Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

55555555

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.31 KB, 47 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng nhất của ý thức giác ngộ dân tộc và cũng là phương tiện thống nhất dân tộc. Ở các quốc gia đa dân tộc, đa văn hoá và đa ngôn ngữ cùng với vấn đề dân tộc và tôn giáo, ngôn ngữ càng trở nên có vai trò hết sức quan trọng. Chính vì thế, ở bất kì quốc gia nào, nhà nước cũng luôn quan tâm đến chính sách ngôn ngữ, và chính sách ngôn ngữ luôn luôn được coi là một phần không thể thiếu trong chính sách dân tộc. Xuất phát từ nhu cầu cần phải đánh giá chính xác và khách quan thực trạng của việc thực hiện chính sách ngôn ngữ trong thời gian qua, tình hình thực tế của cảnh huống ngôn ngữ trong 10 năm sắp tới của đất nước, Viện Khoa học xã hội Việt Nam đã giao cho Viện Ngôn ngữ học tổ chức hội thảo khoa học toàn quốc với chủ đề “Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về ngôn ngữ trong thời kì CNH,HĐH và hội nhập quốc tế.”. I. Tình hình xây dựng, cải tiến và sử dụng chữ viết của các dân tộc thiểu số Cuộc điều tra khảo sát về chữ viết của các dân tộc thiểu số tiến hành vào cuối năm 1977 cho thấy tình hình chung như sau: 1. Tiếng và chữ phổ thông ngày càng được phổ cập sâu rộng trong đồng bào các dân tộc thiểu số với tư cách là ngôn ngữ chung của cả nước, đã và đang góp phần thiết thực thúc đẩy sự phát triển các mặt ở các vùng dân tộc thiểu số. Tuy vậy, ở một số nơi, nhất là ở vùng cao, việc phổ cập tiếng và chữ phổ thông chưa được tiến hành tốt. 2. Tiếng nói và chữ viết hiện có của các dân tộc thiểu số được Nhà nước tôn trọng, duy trì và giúp đỡ phát triển, do đó đã góp phần xoá mù chữ dân tộc ở một số vùng mà đồng báo ít biết hoặc không biết tiếng phổ thông; đã đáp ứng yêu cầu của đồng bào về việc dùng chữ dân tộc ghi sổ sách, viết thư từ, chép tư liệu văn học dân gian, và tiến hành các công tác thông tin, tuyên truyền ở địa phương. Một số chữ dân tộc đã được dạy và học ở các trường phổ thông. Tuy nhiên việc sử dụng tiếng và chữ dân tộc trong các công tác giáo dục, văn hoá văn nghệ, thông tin, tuyên truyền, v.v... còn chưa sát với tình hình thực tế, chưa phục vụ tốt yêu cầu phát triển đồng thời chữ phổ thông và chữ dân tộc; việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và soạn sách giáo khoa bằng chữ dân tộc cũng chưa được tốt. 3. Nhiều dân tộc thiểu số chưa có chữ viết có yêu cầu xây dựng bộ vần chữ riêng để có thể ghi tiếng nói của dân tộc mình. Một số dân tộc thiểu số đã có chữ viết lối cổ muốn có chữ viết mới theo chữ cái La tinh cho gần gũi với chữ phổ thông. Những yêu cầu này cần được coi trọng và từng bước giải quyết.. II. Chủ trương đối với chữ viết của các dân tộc thiểu số Nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc thiểu số ở nước ta phát triển nhanh về kinh tế và văn hoá, thực hiện ngày càng đầy đủ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đáp ứng yêu cầu chính đáng của dồng bào các dân tộc thiểu số và tăng cường sự thống nhất của Tổ quốc, Hội đồng Chính phủ quyết định: 1. Tiếng và chữ phổ thông và ngôn ngữ chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nó là phương tiện giao lưu không thể thiếu được giữa các địa phương và các dân tộc trong cả nước, giúp cho các địa phương và các dân tộc có thể phát triển đồng đều các mặt kinh tế, văn hoá, khoa học kĩ thuật, v.v... tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc. Vì vậy, mọi công dân Việt Nam đều có nghĩa vụ và quyền lợi học tập và sử dụng tiếng và chữ phổ thông. 2. Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc thiểu số ở Việt Nam vừa là vốn quý của các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hoá chung của cả nước. Ở các vùng dân tộc thiểu số, tiếng và chữ dân tộc được dùng đồng thời với tiếng và chữ phổ thông. Cùng với chữ phổ thông, chữ dân tộc tham gia vào nhiều mặt hoạt động ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là trong việc giữ gìn và phát triển vốn văn hoá của các dân tộc. Vì thế, đi đối với việc hoàn thành phổ cập tiếng và chữ phổ thông, cần ra sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số xây dựng mới hoặc cải tiến chữ viết của từng dân tộc. Các dân tộc thiểu số chưa có chữ viết đều được giúp đỡ xây dựng chữ viết theo hệ chữ La tinh. Các dân tộc thiểu số đã có chữ viết kiểu cổ, nếu có yêu cầu, thì được giúp đỡ xây dựng chữ viết mới theo hệ chữ La tinh. Để việc dạy và học chữ dân tộc và chữ phổ thông được dễ dàng, nhanh chóng, thuận tiện cho cả đồng bào các dân tộc thiểu số và đồng bào người Kinh muốn học chữ dân tộc, cần xây dựng mới hoặc cải tiến chữ viết dân tộc theo bộ vần, gần gũi với bộ vần chữ phổ thông. Trong khi chữ viết mới của các dân tộc thiểu số được sử dụng phổ biến, các chữ dân tộc kiểu cổ và kho tàng sách cổ của các dân tộc vẫn được giữ gìn và khai thác. 3. Ở vùng dân tộc thiểu số, chữ dân tộc được dạy xen kẽ với chữ phổ thông ở cấp I trong các trường phổ thông và bổ túc văn hoá, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người học vừa hiểu biết chữ dân tộc, vừa nắm được nhanh chữ phổ thông..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> a. Nếu đã có chữ viết dân tộc rồi, thì ở những nơi người dân tộc thạo tiếng phổ thông, có thể dạy thẳng bằng tiếng và chữ phổ thông, đồng thời dành một số tiết để dạy chữ dân tộc; ở những nơi người dân tộc ít biết hoặc không biết tiếng phổ thông, cần dạy chữ dân tộc xen kẽ với tiếng và chữ phổ thông, dùng chữ dân tộc để giúp cho người học từng bước tiếp thu tiếng và chữ phổ thông, tiến lên có đủ khả năng học thẳng bằng chữ phổ thông ở các cấp học trên. b. Nếu chưa có chữ viết dân tộc, thì ở những nơi người dân tộc thạo tiếng phổ thông, có thể dạy thẳng bằng tiếng và chữ phổ thông; ở những nơi người dân tộc ít biết hoặc không biết tiếng phổ thông, cần dạy chữ phổ thông và giảng bằng tiếng dân tộc, cho đến khi người học nắm được tiếng và chữ phổ thông. c. Ở cấp II của các trường phổ thông thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nếu đã có chữ viết dân tộc, có thể tổ chức dạy môn ngữ văn dân tộc. d. Những cán bộ và giáo viên hoạt động ở vùng dân tộc thiểu số nhất thiết phải học tiếng và chữ của dân tộc thiểu số nơi mình công tác. 4. Cần có kế hoạch đẩy mạnh việc sưu tầm và khai thác vốn văn hoá, văn nghệ của các dân tộc thiểu số, cũng như tổ chức phòng trào sáng tác văn nghệ bằng tiếng và chữ dân tộc phục vụ tốt sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cần dùng cả chữ dân tộc và chữ phổ thông trong việc phổ biến những tác phẩm văn học của các dân tộc thiểu số, nhất là những tác phẩm tiêu biểu. Để tạo điều kiện tăng cường việc khai thác vốn văn hoá và phát huy truyền thống văn hoá của các dân tộc thiểu số, các trường đại học và các viện nghiên cứu khoa học có liên quan cần đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giỏi về ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, đẩy mạnh công tác nghiên cứu tiếng nói, chữ viết, văn học, v.v... của các dân tộc thiểu số. Trong công tác thông tin, tuyên truyền và văn hoá của Nhà nước ở vùng các đồng bào dân tộc thiểu số, phải cố gắng kết hợp sử dụng tiếng, chữ phổ thông và tiếng, chữ dân tộc, giúp cho đồng bào tiếp thu được dễ dàng, nhanh chóng. Trong giao dịch thư tín và trong đơn từ quan hệ với các cơ quan nhà nước, đồng bào các dân tộc thiểu số được dùng chữ viết dân tộc; các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết tốt những đơn từ đó.. III. Tổ chức thực hiện 1. Bộ Giáo dục có trách nhiệm: a. Hướng dẫn các tỉnh xây dựng kế hoạch dạy chữ phổ thông và chữ dân tộc trong các trường, lớp phổ thông và bổ túc văn hoá thích hợp với tình hình thực tế và yêu cầu của từng vùng, từng dân tộc; b. Xây dựng chương trình học, soạn giáo trình và những sách giáo khoa cần thiết bằng chữ dân tộc, đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, hướng dẫn kế hoạch và phương pháp dạy xen kẽ chữ dân tộc với chữ phổ thông trong các trường, lớp phổ thông và bổ túc văn hoá cho sát hợp với tình hình. 2. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam có trách nhiệm: a. Hướng dẫn uỷ ban nhân dân các tỉnh thực hiện việc cải tiến hoặc xây dựng mới các loại chữ dân tộc; b. Biên soạn các sách từ điển, hội thoại, v.v... và bồi dưỡng cán bộ phục vụ cho yêu cầu phát triển đồng thời chữ phổ thông và chữ dân tộc ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số; c. Phối hợp các ngành có liên quan để tiến hành việc nghiên cứu các chữ dân tộc cổ, khai thác các kho tàng tư liệu cổ của các dân tộc thiểu số. 3. Bộ Đại học và Trung học Chuyên nghiệp có trách nhiệm tổ chức việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, khai thác, giới thiệu văn hoá, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số. 4. Bộ Văn hoá và Thông tin có trách nhiệm chỉ đạo các tỉnh: a. Phát động phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, phát huy tác dụng của chữ dân tộc trong các hoạt động này; b. Mở rộng việc in và phát hình các loại văn hoá phẩm bằng chữ dân tộc và bằng hai thứ chữ phổ thông và dân tộc; c. Tổ chức việc sử dụng đồng thời tiếng, chữ phổ thông và tiếng, chữ dân tộc trong công tác thông tin, tuyên truyền, triển lãm, thuyết minh phim, v.v... ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 5. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, theo sự hướng dẫn của các ngành nói trên,có trách nhiệm: a. Căn cứ vào tình hình thực tế của tỉnh, yêu cầu và nguyện vọng của đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh, đề ra chủ trương cụ thể của tỉnh và xây dựng kế hoạch chỉ đạo các ngành, các cấp trong tỉnh thực hiện tốt quyết định này; b. Quyết định các phương án cải tiến hoặc xây dựng mới các chữ dân tộc thiểu số trong tỉnh. 6. Uỷ ban Dân tộc của Chính phủ giúp Hội đồng Chính phủ theo dõi, kiểm tra việc thực hiện quyết định này, để xuất với Chính phủ, các bộ và uỷ ban nhân dân các tỉnh những vấn đề cần xem xét và giải quyết..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Điều 7, Luật Giáo dục năm 2005, quy định về “Ngôn ngữ dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác; dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số; dạy ngoại ngữ”. “1. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục và yêu cầu cụ thể về nội dung giáo dục, Thủ tướng Chính phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. 2. Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy định của Chính phủ. 3. Ngoại ngữ quy định trong chương trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong giao dịch quốc tế. Việc tổ chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác cần bảo đảm để người học được học liên tục và có hiệu quả”. Trích nguyên văn từ Luật Giáo dục (được thông qua ngày 14/6/2005 tại kì họp thứ 7, Quốc hội Khoá XI). Nxb Chính trị Quốc gia, H., 2005, trang 11–12.. 1. 2. Đề tài: Chính sách văn hóa dân tộc thiểu số ở vùng Bắc Trung Bộ, thực trạng và giải pháp. LỜI MỞ ĐẦU. Việt Nam là nước có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống, vì thế vấn đề dân tộc mà trong đó trước hết là vấn đề ngôn ngữ văn hóa các dân tộc đã, đang và sẽ là vấn đề nóng bỏng của đất nước ta. Vì thế có một chính sách ngôn ngữ văn hóa dân tộc hợp lí là một nhiệm vụ thực sự cấp bách, một công việc không ít khó khăn. Bởi lẽ các dân tộc rất đa dạng về mặt dân số, trình độ phát triển xã hội không đồng đều nhau, điều kiên tự nhiên nơi các dân tộc cư trú lại rất khác nhau. Trong khi đó, mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Nhà nước ta đòi hỏi các dân tộc phải phát triển như nhau. Đây cũng chính là nhân tố tác động đến việc hoạch định chính sách cũng như việc thực thi các nhiệm vụ để hiện thực hóa chính sách ngôn ngữ văn hóa dân tộc. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của xã hội và là công cụ tư duy của con người. Cho đến hiện nay và trong tương lai, không ai có thể phủ nhận được vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển văn hóa của từng cá nhân con người trong một tập thể, trong một dân tộc. Xuất phát từ vai trò có ý nghĩa to lớn ấy, chính sách văn hóa dân tộc cần phải được quan tâm, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động.Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về vấn đề này, người viết lựa chọn đề tài “Chính sách văn hóa dân dộc ở vùng Bắc Trung Bộ, thực trạng và giải pháp” Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin , căn cứ vào một số quan điểm trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986), đặc biệt là những vấn đề lý luận và từ thực tiễn công tác văn hóa dân tộc ở nước ta. Đề tài được nghiên cứu trên phạm vi vùng văn hóa Bắc Trung Bộ. Do điều kiện về thời gian, về tài liệu cũng như trình độ hiểu biết vấn đề của người viết còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ quý thầy cô và bạn đọc để tiểu luận này được hoàn thiện hơn!. I.NỘI DUNG CHÍNH:.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> 1.Vấn đề song ngữ ở Việt Nam Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất của xã hội con người. Mỗi một cộng đồng xã hội hay dân tộc khác nhau có những hình thức giao tiếp khác nhau. Có những dân tộc trong xã hội chỉ dùng một ngôn ngữ duy nhất để giao tiếp với nhau. Trường hợp ấy người ta gọi là tình trạng đơn ngữ. Lại có những dân tộc trong xã hội để giao tiếp với nhau người ta sử dụng nhiều hơn hai ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày. Trường hợp ấy người ta gọi là tình trạng song ngữ. Việt nam là một quốc gia đa dân tộc và là một địa bàn thu nhỏ của bức tranh ngôn ngữ - văn hóa khu vực Đông Nam Á . Theo tài liệu số 121 – TCTK của Tổng cục thống kê ngày 2 – 3 – 1979, nước Việt Nam có 54 dân tộc gồm dân tộc Kinh (Việt) và 53 dân tộc thiểu số khác. Như vậy Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú từ Bắc vào Nam, ở miền núi, trung du và đồng bằng tạo thành một bức tranh đa dạng và phức tạp về địa vực cư trú.Ngoại trừ cộng đồng người Việt là một cộng đồng đơn ngữ thì có thể nói tất cả các dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam đều là những cộng đồng song ngữ. Ngoài tiếng mẹ đẻ của mình được sử dụng trong những môi trường nhất định, dân tộc thiểu số còn dùng tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ quốc gia throng những môi trường khác. Ngoài ra có những dân tộc, bên cạnh tiếng mẹ đẻ, tiếng Việt lại có thể sử dụng những ngôn ngữ khác nữa trong một vài môi trường giao tiếp nào đó. Trong tình hình như vậy, việc nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở nước ta không thể không chú ý tới vấn đề giao tiếp song ngữ. Có những cộng đồng song ngữ, ngôn ngữ thứ nhất là tiếng mẹ đẻ của cộng đồng ấy. Ở đây tiếng mẹ đẻ được dùng phổ biến ở quê hương, vùng lãnh thổ mà cộng đồng song ngữ ấy sinh sống. Tuy nhiên do một điều kiên nào đó, cộng đồng này phải sử dụng thêm một ngôn ngữ thứ hai không phải tiếng mẹ đẻ để làm công cụ giao tiếp. Việc cần phải sử dụng ngôn ngữ thứ hai có thể là do tiếng mẹ không thỏa mãn yêu cầu phát triển tư duy, yêu cầu giao tiếp ở một không gian lớn hơn…Trong trường hợp này ngôn ngữ thứ hai có tác dụng tích cực bổ sung cho ngôn ngữ thứ nhất là tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh đó có những cộng đồng song ngữ mà mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ với ngôn ngữ thứ hai không như vậy. Ở đây ngôn ngữ thứ nhất không phải tiếng mẹ đẻ. Các cá nhân song ngữ không thể sử dụng tiếng mẹ đẻ làm công cụ giao tiếp thường xuyên và rộng rãi trong xã hội. Ngược lại ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ lại trở thanhf ngôn ngữ thứ nhất, đóng vai trò là công cụ giao tiếp chính của cộng đồng hay cá thể người này. Ở một khía cạnh khác người ta còn nói đến một trạng thái nữa là trạng thái song ngữ tự nhiên. Ở trạng thái này các thành viên trong cộng đồng song ngữ tuy sử dụng tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ thứ nhất nhưng trình độ sử dụng chủ yếu là ở dạng nói mà chưa sử dụng ở dạng viết, trình độ năm bắt và sử dụng tiếng mẹ đẻ chưa ở trình độ hoàn chỉnh. Đồng thời ngôn ngữ thứ hai mà họ sử dụng cũng ở trình độ thấp. Nếu xem xét ở địa bàn các dân tộc thiểu số nước ta, hình như phần lớn cộng đồng song ngữ đang ở trạng thái tự nhiên này. Các dân tộc ở Bắc Trung Bộ cũng thuộc trạng thái đó. 2.Khái quát về vùng Bắc Trung Bộ 2.