lít nước sôi với 300 g đường phèn cho tan ra, để nguội, rồi đổ vô thẩu, trộn đều đến ngày thứ 10 thì đem ra dùng. Ngày 3 lần sáng, trưa , tối, mỗi lần 1 ly trà. Dùng liên tục. II. Nhất dạ lục giao Thành phần: 1-Thục địa 40g 2- Đào nhân 20g 3-Sa sâm 20g 4- Bạch truật 12g 5 Vân qui 12g 6- Phòng phong 12g 7- Bạch thược 12g 8- Trần bì 12g 9-Xuyên khung 12g 10- Cam thảo 12g 11- Thục linh 12g 12- Nhục thung dung 12g 13- Tần giao 8g 14-Tục đoạn 8g 15- Mộc qua 8g 16- Kỷ tử 20g 17-Thường truật 8g 18-Độc hoạt 8g 19- Đỗ trọng 8g 20- Đại hồi 4g 21- Nhục quế 4g 22- Cát tâm sâm 20g 23- Cúc hoa 12g 24- Đại táo 10 quả Cách ngâm: 24 vị thuốc trên ngâm với hai lít rưỡi rượu tốt trong vòng 7 ngày. Lấy 150 g đường phèn nấu với một xị nước sôi cho tan, để nguội rồi đổ vô keo rượu thuốc, trộn đều, đến ngày thứ 10 đem dùng dần. Ngày 3 lần, mỗi lần 1 ly nhỏ, sáng, trưa , chiều trước bữa ăn. Bã thuốc còn lại ngâm nước hai với một lít rưỡi.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> rượu ngon- một tháng sau dùng tiếp. Chủ trị: Cả hai bài trên có tác dụng đại bổ thận, bồi bổ thần kinh, gia tăng khí huyết, tăng cường sinh lực, mạnh gân cốt, bán thân bất toại, dương sự kém, tăng tuổi thọ. Vài nhận xét của người viết Tôi mạn phép có vài nhận xét sau: a- Trong hai bài thuốc, về cân lượng người ta dùng đơn vị Gramme (g). Ngày xưa ở Trung quốc dùng cân (chin), lượng (liang), phân (fen). Nhưng ngay bây giờ, ở Trung quốc, người ta dùng những hệ thống khác nhau về cân lượng như 16 lượng, 12 lượng, 10 lượng; thậm chí ở các vùng quê hẻo lánh, người dân dùng hệ thống. 18 lượng, 20 lượng và 24 lượng. Những ấn định về đo lường trong nhiều triều đại đã làm cho vấn đề cực kỳ phức tạp. Kể từ năm 1979, miền Hoa lục đã chuyển theo hệ thống thập phân (metric system) thay vì là hệ thống cân lượng, nên trong nhiều sách thuốc in tại Hoa Lục , hệ thống trọng lượng được thống nhất như sau, để dễ bề tính toán: 1 lượng = 30 g (hiện nay chính xác hơn là 31 .25 g) 1 tiền = 3g 1 phân = 0.3g Vậy về phân lượng trong 2 toa thuốc Minh Mạng thang trên, ta không rõ lương y Việt Nam đã dựa vào toa nguyên gốc mà đổi ra gờ ram hay phỏng chừng đổi theo cách thực dụng mới cho tiện việc cân khi mua thuốc. b- Trong toa Nhất dạ ngũ giao, những vị thuốc bắt buộc phải kén chọn theo nguồn gốc sản xuất, vì các tên thuốc có kèm tên vùng thổ sản như Tứ Xuyên, Cam túc, vùng Lưỡng Quảng, ví dụ chẳng hạn như phải đòi hỏi thuốc từ Tứ Xuyên như Đương Qui, Ngưu Tất, Tục đoạn, Đỗ trọng, Xuyên khung. Trong khi trong toa Nhất nhật lục giao, thì chỉ có Vân Qui và Xuyên Khung là gốc Vân Nam và Tứ Xuyên, còn những vị Tục đoạn, Đỗ trọng, Kỷ tử thì không nói rõ từ ở đâu c- Điều này rất quan trọng là phân lượng những thành phần kê ra trong một toa thuốc Bắc phải dựa trên tình trạng của mỗi bệnh nhân như thể chất yếu hay khỏe, bịnh trạng nặng hay nhẹ, bệnh tình mới hay lâu..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Thành ra hai bài thuốc kê trên không phải là loại “one size fits all”. Do đó, với tư cách người biên khảo vô tư nhưng rất thận trọng về ý thức trách nhiệm, tôi khuyến cáo bạn đọc không thể đơn phương quyết định áp dụng sự tự điều trị cho cá nhân mình mà không tham khảo những vị lương y có thẩm quyền chuyên nghiệp, nhất là những nữ bệnh nhân mang thai, hay những người có chứng huyết áp cao hay những rối loạn bệnh lý hiểm nghèo khác. Một vị thuốc tuy có vẻ hiền lành nào cũng có thể có những phó tác- dụng bất ngờ nhất là thuốc Bắc chưa được kiểm nghiệm như thuốc hiện đại trước khi bán ở thị trường. d- Một điều thứ hai tôi muốn nêu ra về công hiệu của những ngự tửu. Trường hợp của Minh Mạng thang với những tên “Nhất dạ ngũ giao” hay “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” có tính cách khoa trương huyền thoại chăng? Ta hãy thử duyệt lại số con cái của vua chúa nhà Nguyễn Chín đời chúa là: Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1525-1613) có 12 con: 10 trai và 2 gái Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635) có 15 con: 11 trai và 4 gái Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1601-1648) có 4 con: 3 trai và 1 gái Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1620-1687) có 9 con: 6 trai và 3 gái. Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái (1650-1691) có 10 con: 5 trai và 5 gái Chúa Minh vương (Quốc chúa) Nguyễn Phúc Chu* (16751725) có 42 con: 38 trai và 4 gái Chúa Ninh vương Nguyễn Phúc Thụ (1697-1738) có 9 con: 3 trai và 6 gái Chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765) có 30 con: 18 trai và 12 gái Chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần (1753-1777) có một gái [* Chúa Minh vương (Quốc chúa ), theo nhiều sử sách có đến 146 con!] Nhưng theo Richard Orband trong Les tombeaux des Nguyễn(1914) và Nguyễn Phúc tộc thế phả (1995) thì ghi là 42.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> con Mười ba đời vua là: Gia long (1762-1819) có 31 con :13 trai và 18 gái Minh Mạng (1791-1840) có 142 con: 78 trai và 64 gái Thiệu trị (1807-1847) có 64 con: 29 trai và 35 gái Tự Đức (1829-1883) không có con tuy nhiều vợ Dục Đức (1853- 1883) có 19 con: 11 trai và 8 con gái chết vì bị giam đói Hiệp Hòa (1847-1883) có 17 con: 11 trai và 6 gái chết vì bị ép uống thuốc độc Kiến Phúc (1869-1884) chưa có vợ con , chết bí mật Hàm Nghi (1871- 1943) một vợ, có 3 con: 1 trai và 2 gái Đồng Khánh (1864-1889) có 5 vợ, 10 con: 6 trai và 4 gái Thành Thái (1878-1954) nhiều vợ, có 45 con: 19 trai và 26 gái** Duy Tân (1900-1945) có 2 đời vợ , có 3 trai và 2 gái Khải Định (1885-1925) có 1 trai Bảo Đại (1913-1997) có 5 con: 2 trai và 3 gái [** Riêng Vua Thành Thái là một người phát dục rất sớm. Số con của ông còn rơi rớt rất nhiều mà thế phả nhà Nguyễn chưa kiểm tra được. Cung tần chưa đủ cho ngài gần gũi mà còn muốn vi hành ra ngoài nên mới có câu: Kim luông con gái mỹ miều, Trẫm thương, trẫm nhớ trẫm liều, trẫm đi!] Duyệt qua danh sách trên, ta thấy có hai đỉnh cao về con số đông con: - Đỉnh cao thứ nhất trong đời các chúa với Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu và Võ vương Nguyễn Phúc Khoát ứng vào giai đoạn mà Chúa Nguyễn ở Nam hà tuyên bố xác định vương quyền độc lập chống lại vua Lê chúa Trịnh Bắc hà bằng sự dùng vương ấn và lập sẵn kinh đô ở Thuận Hóa. - Đỉnh cao thứ hai trong đời các vua với vua Minh Mạng ứng với giai đoạn tuyên xưng đế quyền tuyệt đối với sự ban bố bài Đế Hệ thi 20 chữ trong tham vọng con cháu của ông sẽ làm vua trong 20 đời nữa. Chính ý niệm xác định Vương quyền và Đế quyền phải chăng tạo ra nhu cầu sinh sản nhiều tử tức hậu duệ. Và “bộ máy đẻ” của nhà Nguyễn là hệ thống cung tần mỹ nữ. Đời Võ vương, vợ lớn nhỏ của chúa không gọi là Chánh hay.