Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) giáo dục kĩ năng và nhân cách sống cho học sinh THPT nông cống II qua giờ sinh hoạt lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.93 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

1. MỞ ĐẦU
- Lý do chọn đề tài

1

- Mục đích nghiên cứu

2

- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

2

- Phương pháp nghiên cứu

3

- Thời gian nghiên cứu

3

2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

4

2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm


4

2.2 Thực trạng của vấn đề

6

2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

8

2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động

14

giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT

17

+ Kết luận

17

+ Kiến nghị đề xuất

18

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.MỞ ĐẦU

+ Lí do chọn đề tài :
Vấn đề con trẻ thiếu kĩ năng sống, thiếu tính tự tin, tự lập, sống ích kỷ, vơ  
tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân ở một số thanh thiếu niên hiện


nay đang là những cản trở lớn cho sự phát triển của chính các em khiến khơng ít
các bậc phụ huynh phải  phiền lịng vì con, khi sống trong một xã hội phát triển
năng động như hiện nay.
Nhiều vị phụ huynh lo lắng trước tình trạng con của mình thiếu tự tin,
ln tỏ ra rụt rè khi có cơ hội thể hiện mình trước đám đơng hoặc các em
khơng biết cách xử lý tình huống dù là thật đơn giản như kêu gọi sự giúp đỡ từ 
người khác, tìm đường, định hướng, đi xe buýt,...
Thêm nữa, trước tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng thì kỹ 
năng tự  bảo vệ mình cũng cần được coi trọng khi các nhóm trẻ xấu ln lấy 
sức mạnh cơ bắp hoặc đám đông để bắt nạt, ức hiếp các trẻ hiền, ngoan,  ít nói...
Nhiều em học sinh có cuộc sống khép kín với thực tại, đắm chìm trong
thế  giới  ảo của Internet của thế giới game,... mà quên đi và đánh mất những  cơ
hội kết bạn, thể hiện những khả năng tiềm ẩn của mình, lo sợ rụt rè khi  tiếp xúc
với cộng đồng, xã hội.
Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa nội dung giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh vào chỉ thị về nhiệm vụ năm học. Tuy nhiên,
chương trình giáo dục kĩ năng sống chỉ thông qua việc giảng dạy theo phương
pháp tích hợp vào các mơn học như Giáo dục cơng dân, Sinh hoạt ngồi giờ,
Ngữ văn, Sinh học, Vật lý...  hiệu quả của việc giảng dạy lồng ghép vẫn chưa
cao trong khi môn học kĩ năng sống vẫn chưa được đưa vào chương trình như
một mơn học chính khóa.
Từ những lí do trên tơi quyết định chọn đề tài “Giáo dục kĩ năng
và nhân cách sống cho học sinh THPT Nông Cống II qua giờ sinh hoạt lớp”
nhằm đóng góp một số kinh nghiệm rút ra được thực tiễn mong muốn chia sẻ
cùng đồng nghiệp để cùng nhau chia sẻ , đóng góp tâm huyết của mình vào sự

nghiệp giáo dục trồng người cho quê hương. Từ đó giáo dục cho con em chúng
ta trở thành những  con người tồn diện, năng động, sáng tạo hịa nhập cùng
cộng đồng, và có ích cho xã hội.
+ Mục đích nghiên cứu:
Giáo dục kĩ năng sống là một trong những nội dung, nhiệm vụ quan trọng
trong chương trình giáo dục hiện nay nhằm cụ thể những quan điểm, đường lối


chính sách của Đảng và nhà nước về đổi mới phương pháp giáo dục trong thời
kì hội nhập.
Chính vì vậy, việc đưa ra các giải pháp nhằm giáo dục kĩ năng và nhân
cách sống cho học sinh là vấn đề cần được quan tâm đúng mức, nhằm góp phần
trang bị cho thế hệ trẻ kiến thức, kĩ năng sống và phát triển trong một môi
trường phát triển bền vững.
Đề tài : “Giáo dục kĩ năng và nhân cách sống cho học sinh THPT Nông
Cống II trong giờ sinh hoạt lớp” nhằm:
Tìm ra nội dung, hình thức tổ chức giáo dục kĩ năng sống trong trường
THPT theo khung chương trình chung của Bộ giáo dục và Đào tạo đạt hiệu quả
cao nhất, đồng thời phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế xã hội ở địa phương,
thực tế nhà trường.
Đề ra các giải pháp nhằm thực hiện chương trình giáo dục kĩ năng sống
có hiệu quả trong nhà trường THPT.
+ Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Việc giáo dục kĩ năng sống cần được tiến hành ở mọi cấp học, tùy theo
lứa  tuổi, giới tính ... chúng ta cần có những vấn đề khác nhau để đưa vào nội
dung  giáo dục kỹ năng sống cho các em học sinh.
Phạm vi đề tài này chỉ giới hạn trong lứa tuổi THPT, nhất là ở trường
THPT Nơng Cống II vì ở lứa tuổi này:
- Các em rất cần tìm tịi, học hỏi khám phá cái mới, điều lạ khơng phân biệt
nó là tốt hay xấu.