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội ở Bắc Trung Bộ Bắc Trung Bộ là phần phía bắc của Trung Bộ Việt Nam có địa bàn từ Nam dãy núi Tam Điệp tới Bắc đèo Hải Vân gồm sáu tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An. Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế. Vùng Bắc Trung Bộ nằm kề bên vùng KTTĐ Bắc bộ và vùng KTTĐ miền Trung, trên trục giao thông Bắc Nam về đường sắt, bộ; nhiều đường ô tô hướng Đông Tây (7,8,9,29) nối Lào với Biển Đông. Có hệ thống sân bay (Vinh, Đồng Hới, Phú Bài), bến cảng (Nghi Sơn, Cửa Lò, Cửa Hội, Vũng Ánh, Sơn Dương, Cửa Gianh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Thuận An, Chân Mây...)có các đầm phá thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy hải sản,là trung tâm du lịch quan trọng của đất nước(động Phong Nha-KẻBàng,Cố đô Huế.v.v.)tạo điều kiện cho viêc giao lưu kinh tế giữa VN và các nước Lào,MianMa.v.v.. Lãnh thổ kéo dài, hành lang hẹp, Tây giáp Trường Sơn và Lào, phía Đông là biển Đông(Vịnh Bắc Bộ)cả rung du và miền núi, hải đảo dọc suốt lãnh thổ, có thể hình thành cơ cấu kinh tế đang dạng phong phú. Địa hình phân dị phức tạp, thời tiết khắc nghiệt, nhiều biến động, cần phải lợi dụng hợp lí. Nhiều vũng nước sâu và cửa sông có thể hình thành cảng lớn nhỏ phục vụ việc giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các tỉnh trong vùng, với các vùng trong nước và quốc tế..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Bắc Trung Bộ là nơi cư trú của 12 dân tộc khác nhau (Thái, Mường, Tày, Mông, Bru-nây Kiều...) sống ở Trường Sơn. Phân bố không đều từ đông sang tây. Người Kinh sinh sống chủ yếu ở đồng bằng ven biển. Bắc Trung Bộ có nhiều khoáng sản quý , đặc biệt là đá vôi nên có điều kiện phát triển ngành khai thác khoáng và sản xuất vật liệu xây dưng . Đây là ngành quan trọng nhất của vùng. Ngoài ra vùng còn có các ngành khác như chế biến gỗ , cơ khí , dệt may , chế biến thực phẩm . Phân bố không đồng đều . Các trung tâm có nhiều ngành công nghiệp : Thanh Hóa , Vinh , Huế với qui mô vừa và nhỏ. Cơ sở hạ tầng , công nghệ , máy móc , nhiên liệu cũng đang được cải thiện . Cung ứng được nhiên liệu , năng lượng. Bắc Trung Bộ có rất nhiều cửa khẩu biên giới giữa Việt - Lào :Nậm Cắn , Cầu Treo , Cha Lo , Lao Bảo. Có bờ biển dài tạo điều kiện cho các tàu buôn hàng hóa nước ngoài xuất nhập khẩu và các tàu chở khách du lịch nước ngoài vào nước ta . Du lịch đang trên đà phát triển . Số lượng khách du lịch đang tăng lên mỗi ngày nhiều. Theo hệ thống phân vùng địa lí Việt Nam, Bắc Trung Bộ là khu vực chuyển tiếp giữa Bắc Bộ và Nam Trung Bộ. Lịch sử cho thấy cư dân nơi đây có nguồn gốc chủ yếu là người Thanh- NghệTĩnh thiên di vào Bình Trị Thiên từ thời Lý- Trần- Lê. Do đó, mối quan hệ của người Việt nơi đây liên quan, gắn bó với các sinh hoạt văn hoá dân gian nói chung. 2.2.Cảnh huống ở Bắc Trung Bộ Bắc Trung Bộ là một vùng đất rộng lớn có lịch sử từ rất lâu đời bao gồm sáu tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế. Đây là địa bàn cư trú của 12 dân tộc thiểu số: Thái, Mường, Mông, Dao, Thổ, Khơ Mú, Bru – Vân Kiều, Cơ Tu, Tà Ôi, Lào, Chứt, Ơ Đu. Người Kinh sống chủ yếu ở đồng bằng ven biển và chiếm một số lượng lớn. Nên tiếng Việt có vai trò quan trọng nhất đôí với sự phát triển xã hội. Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông dùng chung cho tất cả các dân tộc thiểu số ở Bắc Trung Bộ. Họ chỉ dùng tiếng mẹ đẻ khi sinh hoạt trong cộng đồng dân tộc của họ, còn khi giao tiếp với xã hội, đa phần đồng bào dân tộc thiểu số ở đây đều dùng tiếng Việt. Ở Bắc Trung Bộ, bên cạnh những cộng đồng ngừơi Kinh sinh sống khá đông đúc thì còn có những cộng đồng dân tộc thiểu số có trình độ kinh tế xã hội phát triển khá mạnh. Đáng chú ý nhất là hai dân tộc Thái và Mường. Về tiếng Thái, đây là dân tộc thiểu số đông thứ hai ở Việt Nam (1040549 - số liệu điều tra 1999) sau dân tộc Tày (1477514 - số liệu điều tra năm 1999). Ngưòi Thái tại Bắc Trung Bộ đang sống tập trung ở miền Tây Thanh Hoá (117836 người) , Nghệ An ( 213604 người) . Ở Việt Nam, người Thái có tên gọi chính thức là Thái, nhưng tên tự gọi của họ là Táy / Tãy. Tuỳ thuộc vào từng địa danh cụ thể, nguời Thái có tên gọi khác nhau. Ở Thanh Hoá ngươì Thái chia làm hai nhóm có tên gọi là Tãy Do và Tãy Đeng (Thái Đỏ) nhưng đồng bào vẫn lờ mờ nghĩ rằng mình là người Tãy dón. Riêng ở Nghệ An, việc chia thành đen hay trắng không còn ý nghĩ mà họ chia thành ba nhóm Tãy Hàng Tổng/ Tãy Mường ( Thái hàng Tổng / Thái Mường), Tãy Thanh / Man Thanh (Thái Thanh / thái Man Thanh) và Tãy Mươi (Tày Mười). Đôi khi nhóm Thái Hàng Tổng ở Quỳ Châu - Nghệ An cũng tự nhận mình là Tãy Do. Người Thái có Một nền văn hoá dân tộc phong phú và đa dạng. Họ không chỉ có chữ viết cổ mà còn có nhiều kiểu chữ khác nhau ở những địa phương khác nhau. Thái là một dân tộc thống nhất với một ngôn ngữ thống nhất. Về tiếng Mường, đây là dân tộc đứng thứ ba về dân số trong các dân tộc thiểu số ở Việt Nam ( 914596 người - số liệu năm 1989). Người Mườn ở BẮc Trung Bộ sống tập trung ở Thanh Hoá (các huyện Ngọc Lạc, thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Bá Thước, Như Xuân, Lang Chánh – 260404 người) và Nghệ An. Người Mường có tên tự gọi là Mol, Mual, Muon với nghĩa là “người”. Ở một số địa phương người Mường có những tên gọi khác nhau, ở Nghệ An họ tự nhận là Thổ và được gắn với những địa điểm cụ thể (Thổ Lâm La, Thổ Sông Con...). Người Mưòng có một hệ thống văn hoá, đặc biệt là văn học dân gian rất phát triển. Chính sự phát triển của nền văn học dân gian ấy cho phép chúng ta nói rằng tiếng Mường ở một phương diện nào đó là một ngôn ngưc khá phát triển. Tiếng Muờng là một hệ thống ngôn ngữ thống nhất. Tính thống nhất này không loại trừ ở một số địa phương. Tiếng Mường là bà con ngôn ngữ gần nhất với tiếng Việt..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Ngoài hai dân tộc kể trên, Bắc Trung Bộ còn có những dân tộc thiểu số khác với số dân khá nhiều nhưng vẫn chưa thực sự phát triển mạng. Dân tộc Mông tại Bắc Trung Bộ sinh sống chủ yếu ở Nghệ An (17435 người) và Thanh Hoá. Tiếng Mông là một ngôn ngữ thống nhất, bao gồm nhiều nhóm địa phương khác nhau. Nền văn học của dân tộc Mông rất phong phú, bao gồm nhiều thể loại đến ca, truyện cổ. đặc điểm này cho thấy tiếng Mông cũng là một ngôn ngữ khá phát triển. Trước đây tiếng Mông không có chữ viết. Bây giờ người ta đã xây dựng một bộ chữ Latinh cho dân tộc này. Nhưng việc phổ biến chữ viết Mông Latinh gặp rất nhiều khó khăn. Dân tộc Dao sinh sống ở Bắc Trung Bộ tập trung chủ yếu ở Thanh Hoá nhưng số lượng rất ít. Dân tộc Thổ bao gồm những người sống ở phía Tây tỉnh Nghệ An: Nghĩa Đàn (17399 người), Tân Kỳ (10723 người), Quỳ Hợp (10700 người), Con Cuông (1127 người) và Như Xuân - Thanh Hoá (6758 người). Về mặt ngôn ngữ, chúng ta khó có thể nói đến tiếng Thổ. Nó chỉ là tiếng Cuối, tiếng Poọng, tiếng Mường trong cái gọi là dân tộc Thổ. Tiếng Cuối, tiếng Poọng chưa có chữ viết cổ mà cũng không có chữ Latinh. Dân tộc Khơ Mú hiên nay sống tập trung đông nhất ở tỉnh NGhệ An (19441 nguời), tập trung ở hai huyện Kỳ Sơn (13009 người), Tương Dương (5452 người) và rải rác ở Quế Phong (gần 1000 người). Khơ Mú là một ngôn ngữ rất quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt. Từ trước dến nay, ngôn ngữ này chưa có chữ viết. Dân tộc Bru – Vân Kiều ở Bắc Trung Bộ sống tập trung ở Quảng Trị (40132 người), Quảng Bình (8045 người) và Thừa Thiên Huế (609 người). Hiện nay chưa thể nói có một ngôn ngữ Bru – Vân Kiều thống nhất bởi ngôn ngữ của các nhóm Khùa, Trì và Măng Cong chưa được nghiên cứu ở mức độ cần thiết. Tiếng Bru – Vân Kiều không có chữ viết cổ. Người Mỹ đã có một phương an Latinh tiếng Bru (nhóm Vân Kiều) và cũng có một phương án khác do cán bộ Mặt trân Dân tộc giải phóng miền Nam làm. Dân tộc Cơ Tu sinh sống chủ yếu ở vùng Trunh và Bắc Trung Bộ: Quảng Nam (gần 30.000 người), ở Huế có huyện Nam Đông (6378 người) và A Lưới (2481 người). Là một dân tộc đã tương đối thống nhất nên ngôn ngữ của nó cũng tương đối thống nhất. Người Cơ Tu chưa có chữ viết cổ. Người Mỹ đã làm một bộ chữ Latinh cho người Cơ Tu. Dân tộc Tà Ôi có 26044 người (số liệu 1989) cứ trú trong địa banf của hai tỉnh THừa Thiên - Huế và Quảng Trị. Người Tà Ôi chưa có chữ viết. Dân tộc Lào ở Bắc Trung Bộ sinh sống chủ yếu ở Kỳ Sơn - NGhệ An (437 người). Chữ Lào đã có từ lâu đời . Dân tộc Chứt sống chủ yếu ở Tây Bắc Quảng Bình và nam Hà Tĩnh. Chứt có ba ngôn ngữ riêng lẻ: Tiếng Chứt chỉ gồm các nhóm Sách, Mày, Rục; Tiếng Arem là nhóm Arem riêng ở Bố Trạch Quảng Bình; Tiếng Mã Liềng bao gồm các nhóm Mã Liềng ở Quảng Bình và Hà Tĩnh. Cả ba ngôn ngữ này hiện nay đều chưa có chữ viết. Dân tộc Ơ Đu là dân tộc có số lượng người ít nhất ở Việt Nam : 137 người (số liẹu 1989) sống ở Tương Dương - Nghệ An. Tiếng Ơ Đu thuộc ngôn ngữ Môn – Khơmer và có một số yếu tố Việt Muờng trong từ vựng cơ bản. Tiếng Ơ Đu là ngôn ngữ chưa có chữ viết. Trên đây là 12 dân tộc thiểu số sinh sống ở Vùng Bắc Trung Bộ. Thái và Mường là hai dân tộc lớn với số dân rất đông và trình độ kinh tế xã hội cũng phát triển. Hiên nay ở Bắc Trung Bộ đây là hai dân tộc duy nhất có chữ viết. Còn tất cả những dân tộc còn lại chỉ có chữ viết dạng Latinh (Mông, Bru – Vân Kiều, Cơ Tu, Tà Ôi, Lào, Mường, Dao) hoặc không có chữ viết (Thổ, KHơ Mú, Chứt, Ơ Đu) Ở Bắc Trung Bộ hiện nay Thái là dân tộc duy nhất đã có các chuơng trình truyền hình chuyên về tiếng Thái và đã có mặt trên hệ phát thanh dân tộc VOV4. Những dân tộc còn lại đều chưa có. Hiện nay ở Bắc Trung Bộ chỉ có tiếng Thái đã và đang được giảng dạy trong nhà trường. Những dân tộc còn lại đều chưa có 2.3. Ý kiến về chính sách ngôn ngữ cho vùng Bắc Trung Bộ Bắc Trung Bộ là một khu vực có số lượng dân tộc thiểu số sinh sống khá đông đúc. Vì vậy việc có một chính sách ngôn ngữ hợp lí là điều rất cần thiết và cấp bách trong tình trạng hiện nay. Đảng và Nhà nuớc ta đã có rất nhiều chính sách khác nhau cho vấn đề dân tộc trên cả nước. Trước tiên, cần phải có một chính sách về vấn đề song ngữ hợp lí. Chính sách này coi vấn đề.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> bình đẳng giữa các dân tộc lên hàng đầu. Cần phải xoá bỏ tận gốc sự chên lệch giữa các dân tộc, nhất là giữa các dân tộc rất phát triển như Thaí, Muờng với các dân tộc kém phát triển như Ơ Đu, Chứt, Tà ôi...Phải hỗ trợ kinh tế cho các dân tộc thiểu số ít người, đảm bảo về đời sống vật chất cho bà con, từ đó nâng cao đời sống cho họ. Chúng ta cần thức đẩy sự nghiệp giáo dục ngôn ngữ, trong đó có giáo dục tiếng mẹ đẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt là những dân tộc có số lượng cực ít như Ơđu. Ngoài ra, các cấp chính quyền của các tỉnh Bắc Ttung Bộ phải có kế hoạch từng bước ổn dịnh, phát triển kinh tế xã hội vùng có nhièu dân tộc miền núi. Quốc hội hoặc Chính Phủ cần có Nghị quyết mang tính pháp lí quy định cán bộ công chức ở một số ngành làm việc ở vùng dân tộc miền núi phải nắm được ngôn ngữ dân tộc phổ biến ở vùng đó. Nhất là các vùng có đông dân tộc Thái (miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An) và Mường (Thanh Hoá và rải rác ở NGhệ An, Hà Tĩnh). Giáo viên ở các vùng có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống và học tập phải có hiểu biết về tiếng dân tộc nơi mà họ đang công tác để không những giúp đỡ họ trong việc giảng dạy tốt các học sinh mà còn giúp họ có được vị thế quan trong trong đời sống vùng dân tộc thiểu số. Nhà nước và Bộ Giáo Dục và Đào Tạo nên thấy vấn đề giáo dục tiếng mẹ đẻ cho dồng bào dân tộc thiểu số là thực sự cấp bách. Và để thực hiện nhiẹm vụ này, công việc đầu tiên là phải chuẩn bị một đội ngũ giáo viên sẵn sàng đáp ứng các công việc ấy. Phải dẩy mạnh việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên dạy tiếnh dân tộc. Chính quyền địa phuơng nên có một chương trình đào tạo cán bộ nòng cốt là nguời dân tộc thiểu số, bồi dưỡng cho họ những kiến thức sư phạm, xã hội rồi đưa họ trở lại công tác, giảng dạy tại chính vùng dân tộc thiểu số mà họ đang sinh sống. Cần phải xây dựng chương trình bộ môn tiếng dân tộc, biên soạn sách giáo khoa, tài liệu cần thiết Cần xác lập một hệ thống đào tạo tiếng dân tộc trong các trường đại học, các trường cao đẳng ở trung ương và địa phương và dành kinh phí thích đáng cho việc đào tạo này. Ở Bắc Trung Bộ, dân tộc Thái và Muờng sinh sống đông đúc nhất, vì vậy việc đưa hai ngôn ngữ dân tộc thiểu số này vào chuơng trình giảng dạy ở một số khoa tại trường đạihọc lớn như Đại học Vinh, Đại học Huế là rất cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy phải tôn trọng nguyên tắc trong giáo dục tiếng mẹ đẻ cho người dân tộc, phải xuất phát từ lợi ích tự thân của người thụ hưởng giáo dục. Cần phải điều chỉnh lại chuơng trình ngữ văn tại một số trường, trong đó phải tính đến chương trình ngữ văn dân tộc. Ngay bây giờ cần phải xây dựng một đề tài nghiên cứu để xác định chủ thuyết khoa học cho vấn đề dạy tiếng mẹ đẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số. Nhất là đối với những dân tộc ít người nhu Ơđu, Chứt, Lào,... Đối với những dân tộc đã có phát thanh, phát hình như Thái, Mường chúng ta cần phải tăng thời lượng phát sóng, phong phú các chương trình. Phải có kế hoạch, chương trình lâu dài, đi sâu vào đời sống của bà con dân tộc, lấy họ làm đối tượng chính để khai thác các chương trình. Cần phải xây dựng các chương trình có ảnh hưởng tích cực đến lối sống, nhận thức của bà con các dân tộc thiểu số tại đây. Thêm vào đó, với các dân tộc thiểu số có đông dân cư như Lào, Dao, Mông, THổ, Bru-Vân Kiều, Cơ Tu, Tà Ôi cần phai xây dựng chuong trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc này để nó ngày càng phát triển. Ngoài ra, cần phải tiếp tục đưa tiếng Thái, tiếng Mường vào chương trình giảng dạy không chỉ trong các trường Cao đẳng Đại học tại địa phưong mà còn cần phải đưa vào các trường Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, nơi có đông con em hai dân tộc này sinh sống và theo học, để từ đó thấy được tầm quan trọng của tiếng dân tộc và khiến cho học sinh và sinh viên ở đây thêm yêu và trân trọng tiếng nói của đồng bào mình. Bên cạnh đó, với những dân tộc chưa có chữ viết như Ơđu, Chứt, Khơ mú, Đảng và chính quyền địa phương cần gấp rút đề ra các phương án thiết thực để xây dựng chữ viết riêng cho các dân tộc ấy. Để sử dụng tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số được phát truển rộng rãi và vững chắc, Sở Giáo dục và Đào tạo và các ban ngành ở các tỉnh BẮc Trung Bộ phải tăng cường việc tuyên truyền và sử dụng tiếng dân tộc trong đời sống, làm phong phú thêm nền văn hoá vùng. Thường xuyên tổ chức các chương trình giao lưu, gặp gỡ, các buổi sinh hoạt văn hoá giữa các dân tộc.