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Thứ phu nhân như bá tính mà đổi ra gọi vợ cả là Tả hành lang và vợ thứ là Hữu hành lang, con cái đẻ ra sợ chuyện ma quỉ bắt (nạn hữu sanh vô dưỡng ) nên Chúa mới đặt ra tục gọi các con trai là Mệ, Mụ. Trong cung cấm nhà Nguyễn, có chín bậc gọi các bà vợ vua từ cao đến thấp gọi là Cửu giai. Vua nhà Nguyễn không phong vợ lớn là Hoàng Hậu (trừ vua Bảo Đại sau này) vì sợ nạn quốc thích chuyên quyền như các triều Lý, Trần , tước hiệu Hoàng Hậu chỉ phong sau khi chết. Cửu giai là: Nhất giai Phi Nhị giai Phi Tam giai Tân Tứ giai Tân Ngũ giai Tiếp Dư Lục giai Tiếp Dư Thất giai Quý Nhân Bát giai Mỹ Nhân Cửu giai Tài Nhân và cuối cùng là Tài Nhân vị nhập giai (nghĩa là chưa vô ngạch mà chuẩn bị thôi, như chức Chuẩn Úy của quân đội) Trong thế phả Nguyễn Phúc tộc, tôi thấy một bà Cung Nga có lẽ là cung nữ chưa vô ngạch Cửu giai! Chính vì hệ thống phi tần mỹ nữ đã là cho những ông ngự y phải tìm những thang thuốc bổ thận cho vua chúa và những toa thuốc dưỡng thai cho các vợ vua khi mang bầu, như thế làm gì không đông con. Thức ăn ngự thiện đương nhiên gồm những thứ bổ béo mà bá tính cung tiến.Vua Minh Mạng chỉ sống đến 50 tuổi vì nghe đâu chết vì té ngựa, thế mà đã có 142 con, nếu vua thọ thêm 20 năm nữa, con cái trực hệ còn đông đến đâu. Hệ của Minh Mạng là hệ nhì chánh (hệ nhứt chánh là hệ hoàng tử Cảnh), là hệ đông nhất gồm 56 phòng và phái nam đươc 1800 người. Theo tôi những cái tên Nhất dạ Ngũ giao hay Lục giao của Minh Mạng thang là những cái tên đời sau bịa ra cho thần kỳ, chứ mỗi khi một cung phi nào được vua vời tới long sàng thì tên tuổi và ngày tháng ấy đều được ghi chép cẩn thận để sau này còn chẩn đoán thai kỳ và xác nhận phụ hệ. Những chuyện về: Cái đêm hôm ấy đêm gì..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Bóng dương trùng bóng trà mi chập chùng là chuyện thâm cung bí sử, ai mà rõ “ ngũ giao” hay “ lục giao”. Trong đống văn khố chứa trong Tàng thơ lâu , giả thử còn lưu lại những y án hay phương dược của các ngự y dâng lên vua, đâu là tài liệu xác nhận rằng vào một đêm nào đó có 5 bà phi trong bụng tiếp nhận “ long chủng” qua lần ân ái với vua và tên những hoàng nam hay hoàng nữ đó là ai? Dựa vào kiến thức y học, câu chuyện “lục giao sanh ngũ tử “ có lẽ là ngoa ngôn hay phóng đại. Chỉ ở trong thần thoại Hy lạp, mới có thần Hercule trong một đêm gần ... 50 cô gái đã làm thụ thai 49 cô. Dẫu sao, xét về số con của vua Minh Mạng thì hậu thế phải công nhận ông thuộc vào loại có khả năng tính dục tuyệt luân. Tính theo mỗi lần giao cấu chỉ bắn tinh khí ra khoảng 2 phân khối rưỡi đến 3 là cùng sau nhiều ngày kiêng giao cấu, mà muốn làm thụ thai, mỗi phân khối tinh khối phải chứa 100 triệu tinh trùng và số tinh trùng quái dị phải dưới 20 %. Khối lượng và sự đậm đặc của tinh khí thường giảm xuống mau chóng sau nhiều lần giao cấu liên tục. Như vậy trong một đêm 5 lần 6 lượt tính giao thường không phải sinh con mà sinh ra .... bắn súng nước hay bắn khói! Theo sử sách, hằng đêm, vua thức khuya để coi chương sớ từ các phiên trấn gửi về đến canh ba (11 giờ khuya) mới đi ngủ. Hoạt động chăn gối về đêm hăng như thế mà ban ngày vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết mệt chứng tỏ Minh Mạng là một người có một “thể chất tiên thiên “ bẩm sinh cường tráng. Những toa thuốc mà vua dùng chỉ là trợ lực cho đường sinh lý chứ không phải là chủ trị quyết định. Xem trường hợp vua Tự Đức (1847- 1883) thể chất tiên thiên bất túc và lúc mới lớn bị đậu mùa, dù là vua có nhiều vợ và được các ngự y chữa trị vẫn không có con. Nhìn vào thành phần những món thuốc trong hai toa Minh Mạng thang nói trên, tôi thấy toàn là những vị bổ dược mà tiệm thuốc bắc nào cũng có và hiệu lực của chúng theo y lý được coi là tư âm bổ dương, tăng cường tinh khí, nâng đỡ thể trạng chứ không phải là những thức khích hứng nhất thời làm cương cử ngọc hành hay những vật liệu chế từng những tạng phủ hay bộ phận của những thú vật nổi tiếng mạnh về sinh lý. Thành ra Minh Mạng thang là một loại bổ dược chống mệt mỏi tổng quát, chứ không giống như những viên thuốc hứng dục (aphrodisiac) như viên Okasa dạo nào của Pháp chứa.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Testostérone và Yohimbine, Cantharidine hay những viên Viagra hiện nay chỉ có tác dụng cục bộ làm cương cử ngọc hành. Nhiều y sĩ cho rằng sự mệt mỏi thường là nguyên nhân làm giảm hứng thú khi ân ái. Vua Minh Mạng vốn là một người có thực lực tính dục quán chúng do bẩm sinh nên vấn đề dùng thuốc bổ là một sự trợ lực. Nếu phàm nhân tục tử vốn liếng chẳng bao nhiêu không biết tự lượng sức mình, mỏi gối chồn chân mà cứ dùng thuốc khích hứng để tiếp tục trèo thì quả là tai hại! Nhận định về công hiệu của Minh Mạng thang. Vấn đề này cần một sự khảo sát và phân tích thâm cứu dựa trên những dữ kiện khoa học mà hiện nay chưa có. Tôi nghĩ rằng một ý kiến có thẩm quyền nhất là ý kiến của bác sĩ Nhật Akira Ishihara. Ông đã cọng tác với Howard S. Levy là đồng tác giả cuốn The Tao of Sex. Cuốn sách này rất hay vì dựa vào nhiều tài liệu hiếm quí về tính dục học cũng như y dược của Trung Hoa và Nhật bản. Y dược Á Đông theo nguyên lý Âm Dương Ngũ hành và được chế biến từ những nguyên liệu từ thiên nhiên mà hiện nay chưa có một sự phân chất thí nghiệm qui mô. Dược liệu Trung Y qua hơn 5 ngàn năm lịch sử từng chứng tỏ công hiệu trên nhiều phương diện. Ví dụ như Nhung gạt hươu non chứa nhiều kích thích tố , dùng trích tinh để thí nghiệm trên chuột thì thấy chuột tăng cường về sinh lý rõ ràng. Nhục thung dung là một loại nấm chứa nhiều Manganese thường có trong nhiều thuốc khích dục. Thành ra không phải y dược Á đông không có hiệu nghiệm, nhưng hiệu nghiệm này còn rất ẩn áo hầu như có tính chất huyền thoại, phải theo kinh nghiệm lâu đời (empirical) của cổ nhân mà dùng lâu ngày mới thấy. Một yếu tố đáng kể là thể tạng của từng bệnh nhân đã đáp ứng ra sao với sự trị liệu nên thuốc dùng cho người này thì tốt mà dùng cho kẻ khác thì không. Vấn đề tâm lý của người dùng thuốc(linh tại ngã, bất linh tại ngã) cũng là một yếu tố quyết định. Tôi tự xét, không học gì về Đông Y mà chỉ là con mọt sách, ghi chép lượm lặt để viết lách, nên kính mong sự chỉ giáo của các bậc cao minh. Tôi còn nhớ trước 1975 có đọc quyển Vạn thị Phụ Nhân khoa do ông Nguyễn văn Tỷ chủ nhà thuốc Hồi Xuân đường Nguyễn thiện Thuật, Bàn cờ Sài gòn. Trong sách có một đoạn bàn về các toa thuốc bổ tính dục và bí quyết sinh quí tử mà tôi.