- Đây là lứa tuổi có sự phát triển mạnh mẽ về tâm sinh lí.
- Chịu áp lực lớn dẫn đến dễ rơi vào trạng thái tiêu cực ảnh hưởng tới sức
khỏe, tinh thần.
- Các em cần lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực của mình cần đưa
ra quyết định đúng đắn.
- Thích bộc lộ cái tơi….  4
+ Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu lý thuyết
- Thực nghiệm sư phạm


- Điều tra
-Tham khảo ý kiến các giáo viên
- Chia sẻ kinh nghiệm
- Thảo luận nhóm
- Các hoạt động kích thích tưởng tượng và động não
- Sắm vai
- Phân tích tình huống
- Trị chơi, bài hát, nghe nhạc
- Các loại hình nghệ thuật: vẽ, múa.  6
+Thời gian nghiên cứu:
-Bắt đầu: 15/9/2016
-Kết thúc: 20/5/2017


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận:
+ Khái niệm kĩ năng sống:
Kĩ năng sống chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu 
cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả.  4

(*) Theo WHO (1993) Kĩ năng sống là “Năng lực tâm lí xã hội là khả năng
ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống.
Đó cũng  là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khoẻ mạnh về
mặt tinh  thần, biểu hiện qua hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với
người  khác, với nền văn hóa và mơi trường xung quanh. Năng lực tâm lý xã hội
có vai trị quan trọng trong việc phát huy sức khoẻ theo nghĩa rộng nhất về mặt 
thể chất, tinh thần và xã hội. Kĩ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi  năng
lực tâm lý xã hội này”. 1
(*) Theo UNICEF, giáo dục dựa trên Kĩ năng sống cơ bản là sự thay đổi 
trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến 
thức, thái độ và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức 
(phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng 
vào giá trị nào) thành hành động (làm gì và làm như thế nào?). 1
-Hiểu một cách đơn giản thì kĩ năng sống là năng lực của mỗi người giúp
giải quyết những nhu cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả
(cách sống tích cực trong xã hội hiện đại).  8
Về bản chất thì rèn luyện kĩ năng sống là quá trình đưa nhận thức (qua kiến
thức và thái độ) thành hành động (hành vi tích cực).  6
Việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là việc làm không mới vì từ xa
xưa cha ơng ta đã đúc kết “Tiên học lễ, hậu học văn” nhưng do sức ép lớn về
chương trình; về điểm số, hoặc nhiều nguyên nhân khác nhau nó đã bị giảm nhẹ
hoặc xao nhãng. Đứng trước thực tế xã hội những năm gần đây Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã nhận thấy việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là việc cấp bách
ở mọi bậc học nhưng đặc biệt với học sinh THPT vì:
Ở lứa tuổi này:


- Các em rất cần tìm tịi, cần và khám phá, học hỏi cái mới, điều lạ khơng
phân biệt nó là tốt hay xấu.  4
- Đây là lứa tuổi có sự phát triển mạnh mẽ về tâm sinh lí dẫn đến các quan

hệ không đúng mực trong quan hệ khác giới.  4
- Chịu áp lực lớn trong thi cử dẫn đến dễ rơi vào trạng thái tiêu cực ảnh
hưởng tới sức khỏe, tinh thần.  4
- Các em cần lựa chọn nghề nghiêp phù hợp với năng lực của mình cần đưa
ra quyết định đúng đắn.  4
- Thích bộc lộ cái tơi….  4
Năm học 2010 – 2011 là năm đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa kĩ năng
sống vào giảng dạy đại trà trong các trường học, bậc học qua nhiều hình tức
khác nhau. Với học sinh THPT thì cần rèn luyện kĩ năng gì ?
+ Kĩ năng cần thiết cho học sinh THPT:
Theo Thạc sĩ giảng viên tâm lý học Nguyễn Hữu Long, 10 nhóm kỹ năng 
sống cần thiết cho khối học sinh THPT là:  9
- Kĩ năng tự phục vụ bản thân
-Kĩ năng xác lập mục tiêu cuộc đời
-Kĩ năng quản lí thời gian hiệu quả
-Kĩ năng điều chỉnh và quản lí cảm xúc
- Kĩ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân
- Kĩ năng giao tiếp và ứng xử
- Kĩ năng hợp tác và chia sẻ
- Kĩ năng thể hiện tự tin trước đám đông
- Kĩ năng đối diện và ứng phó khó khăn trong cuộc sống
- Kĩ năng đánh giá người khác.
Việc giáo dục kĩ năng và nhân cách sống cho học sinh là nhằm xây dựng
cho các em 12 giá trị của cuộc sống là: tôn trọng, hịa bình, hợp tác, hạnh
phúc, chân thật, nhân đạo, tình thương, trách nhiệm, giản dị, khoan dung, tự
do và đoàn kết.  3
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm


Có thể nói, trường THPT Nơng Cống II là một ngơi trường có bề dày

truyền thống, gần 45 năm xây dựng và trưởng thành với thành tích về cơng tác
giảng dạy và giáo dục. Học sinh của trường đa số xuất thân từ gia đình thuần
nơng, đời sống vật chất, tinh thần cịn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, đa số các
em có ý thức học tập và rèn luyện rất tốt, ln nhiệt tình say mê trong các hoạt
động tập thể và công tác xã hội.
Trong nhiều năm liền, trường THPT Nông Cống II là một trong những
đơn vị dẫn đầu của Ngành giáo dục, trường luôn đạt danh hiệu Tập thể lao động
tiên tiến. Ban giám hiệu nhà trường, Cơng đồn, Ban đại diện cha mẹ học sinh,
giáo viên chủ nhiệm nhiệt tình, ln kịp thời hỗ trợ quan tâm giúp đỡ.
Những năm trước đây, công tác giáo dục đạo đức, kĩ năng sống đã có sự
quan tâm của nhà trường. Thể hiện ở chỗ nhà trường cũng đã quan tâm đến việc
giáo dục toàn diện cho các em thơng qua các hoạt động ngoại khóa, ngồi giờ
lên lớp, hoạt động hướng nghiệp, dạy nghề, hoạt động đoàn thể: bảo vệ mơi
trường, an tồn giao thơng, giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội, phòng
chống tai nạn thương tích, xây dựng trường xanh – sạch - đẹp; xây dựng trường
học thân thiện học sinh tích cực…
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế xã hội đã và đang tác động rất lớn đến đời sống của con người. Nếu như trong
xã hội truyền thống, các giá trị xã hội vốn được coi trọng và được các cá nhân
tuân thủ một cách nghiêm túc thì nay đang dần bị mờ nhạt và thay vào đó là
những giá trị mới được hình thành trên cơ sở giao thoa giữa các nền văn hóa,
văn minh khác nhau. Những thay đổi nói trên cịn đã ảnh hưởng không nhỏ đến
hoạt động giáo dục con cái của gia đình cũng có những biến đổi nhất định. Cha
mẹ ít có thời gian quan tâm đến con cái hơn là một thực tế không thể phủ nhận,
thay vào đó là các hoạt động kinh tế, tìm kiếm thu nhập. Trong nhà trường, hiện
tượng quá tải với các môn học cũng đang gây nhiều áp lực đối với học sinh.
Cùng với đó là những tác động nhiều chiều của các nguồn thông tin khác nhau
từ xã hội khiến cho giới trẻ đang đứng trước nhiều thách thức khi hòa nhập xã
hội. Điều này đã dẫn đến sự “xung đột” giữa nhận thức, thái độ và hành vi với
những vấn đề xảy ra trong cuộc sống. Tình trạng học sinh đánh nhau, vô lễ với



thầy cô giáo, bỏ học, không hứng thú học tập xuất hiện ngày một nhiều. Ngun
nhân thì có nhiều nhưng chung quy là do nhận thức, ý thức và về cơ bản vẫn là
do các em thiếu kĩ năng và nhân cách sống hoặc có nhưng chưa được quan tâm,
rèn luyện đúng hướng. Đây là vấn đề được nhà trường rất quan tâm, nhưng việc
thực hiện vẫn còn gặp nhiều thách thức lớn. Để đáp ứng được với những biến
đổi nhanh chóng của xã hội thì nhu cầu giáo dục kĩ năng sống và nhân cách sống
cho giới trẻ hiện nay là một việc làm rất cần thiết.
Không những thế, trường THPT Nơng Cống II cịn là ngơi trường có truyền
thống đi đầu trong công tác triển khai thực hiện các mục tiêu giáo dục, các
phong trào thi đua của Bộ của Ngành. Do đó ngay từ đầu năm học 2008-2009,
khi Bộ giáo dục phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”, trường tơi đã áp dụng rộng rãi. Công tác giáo dục kĩ năng sống
được triển khai thông qua các hoạt động lồng ghép vào chương trình học, các
mơn học và các hoạt động của nhà trường như:
Giáo dục lồng ghép thông qua các môn học như: Giáo dục công dân, Văn
học, Sử học, Sinh học, Thể dục...
Giáo dục chuyên đề thông qua các hoạt động giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt
dưới cờ như: Nói chuyện, thuyết trình, tham luận, thi tìm hiểu, giao lưu,…
Tuy nhiên, qua q trình thực hiện tơi nhận ra rằng, việc giáo dục kĩ năng
và nhân cách sống cho học sinh ở nhà trường và việc rèn luyện kĩ năng sống của
các em vẫn cịn nhiều hạn chế, đó là:
Việc lồng ghép giáo dục kĩ năng sống vào các môn học vẫn chưa được
làm thường xuyên, do yêu cầu kiến thức bài học nên giáo viên đôi lúc ngại đưa
chương trình kĩ năng sống vào.
Ngày 31/8, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ ban hành Chỉ
thị về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2016 - 2017 của ngành Giáo dục.
Chỉ thị nêu rõ, năm học 2016 - 2017, ngành Giáo dục đứng trước những thuận
lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, địi hỏi toàn ngành phải quyết tâm,
nỗ lực, phấn đấu hơn nữa để thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động của