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> trong vùng để đồng bào có thể tìm hiểu kinh nghiệm của nhau, tăng thêm tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc trong vùng. II.KẾT LUẬN: Trong thời đại hiện nay, vấn đề dân tộc mà trong đó trước hết là vấn đề ngôn ngữ văn hoá dân tộc đã, dang và sẽ là vấn đề nóng bỏng của nhiều quốc gia khác nhau, trong đó không thể thiếu Việt Nam. Đẻ đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong tương lai, mỗi dân tộc hay mỗi quốc gia nhất thiết phải xây dựng chiến lược phát triển ngôn ngữ văn hoá dân tộc của riêng mình. Xuất phát từ mục tiêu phát triển bình đẳng các dân tộc anh em trong một quốc gia đa dân tộc, đem lại no ấm, hạn phúc cho mọi người, Đảng và Nhà nước ta đã sơm hoạch định cho mình một chính sách ngôn ngữ văn hoá dân tộc. Tuy nhiên đây là một vấn đề không phải một sớm một chiều có thể giải quyết xong được mà nó cần sự đồng lòng của toàn thể nhân dân các dân tộc trên đất nước, cùng quyết tâm thực hiện xây dựng một khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng vững mạnh hơn./.. Trả Lời Với Trích Dẫn. ) Mối quan hệ giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự phát triển toàn diện của đất nước Đây là một nội dung khoa học cấp thiết về ngôn ngữ học đang được thế giới và Liên Hợp quốc đặc biệt quan tâm nhằm trả lời các vấn đề như: một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ có cần phải thống nhất sử dụng một thứ tiếng hay không? Đa dạng ngôn ngữ (tức là nhiều ngôn ngữ) thì có ảnh hưởng như thế nào (tích cực hay tiêu cực) đối với sự phát triển của đất nước? Tiếng Anh với tư cách là ngôn ngữ quốc tế hiện nay có ảnh hưởng như thế nào đến vị thế của ngôn ngữ quốc gia? Cần có thái độ như thế nào đối với các ngôn ngữ dân tộc thiểu số? 2) Vị thế của tiếng Việt trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Nội dung này sẽ làm rõ vai trò của tiếng Việt trong đời sống mọi mặt của xã hội Việt Nam như: Làm thế nào để nâng cao vị thế của tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ quốc gia (mà hiện nay gọi là tiếng phổ thông)? Vai trò của tiếng Việt đối với sự củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, phát triển kinh tế khoa học của đất nước, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới;... 3) Vấn đề bảo vệ, phát triển và hiện đại hoá tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ quốc gia Nội dung này nhằm chỉ rõ thực trạng của tình hình sử dụng và phát triển tiếng Việt hiện nay; nêu ra được nhiệm vụ, các biện pháp bảo vệ, phát triển và hiện đại hoá tiếng Việt nhằm đáp ứng giao tiếp trong thời kì hiện nay ở Việt Nam đang diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng sự đô thị hoá và hội nhập của Việt Nam với thế giới. 4) Vai trò và chức năng của các ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Nội dung này sẽ làm rõ một số vấn đề chính sau: a) Chức năng của các ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong giao tiếp nội bộ dân tộc; b) Mối quan hệ giữa tiếng Việt và ngôn ngữ các dân tộc thiểu số tại vùng dân tộc thiểu số; c) Việc bảo tồn và phát huy tiếng nói chữ viết các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam. 5) Toàn cầu hoá và vấn đề sử dụng, dạy-học ngoại ngữ ở Việt Nam hiện nay Nội dung này sẽ làm rõ một số vấn đề sau: a)Vai trò của tiếng Anh ở Việt Nam; b).

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Ngôn ngữ trên mọi phương diện có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển của một quốc gia. Thậm chí đôi khi ngôn ngữ là nhân tố quyết định đảm bảo sự ổn định và tiến bộ của một quốc gia bằng cách giữ vai trò tác nhân giao tiếp, thống nhất dân tộc, pháp luật, quản lí Nhà nước, chính trị và v.v. Tại các nước tiên tiến như Anh, Mĩ và Nhật Bản, vấn đề ngôn ngữ thượng được hoàn tất trước so với các vấn đề khác để hỗ trợ cho quá trình phát triển quốc gia. Trước đây, vấn đề ngôn ngữ được gắn với phẩm giá của quốc gia và dân tộc, là công cụ để cố kết xã hội thuộc quốc gia đó. Nhưng tình hình thế giới thay đổi đã đặt ngôn ngữ ở vị trí cao và quan trọng hơn trong một quốc gia. Rõ ràng là công cuộc công nghiệp hóa đất nước đã nâng cao vai trò của ngôn ngữ như là chất xúc tác cho sự phát triển kinh tế và nâng cao thanh thế của quốc gia trên trường quốc tế. Ngôn ngữ có chức năng rất rộng, nhưng chủ yếu vẫn là chức năng công cụ giao tiếp và chức năng xúc tác cho phát triển quốc gia. Trong xã hội đa dân tộc của Việt Nam, tiếng Việt được lựa chọn làm ngôn ngữ chính thức. Việc sử dụng ngôn ngữ chính thức ở mỗi một nước được thể chế hóa bằng pháp luật nhà nước. Cơ sở ngôn ngữ học được củng cố thông qua hệ thống giáo dục nhà nước. Theo công trình nghiên cứu của Hoss năm 1984, cơ sở ngôn ngữ trong nhà trường đem lại hiệu quả rất lớn đối với phát triển quốc gia. Trước khi ngôn ngữ có thể đóng vai trò quan trọng hơn trong công nghiệp hóa, nó cần phải chứng minh khả năng của mình trên lĩnh vực giáo dục. Nền giáo dục hoàn hảo phải sử dụng ngôn ngữ trung gian tốt, có khả năng truyền đạt lại kiến thức ở bậc tiểu học, trung học, đại học và quốc tế. Một điển hình mà chúng ta có thể tham khảo là khả năng của Nhật Bản xây dựng một nước công nghiệp được thế giới kính nể là do vai trò ngôn ngữ của Nhật Bản có thể được sử dụng một cách rộng rãi trên lĩnh vực giáo dục, rồi sau đó mở ra con đường rộng lớn cho phát triển công nghiệp. Vì vậy, việc sử dụng ngôn ngữ trong giáo dục là một bước cơ bản cho công nghiệp hóa trong một quốc gia. Chúng ta biết rằng phát triển công nghiệp của một nước sẽ không thành công nếu xã hội của nó không sẵn sàng tiếp nhận đổi mới. Và đổi mới sẽ không giúp đỡ được cho công nghiệp hóa chừng nào xã hội chưa sẵn sàng về tâm lí và vật chất. Một trong những điều kiện mà con người phải chuẩn bị là ngôn ngữ trong lĩnh vực công nghiệp, nghĩa là ngôn ngữ kĩ thuật. Khả năng sử dụng ngôn ngữ, mà chủ yếu là ngôn ngữ kĩ thuật, trở thành điều kiện mấu chốt trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, bởi vì chuyển giao công nghệ cần có lực lượng chuyên gia địa phương thạo ngôn ngữ của nước chuyển giao công nghệ. Nếu không, có sự chuyển giao đó sẽ xảy ra một cách chậm chạp và phải sử dụng chuyên gia nước ngoài. Một ví dụ là Malaysia đã từng đề nghị Nhật Bản giúp đỡ tích cực hơn nữa trong việc chuyển giao kĩ thuật cao để Malaysia tiếp thu được một cách nhanh chóng. Điều đó xảy ra là do Malaysia thiếu chuyển giao địa phương giỏi tiếng Nhật và phụ thuộc nhiều hơn vào chuyên gia Nhật trong việc đưa công nghệ đó vào nền văn hóa địa phương..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, điều tiên quyết là cần coi trọng công tác kế hoạch hóa ngôn ngữ Việt, đặc biệt là ngôn ngữ kĩ thuật của mình. Kế hoạch hóa ngôn ngữ tập trung vào công tác xây dựng, hiện đại hóa, khuyến khích và những vấn đề khác có liên quan đến sự phát triển của tiếng Việt kĩ thuật. Một trong những hoạt động có thể mang lại hiệu quả là nghiên cứu và sàng lọc những từ vay mượn của tiếng nước ngoài và tiếng địa phương. Kế hoạch hóa ngôn ngữ kĩ thuật sẽ tạo được cơ hội mới cho tiếng Việt trở thành ngôn ngữ khoa học có sức cạnh tranh trong công cuộc phát triển và công nghiệp hóa đất nước. Ngôn ngữ là nhân tố thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, góp phần nâng cao thu nhập quốc gia và cá nhân. Tiếng Việt có vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa ở Việt Nam, một đất nước với 80% dân số là cư dân nông nghiệp. Sự phát triển về mặt chức năng xã hội của tiếng Việt được chú ý đặc biệt trong thời kì Việt Nam tiến hành "mở cửa" nền kinh tế thị trường. Ở thời kì này tiếng Việt đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo lập các hệ thống thuật ngữ khoa học (vay mượn từ tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh v.v.) trong sự nghiệp giáo dục ở các cấp từ phổ thông đến đại học, nâng cao dân trí và truyền bá các kiến thức. Trên cơ sở phát triển hiện nay, tiếng Việt đã có những thành công trong việc tạo lập "cơ sở hạ tầng" cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Hơn nữa, tiếng Việt còn tham gia vào việc cải tạo và phát triển nền nông nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, tiếng Việt cũng gặp không ít thử thách, đặc biệt là các yếu tố kinh tế - xã hội của thời kì "mở cửa", đã tác động đồng thời tích cực và tiêu cực vào sự phát triển của tiếng Việt hiện đại. Hiện nay, khi xã hội công nghiệp được xuất hiện ở Việt Nam, tiếng Việt tiếp tục giữ vai trò quan trọng là cơ sở hạ tầng góp phần vào việc cấu tạo một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp hiện đại. Tiếng Việt là cơ sở để "du nhập" những từ ngữ và những khái niệm của thời kì phát triển kinh tế mới ở Việt Nam, nhất là các ngành khoa học, công nghệ then chốt cho sự phát triển. Tiếng Việt đóng vai trò quan trọng của sự nghiệp giáo dục và nâng cao dân trí ở Việt Nam. Nét mới của tiếng Việt trong giai đoạn này là tiếng Việt tham gia tích cực vào các quá trình mới này với sự xuất hiện tích cực và hỗ trợ của kĩ thuật hiện đại như việc đào tạo những ngành nghề mới, tiếng Việt tham gia vào việc soạn thảo các chương trình của máy vi tính v.v. Tiếng Việt là công cụ giao tiếp chính giữa các dân tộc ở Việt Nam. Tuy nhiên, ở một số phạm vi sử dụng, có sự "cạnh tranh" giữa tiếng Việt với một số tiếng nước ngoài, đặc biệt là với tiếng Anh. Tuy vậy, tiếng Việt luôn luôn có vai trò quyết định trong việc giữ gìn và bảo tồn các di sản văn hóa của mình. Những "tranh chấp" mới xuất hiện và cũng là gay gắt nhất của các biến thể mới trong tiếng Việt (kể cả phạm vi phong cách) là giữa xu hướng "quốc tế hóa" và xu hướng "Việt hóa". Những luận điểm về mối quan hệ giữa xã hội và ngôn ngữ, về những vai trò quan trọng của ngôn ngữ trong xã hội được xem như những tiền đề của phát triển xã hội, trong những giai đoạn phát triển khác nhau thì vai trò của ngôn ngữ trong sự phát triển là khác nhau. Trong thời đại ngày nay, sự ảnh hưởng và thâm nhập lẫn nhau không chỉ diễn ra trong phạm vi kinh tế, trong chuyển giao công nghệ và kĩ thuật, mà cả trong phạm vi văn hóa và ngôn ngữ đã tạo nên bức tranh hết sức phong phú và phức tạp, đặc biệt trong.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> phạm vi những biến đổi của kết cấu ngôn ngữ, những vai trò mới của nó. Có thể nói rằng một khối lượng từ ngữ mới, chủ yếu là từ ngữ vay mượn và những phát triển mới đang nảy sinh hàng ngày trước tác động của sự phát triển xã hội hiện đại. Theo các tác giả của cuốn từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1992, thì trong vòng 5 năm, tính từ khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế thị trường đã xuất hiện trên 2000 đơn vị từ mới (phần nhiều có nguồn gốc vay mượn từ các tiếng nước ngoài). Chính xã hội công nghiệp, trong điều kiện giao lưu quốc tế rộng rãi giữa các quốc gia đang đem lại cho ngôn ngữ mỗi dân tộc những phát triển mới. Tuy nhiên, sự "ô nhiễm môi trường ngôn ngữ dân tộc" đang là vấn đề đối với một quốc gia đang tìm tòi con đường công nghiệp hóa. Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ đang bị lôi cuốn mạnh mẽ vào quá trình công nghiệp mới thì ngôn ngữ dân tộc đã và đang có những cuộc "cạnh tranh" khi âm thầm, khi quyết liệt với các tiếng nước ngoài (như tiếng Anh) và giữa các tiếng của các dân tộc có quan hệ thân thuộc. Ngay cả một đất nước phát triển như Nhật Bản cũng không tránh khỏi những "ô nhiễm chung" đó. Có điều là tiếng Nhật đã phải trải qua hai cuộc cải cách lớn (một vào cuối thế kỉ trước và một ngay sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai) để vươn lên trên những mặc cảm tự ti của dân tộc về ngôn ngữ và hệ thống chữ viết của mình. Hàng thế kỉ, Nhật Bản đã phấn đấu xây dựng một ngôn ngữ Nhật hiện đại trong một xã hội công nghiệp phát triển. Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của tin học sẽ đưa đến việc sử dụng một cách rộng rãi các phương tiện thông tin, trong đó đặc biệt là việc sử dụng máy vi tính. Khi máy vi tính xuất hiện một cách rộng rãi vào đầu những năm 80 của thế kỉ này thì vấn đề xử lí ngôn ngữ tự nhiên trên các phương tiện thông tin và ở máy vi tính đã đặt ra nhiều vấn đề mới của việc sử dụng ngôn ngữ và ứng dụng của nó. Vấn đề đánh dấu, từ "ngọng", từ đồng nghĩa, từ điển giải thích là những vấn đề cần được nghiên cứu và hợp tác giữa các nhà ngôn ngữ học và các nhà tin học nhằm tìm kiếm những giải pháp hữu ích của việc ứng dụng tiếng Việt. Vấn đề đưa chữ Việt vào máy tính cần thiết phải dựa trên những đặc thù của tiếng Việt. Như vậy, cần thiết phải nhanh chóng có những thay đổi bổ sung và chỉnh lí hệ thống chính tả của tiếng Việt. Như vậy, vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát triển của xã hội hiện đại là cực kì to lớn. Ngôn ngữ đóng góp trực tiếp vào những tiến bộ của khoa học kĩ thuật hiện đại. Ngôn ngữ cần được coi là cơ sở của một động lực phát triển của xã hội hiện đại và cần được nghiên cứu có hệ thống trong các trường đại học công nghệ - kĩ thuật. Có thể cho rằng, trước sự phát triển mới của xã hội và kĩ thuật hiện đại các nhà khoa học sẽ có những phát hiện mới về cấu trúc và chức năng của ngôn ngữ. Trong số các vấn đề này thì những phát triển mới của ngôn ngữ trước hết là do nhu cầu của xã hội, nhưng không thể không kể đến các tác động to lớn của sự phát triển của các ngành kĩ thuật hiện đại. Thế kỉ XXI là thế kỉ của văn hóa, khoa học và công nghệ, mang tính chất quyết định đối với sự phát triển của xã hội. Cả thế giới đang chuẩn bị hành trang văn hóa để hội nhập vào kỉ nguyên mới - kỉ nguyên của những phát minh trong tất cả các lĩnh vực khoa học và công nghệ, kỉ nguyên nối liền các quốc gia dân tộc, các châu lục, kỉ nguyên văn hóa hòa bình..