Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Quy chế pháp lý của người Việt Nam ở nước ngoài – liên hệ với quy chế pháp lý của người Việt Nam tại Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.53 KB, 67 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay xu thế toàn cầu hóa đã và đang dần dần thống lĩnh trên toàn thế
giới. Có thể nói không một quốc gia nào là không nằm trong quỹ đạo toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa diễn ra hầu hết trên mọi mặt của đời sống xã hội. Cùng với dòng chảy
toàn cầu hóa là các dòng chảy di dân trên toàn thế giới. Bằng việc Hòa Kỳ tháo bỏ
cấm vận đối với Việt Nam năm 1994, và sự gia nhập của Việt Nam vào các tổ chức
quốc tế như ASEAN năm 1995, WTO năm 2007 v.v … hay các diễn đàn lớn như
APEC 1998, ASEM 1994 v.v … và đặc biệt là với đường lối đổi mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam, với chính sách đối ngoại rộng mở của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan
hệ quôc tế. “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới” trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và trên cơ sở các bên
cùng có lợi. Với chính sách đó Nhà nước Việt Nam đã và đang hướng tới xây dựng
một nền ngoại giao nhân dân đượm tình hữu nghị với tất cả các dân tộc trên toàn
thế giới.
Để thực hiện những chủ trương, chính sách đó của Đảng và Nhà nước, Nhà
nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề
người Việt Nam ở nước ngoài. Nhưng do tình hình thế giới không ngừng vận động
và thay đổi, các quan hệ kinh tế quốc tế cũng như các giao lưu dân sự giữa công
dân Việt Nam với nước ngoài cũng không ngừng vận động và thay đổi theo. Hơn
nữa các giao lưu dân sự có yếu tố nước ngoài thường có tính phức tạp dẫn đến các
văn bản đó chưa kịp thời điều chỉnh được những quan hệ này. Vì vậy đã hạn chế rất
nhiều vào sự phát triển kinh tế của đất nước cũng như cản trở rất nhiều cho chính
sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tuy vậy cho đến nay, theo thống kê chưa đầy đủ, vẫn có khoảng 2,7 triệu
người Việt Nam đang sinh sống ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80%


ở các nước công nghiệp phát triển (Hoa kỳ khoảng 1,3 triệu người; Pháp, Ôt-xtrây-
lia mỗi nước khoảng 250 nghìn; Ca-na-đa 200 nghìn; Căm-pu-chia, Thái Lan,
Đức, Nga – mỗi nước khoảng 100 nghìn; Đài Loan 65 nghìn; Anh 35 nghìn; Séc 25
nghìn; Lào 18 nghìn; Trung Quốc, Ba Lan, Bỉ, Thuỵ Điển – mỗi nước trên dưới 10
nghìn v.v ...). Phần đông bà con ngày càng ổn định cuộc sống và hòa nhập vào xã
hội nơi cư trú, có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế, chính trị - xã hội ở nước sở
tại, có tác động ở mức độ khác nhau tới mối quan hệ giữa các nước đó với Việt
Nam. Bên cạnh đó, trong những năm qua hàng trăm nghìn người Việt Nam đã ra
nước ngoài lao động, học tập, tu nghiệp, đoàn tụ gia đình, hình thành các cộng
đồng người Việt Nam tại một số địa bàn mới như Hàn Quốc, Đài loan, Nhật bản,
Malaysia v.v ...
Là một sinh viên nước ngoài sinh sống và học tập tại Việt Nam, em luôn
mang trong mình một hòa bão lớn – hoài bão được đóng góp một phần công sức
nhỏ bé của mình vào sự nghiệp phát triển tình hữu nghị Việt - Lào đã được hai
Đảng, hai nhà nước và nhân dân hai nước dầy công vun đắp. Xuất phát từ nhu cầu
của người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là ở Lào và xuất phát từ những hạn chế
nhất định của các quy chế pháp lý của người Việt Nam ở nước ngoài, cũng như
xuất phát từ hòa bão mong muốn vun đắp tình hữu nghị Việt – Lào, em đã chọn đề
tài: “Quy chế pháp lý của người Việt Nam ở nước ngoài – liên hệ với quy chế
pháp lý của người Việt Nam tại Lào” làm đề tài nghiên cứu của Khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nhằm hướng tới nghiên cứu một cách toàn diện về “Quy chế pháp
lý của người Việt Nam ở nước ngoài” trong đó có “ liên hệ với quy chế pháp lý
của người Việt Nam tại Lào”.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về quy chế này từ đó giúp chúng ta nhận
thức rõ hơn thực trạng và đưa ra những giải pháp cần thiết thúc đẩy các quan hệ
giao lưu dân sự quốc tế giữa Việt Nam và nước ngoài cũng như đưa tình hữu nghị

Việt - Lào lên tầm cao mới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu có tính chủ đạo của
Khóa luận là tổng hợp, phân tích, so sánh dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng như sử dụng các số liệu về người
Việt Nam ở nước ngoài v.v …
4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của Khóa luận
Với Khóa luận này, tác giả sẽ làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của quy chế pháp lý của người Việt Nam ở nước ngoài. Hiểu hơn nữa về quy chế
pháp lý của người Việt Nam tại Lào, thấy được thực trạng của các quy chế đó và
giúp chúng ta có một cái nhìn đúng đắn, tổng thể về các quy chế và số người Việt
Nam đang sinh sống, làm việc và học tập ở nước ngoài.
Khóa luận còn nêu lên một số vấn đề đặt ra, chỉ ra mối liên hệ và tác động
qua lại của các quy chế pháp lý đó đối với thực trạng người Việt Nam đang sinh
sống học tập ở nước ngoài, từ đó đưa ra những ý kiến đề xuất là những việc cần
phải làm trong thời gian tới.
5. Kết cấu của Khóa luận
Khóa luận bao gồm: Lời nói đầu, Nội dung và Kết luận
Phần nội dung gồm có 3 chương:
Chương I: Khái quát về quy chế pháp lý của người Việt Nam ở nước ngoài
Chương II: Địa vị pháp lý của người Việt Nam ở nước ngoài (tại Lào)
Chương III: Thực trạng người Việt Nam ở nước ngoài tại Lào và giải pháp
nhằm hoàn thiện quy chế pháp lý cho người Việt Nam ở nước ngoài.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
Ở NƯỚC NGOÀI
1. Thực trạng người Việt Nam định cư ở nước ngoài
1.1. Khái niệm