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> viết lại theo trí nhớ: Đàn ông muốn sanh quí tử phải đạt đủ ba điều kiện trên ba tiêu chuẩn gọi là Tam chí (Can chí, Tâm chí, Thận chí). Can tức là gan. Can chủ về mộc cân tức là gân. Gân khỏe (Can chí) thì gân mới đủ sức cương cử mà hành sự; Tâm tức là tim, chủ về huyết hỏa hay năng lượng. Tim tốt (Tâm chí) thì trí não quân bình, năng lực phương cương, sức lực bề dai, tinh trùng mới đủ sức bơi ngược giòng tử cung để thụ thai: Thận tức là cơ quan tính dục gồm dịch hoàn và các hạch nội tiết nang thượng thận, chủ về thủy, tức là tinh khí. Thận khỏe (Thận chí) thì tinh khí đặc, chứa nhiều tinh trùng nên dễ thụ thai. Suy diễn như trên, ta thấy sự tính giao lý tưởng là một độ cương dương vật đầy đủ, một trí óc quân bình, một nguồn sản xuất tinh khí dồi dào về phẩm và lượng. Như thế, một người thận yếu, tinh khí loãng, cợ thể bạc nhược, gân thịt bèo nhèo mà dùng thuốc khích hứng chẳng khác nào quất roi thúc con ngựa còm ròm tiến bước trên con đường xa gập ghềnh. Một toa thuốc bổ dương hoàn toàn không phải là một toa thuốc chỉ bổ thận khích dục mà theo biện chứng của Đông Y phải là nhắm vào chủ đích bổ dưỡng toàn thân, bằng cách bồi bổ ba nội tạng Can, Tâm, Thận. Tôi nghĩ đây là một minh chứng về quan niệm khác nhau giữa Tây Y và Đông Y: *Tây Y chủ trương đánh thẳng và mau vào ngọn nên hữu hiệu vào những trường hợp cấp tính *Còn Đông Y đánh bền và lâu vào gốc bệnh ly, nên thích hợp cho các chứng kinh niên mạn tính. Nhìn chung, dùng rượu thuốc là một tập quán, một đặc thù văn hóa của dân Việt ta đã chịu ảnh hưởng của Trung Hoa qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, sống trong thời hiện đại, người ta phải có một thái độ suy luận thận trọng trên thực tế khi phải dùng thuốc, ngay cả khi dùng thuốc bổ không phải thuốc bổ nào cũng tốt cả như „ one size fits all“ như cái tên khoa trương „ ngũ giao“, „ lục giao“... Một vị thuốc nào cũng vậy, bên cạnh công năng trị liệu, còn có thể có nhiều "phó tác dung". Rượu làm khí huyết lưu thông (Tửu năng dẫn huyết) nhưng đối với những người có chứng huyết áp cao và chứng thống phong (gout) thì không nên dùng. Tóm lại, rượu thuốc vẫn là rượu bổ nhưng nên dùng thận trọng..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> BS Lê Văn Lân. “Giải mã “thần dược đàn ông” của vua Minh Mạng Tương truyền, chính nhờ có bài thuốc tăng cường khả năng đàn ông mang tên “Minh Mạng thang” mà vua Minh Mạng một đêm có thể "chiều" đến 5- 6 cung tần. Câu nói “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” – (một đêm ngủ với 6 bà thì 5 bà có thai) cũng ra đời từ đó.. Vua Minh Mạng. Ảnh nguồn Internet Vị vua nhiều con nhất Minh Mạng là vị vua thứ hai của nhà Nguyễn, con trai thứ tư của vua Gia Long và Thuận Thiên Cao hoàng hậu Trần Thị Đang. Với tư chất thông minh, hiếu học, quyết đoán, cương nghị và hết lòng chăm lo quốc chính nên trong quá trình điều hành quốc gia, vua Minh Mạng đã có những cải cách lớn lao trên nhiều lĩnh vực. Không chỉ nổi tiếng ở tài thao lược, vua Minh Mạng còn vang danh hậu thế nhờ sức khỏe hơn người và đặc biệt là có số con nhiều nhất trong 13 đời vua Nguyễn. Theo Thế phả họ Nguyễn Phúc thì vua Minh Mạng Nguyễn Phúc Đảm có 43 bà vợ, sinh cho nhà vua 142 người con trong đó có 78 hoàng tử và 64 công chúa. Số con “kỷ lục” này vượt xa so với nhiều vua chúa triều Nguyễn. Số con đã nhiều, số cung tần, mỹ nữ chắc chắn cũng không ít. Sách Đại Nam thực lục chính biên chép: Năm Minh Mạng thứ sáu, mùa Xuân, tháng Giêng, trong Kinh Kỳ ít mưa, nhà vua lấy làm lo, chỉ dụ cho quan Thượng Bảo Khanh là ông Hoàng Quỳnh rằng: “Hai ba năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghĩ tự đâu đến thế nhưng chưa tìm ra nguyên nhân, hoặc là trong thâm cung cung nữ nhiều âm khí uất.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> tắc mà nên như vậy ư? Nay bớt đi, cho ra 100 người, ngõ hầu có thể giải trừ thiên tai vậy”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân ước lượng số vợ của vua Minh Mạng cũng phải lên tới 200 người. Thông thường, vua Minh Mạng mỗi đêm chấm cho thái giám gọi năm bà vào hầu, mỗi canh một bà. Hoạt động chăn gối về đêm đều đặn nhưng hằng ngày vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết mệt. Trời rét như cắt, mà nhà vua mặc áo đơn, cưỡi thuyền đi lại trên mặt biển, không biết lạnh. Không chỉ có thế, vua thường thức đến tận canh ba để làm việc. Điều đó cho thấy vua Minh Mạng có một “thể chất tiên thiên" - cường tráng bẩm sinh. Chính sự khỏe mạnh đó đã góp phần không nhỏ vào sự vượng con của vị vua này. Các nhà viết sử thời xưa không được phép bỏ sót bất cứ việc gì về bản thân nhà vua nhưng sách Đại Nam thực lục chỉ ghi vài lần Minh Mạng ốm xoàng, nghỉ thiết triều đôi ba buổi mà thôi. Không những thế nhà vua còn rất siêng năng tập thể dục theo cách của mình. Năm 1839, ông nói với Vũ Xuân Cẩn: “Trẫm ở trong cung cũng thường đi bộ, tập giờ lâu mà không biết mỏi; thế mới biết người ta phải tập vận động, cố gắng thì ngày một thêm mạnh, cứ ngồi yên mà lười biếng thì ngày một thêm yếu, không kể tuổi già hay trẻ vậy”. Mặc dù có “tam cung lục viện” nhưng Minh Mạng không phải là ông vua lúc nào cũng đắm chìm trong lạc thú. Ông bao giờ cũng thường tự răn mình, một mặt noi theo tiên đế “không hề dám say đắm về lạc thú” mặt khác xem gương Đường Minh Hoàng ngày xưa đến lúc đứng tuổi vì say đắm Dương Quý Phi, chính sự ngày một trễ biếng. Bài thuốc “Minh Mạng thang” Tương truyền để vua Minh Mạng có "sức đàn ông" phi thường, các ngự y trong triều căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của vua ngày đêm nghiên cứu, bào chế những bài thuốc có tính năng tráng dương bổ thận cho thiên tử dùng. Minh Mạng thang gồm những loại dược liệu gì? Một nhóm các lương y Lê Quý Ngưu, Phan Tấn Tô, Nguyễn Thanh Thọ, Lê Nguyễn Lưu sau khi sưu tầm, nghiên cứu các bài thuốc lưu trữ tại các gia đình hoàng tộc, đông y hay cựu thần triều Nguyễn đã khám phá ra rằng “Minh Mạng thang” là một bài thuốc tổng hợp. Bình quân mỗi bài thuốc gồm 22-25 vị, ít nhất 13 vị, nhiều nhất đến 73 vị. Xuất xứ từ bài Độc hoạt kí sinh thang (gồm 15 vị) trong quyển thứ 8 bộ Bị cấp thiên kim yếu phương của nhà y dược học nổi tiếng Tôn Tư Mạo thời Tùy Đường. Công dụng là trị gan thận suy nhược, phong thấp làm cho lưng đùi đau nhức lâu ngày, kết hợp với bài Thập toàn đại bổ (gồm địa, thược, khung, quy, sâm, linh, truật, thảo, kì, quế) nhằm đại bổ khí huyết, rồi gia thêm hầu hết các vị trị phong thấp đau thắt lưng, nhức mỏi vùng hạ chi. Xuất xứ từ bài Quy tì thang (gồm 12 vị) trong bộ Tế sinh phương (1253) của Nghiêm Dụng Hòa đời Tống. Dùng để bổ tâm tì hư yếu, ăn không ngon, ngủ kém, hay hồi hộp, tay chân nhức mỏi...da thâm, hầu hết các vị thuốc bổ để kích thích sinh dục. Nhóm thứ ba có xuất xứ khác nhau do các gia đình ngự y triều Nguyễn lưu giữ như bài “Lục giao tam dụng” nhằm bổ âm dưỡng huyết, bài “Ngũ giao tam dụng” chữa thận dương hư suy, bài Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử có thể bình bổ âm dương, ích khí sinh huyết, dưỡng tâm thần, lí tì vị. Bài Minh Mạng dược tửu ôn dương ích tinh cố thận liễm huyết, dưỡng tâm an thần.... Khi được hỏi về “hiệu quả” của những bài thuốc trong “Minh Mạng thang”, Thầy thuốc đông y Nguyễn Khắc Bảo cho biết: Căn cứ vào thành phần vị thuốc như: Nhục thục dung, Bạch linh, bạch thược, cẩu kỷ tử, đại táo, đỗ trọng, đương quy, sa sâm,.