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Năm 2000 - ngưỡng cửa của thế kỉ XXI - đã được UNESCO lấy làm năm Quốc tế văn hóa hòa bình. Theo UNESCO, thế giới ngày nay đang đứng trước triển vọng là đường phân cách về kiến thức sẽ trở thành một vực thẳm không thể san lấp nổi (theo Francisco Sagasti, tạp chí Courier, tháng 2/2000). Như vậy, sự thay đổi tính chất xã hội toàn cầu và cuộc cách mạng về kiến thức ngày càng gay gắt đang tạo ra một không gian mới cho sự xuất hiện một nền văn hóa hòa bình. Trụ cột của nền văn hóa này không còn là quốc gia, mà là từng cá nhân mỗi con người. Văn hóa hòa bình tự thân nó đã được hình thành, tồn tại và phát triển qua nhiều thế hệ, trong mọi xã hội, được con người thực hiện mà không nhất thiết phải công khai đề cập đến. Văn hóa hòa bình của từng cá nhân luôn có quan hệ hữu cơ với văn hóa dân tộc của cá nhân đó. Văn hóa là sự tạo lập trạng thái cân bằng giữa tự nhiên và xã hội loài người, giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định và phát triển hài hòa, là động lực điều chỉnh sự phát triển kinh tế và xã hội. Nói cách khác, văn hóa là chất keo kết dính các mối quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội, tạo nên bản sắc đặc thù của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Thế giới đã biết đến Việt Nam như một dân tộc kiên cường và bất khuất trong các cuộc chiến tranh. Thế giới đã bắt đầu và đang biết đến Việt Nam như một dân tộc kiên cường và hết sức nỗ lực trong công cuộc tái thiết đất nước trong hòa bình. Trong quá trình phát triển, đặc biệt trong cuộc cách mạng toàn cầu về khoa học công nghệ như hiện nay, không thể không có hợp tác quốc tế bởi vì nếu thiếu nhân tố quan trọng hàng đầu này thì không thể nghiên cứu các đại dương, vũ trụ, các dòng sông, sa mạc v.v. Như vậy, trong quá trình hội nhập, thế giới khoa học kĩ thuật luôn có xu hướng hội tụ, tích hợp kiến thức về khoa học công nghệ của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia trên hành tinh của chúng ta. Ngược lại, văn hóa ngày càng bộc lộ tính khu biệt trong quá trình hội nhập này. Văn hóa các dân tộc trên toàn thế giới bền bỉ tích lũy và phát triển, mở rộng giao lưu và hội nhập vào đại dương văn hóa mênh mông của nhân loại với các nét rất đặc trưng của từng dân tộc. Văn hóa luôn tồn tại với cuộc sống loài người bởi nó là tất cả những gì do con người sáng tạo ra để ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên và xã hội. Mặc dù vậy, khái niệm về văn hóa còn chưa được thống nhất với hàng trăm định nghĩa. Đến cuối thế kỉ XIX, văn hóa học mới bắt đầu được hình thành với nhiều quan điểm, nhiều cách tiếp cận khác nhau. Ở phương Tây, khái niệm "văn hóa"lần đầu tiên được các nhà luật học Putedort, nhà triết học Herder, nhà ngôn ngữ học Adelung ở Đức sử dụng vào giữa thế kỉ XVIII. Năm 1871 thuật ngữ "văn hóa" mới được E.B.Taylor định nghĩa lần đầu tiên trong tác phẩm "Văn hóa nguyên thủy" (Primitive Culture) tại London. Năm 1885 trong cuốn sách 2 tập "Khoa học chung về văn hóa" của Klemm, người Đức, khái niệm văn hóa như đối tượng của một khoa học độc lập bắt đầu được hình thành rõ nét với tiến trình phát triển của loài người được đề cập tới như một lịch sử văn hóa. Tại Đại hội về sinh ngữ tại Viên, thủ đô nước Áo, thuật ngữ "văn hóa học" được chính thức sử dụng và trở thành phổ biến sau sự ra đời của tác phẩm "Khoa học về văn hóa" (The Science of Culture) năm 1949 của L.White, người Mĩ..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Theo nghĩa tổng quát nhất thì văn hóa là hệ thống các giá trị và biểu trưng thể hiện cách sống và trình độ sống của con người - con người với tư cách là cộng đồng và cá nhân trong quan hệ với thiên nhiên - trong quan hệ giữa người và người với bản thân. Văn hóa kết tinh những cố gắng nhiều mặt và liên tục của con người trong trường kì lịch sử để khẳng định bản chất và năng lực của mình, để nâng cao chất lượng sống, Văn hóa vừa là mục tiêu sống, là cái đích của con người phấn đấu vươn tới trong mọi hoạt động của mình, vừa là điều kiện sống, môi trường sống của con người. Không phải ngẫu nhiên người ta dùng khái niệm văn hóa mà không phải là một khái niệm nào khác, chẳng hạn như khái niệm kinh tế, chính trị hay khoa học để chỉ sự tổng hợp, sự kết tinh những cố gắng toàn diện và lâu dài của con người nhằm duy trì và phát triển nâng cao sự sống phẩm chất người, trình độ người trong cuộc sống. Theo ý nghĩa này thì qui luật của văn hóa, yêu cầu của văn hóa chi phối sâu xa và lâu dài mọi hoạt động của con người, kể cả các hoạt động kinh tế, chính trị, khoa học, và cái còn lại cuối cùng của các hoạt động này là giá trị văn hóa của chúng. Về giáo dục, trường Đại học là nơi đào tạo những cán bộ có trình độ cao cho các lĩnh vực hoạt động khác nhau của đất nước. Đại học cũng chính là chiếc cần ăng ten hướng ra thế giới để thu nhận những thông tin có giá trị nhất. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn sinh viên không được rèn luyện về tác phong nghiên cứu khoa học, thậm chí không có thói quen tự học, thường có tư tưởng thực dụng, bằng cấp hình thức khá nặng nề. Như vậy, kiến thức về cơ sở văn hóa Việt Nam đã và đang đóng vai trò hết sức quan trọng trên mọi lĩnh vực hoạt động xã hội của các dân tộc Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế và trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tại trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, môn học Cơ sở văn hóa Việt Nam lần đầu tiên được đưa vào chương trình học chính thức cho sinh viên ngoại ngữ chuyên ngành khoa học kĩ thuật và công nghệ khóa I K45 năm học 2000 - 2001. Quá trình giảng dạy môn học Cơ sở văn hóa Việt Nam trong môi trường của khoa học công nghệ đã đặt ra một số vấn đề cần nghiên cứu và tìm hiểu để tăng tính hiệu quả của môn học này và góp phần vào việc giới thiệu bản sắc đa dạng của nền văn hóa Việt Nam cho các đối tượng là sinh viên khối khoa học công nghệ. Qua thực tế chúng tôi khẳng đinh: môn học Cơ sở văn hóa Việt Nam có tầm quan trọng rất lớn, không những đối với sinh viên các khối ngoại ngữ, khoa học xã hội và nhân văn, mà còn rất quan trọng đối với cả sinh viên các khối khoa học công nghệ.. Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam qua các thời kì lịch sử • Nguyễn Thiện Giáp.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> 1. Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945 1.1. Trong thời kì Bắc thuộc, bọn phong kiến Trung Quốc dù cai trị trực tiếp hay gián tiếp, cũng thi hành một chính sách nhất quán là đồng hoá Việt Nam về chính trị và văn hoá. Tiếng Hán và chữ Hán trở thành một công cụ hữu hiệu trong hành chính và nhiều lĩnh vực khác. Sử có nhắc tới vai trò của Sĩ Nhiếp (làm Thái Thú Giao Chỉ vào khoảng 187– 226) với tư cách là Nam bang học tổ, tức là người đầu tiên tổ chức việc học ở Việt Nam. Nhưng thực tế vào thời Bắc thuộc quan cai trị chỉ tổ chức dạy chữ Hán cho một số người Việt, đủ để làm công chức trong bộ máy cai trị của người Hán chứ chưa phải là dạy Nho giáo nhằm mục đích thi cử. Trong thời kì này, các chùa mới là các trung tâm văn hoá và nhân dân học chữ Hán ở các chùa chứ không phải các trường do người Trung Quốc dựng nên. Theo sử sách, dưới thời Bắc thuộc, đã có một ít người giỏi chữ Hán, nhưng vẫn chưa có chế độ học tập chữ Hán quan trọng ngoài các chùa. Ai muốn đi thi thì phải sang Trung Quốc, như Trương Trọng, Lí Cầm, Lí Tiến, Khương Công Phụ. Cho đến trước thế kỉ XI, những người tiêu biểu cho văn hoá Việt Nam vẫn là các nhà sư. 1.2. Từ năm 939, Việt Nam giành được độc lập từ tay người Hán. Do nhu cầu phải đua tài với Trung Quốc để củng cố độc lập bằng văn hoá, Việt Nam có nhu cầu tiếp thu văn hoá Hán. Việc học chữ Hán có quy mô chỉ bắt đầu từ thời độc lập. Về vấn đề này, chúng ta không quên công lao của các vị vua khai quốc thời Lí–Trần. Khi đất nước giành được quyền độc lập, định hướng cơ bản về ngôn ngữ văn tự là: tiếp tục dùng chữ Hán, coi đó là nền văn tự chính thức của nhà nước. Căn cứ vào những tài liệu còn lưu giữ được thì năm 1018 vua Lí Thái Tổ sai Nguyễn Đạo Thành và Phạm Hạc sang Tàu lấy Kinh Tam Tạng đem về để vào Kho Đại Hưng; 1075 vua Lí Nhân Tông mở Khoa thi Tam trường để tuyển người ra làm quan, năm sau vua lập Quốc Tử Giám, tổ chức giảng dạy và đến năm 1086 Vua lại mở khoa thi chọn người vào Hàn Lâm Viện. Theo Nguyễn Tài Cẩn, "Tri thức Hán học của người Việt ở giai đoạn Ngô, Đinh, Lê là một sản.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> phẩm còn lưu lại của chế độ Bắc thuộc, còn tri thức Hán học của người Việt từ đời Lí trở về sau lại là sản phẩm của một sự định hướng có ý thức của một triều đình nước Việt độc lập. Sự định hướng này làm cho Việt Nam đi hẳn vào khu vực văn hoá Hán, đứng bên cạnh Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản. Về mặt ngôn ngữ, sự định hướng này làm cho tiếng Việt đi xa dần các ngôn ngữ bà con vốn cùng gốc Mon Khmer như mình: Mường, Poọng, Chứt, Cơtu, Bana, Môn, v.v."(1) Nhà Trần và các triều đại tiếp theo vẫn tiếp tục sự nghiệp của nhà Lí, cũng tổ chức học hành thi cử bằng chữ Hán, cũng sáng tác bằng chữ Hán. Thực tiễn lịch sử chứng tỏ rằng định hướng ngôn ngữ văn tự của các triều đại Việt Nam đã khiến cho sự tiếp xúc văn hoá–ngôn ngữ Việt–Hán phát triển. Hệ quả là: – Việt Nam đã sáng tạo ra chữ Nôm để ghi lại tiếng nói của mình. – Tiếng Việt đã tiếp thu các yếu tố Hán Việt và các yếu tố Hán Việt Việt hoá làm phong phú kho từ vựng của mình. – Hình thành cách đọc Hán Việt, một cách đọc chữ Hán riêng của người Việt Nam. Trong cuốn Từ vựng tiếng Việt năm 1978, Nguyễn Thiện Giáp xác định cách đọc Hán Việt như sau: "Cách đọc Hán Việt là cách đọc chữ Hán ở Việt Nam của người Việt Nam. Cách đọc đó phản ánh dạng ngữ âm của chữ Hán thời nhà Đường được dạy và học ở Việt Nam lúc bấy giờ. Tất nhiên so với dạng ngữ âm của chữ Hán thời nhà Đường thì cách đọc Hán Việt cũng đã được Việt hoá ít nhiều cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt thời đó" (2). Gần đây, trong bài Mối quan hệ giữa âm Hán Việt và phương ngữ tiếng Hán nhìn từ đặc điểm âm đầu(3), Lê Xảo Bình và Vi Thụ Quan đã chứng minh âm Hán Việt chịu ảnh hưởng của phương ngữ tiếng Hán. Các tác giả cho rằng tại vùng giáp Quảng Tây và Quảng Đông ngày nay, trong thời cổ, từng có một phương ngữ Hán quyền uy, đó là phương ngữ Quảng Tín. Trong hơn 300 năm kể từ năm 106 trước công nguyên cho đến năm.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> 217, Quảng Tín luôn là trụ sở của Bộ Thứ Sử Giao Chỉ (về sau là Bộ Thứ Sử Giao Châu), là trung tâm chính trị, văn hoá của Lĩnh Nam. Ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam nằm trong nước Việt Nam ngày nay luôn thuộc về sự cai quản của Bộ Thứ Sử Giao Chỉ, Việt Nam chịu ảnh hưởng của trung tâm chính trị, văn hoá thời bấy giờ là điều tất nhiên. Trong thời gian Sĩ Nhiếp làm Thái Thú Giao Chỉ, âm Hán mà người Việt học không phải là âm Trung Nguyên, mà là âm của một phương ngữ nào đó lúc bấy giờ. Các tác giả khẳng định phương ngữ Hán này phải là phương ngữ Quảng Tín. Bản thân Sĩ Nhiếp chính là người Quảng Tín Xương Ngô, phương ngữ Quảng Tín lại là phương ngữ quyền uy thời kì đó, dạy học sinh Việt Nam bằng phương ngữ Quảng Tín cũng là điều bình thường. Vì trung tâm chính trị Lĩnh Nam di chuyển sang phía đông (năm 217 Tôn Quyền rời trung tâm chính trị Lĩnh Nam từ Quảng Tín Xương Ngô đến Phiên Ngung (thành phố Quảng Châu ngày nay) Nam Hải) và theo di chuyển của người Hán, phương ngữ Quảng Tín phân hoá dần, cho nên hình thành đối ứng không đồng đều về đặc trưng ngữ âm giữa âm Hán Việt và mấy phương ngữ Hán hiện đại. 1.3. Trên cơ sở của chữ Hán, dựa vào nguyên tắc cấu tạo chữ Hán, người Việt Nam đã sáng tạo ra chữ Nôm, một thứ chữ ghi lại tiếng nói của dân tộc. Ban đầu, chữ Nôm mới chỉ là những kí tự dùng để phiên âm các từ ngữ nước ngoài, những địa danh, nhân danh ở Việt Nam mà vốn chữ Hán không thể thể hiện được. Khi hệ thống văn tự Nôm được hình thành và việc sáng tác thơ văn bằng chữ Nôm đã trở thành phong trào thì có sự phân công giữa chữ Hán và chữ Nôm về mặt chức năng: chữ Hán dùng trong hành chính, giáo dục, trong giao tiếp triều chính, còn chữ Nôm thì dùng trong giao tiếp, văn chương bình dân. Theo Phan Huy Chú (4), Lê Thánh Tông làm vua 38 năm, mở 12 kì thi, lấy đỗ 501 tiến sĩ, trong số đó có 9 trạng nguyên. Tuy coi trọng chữ Hán hơn chữ Nôm, nhưng phong trào sáng tác bằng chữ Nôm vẫn phát triển mạnh. Quan lại, nho sĩ đua nhau làm thơ.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> bằng chữ Nôm. Ngay vua Lê Thánh Tông cũng có nhiều thơ Nôm được truyền tụng trong lịch sử. Cái tâm lí "trọng chữ khinh Nôm" có ở hầu hết các nhà nho: sáng tác về những đề tài trang trọng, nghiêm chỉnh thì dùng chữ Hán, làm thơ để chơi, để mua vui thì dùng Nôm. Tuy nhiên, cùng với bước trưởng thành của chữ Nôm, vị thế của nó cũng dần thay đổi. Nguyễn Trãi hết lòng tôn trọng ngôn ngữ dân tộc, tin yêu ngôn ngữ dân tộc. Tất cả các bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi đều nói đến những cái chân thành nhất, trang nghiêm nhất: nói đến chí hướng, nói đến đạo lí, nói đến lẽ sống ở đời,... Với ý thức tự cường dân tộc, dưới thời nhà Hồ, Hồ Quý Li đã có một quyết sách lớn nhằm nâng cao vị thế của chữ Nôm. Tương truyền, Hồ Quý Li đã dịch Kinh Thi, Kinh Thư ra chữ Nôm để dạy cho các cung nữ. Điều này chứng tỏ Hồ Quý Li đã có chủ trương đưa chữ Nôm vào lãnh vực giáo dục. Rất tiếc, công cuộc cải cách của nhà Hồ bị chặn lại bởi gót giày xâm lược của nhà Minh. Nhà Minh thi hành chính sách đồng hoá rất tàn bạo. Chúng đã đốt phá các văn liệu, sử liệu Việt, trong đó có cả những tài liệu ghi chép bằng chữ Nôm. Vì thế những tài liệu bằng chữ Nôm thời Hồ Quý Li đều đã thất truyền. 