Hiện nay có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam định cư tại 98 quốc gia và
vùng lãnh thổ khác trên thế giới. Đây là một lực lượng Kiều bào không nhỏ. Khi trở
về Việt Nam, Kiều bào sẽ tham gia vào tất cả các quan hệ pháp luật.
Trong các văn bản pháp quy trước năm 1982, người ta dùng thuật ngữ “Việt
kiều”, “người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài”, một số văn bản sử dụng thuật
ngữ “người Việt Nam ở nước ngoài” để chỉ khái niệm “người Việt Nam định cư ở
nước ngoài”.Quyết định số 84 – HĐBT ngày28/07/1983 của Hội đồng Bộ trưởng
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Việt Kiều Trung ương là văn bản đầu
tiên sử dụng thuật ngữ “người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. Từ đó đến nay
thuật ngữ này được sử dụng thống nhất ở các văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên,
lại có sự không thống nhất ở một số văn bản khi đưa ra định nghĩa “người Việt
Nam định cư ở nước ngoài”.
Theo pháp luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) ngày 20/05/1998
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1999 thay thế Luật khuyến khích đầu tư trong
nước đã được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ V thông qua ngày 22/06/1994, tại
Điều 2 Điểm 6 thì: “người Việt Nam định cư ở nước ngoài” là công dân Việt Nam
và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Ngay sau
đó, các quy định hướng dẫn thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi)
ngày 20/05/1998 đưa ra khái niệm “ người Việt Nam định cư ở nước ngoài” chưa
thật thống nhất với văn bản nói trên. Ví dụ : Nghị định số 07/1998/NĐ – CP ngày
15/01/1998 quy định chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa
đổi) ngày 20/051998, tại Điều 5 có định nghĩa: “ người Việt Nam định cư ở nước
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngoài (sau đây gọi tắt là người Việt Nam ở nước ngoài) bao gồm người có quốc
tịch Việt Nam định cư ở nước ngoài và người gốc Việt Nam có quốc tịch nước
khác”. Như vậy, Nghị định này đã đồng nhất hai khái niệm “người Việt Nam định
cư ở nước ngoài” và khái niệm “người Việt Nam ở nước ngoài”. Mặt khác, Nghị
định này còn loại bỏ một trường hợp là người gốc Việt Nam chưa nhập quốc tịch
của bất kỳ quốc gia nào đã thôi quốc tịch Việt Nam nhưng vẫn được coi là người

Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Nghị định số 51/1999/NĐ – CP của Chính phủ ngày 08/07/1999 quy định chi
tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) số 03/1998/QH 10 tại
Điều 3 cũng đưa ra định nghĩa “người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người gốc
Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”.
Có thể thấy cả hai Nghị định trên đều hướng dẫn thi hành Luật Khuyến khích
đầu tư trong nước (sửa đổi) thì đều đưa ra khái niệm “người Việt Nam định cư ở
nước ngoài” song lại gọi tắt khái niệm này là “ người Việt Nam ở nước ngoài”. Đây
là sự đồng nhất hai khái niệm khác nhau.
Luật Quốc tịch Việt Nam ngày 20/05/1998 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/1999 thay thế Luật Quốc tịch Việt Nam ngày 28/06/1988, tại Đièu 2 Khoản 4
định nghĩa “ người Việt Nam định cư ở nước ngoài được hiểu là công dân Việt Nam
và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn,sinh sống lâu dài ở nước ngoài”, để phân biệt
với khái niệm “người Việt Nam ở nước ngoài” được ghi nhận tại Khoản 3 Điều 2 là
công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam đang thường trú hoặc tạm trú ở nước
ngoài. Mặc dù hai khái niệm này cùng chỉ một đối tượng là công dân Việt Nam và
người gốc Việt Nam ở nước ngoài nhưng khác nhau ở chỗ: thời gian mà người Việt
Nam định cư ở nước ngoài sinh sống, cư trú ở nước ngoài nhìn chung thường dài
hơn khoảng thời gian mà người Việt Nam ở nước ngoài sống ở quốc gia sở tại.
Người Việt Nam ở nước ngoài là những người không định cư ở nước sở tại mà chỉ
sang nước đó để học tập hoặc đi công tác…
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tuy nhiên, theo thông tư liên tịch của Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Tư pháp
– Bộ Ngoại giao - Bộ Công an số 10/2000/TTLT/BKH – BTP – BNG – BCA ngày
15/08/2000 hướng dẫn việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài, theo Nghị định
số 51/1999/NĐCP ngày 08/07/1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) số 03/1998/QH 10 thì khái niệm “người
Việt Nam định cư ở nước ngoài” còn dùng để chỉ “người có quan hệ huyết thống
Việt Nam” bao gồm: người có cha đẻ, mẹ đẻ, hoặc ông nội, bà nội, ông ngoại, bà

ngoại, hiện nay hoặc đã từng có quốc tịch Việt Nam. Ngoài ra Thông tư này còn
quy định thủ tục xác nhận người có quốc tịch Việt Nam, mất quốc tịch Việt Nam,
xác nhận người gốc Việt Nam, người có quan hệ huyết thống Việt Nam.
Khi Nghị định số 81/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/11/2001 về việc
nguời Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở tại Việt Nam ra đời thì khái niệm
“người Việt Nam định cư ở nước ngoài” được ghi nhận tại Điều 2 của Nghị định.
Nghị định này đã định nghĩa khái niêm “người Việt Nam định cư ở nước ngoài”
theo tinh thần của Luật Quốc tịch Việt Nam ngày 01/01/1999: “Người Việt Nam
định cư ở nước ngoài theo Nghị định này là công dân Việt Nam và người gốc Việt
Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài đã được quy định tại Luật Quốc
tịch Việt Nam ngày 01 tháng 01 năm 1999”.
Để hiểu khái niệm “người Việt Nam định cư ở nước ngoài” một cách thông
nhất, đầy đủ trên tinh thần của các văn bản kể trên, chúng ta có thể chia người Việt
Nam định cư ở nước ngoài theo các nhóm sau:
Nhóm 1: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam cư
trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.
Đây là những người Việt Nam ở nước ngoài vẫn mang quốc tịch Việt Nam.
Trong quá trình cư trú, sinh sống, làm ăn ở nước ngoài họ có thể nhập quốc tịch của
một nước khác hoặc chưa có quốc tịch của bất kỳ quốc gia nào.
Nhóm 2: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là người gốc Việt Nam cư
trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đây là nhóm người đã thôi quốc tịch Việt Nam. Hiện nay họ có thể đã có
quốc tịch của các quốc gia khác hoặc chưa có quốc tịch của bất kỳ quốc gia nào
(người không quốc tịch) song họ vẫn là “người gốc Việt Nam”.
Thuật ngữ “người gốc Việt Nam” hiện nay có nhiều văn bản giải thích không
thông nhất. Ví dụ: Theo Thông tư số 2461/2001/TT-BNG ngày 05/10/2001 của Bộ
Ngoại giao hướng dẫn thực hiện Điều 1 Quyết định số 114/2001/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ về một số chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài thì