Chính phủ triển khai Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết của Quốc
hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016 - 2020, tiếp tục


triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29NQ/TW của Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ.
Căn cứ tình hình thực tiễn, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ thị toàn ngành
Giáo dục quán triệt phương hướng và tập trung triển khai các nhóm nhiệm vụ
chủ yếu của năm học 2016 - 2017 và những năm tiếp theo, cụ thể như sau:
Về phương hướng chung: Tăng cường kỷ cương, nền nếp và nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện trong các cơ sở giáo dục, đào tạo: Giáo dục phổ thông
chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, ý thức, trách nhiệm của
công dân đối với xã hội, cộng đồng.  7 
Từ nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra, dưới sự chỉ đạo của ngành giáo dục, nhà trường
đã xây dựng kế hoạch, nội dung, chương trình giáo dục kĩ năng sống trong nhà
trường. Ngồi việc truyền tải giáo dục kĩ năng sống thông qua các mơn học
chính khóa thì hoạt động sinh hoạt lớp là hoạt động nòng cốt trong việc giúp học
sinh rèn luyện kĩ năng và nhân cách sống nhằm thực hiện công tác giáo dục toàn
diện của nhà trường.
2.3. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
+ Nội dung giáo dục kĩ năng và nhân cách sống qua giờ sinh hoạt lớp:
Việc đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy trong nhà 
trường phổ thông đã được đưa ra bàn bạc trước đây và theo như nội  dung cuộc
trao đổi giữa Tiến sĩ Phùng Khắc Bình, Vụ trưởng Vụ Công tác  học sinh, sinh
viên Bộ Giáo dục và Đào tạo và giới báo chí thì: "Bộ đã triển khai nhiều phong
trào vào trường học như sức khỏe, an  tồn giao thơng, kĩ năng sống... đặc biệt,
phong trào “trường học thân  thiện, học sinh tích cực” đã được các thầy cơ
giáo, học sinh hưởng ứng  tích cực đã giảm được phần nào tình trạng trên. Năm
học tới Bộ sẽ đưa  kĩ năng sống vào chương trình giảng dạy trong nhà trường."

"Để đưa kĩ năng sống vào giảng dạy trong trường học, Bộ GD-ĐT đã 
phải xác định, nếu đưa vào giảng dạy đại trà thì kĩ năng sống gồm những nội
dung gì? Đưa vào như thế nào? Người dạy và thời gian như thế  nào?.


Tuy nhiên, về vấn đề đưa như thế nào, trong 3 phương án, thứ 1, là  lồng ghép
vào chương trình học, các môn học, các hoạt động trong nhà  trường; thứ 2 đưa
vào thành một môn và dạy giống các môn học khác;  thứ 3, đưa vào tất cả các
môn, môn nào cũng vận dụng. Bộ đã chọn  phương án thứ nhất là lồng ghép
vào chương trình học, các mơn học,  các hoạt động trong nhà trường."  7 
Vấn đề là chọn nội dung nào và lồng ghép ra sao thì có vẻ như cịn nhiều 
lúng túng.
Đối với Trường THPT nhất là trường THPT Nơng Cống II thì cần
vận dụng các nhóm kĩ năng cụ thể như sau :
- Nhóm kĩ năng tự nhận thức bản thân (   Tơi là ai?, Tơi có những điểm
mạnh và điểm yếu gì?, Ước mơ của tơi?, Mục đích của cuộc đời tơi?, Người
khác đánh giá về tơi như thế nào?, Tư duy tích cực...)  2
- Nhóm kĩ năng giao tiếp ứng xử (cách giao tiếp trong mơi trường học 
đường, trong gia đình , với bố mẹ, người lớn tuổi...).  2
- Kĩ năng hợp tác và chia sẻ (kĩ năng làm việc nhóm và giải quyết  xung
đột trong học đường).  6
- Nhóm kĩ năng phân biệt hành vi hợp lí và chưa hợp lí (phân biệt hành vi 
dũng cảm và liều mạng, hành vi yêu thương và lạm dụng tình dục...).  6
+ Đưa nội dung giáo dục kĩ năng và nhân cách sống vào giờ sinh hoạt lớp:
- Trong những năm học trước, việc thực hiện sinh hoạt chủ nhiệm thường
theo giáo án cũ:
- Giáo viên chủ nhiệm tổng kết hoạt động tuần qua, xem xét qua các lỗi
vi  phạm của học sinh, chấn chỉnh những sai phạm, cảnh cáo và ghi nhận 
những trường hợp tái phạm của học sinh làm căn cứ để xếp loại hạnh kiểm.
- Sau đó là thông báo các hoạt động trong tuần sắp tới, nhắc nhở và phân 

công học sinh thực hiện theo kế hoạch.
- Lớp trưởng đọc thông báo chung cho cả lớp và sau đó tổ chức văn nghệ 
hoặc các nội dung cần làm cho tuần sau.
- Phần thêm: Giáo viên chủ nhiệm kể hoặc đọc những câu chuyện mang
tính giáo dục cho cả lớp nghe và từ đó học sinh rút ra được những kiến thức
cần thiết.