1.4. Chữ quốc ngữ được các nhà truyền giáo chế tác từ thế kỉ XVII với mục đích chính là truyền bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam và học tiếng Việt, hiểu được về đất nước và con người Việt Nam. Muốn truyền bá đạo của mình, cần phải có phương tiện giao tiếp. Thực tế, nhân dân Việt Nam rất ít người đọc được chữ Nôm, vì thế không thể dựa vào chữ Nôm để truyền bá tư tưởng Thiên Chúa giáo vào nhân dân. Vấn đề đầu tiên là phải học tiếng Việt. Các giáo sĩ phương Tây đã tạo ra một hệ thống kí tự ghi tiếng Việt dựa trên hệ chữ cái La tinh. Những năm đầu của thế kỉ XIX hệ thống kí tự này được gọi là chữ Quốc ngữ, mặc dù theo nghĩa đen thì chữ Nôm cũng là chữ quốc ngữ. Từ khi xuất hiện chữ Quốc ngữ, thế tương quan giữa các ngôn ngữ, văn tự trên diễn đàn văn hoá Việt Nam khác với các giai đoạn trước: Có hai ngôn ngữ là tiếng Việt và văn ngôn Hán, với ba loại chữ viết là chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Trong ba loại chữ viết thì chữ Hán vẫn chiếm vị thế số một, sau đó đến chữ Nôm, cuối cùng là chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, trong thời kì này đã nảy sinh sự tranh chấp giữa chữ Hán và chữ Nôm. Văn học chữ Nôm thời kì này có sự phát triển toàn diện về lượng cũng như về chất. Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, đại thi hào Nguyễn Du với tác phẩm Truyện Kiều bất hủ đều xuất hiện trong giai đoạn này. Không những thế, chữ Nôm không chỉ được dùng để ghi lại văn chương bình dân mà còn được dùng cả trong những lĩnh vực khác nữa. Căn cứ vào "Di sản Hán Nôm Việt Nam, Thư mục đề yếu" do Viện Hán Nôm biên soạn với sự cộng tác của nhóm học giả Trường Viễn đông Bác cổ Pháp, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, trong số 5038 quyển, có một số quyển viết bằng chữ Nôm. "Vận niên ca diễn âm" là một quyển sách về ảnh hưởng của thời tiết đối với mùa màng viết bằng chữ Nôm. Số sách về Đạo giáo có 163 quyển, phần lớn là loại "giáng bút", tức là loại sách tập hợp những lời của các đồng cốt nói thay mặt các vị thần, chủ yếu viết bằng chữ Nôm bởi vì Đạo giáo gắn bó trước hết với người dân lao động. Những sách in đầu tiên ở Việt Nam là Kinh Phật, nhưng số kinh in lại, diễn Nôm không có bao nhiêu. Sách giáo khoa về sử Việt Nam, có một cuốn bằng chữ Nôm. Về ngoại giao, cuốn "Chuyến sang Pháp của sứ bộ triều Nguyễn" viết bằng thơ lục bát. Về luật pháp, có Hoàng triều luật lệ toát yếu diễn ca bằng chữ Nôm, Dân luật Bắc Kì, diễn Nôm thời Khải Định. Tầng lớp nho sĩ gần gụi nhân dân lao động đã dùng chữ Nôm để sáng tác văn chương, ghi chép các sự kiện xã hội, lịch sử với cách nhìn khác với cách ghi chép chính thức bằng chữ Hán, có những tác phẩm tiến bộ, chứa đựng những tư tưởng trái với quan điểm và đạo lí chính thống. Vào giai đoạn cuối của nhà Lê, nhà cầm quyền không những coi thường mà còn e ngại chữ Nôm, có những hoạt động tiêu cực đối với chữ Nôm, thậm chí còn đốt rất nhiều văn liệu viết bằng chữ Nôm. Năm 1663 đời Lê Huyền Tông, Trịnh Tạc đã yêu cầu Phạm Công Trứ viết 47 điều giáo hoá bằng chữ Hán, trong đó điều 35 chủ trương cấm đoán và phá hoại các tác phẩm Nôm. Năm 1718 lại có lệnh của Trịnh Cương như sau: "Phủ liệu(5) vâng lời truyền cho quân dân.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> trong nước biết rằng: phàm sách vở có quyển nào quan hệ đến sự giáo hoá trong đời mới được khắc in và lưu hành. Lâu nay, những bọn hiếu sự lượm nhặt bậy bạ các tạp truyện và bỉ ngữ(6) bằng quốc âm, không phân biệt hay dở, khắc gỗ in bán, việc ấy phải nên nghiêm cấm. Từ nay nhà nào có in những sách như thế, cho trình quan đến bắt và tịch thu ván in phá hết"(7). Năm 1760, Trịnh Doanh lại sai Nhữ Đình Toản diễn Nôm 47 điều giáo hoá ra lục bát để tiện phổ biến. Ngược lại, nhằm tăng cường tính tự tôn và tinh thần dân tộc, triều đại Tây Sơn của Nguyễn Huệ đã chủ trương dùng tiếng Việt và chữ Nôm trong hành chính (giấy tờ của Nhà nước), trong giáo dục, thi cử và trong tế lễ thiêng liêng. Đây là Chiếu của Bình Định Vương Nguyễn Huệ gửi cho Nguyễn Thiếp năm 1788: "Chiếu truyền La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp khâm tri: Ngày trước uỷ cho phu tử về Nghệ An tướng địa làm đô cho kịp kì này hồi ngự. Sao về tới đó chưa thấy đặng việc nhỉ. Nên hãy giá hồi Phú Xuân Kinh, hưu tức sĩ tốt. Việc chiếu ban hạ, phu tử tảo nghi dữ trấn thủ Thận cộng sự, kinh chi, doanh chi, tướng địa tu đô tại Phú Thạch hành cung sao cho hậu cận sơn, kì chính địa phòng tại dân cư chi gian hay là đâu cát địa khả đô, duy phu tử đạo nhãn giám định, tảo tảo tốc hành. Uỷ cho trấn thủ Thận tảo lập cung điện, kì tam nguyệt nội hoàn thành, đắc tiện giá ngự. Duy phu tử vật dĩ nhàn hốt thị. Khâm tai! Đặc chiếu. Thái Đức thập nhất niên, lục nguyệt, sơ nhất nhật"(8). Trong giáo dục và thi cử, triều đại Tây Sơn quy định: Mỗi khoa thi, ở vòng ba ("đệ tam trường"), thí sinh phải làm bài bằng chữ Nôm. Tương truyền, Hoàng đế Quang Trung còn lệnh cho Nguyễn Thiếp dịch kinh, truyện ra tiếng Việt làm tài liệu giảng dạy, nhưng các bản dịch ấy đã bị mất cả. Như ta biết, việc tế lễ trước đây, văn tế, sớ... phải viết bằng chữ Hán, khấn bằng tiếng Hán. Nhưng trong lễ tang.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Hoàng đế Quang Trung, triều đình và họ hàng nhà vua đều dùng văn tế bằng tiếng Việt, chữ Nôm và năm bài văn tế do Phan Huy Ich làm vẫn còn được lưu truyền tới ngày nay. Nhà Tây Sơn đổ, những cố gắng của Nguyễn Huệ nhằm khẳng định vị thế của tiếng Việt và chữ Nôm lại trở về trạng thái như cũ. Mặc dù chữ Quốc ngữ đã tận dụng được nhiều ưu điểm riêng, vốn có của hệ chữ La Tinh, nhưng việc sử dụng hệ thống này cũng chỉ giới hạn trong phạm vi các văn liệu tôn giáo, trong giao dịch giữa những người cùng giáo xứ, giáo đoàn. Hai thế kỉ sau khi được chế tác, chữ Quốc ngữ đã trở thành một công cụ hữu hiệu, giúp người Pháp, quân đội Pháp xâm lược và chia tách đất nước Việt Nam thành ba miền. 1.5. Dưới thời cai trị của thực dân Pháp (1861–1945), trên diễn đàn văn hoá Việt Nam, có ba ngôn ngữ là tiếng Pháp, tiếng Việt, văn ngôn Hán và bốn văn tự là Pháp, Quốc ngữ, Nôm và Hán. Sự tranh chấp giữa ba ngôn ngữ diễn ra theo chiều hướng tiếng Pháp vươn lên chiếm vị thế số một, vai trò của văn ngôn Hán ngày càng giảm, vị thế của tiếng Việt càng ngày càng được đề cao. Đây cũng là thời kì thay thế dần chữ Hán và chữ Nôm bằng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Chính sách của nhà cầm quyền thực dân Pháp đối với Việt Nam là đồng hoá về ngôn ngữ và văn hoá. Mọi quyết sách đưa ra đều nhằm mục đích cuối cùng và tối thượng là làm cho người Việt Nam chấp nhận sử dụng tiếng Pháp, chữ Pháp; chấp nhận văn hoá, chính trị Pháp; lấy tiếng Pháp thay thế tiếng Hán trên toàn cõi Việt Nam, hạn chế tới mức tối đa ảnh hưởng của văn hoá Hán đối với Việt Nam. Etienne Aymonier, một công sứ Pháp ở Bình Thuận, năm 1886, đã viết: "Chúng ta phải gieo rắc vào người An Nam rằng cái nhu cầu hiểu biết một ngôn ngữ bác học, một ngôn ngữ cấp cao; việc không thể chối cãi được là sự học hỏi tiếng Pháp phải chính thức thay thế sự học hỏi tiếng Trung Quốc". Năm 1890, ông còn viết: "Thực ra, vấn đề được đặt ra là.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> thay thế trong chương trình dạy chính thức, tiếng Trung Quốc, hiện nay được dạy đến tận các thôn quê, bằng tiếng Pháp, ngôn ngữ của những kẻ đi chinh phục với hậu quả được lường trước là sự sử dụng ngôn ngữ này sẽ toả lan càng ngày càng lớn". Ông nguyện ước: – "Chương trình dạy chính thức ở Nam Kì thuộc Pháp sẽ được đặt cơ sở trong một chừng mực tối đa có thể được, trên sự học hỏi tiếng Pháp. – Trên toàn cõi Đông Dương thuộc Pháp, chính quyền sẽ cho nghiên cứu các phương tiện để thúc đẩy tiếng Pháp... – Chớ nên dạy tiếng Pháp riêng cho hàng thân hào, cho giới lãnh đạo, mà phải nhắm vào những đứa trẻ của dân thường, con gái lẫn con trai. Tốt hơn là nhắm vào từng nhóm làng xã, chỗ này chỗ kia, trước tiên là ở những vùng phụ cận những trung tâm Âu Tây, hay trong những làng thiên chúa giáo, ở tất cả những nơi mà thiện chí được bộc lộ. Đó là cách mà tôi gọi là cắm ngôn ngữ vào đất bằng cách cho nó bắt rễ"(9). Thực tế nhà cầm quyền Pháp ở Việt Nam đã dùng tiếng Pháp, chữ Pháp trong văn kiện, giấy tờ của bộ máy cai trị ; tăng cường việc giảng dạy tiếng Pháp trong nhà trường, hạn chế vai trò của tiếng Hán và chữ Hán. Theo Nguyễn Phú Phong, việc dạy tiếng Pháp cho người Việt Nam được bắt đầu khởi sự năm 1866 nhưng vẫn còn nằm trong tay các giáo sĩ và giáo hội, chính quyền thuộc địa trợ cấp cho các trường học do giáo hội tổ chức. Ngày 21-12-1917, Toàn quyền Albert Saraut kí Nghị định Học chính tổng quy (Règlement général de l' instruction publique) và đăng lên công báo ngày 10/4/1918. Học chính tổng quy đã thay đổi thi Hương thi Hội: Năm 1916 bãi bỏ các Kì thi Hương và năm 1919 thì thi Hội cũng bị bãi bỏ. Học chính tổng quy quy định việc dạy tiếng Pháp và môn Hán tự như sau: – Dạy tiếng Pháp (tập đọc, ám tả, học mẹo, làm văn) ở lớp nhì và lớp nhất, mỗi tuần ít ra là 12 giờ. – Hán tự mỗi tuần lễ chỉ dạy 1 giờ rưỡi vào sáng thứ năm mà thôi. Lại thêm chỉ thị: "Dạy Hán tự phải theo chương.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> trình nhà nước. Buổi dạy Hán tự, giáo viên kiêm đốc học nhà trường phải có mặt ở lớp để giữ kỉ luật, không nên để thầy đồ dạy một mình". Muốn truyền bá tiếng Pháp và văn hoá Pháp, nhằm củng cố nền thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, nhà cầm quyền Pháp buộc phải dùng tiếng Việt làm phương tiện chuyển ngữ. Vì thế, song song với việc dạy tiếng Pháp cho người Việt thì việc dạy tiếng Việt cho các viên chức hành chính Pháp cũng được đặt ra. Năm 1861, một trường dạy tiếng Việt được thiết lập ở Sài Gòn để đào tạo những viên thông ngôn người Pháp. Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ đều là những văn tự ghi tiếng nói của người Việt Nam, nhưng chữ Quốc ngữ rất gần chữ Pháp, lại rất tiện lợi, dễ học, dễ nhớ hơn nhiều so với chữ Nôm nên ngưòi Pháp đã chọn chữ Quốc ngữ làm phương tiện dạy-học tiếng Việt. Chính nhờ thế mà chữ Quốc ngữ vốn chỉ được dùng hạn chế trong phạm vi tôn giáo, trong giao dịch giữa các giáo dân đã dần dần trở thành một phương tiện giáo dục chung. Thực dân Pháp cho phép dạy chữ quốc ngữ và tiếng Việt trong trường học và cho ra báo bằng chữ quốc ngữ. Ngày 17/11/1874, Dupré ra quyết định tổ chức lại hoàn toàn nền giáo dục quốc dân. Các trường làng dạy chữ Hán bị bãi bỏ hoặc sáp nhập vào trường ở quận lị, biến thành một trường duy nhất dạy chữ quốc ngữ. Năm 1896, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cho thành lập một trường Pháp-Việt ở Huế, gọi là Trường Quốc học Huế. Năm 1898, Toàn quyền Đông Dương đặt thêm một kì thi phụ cho khoa thi Hương trường thi Nam Định. Môn thi gồm năm bài tiếng Pháp: viết tập, chính tả, dịch Pháp ra Việt, hội thoại, đọc và dịch miệng (hệ số 5); chính tả tiếng Việt (hệ số 3); bài dịch từ Hán văn ra tiếng Việt (hệ số 4). Ai đã đỗ tú tài, cử nhân kì thi Hương chính mà còn đỗ cả kì phụ sẽ được ưu tiên chọn ra làm quan. Năm 1904, Pháp cho thiết lập chương trình giáo dục hệ Pháp -Việt ở Bắc Kì. Ngay từ năm 1865, chính quyền Pháp ở Nam Kì đã phát hành tờ Gia Định báo để thực hiện chủ trương dùng chữ Quốc ngữ ghi tiếng Việt thay thế chữ Nôm. Năm 1917, Báo Nam Phong ra đời. Ngay ở trang đầu ghi rõ:" Mục đích báo Nam Phong là.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> thể cái chủ nghĩa khai hoá của nhà nước, biên tập những bài bằng quốc văn, hán văn, pháp văn, để giúp sự mở mang trí thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân An Nam, truyền bá các khoa học của Thái Tây, nhất là học thuật tư tưởng Đại Pháp, bảo tồn cái quốc tuý của nước Việt Nam ta, cùng bênh vực quyền lợi người Pháp người Nam trong trường kinh tế. Báo Nam Phong lại chủ ý riêng về sự tập luyện văn quốc ngữ cho thành một nền quốc văn An Nam". Về hành chính, một công văn năm 1910 của Khâm sứ Bắc Kì định rằng tất cả các văn bản dùng cho việc quảng bố như nghị định, quyết định, lệnh, chỉ thị, phán quyết, phải được viết bằng quốc ngữ. Công văn này cũng nói thêm rằng việc dùng quốc ngữ phải áp dụng cho thư tín thường lệ giữa các quan triều Nguyễn và chính quyền Pháp, và cho các thông tri của các quan lại gửi đến người dân. Năm 1909, ở Hà Nội có thành lập một Hội thân hữu Pháp Việt để phổ biến và quảng bá chữ quốc ngữ. Hội này còn có tên là Bác Văn Hội nhắm đến những mục đích sau đây: – Đưa ra mắt những tác phẩm văn học An Nam viết bằng chữ khối vuông (chữ nho hay chữ nôm) bằng cách dịch ra quốc ngữ hay tiếng Pháp; – Dịch ra quốc ngữ những sản phẩm của tri thức Pháp về những môn khoa học, nghệ thuật, luật, kinh tế chính trị, văn học, với dụng ý là ổn định... ngữ nghĩa các từ trong tiếng nói của xứ An Nam... (Dẫn theo Nguyễn Phú Phong, sđd., trang 79, 92, 97, 103). Mặc dù người Pháp chủ trương sử dụng chữ Quốc ngữ và tiếng Việt làm chuyển ngữ nhưng với thái độ dè dặt. Trước Cách mạng tháng tám, tiếng Việt chỉ được dùng vào công việc giáo dục chủ yếu ở lớp đồng ấu (lớp Một ngày nay), còn từ lớp dự bị đến lớp sơ đẳng (tương đương với lớp Hai và lớp Ba ngày nay), học sinh phải theo chế độ song ngữ Việt– Pháp; từ năm thứ tư đến hết năm thứ sáu tiểu học, tiếng Pháp đã chiếm địa vị áp đảo; từ cấp trung học trở lên, tiếng Pháp chiếm địa vị độc tôn (10). Lí do cơ bản là thực dân Pháp muốn tiếng Pháp chiếm vị trí độc tôn. Lúc đầu thì lấy lí do "vì những thứ chữ như chữ Quốc ngữ, (...) đã thành ra văn.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> tự gì có tiếng trong thế giới đâu, vả ai cũng biết rằng hãy còn khuyết điểm nhiều lắm, chưa có đủ những danh từ về khoa học để diễn những môn học mới của Thái Tây" (Saraut – Dẫn theo Nguyễn Phú Phong, sđd., trang 98). Về sau, khi tiếng Việt và chữ Quốc ngữ đã phát triển thì nhiều người Pháp lại e sợ sức mạnh tiềm ẩn của chữ Quốc ngữ, nó có thể trở thành một công cụ để thống nhất tiếng Việt, thống nhất người Việt chống lại tiếng Pháp, người Pháp. Một bộ phận trí thức Việt Nam đã cực lực chống lại các chính sách ngôn ngữ của nhà cầm quyền Pháp. Họ quan niệm chữ Quốc ngữ là sản phẩm của ngoại bang, là công cụ truyền bá đạo thiên chúa, không phải là đạo gốc của dân tộc. Họ muốn duy trì học chữ Hán bởi vì học chữ Hán là được giáo dục về luân lí về lịch sử, còn học chữ Quốc ngữ thì chỉ như một trò chơi, khi người ta biết đọc biết viết chữ Quốc ngữ người ta không biết gì cả. Với quan niệm như vậy, các trí thức yêu nước, chống Pháp đều sáng tác bằng chữ Nôm. Năm 1867, Nguyễn Trường Tộ chính thức đề nghị triều đình Huế sử dụng chữ Nôm, đề nghị này làm cho nhà cầm quyền chú ý đến chữ Nôm, song sự chú ý đó chỉ là để chống lại việc tiếp tục sử dụng chữ Hán tại triều đình Huế chứ không phải là sự chống lại việc sử dụng chữ Quốc ngữ. Những trí thức có tinh thần dân tộc, muốn hiện đại hoá đất nước đã sớm nhận ra vai trò của chữ Quốc ngữ. Bởi vì công việc hiện đại hoá cần phải có sự thay đổi mà sự thay đổi trước tiên là sự thay đổi về văn tự. Cần phải dạy trẻ biết đọc biết viết tiếng mẹ đẻ và chỉ có việc học tập bằng tiếng mẹ đẻ mới đem lại hiệu quả thiết thực mà thôi. Cuối thế kỉ XIX, các trí thức Nam Kì như Trương Vĩnh Kí, Huình Tịnh Của, Trương Vĩnh Tống, Trương Minh Kí, Nguyễn Trọng Quản, v.v... là những người đi đầu trong chủ trương truyền bá chữ quốc ngữ và phát triển tiếng Việt. Đầu thế kỉ XX ở Miền Bắc, hoạt động của Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) cũng đã dấy lên phong trào học chữ quốc ngữ, coi chữ quốc ngữ là phương tiện khai hoá quốc dân. Các cụ khẳng định: Chữ quốc ngữ là hồn trong nước Phải đem ra tính trước dân ta.