“người gốc Việt Nam” được hiểu là: “người hiện nay hoặc trước đây đã từng có
quốc tịch Việt Nam, nguời có cha đẻ, mẹ đẻ, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại
hiện nay hoặc trước đây đã từng có quốc tịch Việt Nam”. Cũng cách giải thích như
vậy nhưng Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT – BKH – BTP – BNG -BCA ngày
15/08/2000 lại sử dụng cho thuật ngữ “người có quan hệ huyết thống Việt Nam.
Dù được giải thích như thế nào, dù họ không còn mang quốc tịch Việt Nam
thì “người gốc Việt Nam” vẫn là một bộ phận của cộng đồng người Việt. Vì vậy,
Luật Quốc tịch Việt Nam đã ghi nhận chính sách đối với người gốc Việt Nam tại
Điều 6 (xem Luật Quốc tịch Việt Nam ngày 01/01/1999).
Với sự phân tích trên, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ
phận dân cư không nhỏ. Chúng ta cần phải đánh giá đúng vai trò của họ. Thứ
trưởng Bộ Khoa Học Công nghệ Trương Văn Đoan khẳng định: “Cộng đồng Việt
kiều là một động lực lớn phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước. Với họ,dân tộc là
trên hết. Do vậy chúng ta cần quan tâm hơn nữa đến bộ phận dân cư Việt Nam này”
1.2. Về đặc điểm của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
Cũng theo đánh giá của Uỷ ban về người Việt Nam ở nưứoc ngoài
(UBNVNONN). Trong những năm gần đây , xu hướng phát triển của cộng đồng
người Việt Nam định cư ở nước ngoài ngày càng ổn định, hội nhập vào xã hội và
đất nước sở tại, tiếp thu các giá trị văn hoá nước sở tại đồng thời vẫn giữ gìn và
phát huy bản sắc dân tộc, từng bước có vị trí nhất định trong việc làm cầu nối cho
quan hệ giữa nước ta với các nước này. Hiện nay, đời sống của phần lớn của Kiều
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bào ta ở mức trung bình so với người dân sơ tại. Số người giàu có theo tiêu chuẩn
của các nước này càng tăng. Các doanh nghiệp của Kiều bào ta ngày càng lớn
mạnh. Sau hơn 1/4 thế kỷ hội nhập, vừa tích luỹ vừa mở rộng quan hệ làm ăn, bà
con đã bước đầu xây dựng được cơ sở cho cuộc sống ổn định lâu dài ở hầu hết các
nước và lãnh thổ.
Mặc dù tiềm lực kinh tế chưa lớn, nhưng cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài có tiềm năng trí thức đáng kể và rất đa dạng. Hàng trăm nghìn người được

đào tạo ở trình độ đại học hoặc là công nhân kỹ thuật bậc cao ở các nước phát triển,
có điều kiện tiếp cận với những thông tin và thành tựu mới về quản lý, khoa học và
công nghệ. Một số người hiện giữ những vị trí quan trọng trong các viện nghiên
cứu, trường đại học, bệnh viện,công ty doanh nghiệp lớn hoặc các tổ chức quốc tế.
Một thế hệ trí thức mới là những người gốc Việt đang hình thành và phát triển, nhất
là ở các nước Bắc Mỹ, Tây Âu và Ốt-xtrây-lia, tập trung ở nhiều lĩnh vực mũi nhọn
như tin học, viễn thông, điện tử, vật liệu mới, chế tạo máy, điều khiển học, sinh
học, quản lý kinh tế, chứng khoán…
Sợi dây tình cảm mà các thế hệ trước duy trì với quê cha đất tổ nay vẫn được
giữ gìn trong lòng thế hệ kế tiếp. Ở một số nước như Mỹ , Canada, Ốt-xtrây-lia,
Lào, Cămpuchia,Thái Lan, Anh, Đức, Nga, Séc…người Việt Nam sinh sống và làm
ăn tập trung thành những khu vực, thị trấn, khu phố riêng nên tạo được môi trường
thuận lợi cho việc giữ gìn tiếng Việt, bản sắc dân tộc và các sinh hoạt truyền thống.
Các sinh hoạt cộng đồng và nhất là việc dạy tiếng Việt chủ yếu do các hội đoàn
hoặc do các bà con tổ chúc trong từng gia đình. Tuy vậy, nhiều gia đình phải vật
lộn kiếm sống và ít có cơ hội về nước nên chưa có điều kiện chăm lo giữ gìn các
giá trị văn hóa Việt Nam. Do ở nước ngoài nhiều năm nên trong các gia đình 3-4
thế hệ thường có hiện tượng ông bà, bố mẹ còn nói với nhau bằng tiếng Việt nhưng
con cháu nói đuợc rất ít hoặc chỉ nghe hiểu mà không nói, không viết được tiếng
Việt. Cộng đồng người Việt hình thành tù năm 1975 trở lại đây, tuy phần lớn mới
chỉ có 2-3 thế hệ, nhưng thế hệ sinh trưởng ở nước ngoài cũng đang ngày càng ít
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nói được tiếng Việt. Do đó, nhu cầu giao lưu văn hoá giữa cộng đồng với đất nước,
nhu cầu giữ gìn tiếng Việt ngày càng trở nên bức xúc.
Nhiều người ra đi trong khoảng từ cuối tháng 4/1975 đến giữa những năm
1980 còn mặc cảm với quá khứ. Do chưa có điều kiện tiếp cận với nhữnh thông tin
trung thực về sự thay đổi ở quê nhà nên những người này ít nhiều còn thành kiến
với cuộc sống ở trong nước. Một số ít vẫn còn mang tư tưởng hận thù. So với nhiều
cộng đồng kiều dân khác trên thế giới đây là điểm khá điển hình của bộ phận Kiều

bào.
Tại các nước phương Tây, cuộc sống của Kiều bào tương đối ổn định, mặc
dù mức độ hội nhập về chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá – giáo dục… đều thấp
hơn so với các cộng đồng người Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ,Hàn Quốc. Một số người
Việt ở Mỹ, Ốt-xtrây-lia….đã được bổ nhiệm vào những chức vụ có ảnh hưởng nhất
định trong chính quyền như trợ lý bộ trưởng, thành viên trong nhóm cố vấn của
tổng thống, nghị sĩ bang, uỷ viên Hội đồng thành phố. Những người có thái độ
“trung gian” chiếm phần lớn trong cộng đồng, dù lúc này lúc khác bị các thế lực
cực đoan đe doạ, lôi kéo nhưng nhìn chung bà con tránh dính líu đến các hoạt động
chính trị, chỉ lo làm ăn và khi có điều kiện thì về nước thăm thân nhân, giúp gia
đình, đi du lịch hoặc tìm hiểu cơ hội đầu tư… Dư luận chung ngày càng quan tâm
đến chính sách và nhà nước đối với Kiều bào. Đa số bà con ở các nước khác, nhất
là Mỹ, hoan nghênh và ủng hộ Hiệp định Thương mại Việt Nam-Mỹ. Nhiều người,
nhất là giới trẻ, hăng hái thúc đẩy hoạt động đầu tư, kinh doanh hoặc giới thiệu các
đối tác nước ngoài vào Việt Nam làm ăn. Các Hội người Việt Nam và các tổ chúc
nghề nghiệp, đồng hương,từ thiện ở Pháp, Bỉ, Nhật, Đức, Ốt-xtrây-lia… đang có
nhữnh hoạt động đóng góp thiết thực hướng về đất nước.
Cuốc sống của người Việt Nam ở khu vực Đông Á và Liên Xô cũ đã có
những phát triển nhất định, nhưng chưa ổn định. Nhiều người không có ý định lập
việc lâu dài, thêm vào đó, dòng người nhập cư mới từ Việt Nam tiếp tục vào khu
vực này làm cho cộng đồng thêm phức tạp, phải đối mặt hàng ngày với nhiều khó
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khăn, nhất là về địa vị pháp lý và an ninh cộng đồng. Tình trạng phạm pháp trong
cộng đồng (tàng trữ ,sử dụng và giấy tờ giả mạo,cạnh tranh chèn ép nhau trong
kinh doanh…) khiến bà con không yên tâm làm ăn và ảnh hưởng xấu đến quan hệ
của cộng đồng người Việt với nhân dân địa phương nước sở tai.
Đáng chú ý là dù sống ở bất cứ nơi nào trên thế giới, cộng đồng luôn duy trì
mối quan hệ gần gũi với quê hương đất nước, mong muốn đất nước phát triển và
hội nhập quốc tế nhanh chóng. Tuy nhiên,có một bộ phận đồng bào do chưa hiểu