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> nhục quế, thục địa, phòng phong, huỳnh kỳ... và vô số thảo dược khác cho thấy thang thuốc thực chất có tác dụng trong việc bổ thận tráng dương, tăng cường tinh khí, phục hồi khí huyết và tăng tuổi thọ. “Về mặt lý thuyết, những vị thuốc này có tác dụng hỗ trợ sinh lý nam giới và ít nhiều có hiệu quả. Nhưng không phải ai cũng có thể bê “nguyên xi” mà dùng, khi bốc thuốc còn phải căn cứ vào thể trạng, cơ địa từng người mà có nhưng gia giảm phù hợp. Chỉ riêng toa Minh Mạng thôi cũng đã có hơn chục biến tấu, chất lượng dược liệu cũng bấp bênh. Nếu người vốn liếng chẳng bao nhiêu không biết tự lượng sức mình, mà cứ dùng thuốc khích hứng thì rất tai hại: Chưa khỏe, đã ngả ngửa người vì yếu!”, ông Bảo cho biết.. “Vua Minh Mạng là một ông vua quan tâm tới tất cả các phương diện từ chính trị, quân sự, ngoại giao, đo lường, ruộng nương cho đến cả...sinh hoạt phòng the. Vì vậy không có gì ngạc nhiên khi các ngự y phải bỏ công sức để bào chế ra các thang thuốc phù hợp với yêu cầu của nhà vua. Minh Mạng thang là một bài thuốc có thực nhưng không phải ai cũng có thể dùng được lại nữa liều lượng cho mỗi người, mỗi mùa xuân-hạ-thu-đông lại khác nhau. Xét riêng đối với vua Minh Mạng thì những toa thuốc vua dùng chỉ mang tính trợ lực, chứ không phải đóng vai trò quyết định. Còn như nói vua Minh Mạng uống thuốc ấy mà có nhiều con thậm chí “nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” chẳng qua chỉ là cách nói quá mà thôi. Trong số các hoàng tử công chúa của ông ít thấy ai ra đời cùng tháng chứ đừng nói tới cùng ngày”. (Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân) Hoàng Giang. Ngự Tửu Minh Mạng Thang Toa thuốc này truyền tụng từ lâu ở Huế, được đồn là do vài vị ngự y chép được. Trong sách Nguyễn triều cố sự ; Huyền thoại về Danh lam xứ Huế ( 1996), tác giả Bửu Kế chép ra hai bài thuốc vua Minh Mạng như sau theo tài liệu của Lương Y Tuệ Tâm: I. Nhất dạ ngũ giao Thành phần: 1- Nhục thung dung 12g 2- Táo nhân 8g 3- Xuyên Qui 20g 4- Cốt toái bổ 8g 5- Cam cúc hoa 12g 6- Xuyên ngưu tất 8g 7- Nhị Hồng sâm 20g 8- Chích kỳ 8g 9- Sanh địa 12g 10 -Thạch hộc 12g.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> 11- Xuyên khung 12g 12- Xuyên tục đoạn 8g 13- Xuyên Đỗ trọng 8g 14- Quảng bì 8g 15- Cam Kỷ tử 20g 16- Đảng sâm 10g 17- Thục địa 20g 18 - Đan sâm 12 g 19- Đại táo 10 quả 20- Đường phèn 300 g (Toa này có người nói là „Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử“ nghĩa là có một lần làm thụ thai... song sinh!!) Cách ngâm: Đường phèn để riêng, 19 vị thuốc trên đem ngâm với 3 lít rượu nếp ngon trong 5 ngày đêm. ngày thứ sáu, nấu nửa lít nước sôi với 300 g đường phèn cho tan ra, để nguội, rồi đổ vô thẩu, trộn đều đến ngày thứ 10 thì đem ra dùng. Ngày 3 lần sáng, trưa , tối, mỗi lần 1 ly trà. Dùng liên tục. II. Nhất dạ lục giao Thành phần: 1-Thục địa 40g 2- Đào nhân 20g 3-Sa sâm 20g 4- Bạch truật 12g 5 Vân qui 12g 6- Phòng phong 12g 7- Bạch thược 12g 8- Trần bì 12g 9-Xuyên khung 12g 10- Cam thảo 12g 11- Thục linh 12g 12- Nhục thung dung 12g 13- Tần giao 8g 14-Tục đoạn 8g 15- Mộc qua 8g 16- Kỷ tử 20g 17-Thường truật 8g 18-Độc hoạt 8g 19- Đỗ trọng 8g 20- Đại hồi 4g 21- Nhục quế 4g 22- Cát tâm sâm 20g 23- Cúc hoa 12g 24- Đại táo 10 quả Cách ngâm:.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> 24 vị thuốc trên ngâm với hai lít rưỡi rượu tốt trong vòng 7 ngày. Lấy 150 g đường phèn nấu với một xị nước sôi cho tan, để nguội rồi đổ vô keo rượu thuốc, trộn đều, đến ngày thứ 10 đem dùng dần. Ngày 3 lần, mỗi lần 1 ly nhỏ, sáng, trưa , chiều trước bữa ăn. Bã thuốc còn lại ngâm nước hai với một lít rưỡi rượu ngon- một tháng sau dùng tiếp. Chủ trị: Cả hai bài trên có tác dụng đại bổ thận, bồi bổ thần kinh, gia tăng khí huyết, tăng cường sinh lực, mạnh gân cốt, bán thân bất toại, dương sự kém, tăng tuổi thọ. Vài nhận xét của người viết Tôi mạn phép có vài nhận xét sau: a- Trong hai bài thuốc, về cân lượng người ta dùng đơn vị Gramme (g). Ngày xưa ở Trung quốc dùng cân (chin), lượng ( liang), phân (fen). Nhưng ngay bây giờ, ở Trung quốc, người ta dùng những hệ thống khác nhau về cân lượng như 16 lượng, 12 lượng, 10 lượng; thậm chí ở các vùng quê hẻo lánh, người dân dùng hệ thống. 18 lượng, 20 lượng và 24 lượng. Những ấn định về đo lường trong nhiều triều đại đã làm cho vấn đề cực kỳ phức tạp. Kể từ năm 1979, miền Hoa lục đã chuyển theo hệ thống thập phân (metric system) thay vì là hệ thống cân lượng, nên trong nhiều sách thuốc in tại Hoa Lục , hệ thống trọng lượng được thống nhất như sau, để dễ bề tính toán: 1 lượng = 30 g ( hiện nay chính xác hơn là 31 .25 g) 1 tiền = 3g 1 phân = 0.3g Vậy về phân lượng trong 2 toa thuốc Minh Mạng thang trên, ta không rõ lương y Việt Nam đã dựa vào toa nguyên gốc mà đổi ra gờ ram hay phỏng chừng đổi theo cách thực dụng mới cho tiện việc cân khi mua thuốc. b- Trong toa Nhất dạ ngũ giao, những vị thuốc bắt buộc phải kén chọn theo nguồn gốc sản xuất, vì các tên thuốc có kèm tên vùng thổ sản như Tứ Xuyên, Cam túc, vùng Lưỡng Quảng, ví dụ chẳng hạn như phải đòi hỏi thuốc từ Tứ Xuyên như Đương Qui, Ngưu Tất, Tục đoạn, Đỗ trọng, Xuyên khung. Trong khi trong toa Nhất nhật lục giao, thì chỉ có Vân Qui và Xuyên Khung là gốc Vân Nam và Tứ Xuyên, còn những vị Tục đoạn, Đỗ trọng, Kỷ tử thì không nói rõ từ ở đâu c- Điều này rất quan trọng là phân lượng những thành phần kê ra trong một toa thuốc Bắc phải dựa trên tình trạng của mỗi bệnh nhân như thể chất yếu hay khỏe, bịnh trạng nặng hay nhẹ, bệnh tình mới hay lâu. Thành ra hai bài thuốc kê trên không phải là loại “one size fits all”. Do đó, với tư cách người biên khảo vô tư nhưng rất thận trọng về ý thức trách nhiệm, tôi khuyến cáo bạn đọc không thể đơn phương quyết định áp dụng sự tự điều trị cho cá nhân.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> mình mà không tham khảo những vị lương y có thẩm quyền chuyên nghiệp, nhất là những nữ bệnh nhân mang thai, hay những người có chứng huyết áp cao hay những rối loạn bệnh lý hiểm nghèo khác. Một vị thuốc tuy có vẻ hiền lành nào cũng có thể có những phó tác- dụng bất ngờ nhất là thuốc Bắc chưa được kiểm nghiệm như thuốc hiện đại trước khi bán ở thị trường. d- Một điều thứ hai tôi muốn nêu ra về công hiệu của những ngự tửu. Trường hợp của Minh Mạng thang với những tên “Nhất dạ ngũ giao” hay “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” có tính cách khoa trương huyền thoại chăng? Ta hãy thử duyệt lại số con cái của vua chúa nhà Nguyễn Chín đời chúa là: Chúa Tiên Nguyễn Hoàng ( 1525 - 1613) có 12 con: 10 trai và 2 gái Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên ( 1563- 1635) có 15 con: 11 trai và 4 gái Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan ( 1601 - 1648) có 4 con: 3 trai và 1 gái Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần ( 1620 - 1687) có 9 con: 6 trai và 3 gái. Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái ( 1650 - 1691) có 10 con: 5 trai và 5 gái Chúa Minh vương (Quốc chúa) Nguyễn Phúc Chu* ( 1675 - 1725) có 42 con: 38 trai và 4 gái Chúa Ninh vương Nguyễn Phúc Thụ ( 1697 - 1738) có 9 con: 3 trai và 6 gái Chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát ( 1714 - 1765) có 30 con: 18 trai và 12 gái Chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần ( 1753 - 1777) có một gái [* Chúa Minh vương (Quốc chúa ), theo nhiều sử sách có đến 146 con!] Nhưng theo Richard Orband trong Les tombeaux des Nguyễn( 1914) và Nguyễn Phúc tộc thế phả ( 1995) thì ghi là 42 con Mười ba đời vua là: Gia long ( 1762 - 1819) có 31 con :13 trai và 18 gái Minh Mạng (1791 - 1840) có 142 con: 78 trai và 64 gái Thiệu trị ( 1807 - 1847) có 64 con: 29 trai và 35 gái Tự Đức ( 1829 - 1883) không có con tuy nhiều vợ Dục Đức ( 1853- 1883) có 19 con: 11 trai và 8 con gái chết vì bị giam đói.