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Sách các nước, sách Chi Na Chữ nào chữ ấy dịch ra cho tường. Trong Văn minh tân học sách của Đông Kinh Nghĩa Thục, có đoạn viết: "Người trong nước đi học nên lấy chữ quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên để trong thời gian một vài tháng, đàn bà, trẻ con đều biết chữ và người ta có thể dùng Quốc ngữ để ghi việc đời xưa và chép việc đời nay... Đó thực là bước đầu tiên để mở mang trí khôn vậy". Tiếp đó, năm 1938 Hội truyền bá chữ Quốc ngữ được thành lập và hoạt động của hội này đã có tác dụng to lớn trong việc xoá nạn mù chữ cho nhân dân. Theo số liệu của UNESCO năm 1984, vào năm 1938, Việt Nam có khoảng 95% dân số mù chữ. Tính đến Cách mạng tháng Tám, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ đã giúp cho 70.000 người thoát nạn mù chữ. Dù xu hướng chính trị không giống nhau, nhưng tất cả những hoạt động báo chí và văn học bằng chữ quốc ngữ trước cách mạng đều có tác dụng truyền bá chữ quốc ngữ và phát triển tiếng Việt: Phía thực dân Pháp thì xem chữ Quốc ngữ là công cụ hữu hiệu để đồng hoá dân tộc Việt Nam, phía những sĩ phu yêu nước Việt Nam thì kẻ trước người sau cũng đều nhận thấy chữ Quốc ngữ là vũ khí sắc bén trong công cuộc phổ biến tân học, truyền bá tư tưởng yêu nước tiến tới giải phóng dân tộc, đem lại độc lập cho nước nhà. 2. Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay 2.1. Bối cảnh ngôn ngữ và xã hội ở Việt Nam sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, toàn thể nhân dân Việt Nam vùng lên làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nước Việt Nam ta đã trở thành một quốc gia độc lập. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra đời. Tiếp theo đó, nhân dân ta phải tiến hành cuộc trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp quay lại xâm lược ta một lần nữa, rồi cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước vĩ đại, mãi tới năm 1975 đất nước ta mới hoàn toàn được thống nhất, độc lập. Chính sách ngôn ngữ trong thời kì này chủ yếu là chính sách ngôn ngữ của Đảng Cộng.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> sản và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng như Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra, cũng nói đến chính sách ngôn ngữ của những chính quyền thân Pháp, thân Mĩ ở Sài Gòn trước đây. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Ngoài dân tộc Kinh là dân tộc chiếm 85% dân số, còn có 53 dân tộc khác, thuộc các ngữ hệ khác nhau. Thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), có những ngôn ngữ như: Kinh (Việt), Mường, Nguồn, Poọng, Thổ, Cuối, Đan Lai, Li hà, Rục, Mày, Sách, Mã Liềng, Kri (Phọong), Aream, Mảng, Khơ Mú, Xinh Mun, Kháng, Ơ Đu, Bru-Vân Kiều, Pacô, Tà Ôi, Cơ Tu, Bana, Co, Ca Dong, Ha Lăng, Giẻ, Triêng, Xơđăng, Rơngao, Takua, Hrê, Mơ Nâm, Ve, Rơ Mân, Tơ Drạ, Brâu, Cơho, Mnông, Mạ, Xtiêng, Chơro, Khmer Nam Bộ. Thuộc ngữ hệ Thái–Ka Đai, có: Tày, Nùng, Cao Lan, Thu Lao, Thái Đen, Thái Trắng, Thái Đỏ, Thái Thanh, Thái Dọ, Thái Hàng Tổng, Lào, Lự, Tày Nặm, Pa Dí, Giáy, Bố Y, Tu Dí, Pu Nà, Tống, Thuỷ, Laha, La Chí, Pupéo, Cơ Lao, Nùng Vẻn. Thuộc ngữ hệ Mèo–Dao (Hmong–Mien), có: Mông, Na Mẻo, Pà Thẻn, Miền (Dao Đỏ, Dao Đeo Tiền, Dao Cooc Ngáng, Dao Ôgang, Dao Quần Chẹt, Dao Đại Bản, Dao Tiểu Bản...), Mùn (Dao Quần Trắng, Dao Thanh Y, Dao áo Dài, Dao Họ, DaoTuyeenr, Dao Làn Tẻn,...) Thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian), có: Chăm Đông (Chăm Ninh – Bình Thuận), Chăm Tây (Chăm An Giang, Tây Ninh), Êđê, Giarai, Raglai, Hroi, Churu. Thuộc ngữ hệ Hán–Tạng, có: Hoa, Lôlô, Hà Nhì, La Hủ, Sila, Cống, Xá Phó, Phù Lá. Trong các ngôn ngữ trên, chỉ một số ngôn ngữ có chữ viết cổ truyền, đó là các chữ: Chữ Nôm Tày; các loại chữ Thái cổ ở Tây Bắc, Quỳ Châu, Man Thanh, Lai Pao; chữ Hán; chữ viết tự dạng Sanscrit của Khmer; chữ Nôm Nùng; chữ Chăm cổ; chữ viết tự dạng Sanscrit của Lào; chữ Nôm Dao; chữ Nôm Cao Lan. Đặc điểm nổi bật của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam là sống đan xen nhau khiến cho trạng thái đa ngữ xã hội là.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> trạng thái phổ biến ở các vùng dân tộc thiểu số. Tiếng Việt được coi là ngôn ngữ giao tiếp giữa các dân tộc. Bên cạnh đó, một số ngôn ngữ như tiếng Thái, tiếng Tày, tiếng Nùng,...cũng được coi là ngôn ngữ vùng, tức là phương tiện giao tiếp giữa các dân tộc cùng chung sống trong vùng nào đó. Nói đến chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945, cần đề cập đến ba mảng sau đây: – Chính sách đối với các ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số; – Chính sách đối với tiếng Việt; – Chính sách đối với các ngoại ngữ 2.2. Chính sách đối với ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số Đối với các ngôn ngữ dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương tôn trọng tiếng mẹ đẻ của các dân tộc, bảo đảm sự phát triển tự do và bình đẳng của tất cả các ngôn ngữ dân tộc ở Việt Nam. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng khi mới thành lập (1930) đã đề ra chính sách "đoàn kết dân tộc trên cơ sở những nguyên tắc bình đẳng và tương trợ lẫn nhau để giành lại độc lập và hạnh phúc chung cho các dân tộc". Chính cương của Đảng năm 1951 ghi rõ: "Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ,... Cải thiện đời sống cho các dân tộc ít người, giúp đỡ họ tiến bộ về mọi mặt, bảo đảm để họ tham gia chính quyền và dùng tiếng mẹ đẻ trong việc giáo dục ở các địa phương". Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông qua ngày 9/11/1946, có viết: – "Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình" (điều thứ 15). – "Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước toà án" (điều thứ 66). Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Chủ tịch nước công bố ngày 01/01/1960, viết chi tiết hơn:.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> – "Các dân tộc có quyền duy trì hoặc sửa đổi phong tục tập quán, dùng tiếng nói, chữ viết, phát triển văn hoá dân tộc của mình" (điều 3). – "Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thuộc các dân tộc thiểu số có thể dùng tiếng nói và chữ viết của mình trước Toà án" (điều 102). Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, viết: – "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình" (điều 5). – "Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước toà án" (điều 60). Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1992 bổ sung thêm như sau: – "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình" (điều 5). – "Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà án" (điều 133). Luật Phổ cập giáo dục tiểu học ban hành ngày 06/8/1991, khẳng định: – "Các dân tộc thiểu số có quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình cùng với tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu học". Luật Giáo dục tiểu học ngày 10/12/1998 viết rõ hơn: "Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy định của Chính phủ"..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Các chỉ thị,nghị quyết của Đảng và Chính phủ đều nhằm vào thực hiện ba vấn đề: A. Cải tiến và xây dựng chữ viết cho các dân tộc thiểu số. Quyết định của Phủ Thủ tướng số 153-CP ngày 20/8/1969 ghi rõ: "Dân tộc thiểu số nào chưa có chữ viết riêng nếu có đủ điều kiện cần thiết sau đây thì được xây dựng và sử dụng chữ viết của dân tộc mình: a) Dân số tương đối đông, so với các dân tộc anh em khác. b) Cư trú tương đối tập trung. c) Có nhiều khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức trực tiếp bằng tiếng, chữ phổ thông, có yêu cầu xây dựng chữ viết riêng để phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá trong dân tộc mình. d) Có vốn từ ngữ tương đối phong phú. Dân tộc thiểu số nào đã có chữ viết riêng nhưng nếu xét thứ chữ viết không thuận lợi cho sự tiến bộ của mình, thì có thể cải tiến chữ viết cũ, hoặc xây dựng chữ viết mới thích hợp hơn. Dân tộc thiểu số nào không đủ điều kiện xây dựng chữ viết riêng nhưng thấy cần thiết có chữ để ghi tiếng nói của mình, thì có thể dùng chữ phổ thông để phiên âm". Quyết định của Hội đồng Chính phủ về chủ trương đối với chữ viết của các dân tộc thiểu số, số 53-CP ngày 22/02/1980 viết: "Nhiều dân tộc thiểu số chưa có chữ viết có yêu cầu xây dựng bộ vần chữ riêng để có thể ghi tiếng nói của dân tộc mình. Một số dân tộc thiểu số có chữ viết lối cổ muốn có chữ viết mới theo chữ cái Latin cho gần gũi với chữ phổ thông. Những yêu cầu này cần được coi trọng, và từng bước giải quyết". "Để việc dạy và học chữ dân tộc và chữ phổ thông được dễ dàng, nhanh chóng, thuận tiện cho cả đồng bào dân tộc.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> thiểu số và đồng bào người Kinh muốn học chữ dân tộc, cần xây dựng mới hoặc cải tiến chữ viết dân tộc theo bộ vần gần gũi với bộ vần chữ viết phổ thông". B. Sử dụng tiếng nói và chữ viết dân tộc sao cho thích hợp, hiệu quả. Quyết định của Phủ 20/8/1969 quy định rõ:. Thủ. tướng. số. 153-CP,. ngày. "Chữ dân tộc cần được sử dụng trong phạm vi và với mức độ sau: a) Trong việc xoá nạn mù chữ và bổ túc văn hoá ở vùng người dân tộc đã có chữ viết riêng. Trong bổ túc văn hoá, nơi nào không biết hoặc ít biết tiếng phổ thông thì cho học xen kẽ chữ dân tộc với tiếng và chữ phổ thông ở các lớp cấp 1. Từ cấp II trở lên thì học hoàn toàn bằng tiếng Việt và chữ phổ thông. Nơi nào quần chúng muốn và có thể học thẳng tiếng và chữ viết phổ thông thì trong xoá nạn mù chữ cũng như trong bổ túc văn hoá nên dạy tiếng và chữ phổ thông, nhưng chú ý giảng bằng tiếng dân tộc để người học hiểu mau và chắc, đồng thời nên cho họ học thêm bộ vần chữ dân tộc để họ đọc được sách báo viết bằng chữ dân tộc. b) Các trường phổ thông trong vùng dân tộc có chữ viết phổ thông cần cho học sinh lớp vỡ lòng và cấp I học xen kẽ chữ dân tộc với tiếng và chữ phổ thông và chú ý cho học sinh làm quen với tiếng và chữ phổ thông càng sớm càng tốt. Ở cấp II và III, chủ yếu là dạy tiếng và chữ phổ thông, đồng thời có dạy môn ngữ văn dân tộc. c) Trên các lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, thông tin báo chí v.v... nên sử dụng rộng rãi tiếng và chữ dân tộc ở những nơi có đông đảo đồng bào dân tộc. d) Nhân dân các dân tộc thiểu số đã có chữ viết riêng thì có quyền dùng chữ dân tộc trong việc ghi sổ sách, viết thư và làm đơn từ gửi các cơ quan Nhà nước; ở những nơi mà hầu hết đồng bào thuộc một dân tộc, và cán bộ nhân dân đã biết chữ dân tộc thì công văn giấy tờ từ huyện xuống xã nên dùng chữ dân tộc"..

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 53-CP, ngày 22/02/1980 đề ra nhiệm vụ cụ thể hơn: "Trong công tác thông tin, tuyên truyền và công tác văn hoá của Nhà nước ở vùng của đồng bào dân tộc thiểu số phải cố gắng kết hợp sử dụng tiếng, chữ dân tộc, giúp cho đồng bào tiếp thu được dễ dàng, nhanh chóng. Trong giao dịch thư tín và trong đơn từ quan hệ với các cơ quan Nhà nước đồng bào dân tộc thiểu số được dùng chữ viết dân tộc, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết tốt những đơn từ đó". Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số chủ trương, biện pháp tiếp tục phát triển kinh tế–xã hội miền núi, số 525-TTg ngày 02/11/1993 viết: "Tiếp tục phát triển phát thanh và truyền hình ở miền núi và vùng dân tộc: hết năm 1995, hoàn chỉnh việc phủ sóng truyền hình cho các huyện. Nâng cao chất lượng các buổi phát thanh bằng tiếng dân tộc.". C. Duy trì bảo vệ ngôn ngữ và văn hoá dân tộc. Trong bài Các ngôn ngữ nguy cấp và việc bảo tồn sự đa dạng văn hoá, ngôn ngữ tộc người ở Việt Nam đăng trên tạp chí Ngôn ngữ, số 4 (năm 1999), Nguyễn Văn Lợi cho biết trong số 6.500 ngôn ngữ đang tồn tại trên thế giới, chỉ có chừng 300 đến 400 ngôn ngữ được truyền lại cho các thế hệ tiếp theo, các ngôn ngữ còn lại hoặc chỉ được truyền lại ở một bộ phận nhỏ, hoặc không được truyền lại, đang nằm bên bờ của sự tiêu vong. Căn cứ vào sức sinh tồn, những điều kiện xã hội-ngôn ngữ học, ông chia các những nguy cấp ở Việt Nam thành 5 nhóm: Nhóm thứ nhất bao gồm các ngôn ngữ hầu như đã bị mất, hiện nay chỉ còn rất ít người sử dụng (trên dưới 10 người). Đó là các ngôn ngữ như: tiếng Cơlao đỏ ở Trùng Sán, Hoàng SuPhì (người Cơlao đỏ đã chuyển sang nói tiếng Quan Hoả); Tiếng Tống ở huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang (người Tống hiện được xếp vào dân tộc Dao); Tiếng Thuỷ ở Chiêm Hoá, Tuyên Quang (người Thuỷ cũng được coi là thuộc dân tộc Dao); Tiếng Ơđu ở Con Cuông, tỉnh Nghệ An (hầu hết người.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Ơđu chuyển sang nói tiếng Thái, Khơ mú, hiện chỉ còn vài người nhớ ngôn ngữ này); Tiếng Tu Dí (Bố Y) ở huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai (người Tu Dí chuyển sang nói tiếng Quan Hoả). Nhóm thứ hai gồm các ngôn ngữ nguy cấp thực sự, hiện chỉ còn trên, dưới 100 người sử dụng. Đó là: tiếng Pu Péo, tiếng Cơlao Trắng ở Đồng Văn – Hà Giang; tiếng La Chí ở Hoàng Su Phì – Hà Giang; tiếng Laha ở Thuận Châu – Sơn La; tiếng Ta Mit ở Than Uyên – Lào Cai; tiếng Nùng Vẻn ở Hà Quảng – Cao Bằng ; tiếng Đan Lai, Li Hà, Tày Poong ở Con Cuông – Tân Kì – Nghệ An; tiếng Mã Liềng, Cọi (Krih) ở Hương Khê – Hà Tĩnh; tiếng Rục, Mày, Sách ở Tuyên Hoá – Quảng Bình; tiếng Arem ở Bố Trạch – Quảng Bình. Nhóm thứ ba gồm các ngôn ngữ có số người sử dụng trên dưới một ngàn người, phạm vi sử dụng tương đối hẹp, chủ yếu trong giao tiếp gia đình, có xu thế bị mất ở thế hệ trẻ, chịu áp lực rõ rệt từ các ngôn ngữ có vị thế cao hơn. Đó là các ngôn ngữ như Mảng, Kháng, Xinh Mun thuộc dòng MonKhmer và các ngôn ngữ thuộc họ Tạng Miến như: Cống, Sila, Xá Phó, Phù Lá, La Hủ. Nhóm thứ bốn gồm các ngôn ngữ có số lượng người sử dụng từ vài ngàn đến chục ngàn người, chủ yếu được sử dụng trong giao tiếp gia đình thuộc mọi thế hệ, nhưng một bộ phận có xu thế thay bằng ngôn ngữ khác. Đó là tiếng Nà Mẻo ở Tràng Định tỉnh Lạng Sơn và Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang; tiếng Pà Thẻn ở Chiêm Hoá tỉnh Tuyên Quang và ở Bắc Quang tỉnh Hà Giang; tiếng Lôlô ở Bảo Lộc tỉnh Cao Bằng và ở Đồng Văn, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang. Nhóm thứ năm gồm các ngôn ngữ có từ một chục ngàn đến vài ba chục ngàn người sử dụng, vẫn được các thành viên trong cộng đồng sử dụng trong giao tiếp hàng ngày và truyền lại cho thế hệ sau. Tuy nhiên, các ngôn ngữ này có xu thế dễ bị "hoà" vào các ngôn ngữ có vị thế cao hơn. Đó là các ngôn ngữ như Hà Nhì, Giáy, Khơ mú, Chơro, Churu, Pakô, Tà Ôi..