đúng về tinh hình đất nước nên còn có thái độ tiêu cực hoặc dè dặt đối với đất
nước, thậm chí có một số ít người đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc. Sự đóng
góp của bà con vào công cuộc xây dựng đất nước, nhất là về trí thức còn ít, chưa
phản ánh đúng tiềm năng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Qua đây chúng ta thấy so với các cộng đồng thiểu số khác, cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài là cộng đồng trẻ, năng đọng ,thông minh, nhanh chóng hoà
nhập vào đời sống nước sở tại, nhiều người đã có những thành công lớn trong hoạt
động kinh doanh, địa vị xã hội, học hàm học vị, nghiên cứu khoa học…Tuy nhiên,
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là cộng đồng phức tạp về thành phần xã
hội, xu hướng chính trị và đa dạng về nghề nghiệp, tôn giáo, dân tộc, đặc biệt chi
phối, phân hóa bởi sự khác biệt về giai tầng, chính kiến và hoàn cảnh ra đi cũng
như cư trú ở các địa bàn khác nhau, tính liên kết, gắn bó trong cộng đồng không
cao.
2. Chính sách có liên quan đối với người VIỆT NAM định cư ở nước ngoài
2.1. Chính sách đại đoàn kết dân tộc
Trong Văn kiện Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Động
lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân”. Quả thực như vậy, bởi
chính sách đại đoàn kết dân tộc là vấn đề to lớn của cách mạng Việt Nam, nó phản
ánh bản chất của chế độ chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong
công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như công cuộc xây dựng đất nước,
chính sách đại đoàn kết luôn được chú trọng hàng đầu. Đại đoàn kết là sức mạnh to
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lớn, là động lực mạnh mẽ để tập trung sức mạnh toàn dân vào công cuộc xây dựng
đất nước vì mục tiêu “Dân giầu - nước mạnh – xã hội công bằng – dân chủ - văn
minh”. Văn kiện Đại hội IX còn khẳng định: “Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc,
tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của
đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã
nghỉ hữu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước
hay nước ngoài”. Do đó, nhiều năm qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương,

chính sách chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của người Việt Nam định cư
ở nước ngoài, bởi họ là một bộ phận không thể tách rơi của cộng đồng Viêt. Cụ thể,
Đảng và Nhà nước đã triển khai rất nhiều các chương trình, kế hoạch phục vụ công
tác vận động Kiều bào theo hướng đoàn kết, hoà hợp dân tộc. Các cuộc toạ đàm tìm
hiểu chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với Kiều bào thường xuyên được tổ
chức. Nhà nước còn khuyến khích các tỉnh trong cả nước thành lập các Hội liên lạc
thân nhân Kiều bào. Đây là tổ chức gắn kết Kiều bào với người dân trong nước.
Tính đến năm 2002 đã có trên 20 tỉnh thành phố thành lập Hội liên lạc thân nhân
Kiều bào. Tháng 1/2002 Hội liên lạc người Viêt Nam ở nước ngoài được thành lập.
Hoạt động của các Hội đã làm cho Kiều bào càng tha thiết yêu quê hương đất nước,
càng muốn trở về sinh sống ở Việt Nam. Mong muốn đó xuất phát từ tình yêu quê
hương đất nước, từ ước muốn trở về nơi “chôn rau cắt rốn”, trở về với đại gia đình
Việt Nam. Ông Nguyễn Viết Thuân – Phó Chủ nhiệm Uỷ ban về người Việt Nam ở
nước ngoài của Thành phố Hồ Chí Minh nói: “Chúng tôi đang cố gắng tạo mọi
điều kiện để Việt kiều có thể hồi hương một cách dễ dàng”. Ông khẳng định:
“Chính phủ cũng coi đó là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam”.
Trên thực tế, sự giúp đỡ của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước
ngoài đã và đang khích thích những thay đổi của nền kinh tế trong nước một cách
rõ rệt. Có thể thấy, thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước có một phần góp tiền và trí lực không nhỏ của Kiều bảo. Do đó, Đảng và Nhà
nước đã đề ra những chính sách phù hợp cho nhóm đối tượng là người Việt Nam ở
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nước ngoài, khuyến khích họ tham gia vào khối Đại đoàn kết toàn dân. Trongbài
viết “ Cần đánh giá vai trò của Việt kiều trong khối Đại đoàn kết dân tộc” đăng trên
Tạp chí Quê hương số 10 năm 2003( trang 25) có lời của Thử trưởng Bộ Ngoại
giao Nguyễn Phú Bình: “Bà con người Việt Nam ở nước ngoài rất quan tâm đến
tiếng nói của Mặt trận Tổ quốc, vì đối với họ Mặt trận Tổ quốc là ngôi nhà chung và
có thể đứng ra bệnh vực họ”. Do vậy, Thứ trưởng cho rằng, trong Văn kiện Đại hội
VI của Mặt trận Tổ quốc cần phải dành riêng một phần lớn đánh giá vai trò của bộ

phận người Việt Nam ở nước ngoài trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế -
xã hội, củng cố khối Đại đoàn kết dân tộc. Cho nên,Văn kiện Đại hội VI một lần
nữa khẳng định: “… đồng bào định cư ở nứoc ngoài là một bộ phận không thể tách
rơi và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam”.
Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay luôn coi trọng và đánh giá cao sự
đóng góp của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đối với sự nghiệp đấu tranh
giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng đất nước. Từ đó, đã có
nhiều chủ trương, chính sách cởi mở đối với Kiều bảo - thể hiện đúng chính sách
Đại đoàn kết dân tộc, phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng trong đó
không thể không đề cập tới chính sách đầu tư và chính sách đất đai.
2.2. Chính sách thu hút đầu tư
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới và mở cửa, cho nên Đảng và Nhà
nước cũng rất quan tâm đến các khuynh hướng mới của thời đại trên thế giới. Xu
hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế chính trị có tác động không nhỏ tới sự phát
triển của mỗi quốc gia. Việt Nam đã khẳng định ngay trong chính sách đối ngoại tại
Văn kiện Đại hội IX là cần phải “đa dạng hoá – đa phương hoá các quan hệ kinh tế
đối ngoại” trong đó coi việc thu hút đầu tư trực tiếp vào Việt Nam là một chiến
lược quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Để thực hiện chính sách thu hút người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu
tư ở Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã áp dụng Nhiều biện pháp khác nhau, ví dụ:
xoá bỏ hệ thống hai giá vé máy bay, xe lửa đối với họ; cho họ hưởng nhiều ưu đãi
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mua sắm theo giá như người dân trong nước; được hưởng một số ưư đãi về tài
chính và được cấp giấy phép nhanh hơn trước rất nhiều.
Trước yêu cầu của quá trình hội nhập toàn cầu, hội nhập khu vực thì việc tạo
ra một môi trường đầu tư an toàn và sinh động là điều cần thiết. quá trình ban hành
các văn bản pháp luật của Nhà nước góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư còn
nhiều hạn chế ở Việt Nam. Phải thấy rằng, sự ra đời của luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam1987, sau đó là Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994, đã tạo ra