- Theo kịch bản như trên chỉ thích hợp với các lớp ngoan, ít vi phạm cịn đối 
với các lớp thường xun có vi phạm thì giờ sinh hoạt lớp sẽ nhàm chán,  năng
nề vì học sinh trong lớp cho rằng phải đối phó với những sai phạm trong  tuần
qua và tâm lí chung sẽ là mắc cỡ, e ngại,... riêng với những em thường  xuyên
vi phạm thì tình hình cịn có thể bi đát hơn: tâm lí bất cần sẽ nảy sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm sẽ mất cảm hứng để tiếp tục phần thêm khi lớp có nhiều
học sinh vi  phạm, thầy cô sẽ dễ dàng rơi vào trạng thái bực tức, nóng nảy và
chắc chắn sẽ kéo dài thời gian rầy la cả lớp một cách khơng có chủ đích rõ
ràng.
- Trước tình hình đó, để lồng ghép chương trình giáo dục kĩ năng và nhân
cách sống vào giờ sinh hoạt lớp, cho tăng tính chủ động  của học sinh nhiều
hơn nữa, nâng cao vai trò của tập thể lớp chứ khơng phải vai trị của giáo viên
chủ nhiệm hay 1 lớp trưởng, tổ trưởng .
- Về phân phối chương trình sinh hoạt, Ban giám hiệu đã quy định thời
khóa biểu tiết sinh hoạt lớp vào tiết 2 thứ 2 (sau tiết chào cờ) hàng tuần đánh
giá công tác chủ nhiệm.
- Mục đích là biến giờ sinh hoạt lớp thành một buổi vui chơi với nhiều trò
chơi khác  nhau mà nội dung được giáo viên chủ nhiệm chuẩn bị trước. Các trị
chơi này phải được lựa chọn và có chủ đích nhằm giáo dục kĩ năng  tương ứng
cho học sinh. Việc đưa giáo dục kĩ năng sống vào giờ sinh hoạt chủ yếu với
cách làm sao cho tăng tính chủ động của học sinh trong lớp, phát huy khả năng
từng cá  nhân và nhấn mạnh trò của tập thể, để học sinh thấy được và luôn phát

huy khả năng phối hợp của nhóm trong khi giải quyết các vấn đề chung, khơng
nên sa đà vào việc tổ chức các trị chơi mang tính giải trí đơn thuần,  sẽ làm sai
lệch mục đích của việc lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống  trong giờ
sinh hoạt.
- Có thể kể ra một số hoạt động, trò chơi được áp dụng trong giờ sinh
hoạt của lớp :
Trị chơi 1 : Xếp hình
Trước buổi sinh hoạt, cắt và chọn ra một số các hình khác nhau, số hình
này  tương đương với 1/2 số học sinh. Cắt những hình này ra làm đơi.


Trong giờ sinh hoạt, phân phát một nửa của hình đó cho mỗi học sinh
một  cách ngẫu nhiên.
Cho các học sinh đi lại quanh phòng và ghép lại với người có nửa hình
cịn  lại phù hợp.
Khi mà một học sinh đã tìm ra được người có nửa hình cịn lại của mình
thì  học sinh phải phỏng vấn nhanh người đó. Tìm hiểu về người bạn của mình 
theo những yêu cầu mà giáo viên đã yêu cầu trước. (những việc làm tốt và  chưa
tốt trong tuần qua)
Sau khoảng 10 phút, mỗi học sinh sẽ trình bày ngắn gọn về những hoạt
động  của người có một nửa hình ghép phù hợp với mình cho cả nhóm học sinh 
hoặc cả lớp.  5
Trị chơi 2: “Mong muốn”- Hy vọng và mối quan tâm về mơn học nào đó
u cầu các học sinh lấy ra một mảnh giấy và trong một vài phút viết ra
những  mong muốn riêng của mình về một mơn học hoặc một hoạt động nào đó,
nói  lên những điều mình hy vọng sẽ đạt được, và cả những điều mà mình có 
quan tâm đến.
Thu lại tất cả những mảnh giấy này để vào lẫn một hộp, sau đó yêu cầu
mỗi học sinh chọn ra một mảnh giấy trong hộp và đọc lên những mong muốn,
hy vọng, quan tâm cho cả nhóm học sinh nghe. Thầy, Cô hoặc một học sinh

xung  phong viết ra những thơng tin đó lên giấy khổ lớn hoặc chia học sinh ra
thành các nhóm nhỏ (4 hoặc 5), phân chia bảng thành các  phần tương ứng cho
các nhóm và yêu cầu các học sinh cùng nhau quyết định  đưa ra những mong
muốn, hy vọng và quan tâm đối trong thời gian tới. Sau  đó ghi lại những phản
hồi của từng cá nhân lên bảng, hoặc là thu lại những mảnh giấy của nhóm nhỏ
và dán lên cho mọi người trong phòng đều thấy  được.
Tổng hợp lại những mong muốn của các học sinh, nêu ra điểm
giống  nhau về suy nghĩ, mong muốn của học sinh trong lớp.
Thông báo cho học sinh biết được những nội dung cần làm trong tuần tới. 
Nhấn mạnh những việc cần đạt được và học sinh phải được biết rằng  mức độ
yêu cầu đạt được của mỗi học sinh khác nhau do vậy yêu cầu  các em phải phấn
đấu để đạt mức cao nhất.  5