<span class='text_page_counter'>(33)</span> Ngôn ngữ dân tộc là biểu hiện của bản sắc văn hoá dân tộc. Duy trì và bảo vệ ngôn ngữ các dân tộc là duy trì và bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, một công việc có ý nghĩa nhân bản sâu sắc, Nguyễn Văn Lợi viết: "Mất đi sự đa dạng ngôn ngữ cũng có nghĩa mất đi sự đa dạng về trí tuệ. Mỗi một ngôn ngữ là công cụ độc nhất vô nhị để phân tích, tổng hợp, tri nhận thế giới bên ngoài, tạo nên tri thức, sự đánh giá của cộng đồng người nói về thế giới. Chúng ta quý trọng và tìm mọi cách giữ gìn các nguồn gien quý của các loài sao la, bò xám, tê giác một sừng,... Ở Việt Nam, chúng ta cũng quý trọng và ra sức giữ gìn ngôn ngữ các dân tộc, những nguồn gien quý của kho tàng ngôn ngữ, văn hoá, văn minh nhân loại. Bảo vệ môi trường, sinh thái tự nhiên là nhiệm vụ cấp bách; bảo vệ môi trường, sinh thái văn hoá cũng vô cùng quan trọng. Đối với loài người, các ngôn ngữ đều có giá trị nhân văn như nhau: Kho tàng các ngôn ngữ thế giới là tài sản quý báu của nhân loại" (Bài đã dẫn, trang 49). Quyết định của Hội đồng Chính phủ về chủ trương đối với chữ viết của các dân tộc thiểu số, số 53-CP ngày 22/02/1980 viết: "Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc thiểu số ở Việt Nam vừa là vốn quý của các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hoá chung của cả nước". Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về một số chủ trương, biện pháp tiếp tục phát triển Kinh tế – Xã hội miền núi, số 525-TTg ngày 02/11/1993 cũng viết: "Tiếp tục duy trì từng bước phát triển nâng cao các hoạt động văn hoá, văn nghệ quần chúng, khai thác và bảo tồn văn hoá lâu đời của cộng đồng các dân tộc. Nghiên cứu khôi phục và nâng cao các lễ hội truyền thống lành mạnh". Nghị quyết Trung ương V, khoá VIII của Đảng về "Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" khẳng định: "Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam... Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước,.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam". Như ta biết, muốn duy trì và bảo vệ ngôn ngữ, văn hoá dân tộc thì trước hết phải duy trì và bảo vệ chính những tộc người nói những ngôn ngữ đó. Vì vậy, vấn đề duy trì và bảo vệ ngôn ngữ văn hoá không thể tách rời vấn đề phát triển dân tộc mà muốn duy trì và phát triển dân tộc thì trước hết phải phát triển kinh tế. Trong bài "Tình hình một số ngôn ngữ dân tộc nguy cấp ở Việt Nam và những luận cứ chính sách đối với các ngôn ngữ ấy"(11) sau khi phân tích tình hình một số ngôn ngữ dân tộc được coi là nguy cấp, Trần Trí Dõi cho rằng: – "Việc thúc đẩy nền kinh tế–xã hội của các dân tộc và nhóm tộc người có ngôn ngữ bị suy giảm là một nhu cầu bức bách. Muốn cho tộc người Arem chẳng hạn không suy giảm dân số với tỉ lệ 1% năm, đó là vấn đề sản xuất, đó là vấn đề y tế v.v... mà cả cộng đồng phải giải quyết. Cũng vậy, muốn những người Ơđu có điều kiện duy trì tiếng mẹ đẻ của mình, cộng đồng nhỏ bé của họ hiện nay phải được phát triển, phát triển tới mức họ có nhu cầu dùng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp hàng ngày. – Phải nâng cao chất lượng tiếng mẹ đẻ của họ trong giao tiếp cộng đồng. Cách tốt nhất để làm được điều này là duy trì tiếng mẹ đẻ trong hoạt động văn hoá của cả dân tộc... Chính văn hoá truyền thống hay bản sắc văn hoá của các dân tộc là cái nền tốt nhất để lưu giữ ngôn ngữ của họ. Vì thế, để đảm bảo ngôn ngữ của các dân tộc có nguy cơ bị suy thoái không bị mai một, một công việc tốt nhất là khơi dậy và làm sống lại hoạt động văn hoá truyền thống của chính họ" (Sách đã dẫn, trang 98). Tại hội nghị quốc tế về bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể các dân tộc do UNESCO tổ chức tại Hà Nội, tháng 3/1993, các đại biểu đã đưa ra một số khuyến nghị đối với Chính phủ Việt Nam về bảo tồn và phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số:.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> – Cung cấp tài chính kịp thời cho chương trình quốc gia: "Kho tàng chung di sản văn hoá phi vật thể của các tộc người ở Việt Nam". – Ở cấp độ nhà nước, bảo vệ, giữ gìn, phát triển và khôi phục kho tàng văn hoá phi vật thể của các dân tộc thiểu số. Những lĩnh vực cần được tập trung chú ý là: khôi phục các lễ hội của các dân tộc thiểu số, thu thập với sự trợ giúp của các phương tiện kĩ thuật nghe nhìn tư liệu về âm nhạc, múa, văn hoá dân gian của các dân tộc. – Khôi phục lại việc dạy ngôn ngữ và chữ viết các dân tộc mà đã bị ngừng trệ do chiến tranh, ở các trường trung học và tiểu học. – Dạy trẻ em dân tộc về lịch sử và văn minh của các tộc người. – Mở rộng các chương trình truyền thanh, truyền hình về văn hoá dân tộc thiểu số; tổ chức phát thanh bằng các ngôn ngữ dân tộc thiểu số. – Tiếp tục thu thập, bảo tồn và phổ biến các văn bản viết bằng chữ cổ của các dân tộc thiểu số. Rõ ràng, chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đối với ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số khác hẳn chính sách của bọn thực dân và những chính quyền thân Pháp, thân Mĩ trước đây. Như ta biết, thực dân Pháp khi cai trị nước ta, đã tạo chữ viết cho một số dân tộc ở Tây Nguyên như: chữ Ê Đê, chữ Ba Na, chữ Gia Rai,... Nhưng mục đích của thực dân Pháp là chia để trị, là đồng hoá các dân tộc ở Việt Nam phải theo Pháp cho nên chúng tổ chức dạy chữ dân tộc cho người dân tộc mà không cho họ học tiếng Việt, không cho học tiếng Việt nhưng lại bắt họ học tiếng Pháp. Chính quyền Ngô Đình Diệm thì ngược lại, buộc các dân tộc thiểu số học tiếng Việt mà không cho họ học tiếng của họ. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, nghe theo lời Mĩ, đã tổ chức chế độ giáo dục song ngữ. Viện Ngôn ngữ học mùa hè (SIL(12)) đã tạo ra nhiều chữ viết theo mẫu tự La tinh cho các dân tộc thiểu số như: Gia Rai, Cơ Ho, Raglai, Mnông, Bru– Vân Kiều, Katu, Giẻ–Triêng, Tà Ôi, Mạ, Co, Chơro, Churu..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> Tuy nhiên, mục đích chính của Mĩ Thiệu là tuyên truyền chống cộng và truyền bá đạo Tin Lành. Nhìn chung, có thể khẳng định rằng chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đối với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số là đúng và căn bản. Nó đã đáp ứng được các vấn đề dân tộc và ngôn ngữ ở Việt Nam trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng tổ quốc. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều điều bất cập. Nguyễn Như Ý trong bài Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, đã viết: "Các chủ trương của Đảng và Nhà nước về ngôn ngữ dân tộc thường chỉ dừng lại ở những tư tưởng, những luận điểm chung nhất, thiếu hẳn các kế hoạch, các chương trình mục tiêu và hệ thống các biện pháp cụ thể cùng các hình thức tổ chức thực hiện thích hợp với từng khu vực, từng dân tộc, đặc biệt là thiếu hẳn một đội ngũ cán bộ được chuẩn bị về kiến thức và phương pháp, sau cùng là một chế độ kiểm tra, đánh giá ở cấp Nhà nước, để triển khai".(13) Từ kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, Trần Trí Dõi rút ra là vấn đề giáo dục ngôn ngữ "phải được đặt trong nhu cầu lợi ích của người thụ hưởng nền giáo dục ấy. Chính nhu cầu lợi ích của người thụ hưởng giáo dục song ngữ nhiều khi là yếu tố quyết định chi phối hoạt động giáo dục song ngữ. Trong thực hiện giáo dục song ngữ, khi ngôn ngữ thứ hai là tiếng mẹ đẻ của người thụ hưởng thì lợi ích văn hoá là lợi ích nổi trội nhất. Nếu không nắm bắt đầy đủ lợi ích này để nhận biết đầy đủ tính đa dạng của mục đích thụ hưởng thì việc xây dựng một chương trình giáo dục ngôn ngữ sẽ ít khả năng thu được thành công".(14) Sau khi nghiên cứu thực trạng giáo dục ngôn ngữ ở vùng dân tộc miền núi ba tỉnh phía Bắc Việt Nam, Trần Trí Dõi đã đưa ra một số nhận xét đáng chú ý: "... tiếng Thái của người Thái ở Việt Nam là một ngôn ngữ của một dân tộc thiểu số chứ không phải là một ngôn ngữ có chức năng ngôn ngữ quốc gia. Vì thế, sự phát triển đa dạng của nó theo từng phương ngữ là điều tất yếu và không ai có quyền ngăn cản nó. Do đó, việc thống nhất chữ viết trong sự đa dạng phương ngữ là một điều khó có thể trở thành hiện thực" (15)..

<span class='text_page_counter'>(37)</span> Ông viết tiếp: "... Khi bày tỏ ý kiến thể hiện mục đích tiếp nhận giáo dục tiếng mẹ đẻ, người Thái cho rằng họ học là để góp phần bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc... Bởi vì chỉ có chữ cổ truyền thống của người Thái mới là thứ văn tự thoả mãn đích thực vai trò đó. Chúng tôi nghĩ rằng, các kiểu chữ cổ truyền hiện có ở các Mường Thái, chỉ cần bổ sung thêm một vài chi tiết, sẽ là văn tự tốt nhất được sử dụng trong giáo dục tiếng mẹ đẻ của dân tộc Thái" (Sách dã dẫn, trang 231). Cuối cùng, ông kiến nghị: – Các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương phải có kế hoạch từng bước ổn định, phát triển kinh tế–xã hội vùng dân tộc miền núi. – Thay vì lấy tiêu chí ngoại ngữ có tính hình thức để thăng ngạch cán bộ công chức, Nhà nước có thể coi trình độ sử dụng tiếng dân tộc nơi họ công tác làm chứng chỉ thay thế khi thực hiện công việc tổ chức này. Ngoài ra, cũng nên coi việc người cán bộ ở vùng dân tộc thiểu số sử dụng được nhiều ngôn ngữ dân tộc khác nhau là một thành tích cần được khuyến khích trong hoạt động của họ. – Xây dựng một kế hoạch khả thi trong hoạt động giáo dục tiếng mẹ đẻ cho đồng bào dân tộc mà trước hết là chuẩn bị một đội ngũ giáo viên sẵn sàng đáp ứng cho công việc ấy. – Xây dựng một đề tài nghiên cứu để xác lập chủ thuyết khoa học cho vấn đề dạy tiếng mẹ đẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số. 2.3. Chính sách đối với tiếng Việt 1. Tuy là quốc gia đa dân tộc, nhưng người Kinh chiếm 85% dân số cả nước, các dân tộc ở Việt Nam lại vốn có truyền thống đoàn kết cùng nhau. Vì thế, sau khi giành được quyền độc lập dân tộc, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khẳng định ngay vị thế của tiếng Việt trong nước Việt Nam mới. Như ta biết, trước Cách mạng tháng Tám, tiếng Pháp giữ vị trí ngôn ngữ chính thức ở Việt Nam, được sử dụng trong hành chính, và giáo dục. Tiếng Việt tuy đã phát triển nhưng cũng chỉ được dùng trong báo chí, văn học nghệ thuật mà thôi..

<span class='text_page_counter'>(38)</span> Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, tiếng Việt vươn lên vị thế của ngôn ngữ quốc gia, ngôn ngữ chính thức của Việt Nam. Từ đây, tiếng Việt được sử dụng ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của người Việt Nam, từ công văn, giấy tờ hành chính ở trung ương và địa phương đến giáo dục, văn hoá và khoa học, từ công sở, trường học đến toà án, quân đội đều sử dụng tiếng Việt. Đặc biệt là, ngay từ đầu, các trường đại học đều dùng tiếng Việt để giảng dạy và học tập. Tuy nhiên, Đảng Cộng Sản và Nhà nước Việt Nam ý thức rõ rằng "những nhu cầu về kinh tế sẽ tự quyết định ra một ngôn ngữ chung cho toàn quốc, ngôn ngữ mà đa số người vì lợi ích liên hệ mậu dịch sẽ thấy là có lợi nếu biết được ngôn ngữ đó"(16). Vì vậy, Đảng Cộng Sản và Nhà nước Việt Nam rất thực tế trong lập pháp ngôn ngữ. Trong Hiến pháp của nước ta chưa hề sử dụng thuật ngữ ngôn ngữ quốc gia. Nhưng vị thế ấy của tiếng Việt được thể hiện ở những việc làm cụ thể sau: – Bản Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và đọc bằng tiếng Việt. – Điều thứ 18 trong Hiến pháp năm 1946 quy định: "Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ". – Sắc lệnh 19 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 08/9/1945, ra lệnh: "Việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Hạn trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Quá hạn đó, một người dân Việt Nam trên 8 tuổi mà không biết đọc và biết viết chữ quốc ngữ đó sẽ bị phạt tiền". – Sắc lệnh 20 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 08/9/1945 ra lệnh: "Trong toàn cõi Việt Nam, sẽ thiết lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối. Trong hạn 6 tháng, làng nào và đô thị nào cũng phải có ít ra là một lớp học dạy ít nhất là 30 người"..