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Hiệp Hòa ( 1847 - 1883) có 17 con: 11 trai và 6 gái chết vì bị ép uống thuốc độc Kiến Phúc ( 1869 - 1884) chưa có vợ con , chết bí mật Hàm Nghi ( 1871- 1943) một vợ, có 3 con: 1 trai và 2 gái Đồng Khánh ( 1864 - 1889) có 5 vợ, 10 con: 6 trai và 4 gái Thành Thái ( 1878 - 1954) nhiều vợ, có 45 con: 19 trai và 26 gái** Duy Tân ( 1900 - 1945) có 2 đời vợ , có 3 trai và 2 gái Khải Định ( 1885 - 1925) có 1 trai Bảo Đại (1913 - 1997) có 5 con: 2 trai và 3 gái [** Riêng Vua Thành Thái là một người phát dục rất sớm. Số con của ông còn rơi rớt rất nhiều mà thế phả nhà Nguyễn chưa kiểm tra được. Cung tần chưa đủ cho ngài gần gũi mà còn muốn vi hành ra ngoài nên mới có câu: Kim luông con gái mỹ miều, Trẫm thương, trẫm nhớ trẫm liều, trẫm đi!] Duyệt qua danh sách trên, ta thấy có hai đỉnh cao về con số đông con: _ Đỉnh cao thứ nhất trong đời các chúa với Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu và Võ vương Nguyễn Phúc Khoát ứng vào giai đoạn mà Chúa Nguyễn ở Nam hà tuyên bố xác định vương quyền độc lập chống lại vua Lê chúa Trịnh Bắc hà bằng sự dùng vương ấn và lập sẵn kinh đô ở Thuận Hóa. _ Đỉnh cao thứ hai trong đời các vua với vua Minh Mạng ứng với giai đoạn tuyên xưng đế quyền tuyệt đối với sự ban bố bài Đế Hệ thi 20 chữ trong tham vọng con cháu của ông sẽ làm vua trong 20 đời nữa. Chính ý niệm xác định Vương quyền và Đế quyền phải chăng tạo ra nhu cầu sinh sản nhiều tử tức hậu duệ. Và “bộ máy đẻ” của nhà Nguyễn là hệ thống cung tần mỹ nữ. Đời Võ vương, vợ lớn nhỏ của chúa không gọi là Chánh hay Thứ phu nhân như bá tính mà đổi ra gọi vợ cả là Tả hành lang và vợ thứ là Hữu hành lang, con cái đẻ ra sợ chuyện ma quỉ bắt ( nạn hữu sanh vô dưỡng ) nên Chúa mới đặt ra tục gọi các con trai là Mệ, Mụ. Trong cung cấm nhà Nguyễn, có chín bậc gọi các bà vợ vua từ cao đến thấp gọi là Cửu giai. Vua nhà Nguyễn không phong vợ lớn là Hoàng Hậu (trừ vua Bảo Đại sau này) vì sợ nạn quốc thích chuyên quyền như các triều Lý, Trần , tước hiệu Hoàng Hậu chỉ phong sau khi chết. Cửu giai là:.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Nhất giai Phi Nhị giai Phi Tam giai Tân Tứ giai Tân Ngũ giai Tiếp Dư Lục giai Tiếp Dư Thất giai Quý Nhân Bát giai Mỹ Nhân Cửu giai Tài Nhân và cuối cùng là Tài Nhân vị nhập giai ( nghĩa là chưa vô ngạch mà chuẩn bị thôi, như chức Chuẩn Úy của quân đội) Trong thế phả Nguyễn Phúc tộc, tôi thấy một bà Cung Nga có lẽ là cung nữ chưa vô ngạch Cửu giai! Chính vì hệ thống phi tần mỹ nữ đã là cho những ông ngự y phải tìm những thang thuốc bổ thận cho vua chúa và những toa thuốc dưỡng thai cho các vợ vua khi mang bầu, như thế làm gì không đông con. Thức ăn ngự thiện đương nhiên gồm những thứ bổ béo mà bá tính cung tiến .Vua Minh Mạng chỉ sống đến 50 tuổi vì nghe đâu chết vì té ngựa, thế mà đã có 142 con, nếu vua thọ thêm 20 năm nữa, con cái trực hệ còn đông đến đâu. Hệ của Minh Mạng là hệ nhì chánh ( hệ nhứt chánh là hệ hoàng tử Cảnh), là hệ đông nhất gồm 56 phòng và phái nam đươc 1800 người. Theo tôi những cái tên Nhất dạ Ngũ giao hay Lục giao của Minh Mạng thang là những cái tên đời sau bịa ra cho thần kỳ, chứ mỗi khi một cung phi nào được vua vời tới long sàng thì tên tuổi và ngày tháng ấy đều được ghi chép cẩn thận để sau này còn chẩn đoán thai kỳ và xác nhận phụ hệ. Những chuyện về: Cái đêm hôm ấy đêm gì. Bóng dương trùng bóng trà mi chập chùng là chuyện thâm cung bí sử, ai mà rõ “ ngũ giao” hay “ lục giao”. Trong đống văn khố chứa trong Tàng thơ lâu , giả thử còn lưu lại những y án hay phương dược của các ngự y dâng lên vua, đâu là tài liệu xác nhận rằng vào một đêm nào đó có 5 bà phi trong bụng tiếp nhận “ long chủng” qua lần ân ái với vua và tên những hoàng nam hay hoàng nữ đó là ai? Dựa vào kiến thức y học, câu chuyện “lục giao sanh ngũ tử “ có lẽ là ngoa ngôn hay phóng đại. Chỉ ở trong thần thoại Hy lạp, mới có thần Hercule trong một đêm gần ... 50 cô gái đã làm thụ thai 49 cô. Dẫu sao, xét về số con của vua Minh Mạng thì hậu thế phải công nhận ông thuộc vào loại có khả năng tính dục tuyệt luân. Tính theo mỗi lần giao cấu chỉ bắn tinh khí ra khoảng 2 phân khối rưỡi đến 3 là cùng sau nhiều ngày kiêng giao cấu, mà muốn làm thụ thai, mỗi phân khối tinh khối phải chứa 100 triệu tinh trùng và số tinh trùng quái dị phải dưới 20 %. Khối lượng và sự đậm đặc của tinh khí thường giảm xuống mau chóng sau nhiều lần.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> giao cấu liên tục. Như vậy trong một đêm 5 lần 6 lượt tính giao thường không phải sinh con mà sinh ra .... bắn súng nước hay bắn khói! Theo sử sách, hằng đêm, vua thức khuya để coi chương sớ từ các phiên trấn gửi về đến canh ba ( 11 giờ khuya) mới đi ngủ. Hoạt động chăn gối về đêm hăng như thế mà ban ngày vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết mệt chứng tỏ Minh Mạng là một người có một “thể chất tiên thiên “ bẩm sinh cường tráng. Những toa thuốc mà vua dùng chỉ là trợ lực cho đường sinh lý chứ không phải là chủ trị quyết định. Xem trường hợp vua Tự Đức (1847- 1883) thể chất tiên thiên bất túc và lúc mới lớn bị đậu mùa, dù là vua có nhiều vợ và được các ngự y chữa trị vẫn không có con. Nhìn vào thành phần những món thuốc trong hai toa Minh Mạng thang nói trên, tôi thấy toàn là những vị bổ dược mà tiệm thuốc bắc nào cũng có và hiệu lực của chúng theo y lý được coi là tư âm bổ dương, tăng cường tinh khí, nâng đỡ thể trạng chứ không phải là những thức khích hứng nhất thời làm cương cử ngọc hành hay những vật liệu chế từng những tạng phủ hay bộ phận của những thú vật nổi tiếng mạnh về sinh lý. Thành ra Minh Mạng thang là một loại bổ dược chống mệt mỏi tổng quát, chứ không giống như những viên thuốc hứng dục ( aphrodisiac) như viên Okasa dạo nào của Pháp chứa Testostérone và Yohimbine, Cantharidine hay những viên Viagra hiện nay chỉ có tác dụng cục bộ làm cương cử ngọc hành. Nhiều y sĩ cho rằng sự mệt mỏi thường là nguyên nhân làm giảm hứng thú khi ân ái. Vua Minh Mạng vốn là một người có thực lực tính dục quán chúng do bẩm sinh nên vấn đề dùng thuốc bổ là một sự trợ lực. Nếu phàm nhân tục tử vốn liếng chẳng bao nhiêu không biết tự lượng sức mình, mỏi gối chồn chân mà cứ dùng thuốc khích hứng để tiếp tục trèo thì quả là tai hại! Nhận định về công hiệu của Minh Mạng thang. Vấn đề này cần một sự khảo sát và phân tích thâm cứu dựa trên những dữ kiện khoa học mà hiện nay chưa có. Tôi nghĩ rằng một ý kiến có thẩm quyền nhất là ý kiến của bác sĩ Nhật Akira Ishihara. Ông đã cọng tác với Howard S. Levy là đồng tác giả cuốn The Tao of Sex. Cuốn sách này rất hay vì dựa vào nhiều tài liệu hiếm quí về tính dục học cũng như y dược của Trung Hoa và Nhật bản. Y dược Á Đông theo nguyên lý Âm Dương Ngũ hành và được chế biến từ những nguyên liệu từ thiên nhiên mà hiện nay chưa có một sự phân chất thí nghiệm qui mô. Dược liệu Trung Y qua hơn 5 ngàn năm lịch sử từng chứng tỏ công hiệu trên nhiều phương diện. Ví dụ như Nhung gạt hươu non chứa nhiều kích thích tố , dùng trích tinh để thí nghiệm trên chuột thì thấy chuột tăng cường về sinh lý rõ ràng. Nhục thung dung là một loại nấm chứa nhiều Manganese thường có trong nhiều thuốc khích dục. Thành ra không phải y dược Á đông không có hiệu nghiệm, nhưng hiệu nghiệm này còn rất ẩn áo hầu như có tính chất huyền thoại, phải theo kinh nghiệm lâu đời (empirical) của cổ nhân mà dùng lâu ngày mới thấy. Một yếu tố đáng kể là thể tạng của từng.