một hành làng pháp lý khá thuận lơị cho việc thu hút đầu tư vào Việt Nam. Tuy
nhiên, trên thực tế thành tựu thu được từ hoạt động đầu tư còn thấp. Đó là do nhận
thức và quan điểm về đầu tư của các cấp, các ngành chưa thực sự thông suốt và
thống nhất, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý, các điều kiện pháp lý của hoạt động
đầu tư còn nhiều khắt khoe và hạn chế…Tất cả những nguyên nhân đó làm cho môi
trường đầu tư của Việt Nam còn thiếu hấp dẫn, khiến cho các nhà đầu tư cảm thấy
không yên tâm khi rót vốn vào Việt Nam. Vì vậy, Nhà nước không ngừng hoàn
thiện các văn bản pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tế của đất nước. Ngày
09/06/2000 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài,
kèm theo nó là Nghị định số 24/NĐ – CP ngày 31/07/2000 hướng dẫn thi hành
Luật Đầu tư nước ngoài. Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000 đã đưa ra những biện
pháp khá cụ thể để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài ( trong đó là nhà
đầu tư là người Việt Nam định cư ở nước ngoài ): “…trong trường hợp do những
thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài…thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục được
hưởng các ưu đãi đã quy định trong Giấy phép đầu tư và Luật này hoặc được Nhà
nước giải quyết thoả đáng ”(Khoản 1 Điều 21a ).Theo khoản 1 Điều 21a Luật Đầu
tư nước ngoài thì “Các quy định mới ưu đãi hơn được ban hành sau khi được cấp
Giấy phép đầu tư sẽ được áp dụng cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và
bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh”. Những quy định này cũng được Luật
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998 thừa nhận để áp dụng với các chủ thể
đầu tư trong đó có ngưòi Việt Nam định cư ở nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam.
Hiện nay, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có thể tự do lựa chọn hình
thức đầu tư vào Việt Nam theo Luật Đầu tư trong nước hoặc Luật đầu tư nước
ngoài. họ có thể tự bản thân hoặc liên kết với ngoài trong nước thành lập doanh
nghiệp mới hoặc góp vốn, cổ phần vào các doanh nghiệp sẵn có trong nước thuộc
thành phần kinh tế tư nhân hay Nhà nước. Theo thống kê chưa đầy đủ, người Viẹt
Nam định cư ở nước ngoài đã thành lập 9 doanh nghiệp trong năm 2003 theo Luật

Đầu tư nước ngoài tai Việt Nam với 32 triệu USD vốn đăng ký( tăng 50% so với
năm 2002). Cũng trong năm 2003, họ cũng mới thành lập 200 doanh nghiệp theo
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước với tổng vốn 1.200 tỉ VND được đăng ký,
đưa tổng số doanh nghiệp theo luật này đến nay lên tới 1.200 doanh nghiệp với
tổng số đăng ký là 2.200 tỉ VND. Lĩnh vực đầu tư của Kiều bào khá rộng như: công
nghiệp, nông - lâm nghiệp,du lịch, dịch vụ y tế, giáo dục đào tạo, tin học, sản xuất,
lắp ráp, phát triển công nghệ…Nhiều dự án lớn giá trị hàng trăm tỷ đồng do người
Việt Nam định cư ở nước ngoài đã thực hiện. Ví dụ: khu khách sạn và nhà nghỉ
dưỡng cao cấp Vinperl Resort & SPA (5 sao)tại đảo Hon Tre, Nha Trang vừa mới
khánh thành ngày 18/12/2003 với đầu tư ban đầu gần 500 tỷ đồng của Tập đoàn
Technocom do anh Phạm Nhật Vượng và anh Vũ Viết Lam đứng đầu. Tập đoàn
này cũng đang đầu tư khoảng 500 tỷ đồng nữa xây dựng khu trung tâm thương mại
lớn ở Hà Nội, dự định sẽ khánh thành vào giữa năm 2004.
Cùng với việc đầu tư tăng lên, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã
mang về nước nhiều công nghệ và cách làm ăn mới mẻ, hiệu quả, đem về các kỹ
thuật và công nghệ phù hợp với điều kiện công nghệ của Việt Nam. Nhu cầu đuợc
trở về đầu tư vào Việt Nam của họ càng ngày gia tăng. Nếu năm 1987 mới chỉ có
8.000 Việt kiều trở về thăm quê thì 10 năm sau (1997) con số ấy tăng lên 20 lần –
160.000 người. Năm 2002 là 380.000 người.Người Việt Nam định cư ở nước ngoài
khi trở về quê hương không chỉ nặng tình cảm, tâm tư mà còn mang cả chất xám và
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những ấp ủ được làm giàu ngay trên chính quê hương mình. Trong suốt 10 năm
qua, với chính sách thông thoáng về kiều hối của Nhà nước, lượng kiều hối năm
sau boa giờ cũng cao hơn năm trước. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước thì
riêng năm 2003 lượng kiều hối đạt hơn 2,58 tỉ USD (tăng đột biến tới 20% so với
2,45 tỉ USD của năm 2002). Ông Nguyễn Văn Thuận – Phó chỉ nhiệm Uỷ ban về
người Việt Nam ở nước ngoài của Thành phố Hồ Chí Minh cho biết :“số tiền mà
Kiều bào gưỉ về nước tăng thêm hàng năm, con số 2,58 tỉ USD chỉ bao gồm lượng
tiền chuyển về kênh chính thức. Dựa vào một vài thống kê khác con số đó có thể lên

đến 4 tỉ USD”. Đây là một lượng kiều hối không nhỏ. Kiều hối đã giúp thân nhân
Kiều bào trong nước cải thiện đời sống, có vốn để mở rộng sản xuất, tạo thêm công
ăn việc làm, nâng cao thu nhập… Mặt khác, lượng Kiều hối này còn giúp ngân
hàng ổn định tỷ giá hối đoái trong nước, góp phần cân đối nguồn ngoại tệ trong
thanh toán thương mại, kích thích cầu thương mại và đầu tư: Vì vậy, chúng ta cần
có những chính sách thu hút đầu tư hay hơn nữa để Kiều bào có thêm cơ hội góp
phần xây dựng đất nước. Chính phủ Việt Nam đã tạo điều kiện hơn trước rất nhiều
để Kiều bào gửi tiền về cho họ hàng thân thuộc. Tiền gửi về không còn bị đánh
thuế thu nhập nữa. Ngoài ra, Chính phủ còn co những hoạt động thúc đẩy sự hợp
tác phát triển mô hình kinh doanh hiện đại. Ví dụ: ở Cộng hoà Séc hiện nay có gần
30.000 người Việt Nam buôn bán nhỏ và gần 200 doanh nghiệp của người Việt
Nam. Cộng đồng người Việt nam đã thiết lập mạng lưới kinh doanh dầy đặc khắp
Cộng hoà Séc. Ngoài ra,Chính phủ còn triển khai chương trình chuyển giao tri thức
qua Kiều dân (TOKTEN) từ năm 1989. Từ đó đến nay đã mời được khoảng 40 tri
thức về nước làm việc.
Những kết quả trên là thành công của việc triển khai chính sách thu hút đầu
tư của Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng sự đóng góp
sức lực và trí tuệ của Kiều bào trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Chính phủ Việt
Nam tha thiết kêu gọi sự trở về của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, vì đó là
một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Chắc chắn rằng
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cùng với sự phát triển của đất nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi đầu
tư vàoViệt Nam sẽ còn được hưởng ưu đãi nhiều hơn thế.
3. Quy chế pháp lý của người VIỆT NAM định cư ở nước ngoài trong lịch sử
3.1. Về quá trình hình thành người VIỆT NAM định cư ở nước ngoài
Uỷ ban về người Việt Nam ở nước (UBVNONN) đã có bài đánh giá chung
về cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài trong đó có đoạn viết về “quá trình hình
thành người Việt Nam ở nước ngoài”như sau; Cách đây hàng trăm năm đã có ngưòi
Việt Nam ra nước ngoài sinh sống. Lịch sử còn ghi lại vào thế kỷ 12 con cháu họ