<span class='text_page_counter'>(39)</span> Không dùng thuật ngữ ngôn ngữ quốc gia, các văn bản của nhà nước chỉ gọi tiếng Việt và chữ quốc ngữ là tiếng và chữ phổ thông. Quyết định của Hội đồng Chính phủ, số 53CP ngày 22/02/1980 viết: "Tiếng và chữ phổ thông là ngôn ngữ chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nó là phương tiện giao lưu không thể thiếu được giữa các địa phương và các dân tộc trong cả nước, giúp cho các địa phương và các dân tộc có thể phát triển đồng đều các mặt kinh tế, văn hoá, khoa học kĩ thuật, v.v... tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc. Vì vậy, mọi người dân Việt Nam đều có nghĩa vụ và quyền lợi học tập và sử dụng tiếng và chữ viết phổ thông". Mặc dù sau cách mạng nhà nước chỉ đạo "tất cả các khoa học đều dạy bằng tiếng Việt", từ phổ thông đến đại học, nhưng về lập pháp ngôn ngữ thì Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (ngày 06/8/1991) mới quy định: "Giáo dục tiểu học được thực hiện bằng tiếng Việt. Các dân tộc thiểu số có quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình cùng với tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu học". Thuật ngữ "ngôn ngữ chính thức" chỉ được dùng trong Luật giáo dục tiểu học ngày 10/12/1998: "Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường". 2. Xác lập vị thế ngôn ngữ quốc gia của tiếng Việt, Đảng và Nhà nước ta đồng thời chỉ ra phương hướng phát triển của tiếng Việt. Đó là dân chủ hoá, quần chúng hoá. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thổi bùng niềm tự hào và tình yêu đối với tiếng Việt. Người viết ; "Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó nhằm làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp. Của mình có mà không dùng, lại đi mượn của nước ngoài, đó chẳng là đầu óc hay ỷ lại hay sao?"(17) Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam đã có nhiều cuộc vận động nhằm phát triển tiếng Việt. Trước.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> hết, đó là cuộc vận động cải tiến chữ quốc ngữ. Đề cương văn hoá Việt Nam của Đảng Cộng sản Đông Dương coi cải tiến chữ quốc ngữ là "nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hoá Mác-xít Đông Dương và những nhà văn hoá Việt Nam". Tháng 9 năm 1960, Hội nghị về vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ đã được tổ chức tại Hà Nội. Hội nghị đã thành lập Ban nghiên cứu cải tiến chữ quốc ngữ. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề có nên cải tiến chữ Quốc ngữ hay không và nếu cải tiến thì cải tiến như thế nào vẫn còn đang được tranh luận. Thứ hai là cuộc vận động giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ngay khi đang tiến hành cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, Nhà nước đã tổ chức Hội nghị bàn về vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt từ ngày 07–10/02/1966. Ba khâu cần phải làm để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là: – Giữ gìn và phát triển vốn chữ của tiếng ta – Nói và viết đúng phép tắc của tiếng ta – Giữ gìn bản sắc, tinh hoa, phong cách của tiếng ta trong mọi thể văn (văn nghệ, chính trị, khoa học, kĩ thuật,...). Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận định: "Đây là một công việc lâu dài, phải kiên trì, phải nhìn xa, thấy rộng, phải làm từng bước với tất cả ý thức trách nhiệm của mỗi người chúng ta, với lòng tự hào về tiếng nói của dân tộc và với lòng phấn khởi và tin tưởng đang góp phần của mình vào một công việc vừa quan trọng vừa tốt đẹp vô cùng"(18). Thứ ba là cuộc vận động chuẩn hoá tiếng Việt. Sau khi đất nước thống nhất, cuối năm 1979 đầu những năm 1980, Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục, Bộ Giáo dục tổ chức một số cuộc hội thảo về vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt và đã thành lập hai Hội đồng: Hội đồng chuẩn hoá chính tả do Giáo sư Phạm Huy Thông làm chủ tịch và Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ do Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn làm chủ tịch. Kết quả là Quyết nghị của Hội đồng chuẩn hoá chính tả và Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ đã được ban hành ngày 01/7/1983. Trước đó, Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam và Bộ Giáo dục cũng đã thông qua.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> Một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục (ngày 30/11/1980). Trên cơ sở đó, ngày 05/3/1984, Bộ trưởng Bộ Giáo dục đã ra quyết định số 240QĐ ban hành Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục. Để bảo vệ tiếng Việt, Nhà nước cũng có những văn bản nhằm uốn nắn những cách sử dụng tiếng Việt chưa hợp lí. Nghị định của Chính phủ số 194-CP ngày 31/12/1994 về hoạt động quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam quy định: – Tiếng nói và chữ viết trong quảng cáo phải là tiếng nói và chữ viết Việt Nam, trừ các trường hợp: a) Những sách báo, ấn phẩm được phép xuất bản bằng tiếng nước ngoài. b) Những chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng nước ngoài. c) Những nhãn hiệu hàng hoá viết tắt và viết bằng tiếng nước ngoài. Tên giao dịch quốc tế của các cơ sở sản xuất kinh doanh–dịch vụ đã được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. Những từ ngữ đã được quốc tế hoá hoặc những từ ngữ mà tiếng Việt không thay thế được. d) Nếu dùng cả tiếng nói và chữ viết nước ngoài phải: – Viết chữ Việt Nam trước, phía trên, kích thước lớn hơn chữ nước ngoài. – Đọc tiếng Việt Nam trước, tiếng nước ngoài sau. Quy chế lưu hành, kinh doanh phim, băng đĩa hình, băng đĩa nhạc, cho thuê xuất bản phẩm, hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá nơi công cộng, quảng cáo, viết, đặt khẩu hiệu ban hành kèm theo Nghị định số 87-CP ngày 12/12/1995 có điều 29 như sau: "Biển hiệu được thể hiện dưới các hình thức bảng, biểu, hộp đèn, lưới đèn hoặc các hình thức khác. Trên biển hiệu phải ghi đầy đủ tên gọi bằng chữ Việt Nam đúng với quyết định thành lập hoặc giấy phép kinh doanh của cơ quan có thẩm quyền, không được viết tắt và phải có những nội dung.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> chủ yếu theo quy định tại các điều 30, 31. Quy chế này cho từng loại biển hiệu. Đối với các tổ chức kinh tế muốn thể hiện tên viết tắt, tên giao dịch quốc tế, tên chữ nước ngoài phải ghi ở phía dưới, kích thước nhỏ hơn chữ Việt Nam, màu sắc, ánh sáng không được nổi bật hơn chữ Việt Nam". 3. Xác lập vị thế ngôn ngữ quốc gia của tiếng Việt, Đảng và Nhà nước ta còn đề ra nhiệm vụ dạy và học tiếng Việt cho người Việt và người các dân tộc khác. Cùng ngày 8 tháng 2 năm 1945, ngoài hai sắc lệnh 19 và 20 đã nói ở trên, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà còn ra sắc lệnh số 17, thành lập Nha bình dân học vụ, chuyên lo việc học cho nhân dân, trực thuộc bộ giáo dục. Sau khi Luật phổ cập giáo dục tiểu học được ban hành, Bộ Giáo dục và Đào tạo có Thông tư số 14-GDĐT ngày 05/8/1997 hướng dẫn tiêu chuẩn và thể thức kiểm tra, đánh giá kết quả chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Theo UNESCO, nền giáo dục Việt Nam đã giúp cho trên 15,5 triệu người thoát nạn mù chữ. UNESCO đánh giá thành tựu này như sau: "Việc thanh toán được nạn mù chữ là một thành tựu nổi bật ở Việt Nam. Đó là kết quả của các hành động, chính sách, chiến lược không ngừng cách mạng của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam"(19). Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước Việt Nam còn quan tâm nhiều hơn nữa. Quyết định của Phủ thủ tướng số 153-CP ngày 20/8/1969 viết: "Tất cả các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam đều cần học và dùng tiếng, chữ phổ thông là ngôn ngữ chung của cả nước. Nhà nước cần ra sức giúp đỡ nhân dân các dân tộc thiểu số học biết nhanh tiếng, chữ phổ thông". Ngay khi mới thành lập (1956), ở Đại học Tổng hợp Hà Nội đã có bộ phận chuyên dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, sau đó phát triển thành Khoa tiếng Việt và Văn hoá Việt Nam cho người nước ngoài ở Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Ngoài ra, nhiều trường Đại học và Viện nghiên cứu ở Việt Nam cũng mở các Trung tâm dạy tiếng Việt cho người nước ngoài..

<span class='text_page_counter'>(43)</span> Trên Đài truyền hình Việt Nam cũng đã có chương trình dạy tiếng Việt cho đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc. Như vậy, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc dạy và học tiếng Việt cho người Việt ở trong nước cũng như Kiều bào ở xa Tổ quốc, cho đồng bào thuộc các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng như người nước ngoài. 2.4. Chính sách đối với tiếng nước ngoài Sau Cách mạng tháng Tám, Nhà nước ta vẫn duy trì việc dạy và học tiếng Pháp, tiếng Anh, đồng thời đào tạo đội ngũ giáo viên để ngành giáo dục dạy tiếng Nga, tiếng Hán ở nhà trường. Năm 1968, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ra chỉ thị 43-TTg và tiếp đó, năm 1972 lại ra quyết định 251-TTg về việc tăng cường công tác dạy–học ngoại ngữ trong các trường phổ thông. Nhà nước đã chính thức xác nhận ngoại ngữ là "một môn học phổ thông cơ bản trong hệ thống chương trình học của các trường phổ thông từ cấp 2 trở lên". Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của sự phát triển nền giáo dục phổ thông hiện đại. Theo Bùi Hiền, trên thế giới, người ta cho rằng "ngoại ngữ cùng với tiếng mẹ đẻ và toán học hợp thành ba môn trụ cột trong chương trình giáo dục phổ thông, bởi vì cả ba môn học này chẳng những tự nó có chức năng và nhiệm vụ trang bị cho học sinh những cơ sở khoa hoc, những tri thức cần thiết về các đối tượng nhận thức trong thế giới khách quan thuộc lĩnh vực chuyên ngành ấy, mà các môn học này còn là phương tiện, là công cụ rất quan trọng giúp cho học sinh đi sâu hơn, nắm chắc hơn các tri thức cơ sở của các chuyên ngành khác, giúp cho việc phát triển năng lực trí tuệ của học sinh được thuận lợi hơn. Thật vậy, với toán học và tiếng Việt ai cũng thấy trình độ hiểu biết về hai môn này càng sâu và càng rộng bao nhiêu thì khả năng tìm hiểu và khám phá để chiếm lĩnh nền tảng khoa học của các đối tượng tự nhiên và xã hội nói chung càng lớn bấy nhiêu, bởi vì chúng chính là những công cụ hàng đầu của nhận thức đối với thế giới. Còn ngoại ngữ, nghĩa là tiếng nói của những dân tộc khác (mà đó thường lại là những ngôn ngữ phát triển cao của các dân tộc có nền văn hoá lớn có những cống hiến vĩ đại cho nền văn hoá của.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> cả nhân loại như tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp,...) được xếp ngang hàng với tiếng mẹ đẻ và toán học,..." (20). Trước năm 1973, Nhà nước đã cho thành lập hai trường đại học để dạy ngoại ngữ và một trung tâm nghiên cứu việc dạy ngoại ngữ. Hiện nay, có các trường đại học ngoại ngữ là: Đại học Ngoại ngữ Hà Nội trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo; Đại học Ngoại ngữ thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại học Ngoại ngữ quân sự, Đại học Ngoại ngữ Đà Nẵng, Đại học Ngoại ngữ TP. Hồ Chí Minh và nhiều khoa ngoại ngữ ở các trường đại học và cao đẳng khác. Nhà nước cũng cho phép nhiều trung tâm đào tạo tiếng của nước ngoài hoặc liên kết với nước ngoài hoạt động. Theo Trần Thị Lan (21), ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, chỉ riêng tiếng Anh con số này cũng có tới vài chục có 100% vốn nước ngoài hoạt động (Hội Đồng Anh, ACET, Apollo, Language Link, v.v...). Không những tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Hán được dạy với tư cách là ngoại ngữ mà nhiều thứ tiếng khác cũng đang được dạy ở các trường đại học và trung tâm ngoại ngữ ở Việt Nam, như: tiếng Đức, tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Italy, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Malayu, tiếng Indonesia, tiếng Thái Lan, thậm chí cả tiếng Arập nữa. Việc dạy học ngoại ngữ ở trường phổ thông Việt Nam có thể chia thành hai giai đoạn: – Từ 1956 đến năm 1975: Ở miền Bắc, tiếng Nga và tiếng Trung Quốc được dạy học phổ biến trong các trường cấp III và ở một số trường cấp II, tiếng Anh và tiếng Pháp cũng được đưa vào giảng dạy trong nhà trường, nhưng với quy mô nhỏ hơn; ở miền Nam, tiếng Anh và tiếng Pháp được dạy học trong các trường phổ thông, chủ yếu ở các thành phố lớn, tiếng Trung Quốc cũng được dạy nhưng với quy mô nhỏ. – Từ năm 1975 đến nay: Cả 4 thứ tiếng trên được dạy học ở trường Trung học cơ sở (cấp II) và trường Trung học phổ thông (cấp III) theo chương trình thống nhất trên phạm vi cả nước(22). Vị thế của tiếng Anh trên thế giới càng ngày càng được đề cao. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Theo David Crystal trong.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> cuốn English as Global Language, số người nói tiếng Anh là ngôn ngữ thứ nhất là 337 triệu người, những người dùng tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai là 235 triệu. Còn theo Eddie Ronowiez và Collin Yallop trong cuốn English: One language, different cultures thì tổng số người nói tiếng Anh bản ngữ và không bản ngữ là khoảng hơn 2 tỉ người (23). Do nhu cầu giao lưu, hội nhập với thế giới, từ những năm 1985–1986 ở Việt Nam đã bùng lên phong trào học tiếng Anh. Năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị 422-TTg về đào tạo ngoại ngữ cho cán bộ công chức chính phủ. Chương trình thí điểm được tiến hành trong hai năm tại Hà Nội dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Nội Vụ, Học viện Hành chính Quốc gia và Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, sau đó được triển khai rộng rãi tại hầu hết các tỉnh thành trong cả nước dưới sự giám sát trực tiếp của Ban tổ chức chính quyền các tỉnh hoặc vụ đào tạo của các bộ (xem thêm: Trần Thị Lan, 2006). Hiện nay, Việt Nam có chương trình thi công chức: thi tuyển công chức, thi nâng ngạch công chức, thi chuyên viên chính, thi chuyên viên cao cấp, trong đó ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh) là một trong ba môn thi. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải nghiên cứu kĩ nhu cầu sử dụng ngoại ngữ ở Việt Nam hiện nay và tương lai, trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch tổng thể trong giáo dục ngoại ngữ. Cần căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế–xã hội của cả nước và đặc điểm khác nhau của các vùng miền mà điều chỉnh cơ cấu ngoại ngữ, tránh khuynh hướng chỉ dạy một ngoại ngữ. Với giáo dục phổ thông, nên chọn ngoại ngữ nào và bắt đầu cho học ngoại ngữ từ lớp mấy. Những vấn đề đào tạo đội ngũ giáo viên dạy ngoại ngữ; xây dựng chương trình, giáo trình; phương pháp kiểm tra đánh giá; phương án trang bị cơ sở vật chất và thiết bị dạy học ngoại ngữ; quy định về phân cấp quản lí việc dạy học, kiểm tra, đánh giá và cấp văn bằng chứng chỉ công nhận trình độ ngoại ngữ... cần phải nghiên cứu và triển khai thực hiện.Trong hệ thống giáo dục của nhà nước, từ phổ thông đến đại học phải sử dụng tiếng Việt làm phương tiện giảng dạy. Tuy nhiên, có thể dùng một ngoại ngữ nào đó để giảng dạy một số môn học hoặc chuyên.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> đề trong một số loại lớp học, khoá học nào đó, nhưng có cần đưa vấn đề này vào Luật giáo dục hay không thì phải cân nhắc kĩ. ______________ Nguyễn Tài Cẩn. Ảnh hưởng Hán văn Lí Trần qua thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Trung Ngạn. Nxb Giáo dục, H., 1998. (1). Nguyễn Thiện Giáp: Từ vựng tiếng Việt, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội xuất bản, năm 1978, trang 110. Năm 1985, giáo trình này đã được sửa chữa, bổ sung và với tên mới là Từ vựng học tiếng Việt, được Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp xuất bản năm 1985, Nxb Giáo dục tái bản các năm 1998, 1999, 2000, 2002, 2005. (2). Lê Xảo Bình & Vi Thụ Quan. Mối quan hệ giữa âm Hán Việt và phương ngữ tiếng Hán nhìn từ đặc điểm âm đầu. Tạp chí Ngôn ngữ, số 10/2005, trang 25–34. (3). Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí. Khoa mục chí. (bản dịch, tập 3). Nxb Sử học, H., 1961. (4). (5). Phủ chúa Trịnh.. Tạp truyện là các truyện Nôm lục bát. Bỉ ngữ là tục ngữ ca dao (6). Dẫn theo Đinh Gia Khánh; Bùi Duy Tân & Mai Cao Chương: Văn học Việt Nam thế kỉ thứ X–nửa đầu thế kỉ XVIII, (tập 2), Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, H., 1992, trang 35. (7). Dẫn theo Sơn tùng Hoàng Thúc Trâm: Quốc văn đời Tây Sơn, Nxb Vĩnh Bảo, Sài Gòn, 1950. Tuy bức chiếu này còn lổn nhổn tiếng Việt và tiếng Hán, nhưng là một bằng chứng quý báu về văn bản đầu tiên dùng tiếng Việt trong công văn của nhà nước. Theo ngôn ngữ hiện đại thì, đây là: "Chiếu truyền cho thầy La Sơn Nguyễn Thiếp được biết. Ngày trước giao cho thầy về Nghệ An xem đất làm kinh đô cho kịp dịp này (ta) trở về. Sao về tới đó chưa thấy xong việc nhỉ? Cho nên (ta) hãy về kinh thành Phú Xuân cho quân lính nghỉ ngơi đã. Vậy (khi tiếp được) chiếu (này) ban xuống, thầy nên sớm (8).

<span class='text_page_counter'>(47)</span> cộng tác với Trấn Thủ Thận lo liệu việc đó, xem đất xây dựng kinh đô ở hành cung Phú Thạch (thì) sao cho phía sau gần núi, chính giữa (thì) ở lẫn với dân, hay là đâu là đất tốt có thể xây dựng kinh đô (thì) tuỳ con mắt đạo pháp của thầy định đoạt, sớm sớm làm cho chóng xong. Giao cho Trấn thủ Thận sớm dựng cung điện, trong vòng ba tháng phải xong, để (ta) tiện ngự về. Thầy chớ lơ là việc ấy. Kính vậy thay! (Nay xuống) chiếu đặc biệt..

<span class='text_page_counter'>(48)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×