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> bệnh nhân đã đáp ứng ra sao với sự trị liệu nên thuốc dùng cho người này thì tốt mà dùng cho kẻ khác thì không. Vấn đề tâm lý của người dùng thuốc( linh tại ngã, bất linh tại ngã) cũng là một yếu tố quyết định. Tôi tự xét, không học gì về Đông Y mà chỉ là con mọt sách, ghi chép lượm lặt để viết lách, nên kính mong sự chỉ giáo của các bậc cao minh. Tôi còn nhớ trước 1975 có đọc quyển Vạn thị Phụ Nhân khoa do ông Nguyễn văn Tỷ chủ nhà thuốc Hồi Xuân đường Nguyễn thiện Thuật, Bàn cờ Sài gòn. Trong sách có một đoạn bàn về các toa thuốc bổ tính dục và bí quyết sinh quí tử mà tôi viết lại theo trí nhớ: Đàn ông muốn sanh quí tử phải đạt đủ ba điều kiện trên ba tiêu chuẩn gọi là Tam chí ( Can chí, Tâm chí, Thận chí). Can tức là gan. Can chủ về mộc cân tức là gân. Gân khỏe ( Can chí) thì gân mới đủ sức cương cử mà hành sự; Tâm tức là tim, chủ về huyết hỏa hay năng lượng. Tim tốt ( Tâm chí) thì trí não quân bình, năng lực phương cương, sức lực bề dai, tinh trùng mới đủ sức bơi ngược giòng tử cung để thụ thai: Thận tức là cơ quan tính dục gồm dịch hoàn và các hạch nội tiết nang thượng thận, chủ về thủy, tức là tinh khí. Thận khỏe ( Thận chí) thì tinh khí đặc, chứa nhiều tinh trùng nên dễ thụ thai. Suy diễn như trên, ta thấy sự tính giao lý tưởng là một độ cương dương vật đầy đủ, một trí óc quân bình, một nguồn sản xuất tinh khí dồi dào về phẩm và lượng. Như thế, một người thận yếu, tinh khí loãng, cợ thể bạc nhược, gân thịt bèo nhèo mà dùng thuốc khích hứng chẳng khác nào quất roi thúc con ngựa còm ròm tiến bước trên con đường xa gập ghềnh. Một toa thuốc bổ dương hoàn toàn không phải là một toa thuốc chỉ bổ thận khích dục mà theo biện chứng của Đông Y phải là nhắm vào chủ đích bổ dưỡng toàn thân, bằng cách bồi bổ ba nội tạng Can, Tâm, Thận. Tôi nghĩ đây là một minh chứng về quan niệm khác nhau giữa Tây Y và Đông Y: *Tây Y chủ trương đánh thẳng và mau vào ngọn nên hữu hiệu vào những trường hợp cấp tính *Còn Đông Y đánh bền và lâu vào gốc bệnh ly, nên thích hợp cho các chứng kinh niên mạn tính. Nhìn chung, dùng rượu thuốc là một tập quán, một đặc thù văn hóa của dân Việt ta đã chịu ảnh hưởng của Trung Hoa qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, sống trong thời hiện đại, người ta phải có một thái độ suy luận thận trọng trên thực tế khi phải dùng thuốc, ngay cả khi dùng thuốc bổ không phải thuốc bổ nào cũng tốt cả như „ one size fits all“ như cái tên khoa trương „ ngũ giao“, „ lục giao“... Một vị thuốc nào cũng vậy, bên cạnh công năng trị liệu, còn có thể có nhiều "phó tác dung". Rượu làm khí huyết lưu thông (Tửu năng dẫn huyết) nhưng đối với những người có.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> chứng huyết áp cao và chứng thống phong ( gout) thì không nên dùng. Tóm lại, rượu thuốc vẫn là rượu bổ nhưng nên dùng thận trọng. BS Lê Văn Lân. RUOU THUOC MINH MANG.doc Toa thuốc Bắc đặc biệt này quả thật rất là mắc ngang ngữa giá vàng bốn số chín hiện tại, đã có lần Tui đây mang về VN hốt thử vì nghĩ là giá rẻ hơn bên Mỹ nhiếu nhưng không ngờ là mắc hết biết cho nên Ai có khả năng thì hãy thử qua toa thuốc quí nay. Thân, Gudkid Thuốc Ngâm Rượu. 1-Đông Trùng Thảo 6 chỉ (sao nếp,gói riêng) 2-Hoài Sơn 1 Lượng. 3-Tục Đoạn 5 Chỉ 4-Phụ tử 2 Chỉ 5-Bạch Truật 7 Chỉ 6-Bá Tử Nhơn 7 Chỉ 7-Cam Thảo 5 Chỉ 8-Viễn Chí 7 Chỉ (sao bột cam thảo) 9-Cốt Toái Bồ 5 Chỉ 10-Ba Kích 1 Lượng 11-Thục Địa 3 Lượng 12-Dục Thung Dung 1 Lương 13-Hải Mã 2 Con (sao Vàng) 14-Sa Nhơn 5 Chỉ 15-Chích Hoàng Kỳ 1 Lượng 16-Phòng Phong 7 Chỉ 17-Đảng Sâm 1 Lượng (Xắt Mỏng) 18-Thương Truật 6 Chỉ 19-Hà THủ ô 1 Lượng 20-Cương Hoạt 5 Chỉ 21-Độc Hoạt 5 Chỉ 22-Mộc Quả 6 Chỉ 23-Phục Linh 1 Lượng 24-Đỗ Trạng 1 Lượng (sao muối) 25-Đương Quy 1 Lượng 26-Tần Giao 5 Chỉ 27-Bac5h Thược 1 Lượng (Sao Rượu) 28-Khỉ Tử 1 Lượng 29-Long Nhãn Nhục 1 Lượng 30-Đại Táo 20 Trái.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> 31-Sơn Thủ Du 5 Chỉ 32-Thoan Táo Nhơn 5 Chỉ 33-Cẩu Tích 7 Chỉ 34-Liên Nhục 1 Lương (Sao Vàng) 35-*Cáp Giới 2 Con (một Cặp) 36-*Ngọc Hành Hải Cẩu 1 Bộ 37-Khiếm Thiệt 1 Lượng (Sao Vàng) 38-Đông Môn 5 Chỉ (Sao Gạo) 39-Thiên Môn 5 Chỉ 40-Bạch Cúc 5 Chỉ 41-Ngưu Tất 7 Chỉ 42-Sâm Cao Ly 1 Lượng 43-Nhục Quế 3 Chỉ 44-Lộc Nhung 3 Chỉ (Sao Nếp) 45-Táo Nhục 5 Chỉ 46-Xuyên Khung 7 Chỉ 47-Tang Ký Sanh 7 Chỉ Tất Cả Là 47 Loại Thảo Mộc (thuốc). Ngâm 3 lít Rượu. __________________. Rượu này trở thành đặc sản của Việt Nam kể từ ngày Việt Nam mở cửa cho du lịch và kinh tế thị trường. Toa thuốc này truyền tụng từ lâu đời ở Huế. Sau đây là bài thuốc vua Minh Mạng do tác giả Bửu Kế chép ra: Nhục thung dung: 12 g Táo nhân: 8 g Xuyên Qui: 20 g Cốt toái bổ: 8 g Cam cúc hoa: 12 g Xuyên ngưu tất: 8 g Nhị hồng sâm: 20g Chích kỳ: 8 g Sanh địa: 12 g Thạch lộc: 12 g Xuyên khung: 12 g Xuyên tục đoạn: 8 g Xuyên đỗ trọng: 8 g Quảng bì: 8 g Cam kỷ tử: 20 g Đảng sâm: 10 g Thục địa: 20g.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Đan sâm: 12 g Đại táo: 10 quả Đường phèn: 300 g Đây là toa: Nhất dạ ngũ dao sinh lục tử "nghĩa là có một lần thụ thai...song sinh" Các bạn phải chú ý đọc kỹ cách ngâm, vì đây mới là khâu quan trọng: Đường phèn để riêng, 19 vị thuốc trên đem ngâm với 3 lít rượu nếp ngon trong 5 ngày đêm. Ngày thứ sáu, nấu nửa lít nươc sôi với 300 g đường phèn cho tan ra, để nguội rồi đổ vào bình rượu thuốc, trộn đều, đến ngày thứ 10 thì đem ra dùng. Ngày 3 lần, sáng, trưa, tối, mỗi lần 1 ly trà. Dùng liên tục. Không biết bài viết này có phù hợp với diễn đàn không nên các bạn đọc và cho ý kiến nhé. 'Chuyện ấy' sung mãn của các ông vua Việt Vua Minh Mạng có sức khỏe phục vụ tam cung lục viện, một đêm có thể “chiều” 5 đến 6 cung tần. Vua Minh Mạng không chỉ nổi tiếng ở tài thao lược mà còn vang danh hậu thế nhờ có sức khoẻ hơn người. Nhà vua hoạt động chăn gối về đêm đều đặn nhưng hằng ngày vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết mệt. Không chỉ có thế, Vua thường thức đến tận canh ba để làm việc. Điều đó cho thấy Vua Minh Mạng có một “thể chất tiên thiên" - cường tráng bẩm sinh. Chính sự khỏe mạnh đó đã góp phần không nhỏ vào sự vượng con của vị vua này.. Vua Minh Mạng.