Lý đã sang Hàn Quốc lập nghiệp. Thế kỷ 17 có người Việt Nam sang làm ăn tại
Cămpuchia. Thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ 19 người Việt sang lánh nạn và làm ăn tại
Cămpuchia, Lào, Thái lan, Trung Quốc.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai,một số người Việt đi du học, làm
công chức tại Pháp hoặc bị động viên đi lính, đi phu tại một số thuộc địa của Pháp.
Trong thời kỳ chiến tranh, có thêm một số người ra đi lánh nạn, kiếm sống, theo
chồng hồi hương hoặc đi tu nghiệp, du học ở nước ngoài. Tuy nhiên, trước năm
1975 số lương người Việt Nam ở nước ngoài không lớn khoảng 16 -20 vạn người,
phần đông số này có tư tưởng sinh số tạm thời,chờ điều kiện thuận lợi trở về nước
và chủ yếu là ở các nước láng giềng Lào , Căm pu chia, Thái lan.
Từ sau năm 1975, đã có sự thay đổi sâu sắc về số lượng, thành phần, tính
chất cũng như địa bàn sinh sống của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Số
người ra đi (di tản trước 4/1975, vượt biên trong các năm 1978 – 1980, theo
chương trình ra đi có trật tự và nhân đạo 1980 – 1996) đã lên tới khoang 2 triệu
người tới Mỹ, Canada, Nhật Bản, các nước Tây và Tây Bắc Âu…Thêm vào đó sau
năm 1980, một số khá đông sinh viên,thực tập sinh và lao động Việt Nam ở các
nước XHCN Liên xô, Đông Âu cũ ở lại làm ăn.
Đến nay,theo thống kê chưa đầy đủ, có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam
đang sinh sống ở hơn 90 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80% ở các nước
công nghiệp phát triển (Hoà Kỳ khoảng 1,3 triệu người; Pháp, Ôt-xtrây-lia mỗi
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nước khoảng 250 nghìn; Canada 200 nghìn; Cămpuchia Thái Lan, Đức, Nga mỗi
nước khoảng 100 nghìn người; Đài Loan 65 nghìn; Anh 35 nghìn;Séc 25 nghìn;
Lào 18 nghìn; Trung Quốc, Ba Lan, Bỉ, Thuỷ Điện mỗi nước trên dưới 10
nghìn…). Phần đông bà con ngày càng ổn định cuộc sống và hoà nhập vào xã hội
nơi cư trú, có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế, chính trị - xã hội ở nước sở tại,
có tác động ở mức độ khác nhau tới mỗi quan hệ giữa các nước đó với Việt Nam.
Bên cạnh đó, trong những năm qua hàng trăm nghìn người Việt Nam đã ra nước
ngoài lao động, học tập, tu nghiệp, đoàn tụ gia đình, hình thành các cộng đồng Việt

Nam tại một số địa bàn mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Malaysia…
Như vậy có thể thấy những người Việt Nam đầu tư đặt nền móng cho quá
trình hình thành cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài cách đây đã hàng
trăm năm, trải qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử cho đến trước năm 1975 cộng
đồng nguời Việt Nam định cư ở nước ngoài không có nhiều biến động với số lượng
ít ỏi vài trăm ngàn người. Sau sự kiện lịch sử năm 1975 vì nhiều lý do cộng đồng
người Việt Nam định cư ở nước ngoài tăng lên nhanh chóng, nếu như trước năm
1975 chỉ có khoảng 200.000 người thì sau năm 1975 con số đã lên tới hơn 2 triệu
người. Cho tới nay cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã đi vào ổn
định, ngày càng gây được tiếng vang nơi xứ người và vẫn giữ được những đặc
trưng, những nét văn hoá truyền thống của dân tộc Việt.
CHƯƠNG II
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI
(THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ LÀO)
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của người Việt Nam ở nước ngoài
1.1. Năng lực pháp luật
1.1.1. Theo pháp luật Việt Nam
Cá nhân là chủ thể đầu tiên của các quan hệ xã hội, là “tổng hoà các mối
quan hệ xã hội”. Cá nhân – con người là trung tâm của chính sách kinh tế, xã hội
mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện với mục đích phục vụ con người, vì
con người. Trong các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân mà luật dân sự điều
chỉnh thì cá nhân là chủ thể nguyên sinh, đầu tiên và các chủ thể khác tham gia vào
các quan hệ dân sự cũng thông qua hành vi của con người. Để tham gia vào quan
hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng, cá nhân phải có tư cách chủ thể để
tham gia vào các quan hệ dân sự. Đây là năng lực chủ thể được tạo thành bởi năng
lực pháp luật và năng lực hành vi.
“Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền
dân sự và có nghĩa vụ dân sự” ( Khoản 1 Điều 14 BLDS năm 2005). Năng lực pháp

luật dân sự của cá nhân là khả năng, là tiền đề, điều kiện cần thiết để công dân có
quyền, có nghĩa vụ; là thành phần không thể thiếu được của cá nhân với tư cách
chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, là một mặt của năng lực chủ thể.
Đặc điểm của năng lực pháp luật của cá nhân bao gồm:
- Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được Nhà nước ghi nhận trong các
văn bản pháp luật mà nội dung của nó phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội; vào hình thái kinh tế - xã hội tại thời điểm lịch sử nhất định.
Mặc dù được ghi nhận như là một bộ phận không thể thiếu được của các
nhân, như là một thực thể trong các quan hệ xã hội, năng lực pháp luật dân sự của
cá nhân không phải do tạo hoá ban cho như những nhà chính trị, triết học tư sản
thường suy diễn và kết luận, mà do nhà nước ghi nhận và quy định cho công dân
của nhà nước đó. Vì vậy, ở những hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, năng lực
pháp luật dân sự cũng được quy định khác nhau.
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong cùng hình thái kinh tế - xã hội nhưng ở những nước khác nhau thì
năng lực pháp luật dân sự của công dân cũng khác nhau, thậm chí khái niệm về
quyền dân sự cũng khác nhau ( năng lực pháp luật dân sự của công dân Cộng hoà
Pháp khác với năng lực pháp luật dân sự của công dân vương quốc Anh…)
Mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật, khoản 2 Điều 14 BLDS
quy định: “Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau”. Năng lực
pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế bởi bất cứ lí do nào (độ tuổi, địa vị
xã hội, giới tính, tôn giáo, dân tộc…). Mọi cá nhân công dân điều có khả năng
hưởng quyền như nhau và gánh chịu nghĩa vụ như nhau.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không đồng nghĩa với quyền dân sự
chủ quan của cá nhân mà chỉ là tiền đề để cho công dân có các quyền dân sự cụ thể.
Tuy nhiên, chủ thể không có khả năng hưởng quyền thì cũng không thể có quyền
dân sự cụ thể được.
- Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân do Nhà nước quy định cho tất cả cá
nhân nhưng Nhà nước cũng không cho phép công dân tự hạn chế năng lực pháp