 Trò chơi 3: Lắng nghe
Số lượng: từ 5 em trở lên, có thể chơi trong nhóm nhỏ trước và mở rộng
cho cả  lớp.
Luật chơi: Mỗi bạn sẽ được phát 1 cây viết và 1 tờ giấy. Trong vòng 1
phút, các bạn sẽ ghi lại tất cả những tiếng động xung quanh mình, ai ghi nhiều
hơn,  người đó sẽ thắng.
Ý nghĩa: Đây là trò chơi nhằm rèn luyện kĩ năng lắng nghe, một trong
những kĩ  năng quan trọng nhất để làm việc nhóm hiệu quả, phản ánh sự tơn
trọng hay  xây dựng ý kiến lẫn nhau giữa các thành viên. Khi chịu lắng nghe,
chắc chắn  bạn sẽ có nhiều thơng tin để giải quyết vấn đề hiệu quả hơn.  5
Trò chơi 4: 180 độ...xoay!
Số lượng: Lí tưởng nhất là 6 - 8 bạn.
Luật chơi: Người chơi xếp thành hình trịn, quay mặt ra ngồi, tay nắm
tay.  Sau đó tìm cách đổi chỗ cho nhau, sao cho tất cả thành viên đều quay mặt 
vào trong hình trịn mà khơng được chéo tay nhau (trong q trình đổi vị trí 
khơng được bng tay ra).

Ý nghĩa: Đây là trò chơi nhằm trang bị cho các em kĩ năng "giải quyết
vấn  đề". Lúc đầu, có thể những người tham gia trị chơi này sẽ "bó tay" và
cho rằng đây là công việc không thể thực hiện được. Nhưng khi được thảo
luận, các bạn sẽ tìm ra giải pháp và thực hiện rất thành công. "Khi gặp một vấn
đề nào đó trong cuộc sống, nếu tham khảo ý kiến của nhiều người, chắc chắn sẽ 
tìm ra được giải pháp tốt"- một bạn học sinh đã nói về "cơng dụng" của trò  chơi
mà bạn học được.  5
Trò chơi 5:  Chuyền bóng
Số lượng: 10 bạn là tốt nhất.
Luật chơi: Người chơi xếp thành hình trịn với u cầu là phải biết tên
của  nhau. Lần lượt người chơi sẽ chuyền bóng cho người đối diện, rồi người 
tiếp theo (theo chiều kim đồng hồ) cho đến hết vịng trịn. Khi chuyền bóng  cho
người nào, bạn phải gọi tên người đó. Lúc đầu, chỉ cần 1 trái bóng, sau  đó tăng
thêm 2, thêm 3, thêm 4 để gia tăng độ khó cũng như tốc độ chuyền.  Trò chơi sẽ


kết thúc khi bóng chạm đất. Trị chơi này có thể có 2 - 3 nhóm  tham gia, nhóm
nào giữ bóng lâu chạm đất nhất sẽ giành phần thắng.
Ý nghĩa: Khi có 1 trái bóng, cơng việc của người chơi xem ra khá dễ
dàng. Nhưng khi có nhiều trái bóng thì tình hình sẽ khác. Điều này cho thấy,
với những vấn đề đơn giản, bạn có thể giải quyết một cách dễ dàng. Nhưng
với vấn đề phức tạp, rắc rối hoặc cùng lúc xuất hiện nhiều vấn đề thì bạn cần
biết ưu tiên giải quyết vấn đề nào trước, vấn đề nào sau, tránh để xảy ra tình
trạng  "ùn tắc", dễ dẫn bạn đến thất bại. Ngồi ra, sự bình tĩnh cũng là điều quan 
trọng khi đối mặt với những tình huống như vậy.  5
Trò chơi 6: Truyền tin
Thể loại: Trò chơi cảm giác, vận động nhẹ trong phịng và ngồi trời,
khoảng  08 người tham dự.
Rèn luyện: Nhận định chính xác các cử điệu từ người khác.
Giáo dục: Tương trợ nhau, phải có sự nhanh nhẹn và hiểu ý nhau trong lời

nói và hành động.
Luật chơi: Đứng thành từng đội và mỗi đội cử 01 người đến quản trò nhận
bản tin,  rồi trở về đứng cách những người của đội mình 1,5m và truyền lại bản
tin đó bằng cử điệu mà khơng được nói, cũng như không được nhép miệng. Đội 
nào nhận được bản tin và thực hiện theo bản tin trước là thắng.
Mục đích: Gây bầu khơng khí sơi động để dẫn vào chiều sâu lắng sau đó.
Vật dụng: Các vật dụng của các bản tin.  5
Lưu ý: Khơng nên nói những lời khó hiểu và khó thực hiện.
 

Những khó khăn trong việc lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống

vào giờ sinh  hoạt và những điểm cần khắc phục
Lớp ồn ào, gây ảnh hưởng lớp kế bên. Ban giám hiệu cần tổ chức tiến 
hành sinh hoạt đồng thời tất cả các lớp và hãy chấp nhận sự ồn ào có  định
hướng chứ khơng phải ồn ào mất trật tự.
Các trị chơi lặp đi lặp lại gây nhàm chán: giáo viên chủ nhiệm phải
chuẩn bị trước và tham khảo  thêm các trò chơi cho phù hợp, thay đổi nội dung
sinh hoạt, không hẳn cứ sinh hoạt là chơi trò chơi.


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Trong q trình thực hiện, tơi xác định rằng kĩ năng sống khơng phải là
những gì q cao siêu, phức tạp. Việc giáo dục kĩ năng và nhân cách sống cho
học sinh bao gồm những nội dung hết sức đơn giản, rất gần gũi với các em, đây
là những kiến thức tối thiểu để các em có thể tự lập trong học tập, vui chơi giải
trí và sinh hoạt thường ngày. Tuy nhiên việc giáo dục kĩ năng và nhân cách sống
cho các em cần phải có quy trình, có thời gian và theo kiểu “mưa dầm thấm
đất”, chứ không thể có kết quả ngay một sớm một chiều được.