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Một số tài liệu cho biết, Hoàng đế Minh Mạng có số lượng con nhiều nhất trong 13 đời vua Nguyễn. Ông để lại cho đời 142 người con, gồm 78 hoàng tử và 64 công chúa. Sách Kể chuyện các vua Nguyễn viết: Trong đời sống thường nhật, có lẽ Vua Minh Mạng là người được hưởng nhiều vui thú nhất trong các vua Nguyễn ở chốn phòng the. Nhà vua có sức khỏe phục vụ tam cung lục viện, một đêm có thể “chiều” đến 5 - 6 cung tần. Tuy nhiên, thông thường, mỗi đêm, Vua chấm cho thái giám gọi 5 bà vào hầu, mỗi canh một bà. Trong số các bà ấy thì có khi đã có ba bà thụ thai. Có giai thoại rằng, để cẩn thận "tìm" đúng con vua, thái giám phải chuyển danh sách năm bà ấy cho Tôn nhơn phủ. Phủ này lại chuyển một danh sách khác cho Quốc sử quán. Sau này, khi bà nào mãn nguyệt khai hoa, Quốc sử quán có trách nhiệm rà soát, đối chiếu xem thử từ ngày vua "đòi" đến kỳ sinh nở có đúng ngày đúng tháng không. Theo sử sách, các ngự y trong triều đã ngày đêm nghiên cứu, bào chế những bài thuốc có tính năng tráng dương bổ thận cho thiên tử dùng. Và nhờ "bồi bổ" Minh Mạng thang, gồm hai toa thuốc: Nhất dạ ngũ giao và Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử được thầy thuốc căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của nhà vua để lập ra thang thuốc rượu, mà đấng quân vương nhà Nguyễn trở thành chiến binh dũng mãnh chốn phòng the. Tuy nhiên, các nhà y học hiện đại cho rằng, “phép thần thông” mà người ta đồn đại về Minh Mạng thang không hoàn toàn đúng. Vua Minh Mạng là người có thực lực tính dục bẩm sinh, hứng thú ân ái. Những toa thuốc vua dùng chỉ mang tính trợ lực, chứ không phải đóng vai trò chủ trì quyết định. Ngoài ra, có một bằng chứng đơn giản, nếu Hoàng đế Minh Mạng có bài thuốc thần diệu như vậy thì tại sao Vua Tự Đức (cháu nội) lại không áp dụng được mà vẫn bị bất lực, không con? Cũng có đời sống tình dục phóng khoáng trong số các vị vua triều Nguyễn, Bảo Đại nổi tiếng là vị vua đa tình và ăn chơi khét tiếng một thời. Theo sách Bảo Đại hay những ngày cuối cùng của Vương quốc An Nam của tác giả người Pháp Daniel Grandclément, sở thích hàng đầu của Hoàng đế Bảo Đại là đuổi theo những người đàn bà đẹp. Ông từng thẳng thắn bộc lộ sự ham muốn sắc dục của mình: “Luôn có nhu cầu đối với đàn bà, một thứ nhu cầu thường xuyên không thể dập tắt được như đồ ăn thức uống. Từ khi đến tuổi lớn, đêm nào cũng phải có một người đàn bà nằm bên, mỗi đêm một người”. "Con người Bảo Đại có một phần mười của Farouk, hai phần mười của Machiavel và bảy phần mười của Hamlet... Ông đã dan díu với đủ hạng người, từ cô hầu phòng bình thường, vợ của các gia nhân đày tớ, hoa hậu Đông Dương đến gái nhảy, thậm chí gái điếm...", một người thân thiết của cựu hoàng đã bình phẩm. Không chỉ thử "cảm giác" với người đẹp ở quê hương, ông hoàng Bảo Đại còn có đàn bà Trung Hoa, Hong Kong, Pháp, Nhật Bản, Zaire... (Theo ĐVO). Chuyện phòng the của vua Minh Mạng Trong đời sống riêng tư, vua Minh Mạng nổi tiếng là người có sức khoẻ cường tráng của đàn ông. Tương truyền, vua một đêm có thể "chiều" đến 5-6 cung tần... Cho đến nay, không có tài liệu cho biết chân dung và thể lực của ông như thế nào, chỉ biết vua có nhiều vợ và rất đông các phi tần; có tới 142 người con, gồm 78 hoàng.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> tử Bẩm. và. 64 sinh. công cường. chúa. tráng. Sinh năm 1791, là con thứ 4 của vua Gia Long, năm 30 tuổi (1820), thái tử Nguyễn Phúc Đảm (thường gọi Thái tử Đảm) lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Minh Mạng. Ông đã có những cải đổi lớn lao các định chế công quyền, hành chính, pháp luật, thuế khóa, đinh điền, tu soạn sử sách địa lý và lập các cơ sở dưỡng tế. Minh Mạng cũng đã cho thành lập quốc tử quán, ấn định học hiệu và thi cử, cải đổi cơ cấu triều đình thành Nội các với Lục bộ và Cơ mật viện, đổi trấn thành tỉnh và chia vị trí đất nước thành 31 tỉnh.. Tương truyền, vua Minh Mạng một đêm có thể "chiều"đến 5-6 cung tần... Theo sử sách, vua không chỉ nổi tiếng ở tài thao lược, mà còn vang danh hậu thế nhờ có sức khoẻ hơn người. Vua Minh Mạng hoạt động chăn gối về đêm đều đặn nhưng hằng ngày vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết mệt. Không chỉ có thế, vua thường thức đến tận canh ba để làm việc. Điều đó cho thấy vua Minh Mạng có một “thể chất tiên thiên" - cường tráng bẩm sinh. Chính sự khỏe mạnh đó đã góp phần không nhỏ vào sự vượng con của vị vua này. Một số tài liệu cũng cho thấy, hoàng đế Minh Mạng có số lượng con nhiều nhất trong 13 đời vua Nguyễn. Vua có sức khoẻ phục vụ tam cung lục viện, một đêm có thể "chiều" đến 5-6 cung tần... Tìm "thần dược" tráng dương Có một giai thoại rằng, để vua Minh Mạng có "sức đàn ông" phi thường, các ngự y trong triều đã ngày đêm nghiên cứu, bào chế những bài thuốc có tính năng tráng dương bổ thận cho thiên tử dùng. Và nhờ "bồi bổ" Minh Mạng thang, gồm hai toa thuốc: Nhất dạ ngũ giao và Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử - được thầy thuốc căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của vua để lập ra thang thuốc rượu, mà đấng quân vương nhà Nguyễn trở thành chiến binh dũng mãnh chốn phòng the. Minh Mạng thang gồm những loại dược liệu gì? - Có bạch linh, bạch thược, cẩu kỷ tử, đại táo, đỗ trọng, đương quy, sa sâm, nhục quế, thục địa, phòng phong, huỳnh kỳ... và vô số thảo dược khác. Thang thuốc thực chất có tác dụng rất lớn trong việc.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> tăng cường tinh khí, phục hồi khí huyết và tăng tuổi thọ. Vì thế, theo các nhà y học hiện đại, “phép thần thông” mà người ta đồn đại về Minh Mạng thang không hoàn toàn đúng 100%. Lục sử thấy rõ, vua Minh Mạng là người có thực lực tính dục bẩm sinh, hứng thú ân ái. Những toa thuốc vua dùng chỉ mang tính trợ lực, chứ không phải đóng vai trò chủ trì quyết định. Ngoài ra, có một bằng chứng đơn giản, nếu hoàng đế Minh Mạng có bài thuốc thần diệu như vậy thì tại sao vua Tự Đức (cháu nội) lại không áp dụng được mà vẫn bị bất lực, không con? Tuy nhiên, hiện nay, huyền thoại bài thuốc "tăng cường sinh lý, như ý phòng the" của vua Minh Mạng lúc nào cũng thu hút những đấng mày râu bị mắc chứng bệnh hiếm muộn, đang yếu muốn mạnh, vốn mạnh càng muốn mạnh hơn… Song một thực tế là, chỉ riêng toa Minh Mạng thôi đã có hơn chục biến tấu, chất lượng dược liệu cũng bấp bênh. Nếu người vốn liếng chẳng bao nhiêu không biết tự lượng sức mình, mà cứ dùng thuốc khích hứng thì rất tai hại: chưa khỏe, đã ngả ngửa người vì yếu! Thành phần và cách ngâm Minh Mạng tửu: 1. Nhất dạ ngũ giao - Thành phần: Nhục thung dung 12g, Táo nhân 8g , Xuyên Qui 20g, Cốt toái bổ 8g, Cam cúc hoa 12g, Xuyên ngưu tất 8g, Nhị Hồng sâm 20g, Chích kỳ 8g, Sanh địa 12g, Thạch hộc 12g, Xuyên khung 12g, Xuyên tục đoạn 8g, Xuyên Đỗ trọng 8g, Quảng bì 8g, Cam Kỷ tử 20 Đảng sâm 10g, Thục địa 20g, Đan sâm 12g, Đại táo 10 quả, Đường phèn 300g. - Cách ngâm: Đường phèn để riêng, 19 vị thuốc trên đem ngâm với 3 lít rượu nếp ngon trong 5 ngày đêm. ngày thứ sáu, nấu nửa lít nước sôi với 300 g đường phèn cho tan ra, để nguội, rồi đổ vô thẩu, trộn đều đến ngày thứ 10 thì đem ra dùng. Ngày 3 lần sáng, trưa, tối, mỗi lần 1 ly trà. Dùng liên tục. 2. Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử - Thành phần: Thục địa 40g, Đào nhân 20g, Sa sâm 20g, Bạch truật 12g, Vân qui 12g, Phòng phong 12g, Bạch thược 12g, Trần bì 12g Xuyên khung 12g, Cam thảo 12g, Thục linh 12g, Nhục thung dung 12g, Tần giao 8g, Tục đoạn 8g, Mộc qua 8g, Kỷ tử 20g, Thường truật 8g, Độc hoạt 8g, Đỗ trọng 8g, Đại hồi 4g, Nhục quế 4g, Cát tâm sâm 20g, Cúc hoa 12g, Đại táo 10 quả. - Cách ngâm: 24 vị thuốc trên ngâm với hai lít rưỡi rượu tốt trong vòng 7 ngày. Lấy 150g đường phèn nấu với một xị nước sôi cho tan, để nguội rồi đổ vô keo rượu thuốc, trộn đều, đến ngày thứ 10 đem dùng dần. Ngày 3 lần, mỗi lần 1 ly nhỏ, sáng, trưa, chiều trước bữa ăn. Bã thuốc còn lại ngâm nước hai với một lít rưỡi rượu ngon - một tháng sau dùng tiếp. Vĩnh Khang - ĐVO Bí ẩn “thần dược” Minh Mạng thang Lâu nay, dân gian vẫn truyền tụng về toa thuốc bổ có khả năng tăng cường sinh lực với những cái tên vô cùng hấp dẫn như Nhất dạ lục giao hay Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử, cũng có nơi gọi Lục giao tam dựng và cho rằng đó là toa thuốc mà vua Minh Mạng đã dùng. Nhưng toa thuốc Minh Mạng thang thần bí này.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> xuất phát từ đâu, trong hàng chục toa đang lưu truyền toa nào là gốc, công dụng thực của nó ra sao? Từ những toa thuốc được công bố Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, từ trước năm 1975, trên một số báo chí, sách đông y và y học dân tộc ở miền Nam đã xuất hiện các công bố về toa thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử. Nhật báo Sống (Sài Gòn) số ra ngày 27.4.1968 đã đăng một toa thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử với 25 vị thuốc bắc. Đến năm 1987, lương y Lê Văn Sơn, với sự trợ giúp của lương y Bùi Văn Nông, thuộc Tổ chẩn trị y học dân tộc - Trạm y tế Tân Đông Hiệp và Tân Bình (Thuận An Sông Bé) đã xuất bản ấn phẩm (lưu hành nội bộ) Những phương thuốc bổ và trường xuân, trích dịch từ sách Vạn bệnh hồi xuân. Trong ấn phẩm này có giới thiệu một bài thuốc với tiêu đề Toa rượu bổ của vua Minh Mạng dùng. Theo đó, bài thuốc gồm 22 vị, có hướng dẫn cách ngâm rượu và cách dùng cũng như mô tả 6 công dụng đặc biệt: đại bổ khí huyết, tăng cường sinh lực, bồi bổ thần kinh; ngăn ngừa bệnh tật, trị khỏi đau lưng, nhức mỏi và bồi bổ cho sản phụ; người liệt dương (uống từ 1 - 2 tháng có thể có con); người khản tiếng, nói không to, uống thuốc nói được to tiếng; thận yếu lâu, bán thân bất toại, đi đứng không được, uống thuốc rượu này rất tốt; người gần chết, uống vào có thể sống lại 3 ngày nữa; già lão 60 tuổi, uống vào tăng tuổi thọ rất nhiều, đêm ngủ không mộng mị, không bị táo bón.. Vua Minh Mạng (tranh tư liệu) Tuy ghi là toa rượu bổ của vua Minh Mạng, nhưng các tài liệu trên hoàn toàn không hề trích dẫn nguồn gốc bài thuốc, có liên quan đến Thái y viện triều Nguyễn hay không..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Từ những bài thuốc được công bố này, nhà nghiên cứu Phan Thuận An đã đối chiếu với các tư liệu lịch sử ghi chép về vua Minh Mạng để thực hiện bài viết Toa thuốc bổ Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử của vua Minh Mạng đăng trên tạp chí Sông Hương số xuân Tân Mùi (1991). Nhà vua “quá khỏe” Theo tác giả Phan Thuận An, trong số 13 đời vua nhà Nguyễn thì chỉ có 2 vị vua tỏ ra quan tâm nhiều nhất đến tổ chức, hoạt động và hiệu quả của Thái y viện, đó là vua Minh Mạng (trị vì từ 1820 - 1840) và vua Tự Đức (trị vì 1847-1883). Hai vua đều có lý do khác nhau, trong đó vua Tự Đức quan tâm vì thể chất đau yếu bẩm sinh, tai biến của bệnh đậu mùa biến chứng dẫn đến “bất lực”, rất muốn có con để truyền ngôi.. Rượu Minh Mạng thương phẩm được sản xuất đại trà hiện nay - Ảnh: B.N.L Còn vua Minh Mạng thì lại khác. Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả (NXB Thuận Hóa, 1995), nhà vua chính thức có 43 phi, tần. Tuy vậy, cho đến nay, chưa ai biết vua Minh Mạng có bao nhiêu cung nữ, vì sử sách không ghi rõ. Bộ Minh Mạng chính yếu của Quốc Sử quán triều Nguyễn chỉ tiết lộ, vào tháng giêng năm Minh Mạng thứ 6 (tháng 2.1825) trong kinh kỳ ít mưa, nhà vua thấy hạn làm lo, chỉ dụ cho quan Thượng Bảo khanh là ông Hoàng Quýnh rằng: “Hai ba năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghĩ xem vì đâu mà thế, nhưng chưa tìm ra nguyên nhân, có lẽ trong thâm cung, cung nữ nhiều nên âm khí uất tắc mà nên vậy ư? Nay bớt đi, cho ra một trăm người, ngõ hầu có thể trừ thiên tai vậy”. Con số bớt đi mà đã tới 100 cung nữ, vậy số còn lại trong cung chắc hẳn phải là vài trăm trở lên. Trong cuốn Kể chuyện các đời vua nhà Nguyễn do Nguyễn Viết Kế sưu soạn (NXB Đà Nẵng, 1996) viết: “Bình nhật, khi nghỉ ngơi, vua có 5 bà vợ hầu hạ: một bà vấn thuốc têm trầu, một bà quạt, một bà đấm bóp, một bà ru và một bà để sai vặt. Mỗi.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> đêm, vua cho thái giám gọi 5 bà vào hầu. Mỗi bà một canh. Hết 5 canh thì danh sách các bà được chuyển giao cho Tôn Nhơn phủ giữ để tiện theo dõi việc khai hoa nở nhụy của các bà sau này”. Từ những so sánh ấy mà người ta đã suy diễn ra rằng “nhà vua cần tăng lực để thỏa mãn thú vui xác thịt với hàng trăm bà vợ trong cung”. Cũng theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, tương truyền một số lương y hiện nay ở Huế có nghe các vị ngự y tiền bối kể lại rằng vua Minh Mạng đã xài phí sức lực vào việc giới tính từ rất sớm, ngay từ thời còn là hoàng tử. Một thời gian trước khi lên ngôi (năm 1820, vua 29 tuổi), ông đã rất yếu về đường sinh dục. Cho nên sau khi đăng quang, vua đã ra lệnh cho các quan ngự y phải cố gắng giúp mình lấy lại sức khỏe. Do đó, các ngự y đã “đối chứng lập phương” làm ra thang thuốc bổ ngâm rượu để nhà vua dùng hằng ngày và thang thuốc này rất hiệu nghiệm. Và hiệu nghiệm đầu tiên rất cụ thể đó là về mặt sinh lý, nhà vua đã sinh được 78 hoàng tử và 64 hoàng nữ. Hiệu nghiệm thứ hai đó là về mặt tinh thần, trí tuệ. Lịch sử cho thấy 20 năm trị vì, vua Minh Mạng đã làm được rất nhiều việc tốt đẹp cho đất nước trên nhiều lĩnh vực hành chánh, kinh tế, văn hóa, xã hội... Có thể nói thời Minh Mạng là đỉnh cao của vương triều Nguyễn. Vì công hiệu của toa thuốc mà nhà vua đã dùng ấy, các quan lớn trong triều đã “phạm thượng” bí mật sao chép mang về để dùng, rồi sau đó lan truyền trong dân gian. Thêm một cứ liệu nữa khiến người ta quy kết những toa thuốc có tên Nhất dạ lục giao là toa thuốc của vua Minh mạng, bởi vì tương truyền, chính vua Minh Mạng đã từng có thơ nhắc đến việc Nhất dạ lục giao tam hữu dựng (một đêm 5 lần giao hợp, 3 lần có con). Câu thơ này được tác giả Phạm Khắc Hòe, Ngự tiền văn phòng Đổng lý thời vua Bảo Đại chép trong sách Kể chuyện vua quan triều Nguyễn (NXB Thuận Hóa xuất bản năm 1990). Từ câu thơ này mà nhiều người cho rằng chính những bài thuốc lưu truyền trong dân gian với tên gọi như: Nhất dạ lục giao, Nhất dạ ngũ giao, Lục giao tam dựng, Ngũ giao tam dựng... là toa thuốc của vua Minh Mạng dùng..

<span class='text_page_counter'>(29)</span>

×