luật của chính họ và của cá nhân khác. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là
thuộc tính nhân thân của chủ thể và không thể dịch chuyển cho chủ thể khác. Điều
16 BLDS quy định: “Nămg lực pháp luật dân sự của cá nhân không thể bị hạn chế,
trừ trường hợp do pháp luật quy định”. Như vậy, năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật. Có hai dụnh bị hạn chế sau:
+ Văn bản pháp luật chung quy định một loại người nào đó không được
phép thực hiện các giao dịch dân sựcụ thể. Ví dụ: Người nước ngoài không có
quyền sở hữu nhà ở nên không được phép mua bán nhà ở tại Việt Nam, trừ trường
hợp quy định tại Điều 125 Luật nhà ở.
+ Quyết định đơn hành của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ: Toà
án ra quyết định cấm cư trú đối với một người nào đó đã hạn chế năng lực pháp
luật cụ thể của người đó trong khoảng thời gian xác định.
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tuy vậy, về bản chất, đây không phải là tước bỏ năng lực pháp luật dân sự
mà chỉ là tạm đình chỉ khả năng này - khả năng biến quyền khách quan thành
quyền chủ quan của chủ thể riêng biệt. Việc hạn chế này chỉ đối với một số quyền
cụ thể mà không phải là năng lực pháp luật dân sự nói chung. Việc hạn chế năng
lực pháp luật dân sự không đồng nghĩa với việc tước bỏ một quyền dân sự cụ thể
(kê biên tài sản, tịch thu tài sản…).
Nội dung của năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
Pháp luật ghi nhận khả năng của cá nhân có quyền và nghĩa vụ nhân sự.
Tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho cá nhân gọi là nội dung
năng lực pháp luật dân sự cá nhân. Nội dung của năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân phụ thuộc và điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội trong những điều kiện lịch sử
nhất định. Những quyền dân sự của cá nhân được ghi nhận ở rất nhiều văn bản
pháp luật khác nhau nhưng quan trọng nhất là Hiến pháp năm 1992 và được cụ thể
hoá trong BLDS năm 2005.
Điều 15 BLDS quy định nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
một cách vắn tắt, những quyền dân sự cụ thể của cá nhân được ghi nhận trong tất cả

các phần của BLDS.
- Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.
Các quyền nhân thân không gắn với tài sản được quy định tại mục 2 – Chương III -
Phần thứ nhất của BLDS và quyền nhân thân gắn với tài sản được quy định ở phần
thứ sáu của BLDS. Đặc điểm quan trọng nhất trong các quy định về quyền nhân
thân trong BLDS là xác nhận lại các quyền nhân thân đã được ghi nhận trong các
văn bản pháp luật trước đó ( quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín…) và các
quyền nhân thân lần đầu tiên được ghi nhận ( các quyền đối với họ tên, thay đổi họ
tên - Điều 26,27; Quyền xác định dân tộc- Điều 28; quyền khai sinh, khai tử - Điều
29, 30; quyền với hình ảnh - Điều 31; quyền bảo đảm về an toàn về tính mạng, sức
khoẻ - Điều 32; quyền hiến xác, hiến bộ phận cơ thể, nhận bộ phận cơ thể - Điều
33, 34, 35; quyền xác định lại giới tính - Điều 36; Quyền được bảo vệ danh dự, uy
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tín - Điều 37; quyền bí mật đời tư - Điều 38…). Ngoài ra, bảo vệ, tôn trọng quyền
nhân thân còn được ghi nhận là một nguyên tắc quan trọng của BLDS (Điều 9
BLDS).
- Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản, quyền thừa kế. Cụ thể hóa
các quy định của Hiến pháp năm 1992, BLDS quy định tài sản thuộc sở hũu tư
nhân không bị hạn chế về số lượng và giá trị, bao gồm thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, vốn hoa lợi, lợi tức và các tài sản
hợp pháp khác. Cá nhân chỉ bị hạn chế quyền sở hữu đối với các tài sản mà pháp
luật mà pháp luật quy định không thuộc quyền sở hữu tư nhân.
Công dân có quyền hưởng di sản thừa kế, để lại di sản thừa kế theo di chúc
hoặc theo quy định của pháp luật.
- Quyền tham gia vào quan hệ dân sự và có các quyền nghĩa vụ phát sinh từ
các quan hệ đó.
Tham gia vào các quan hệ dân sự thông qua các giao dịch dân sự (hành vi
pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng ) là biện pháp quan trọng và thông dụng nhất
làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự. Các quyền này được thể hiện trong các

nguyên tắc của luật dân sự “ tự do, tự nguyện cam kết” (Điều 4 BLDS) và được thể
hiện cụ thể ,chi tiết trong Phần thứ ba của BLDS. Ngoài ra, nghĩa vụ dân sự của các
chủ thể còn phát sinh từ các căn cứ khác ( bồi thường thiệt hại, thực hiện công việc
không có uỷ quyền…)
Khoản 3 Điều 14 BLDS quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết”
Với quy định này, pháp luật thừa nhận năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
là thuộc tính gắn liền với cá nhân suốt đời và không bị ảnh hưởng bởi trạng thái
tinh thần, tuổi tác, hoàn cảnh, tài sản…
Một trường hợp ngoại lệ được pháp luật quy định là: “ Người sinh ra và còn
sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thừa kế chết” vẫn được hưởng di sản thừa kế của người chết để lại. Như vậy, thai
nhi đã bảo lưu quyền thừa kế nếu còn sống sau khi sinh ra.
1.1.2. Theo pháp luật nước Lào
"Cá nhân nước ngoài" là cá nhân có quốc tịch khác, chuyển đến nước
CHDCND Lào tạm thời hoặc trong một thời gian dài hơn để hoàn thành nhiệm vụ
và sau khi hoàn thành nhiệm vụ đó có thể sẽ trở lại quốc gia của mình. Những cá
nhân này sẽ chịu sự quản lý của Bộ Ngoại Giao và các cơ quan có thẩm quyền liên
quan.
“Người nước ngòai" là một người có quốc tịch nước khác, người chuyển đến
Lào và cư trú tại Lào trong một thời gian dài, người mà có chứng minh thư nước
ngoài hoặc quốc gia của người đó vẫn coi người ấy như công dân của nước mình.
“Người không quốc tịch” là một cá nhân cư trú tại lãnh thổ CHDCND Lào,
không phải công dân Lào và cũng không thể xác định được quốc tịch của ngườiđó.
Người nước ngoài và người không quốc tịch chịu sự quản lý của Bộ Quốc Phòng
và những cơ quan có thẩm quyền liên quan.
“Công dân nước ngoài” theo bộ luật này bao gồm cá nhân nước ngoài và
người nước ngoài.