Qua việc đưa giáo dục kĩ và nhân cách năng sống vào giờ sinh hoạt lớp tôi
đã bước đầu giúp đỡ học sinh rèn luyện một số kĩ năng cơ bản như: kĩ năng làm
việc nhóm, kĩ năng phát biểu trước đám đông, kĩ năng ứng xử, kĩ năng tự bảo vệ
sức khỏe....Các em đã có ý thức tốt hơn trong hoạt động nhóm, đã giúp các em
tiến bộ về kĩ năng hợp tác, lắng nghe, đánh giá…có trách nhiệm, có kĩ năng
quản lĩ về thời gian trong học tập tốt hơn.... bước đầu các em đã biết vận dụng
kiến thức đã học để bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe, giải thích các hiện
tượng thực tiễn, biết giúp đỡ, đồn kết, duy trì cuộc sống an tồn, biết vâng lời,
lễ phép với thầy cô giáo hơn…
Và quan trọng hơn, giáo dục kĩ năng và nhân cách sống cho học sinh
thông qua giờ sinh hoạt lớp đã trở nên phong phú hơn, thu hút được các em
nhiều hơn. Đặc biệt, đa số các em đã có ý thức hơn trong việc tự rèn luyện kĩ
năng và nhân cách sống của mình nhằm tự hồn thiện mình hơn.

Kết quả cụ thể:
Vào tháng 11 năm 2016, tháng 5 năm 2017 qua khảo sát 41 học sinh lớp
11A5( lớp tôi chủ nhiệm ) tôi đã thu được một số kết quả về nhận thức của các
em đối với chương trình như sau:
a. Nhận thức về chương trình giáo dục kĩ năng và nhân cách sống
thông qua giờ sinh hoạt lớp.


- 95 % các em nhận thấy rằng việc giáo dục kĩ năng và nhân cách sống
trong nhà trường là quan trọng.
- 78 % các em tự nhận thấy mình còn thiếu kĩ năng và nhân cách sống
sống.
- 80 % các em nhận thấy rằng thiếu kĩ năng và nhân cách sống là do chưa
được giáo dục nhiều.
- 92 % các em nhận thấy rằng bản thân cần thiết phải rèn luyện kĩ năng
và nhân cách sống.

- 85 % các em nhận thấy việc tự rèn luyện kĩ năng và nhân cách sống là
phương pháp hiệu quả nhất để hình thành kĩ năng và nhân cách sống sống cho
bản thân.
- 85 % các em cảm thấy hứng thú khi tham gia các hoạt động giáo dục kĩ
năng và nhân cách sống của nhà trường.
- 72 % các em cảm thấy thích thú với giờ sinh hoạt lớp nội dung kĩ năng
và nhân cách sống.
- 68 % các em nghĩ rằng mình sẽ thực hành được với những kỹ năng sống
đã được học.
b. Phần tự nhận thức về bản thân sau khi học kĩ năng sống:
+Nhóm kĩ năng phục vụ bản thân :  3
- Biết giữ gìn vệ sinh cá nhân đúng cách : đạt 100%
- Biết quyét nhà, phòng học, sân trường … : đạt 92%
+Nhóm Kỹ năng giao tiếp :  3
- Biết chào hỏi khi gặp người quen hay khách đến nhà đạt 95%
- Biết thưa gửi khi trả lời mọi người, khơng nói trống khơng đạt 86%
- Biết giúp đỡ bố mẹ, biết kính trên nhường dưới : đạt 100%
- Biết mời khách vào nhà và hỏi chuyện một cách tự tin.. đạt 78%
+ Nhóm “kĩ năng tự vệ” :  3
- Biết can gián khi bạn gây gỗ đánh nhau đạt 71%
- Biết báo người lớn hay thầy cô giáo khi bị đe dọa, hay có nguy cơ bị vi phạm
thân thể (dọa đánh, lấy tư trang, trêu ghẹo …) đạt 90%
- Biết ăn uống hợp vệ sinh đạt 87%


- Biết xử lí khi thiên nhiên đe dọa (Mưa bão , lũ lụt, điện giật…): đạt 86%
+Nhóm kĩ năng hợp tác và chia xẻ:  3
- Biết thăm bạn khi ốm đau và đồng cảm khi gặp người bị hoạn nạn đạt 95%
- Biết giúp đỡ bạn : đạt 100%
- Biết phối hợp trong cá hoạt động chung( Phối hợp làm bài thực hành, tập văn

nghệ, lao động) : đạt 88%
- Làm từ thiện …: đạt 100%
+ Nhóm kĩ năng trong học tập ( Ngoài kiến thức và phương pháp học
do giáo viên bộ môn cung cấp ):  3
- Xây dựng được mục đích học tập: đạt 84%
Những kết quả trên đây có thể chưa được thuyết phục do cịn phải kiểm
nghiệm trong q trình thực hành ở trường và ở lớp của các em, nhưng tôi vẫn
thấy được những tín hiệu đáng mừng qua q trình thực tiễn ở trường, nhất là ở
lớp 11A5 mà tôi trực tiếp chủ nhiệm.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
+ Kết luận:
Tuy kết quả của sáng kiến giáo dục kĩ năng và nhân cách sống cho học
sinh vẫn còn được kiểm nghiệm trong những năm học tiếp theo; tuy nhiên,
những kết quả đạt được đã khẳng định rằng giáo dục kĩ năng và nhân cách sống
cho học sinh nhất là học sinh THPT Nông Cống II là một điều cần thiết, mơ hình


giáo dục kĩ năng sống và nhân cách sống cần được tiếp tục phát huy và nhân
rộng. Bởi lẽ, mục đích cao nhất của cơng tác giáo dục cho các em trở thành
những con người mới, giúp các em ngày càng hồn thiện, góp phần vào cơng tác
giáo dục tồn diện của nhà trường.
Để chương trình giáo dục kĩ năng và nhân cách sống cho học sinh nói
chung đi vào chương trình giáo dục của nhà trường đạt hiệu quả cao thì cần phải
có sự chỉ đạo cụ thể của Ban giám hiệu nhà trường, sự thống nhất cao của cả
Hội đồng Sư phạm và sự hợp tác thực hiện nhịp nhàng của các bộ phận, đoàn
thể trong nhà trường.
Để mọi người có thể ủng hộ và tự giác thực hiện việc đưa nội dung giáo
dục  kĩ năng và nhân cách sống vào trường học thì cần thiết phải hiểu đơn giản
là chúng ta hãy  để cho học sinh được hoạt động trong lớp qua từng giờ học, qua

từng buổi sinh hoạt, hãy để cho học sinh cơ hội tự giải quyết vấn đề, cơ hội làm
việc theo  nhóm, hãy hướng dẫn cho học sinh liên hệ nội dung bài học với cuộc
sống  thực tế, ứng dụng kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề thường
gặp  trong cuộc sống.
Mục tiêu giáo dục không chỉ là giảng dạy kiến thức cho học sinh mà cần
làm  thế nào để học sinh có thể tìm kiến thức và tự giải quyết vấn đề trong cuộc  
sống, làm thế nào để học sinh biết phát huy sức mạnh nhóm, tăng cường sự  hợp
tác trong giải quyết vấn đề.
Làm như thế là người Thầy đã đưa được “cần câu” cho học sinh chứ
không đưa “con cá” cho con em chúng ta.
Đối với học sinh, chúng ta phải cho các em hiểu rằng, việc học tập và rèn
luyện của các em hôm nay là các em đang hồn thiện mình để hướng vào tương
lai tươi đẹp .
Một vài suy nghĩ xuất phát từ tấm lòng yêu nghề mến trẻ xin được chia sẻ
với thầy Cơ, rất mong  sự đóng góp thêm cho đề tài này được hồn thiện hơn
nữa nhằm giúp thầy Cơ thêm một lần nghiên cứu về việc lồng ghép nội dung
giáo dục kỹ năng và nhân cách sống cho học sinh, phần nào giải quyết được
vướng mắc trong việc giáo dục kĩ năng và nhân cách sống cho thế hệ trẻ- tương
lai của đất nước.


+ Những kiến nghị đề xuất:
Giáo dục là cả một quá trình rất cần sự nỗ lực và kiên trì của mỗi giáo
viên cần biết lựa chọn và kết hợp sử dụng các phương pháp phù hợp với từng
đối tượng học sinh. Bằng lòng yêu nghề mến trẻ, bằng lòng vị tha, bao dung, độ
lượng,… chắc chắn chúng ta sẽ thành cơng trong cơng tác giáo dục học sinh lớp
mình phụ trách. Nói cách khác nhà giáo là một con người trí tuệ, đức độ giàu
lịng nhân ái khoan dung có vai trị như là người cha, người mẹ đúng như câu
nói: “Cha mẹ cho hình hài vóc dáng cịn thầy cô cho các em kiến thức, nhân
nghĩa để các em có thể vững bước trên con đường đời đầy chơng gai thử thách”.

Tơi rất mong nhận được sự góp ý của hội đồng giáo dục nhà trường cũng
như của tất cả các quý thầy cô. Và đặc biệt là các thầy cô đã từng làm công tác
chủ nhiệm lớp để cho đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

N«ng Cèng, ngày 26 tháng 5 năm
2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Tài liệu tập huấn về kĩ năng sống của Unicef (2004)
[2]. Kỹ năng sống dành cho bạn trẻ.
[3]. Những giá trị sống cho Tuổi trẻ (Diane TillMan - NXB TP.HCM - 2000)
[4]. Tài liệu tập huấn về kĩ năng sống cho trẻ em


[5]. Phương pháp quản trị-Trần Phiêu-NXB Thanh niên
[6]. Tâm lí lứa tuổi và tâm lý sư phạm-Phan Trọng Ngọ,NXB ĐHSP Hà Nội
[7]. Các sách báo, tư liệu Internet :
-Nguồn:http:// VietnamNet.
[8]. Sách KNS cho tuổi vị thành niên-tác giả Nguyễn Thu Oanh- NXB trẻ
[9]. KNS Thạc sĩ- giảng viên tâm lý Nguyễn Hữu Long.



×