1.2. Năng lực hành vi
1.2.1. Theo pháp luật Việt Nam
Tư cách chủ thể của cá nhân chỉ đầy đủ, hoàn thiện, độc lập khi có đầy đủ
năng lực hành vi dân sự, ngoài năng lực pháp luật dân sự vốn là thuộc tính được
pháp luật ghi nhận cho mọi cá nhân.
“Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi
của mình xác lập, thực hiện quyền nghĩa vụ dân sự” - Điều 17 BLDS. Nếu năng lực
pháp luật dân sự là tiền đề, là quyền dân sự khách quan của chủ thể thì năng lực
hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể để tạo ra các quyền, thực hiện
quyền và nghĩa vụ của họ. Ngoài ra, năng lực hành vi dân sự còn bao hàm cả năng
lực tự chịu trách nhiệm dân sự khi vi phạm nghĩa vụ dân sự.
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cùng với năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự là thuộc tính của cá
nhân, tạo thành tư cách chủ thể độc lập của cá nhân trong các quan hệ dân sự.
Mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân:
Nếu pháp luật quy định năng lực pháp luật của mọi cá nhân là như nhau thì
lại xác định năng lực hành vi của cá nhân không giống nhau. Những cá nhân khác
nhau có nhận thức khác nhau về hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện.
Việc nhận thức và làm chủ hành vi của cá nhân phụ thuộc vào ý chí và lí trí của cá
nhân đó, phụ thuộc vào khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của chính
họ. căn cú vào khả năng của cá nhân về hình thức và điều khiển được hành vi và
hậu quả của hành vi, pháp luật phân biệt mức độ năng lực hành vi dân sự của cá
nhân. Tuy nhiên khó tiêu chí để xác định khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
cá nhân, do đó độ tuổi của cá nhân được xem là tiêu chí chung nhất để phân biệt
mức độ năng lực hành vi của cá nhân.
- Năng lực hành vi đầy đủ
Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, trừ trường hợp bị tuyên bố mất năng lực hành vi hoặc hạn chế năng lực
hành vi dân sự. Pháp luật chỉ quy định độ tuổi tối thiểu mà không quy định độ tuổi

tối đa của những người có năng lực pháp luật dân sự đầy đủ. Những người này có
đầy đủ tư cách chủ thể, toàn quyền tham gia vào quan hệ dân sự với tư cách là chủ
thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về những hành vi do họ thực hiện. Những người
từ đủ 18 tuổi trở lên được suy đoán là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Họ chỉ bị
mất năng lực hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi khi có quyết định của toà án
về việc hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Theo quy định của Luật hôn
nhân và gia đình thì nữ từ 18 tuổi ( 17 tuổi 1 ngày) trở lên có quyền kết hôn những
theo quy định này thì nữ đủ tuổi kết hôn vẫn có thể chưa có đầy đủ năng lực hành
vi.
- Năng lực hành vi một phần
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Người có năng lực hành vi một phần (không đầy đủ) là những người chỉ có
thể xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn nhất
định do pháp luật dân sự quy định.
“ Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì xác lập, thực hiện các giao dịch
dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch phục vụ cho
nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định
khác”.
“Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng đủ để thực hiện nghĩa
vụ được xác lập, thực hiện giao dịch và phải chịu trách nhiệm trong phạm vi taì sản
họ có, trừ trường hợp pháp luật quy định khác” (Điều 20 BLDS)
Như vậy, cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là những người có năng lực
hành vi dân sự một phần. Họ có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải
chịu những nghĩa vụ khi tham gia các giao dịch để thoả mãn những nhu cầu thiết
yếu hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Tuy pháp luật không quy định những giao dịch
nào là giao dịch “phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày” và “ phù hợp với lứa tuổi”
nhưng có thể hiểu đó là những giao dịch có giá trị nhỏ, phục vụ những nhu cầu học
tập, vui chơi trong cuộc sống được người đại diện của họ cho phép thực hiện mà
không cần sự đồng ý trực tiếp của người đại diện( mua dụng cụ học tập, ăn quà, vui

chơi giải trí…). Người đại diện của những cá nhân ở lứa tuổi này có thể yêu cầu
tuyên bố những giao dịch do người cho thành niên thực hiện mà không có sự đồng
ý của họ là vô hiệu và toà án xem xét trong những trường hợp cụ thể để chấp nhận
yêu cầu đó theo quy định tại Điều 130 BLDS. Nếu những người đại diện không yêu
cầu toà án xem xét tính hiệu lực của những giao dịch này thì những giao dịch đó
mặc nhiên được coi là có hiệu lực.
Những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện
các giao dịch trong phạm vi tài sản riêng mà họ có và không cần sự đồng ý của
người đại diện. Trong trường hợp pháp luật có quy định về sự đồng ý của người đại
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
diện thì áp dụng tương tự như trường hợp vị thành niên nói chung (như di chúc của
người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, việc định đoạt tài sản là nhà ở và đất đai…)
1.2.2. Theo pháp luật nước Lào
Người nước ngoài và người không quốc tịch cư trú tại CHDCND Lào phạm
tội bên ngoài lãnh thổ nước CHDCND Lào cũng có thể bị truy cứu và kết tội.
Cá nhân nước ngoài phạm tội bên ngoài lãnh thổ CHDCND Lào sẽ bị truy
cứu và xử phạt theo những quy định của Bộ Luật Hình sự của nước CHDCND Lào
nếu những trường hợp này thuộc các công ước quốc tế.
2. Quy chế pháp lý áp dụng cho người Việt Nam ở nước ngoài
2.1. Quy chế đãi ngộ quốc gia (NT)
Chế độ đãi ngộ như công dân hiện nay được thể hiện phổ biến trong luật
pháp của đông đảo các quốc gia trên thế giới. Nội dung cơ bản của chế độ này được
hiểu như sau:
Người người nước ngoài được hưởng các quyền dân sự và lao động, cũng
như thực hiện các nghĩa vụ ngang hoặc tương đương với những qyuền và nghĩa vụ
mà công dân nước sở tại đang được hưởng và sẽ được hưởng trong tương lai (trừ
những ngoại lệ theo pháp luật quy định trong các trường hợp cụ thể).
Trên thực tế, luật pháp của các nước dành riêng cho người nước ngoài đưởng
hưởng quyền và nghĩa vụ như công dân của họ không phải ở tất cả mọi mặt, mà

bao giờ cũng còn những hạn chế (dù ít, dù nhiều) nhất định đối với người nước
ngoài. Ví dụ: các quyền chính trị như quyền bầu cử, quyền ứng cử, đề cử hầu như
không được hưởng ;quyền cư trứ bị hạn chế; quyền hành nghề học tập cũng bị
những giới hạn nhất định …
Chế độ đãi ngộ như công dân dành cho người nước ngoài thường được quy
định trước hết là trong luật pháp các nước, Ở Việt Nam, theo Quyết định 122/CP
ngày 25/4/1977 của Hội đồng Chính phủ về chính sách đối với người nước ngoài
cư trú và làm ăn sinh sống ở Việt Nam tại Điều 7 và Điều 8 quy định rằng: Người
nước ngoài định cư ở Việt Nam được hưởng chế độ đãi ngộ như công dân đối với
25

×