Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 11 qua giờ văn học sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.99 KB, 15 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.1.1. Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương
trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực (NL) của người học,
nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh (HS) học được cái gì đến chỗ quan
tâm HS vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định
phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền
thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi
trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong q trình
học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động
dạy học và giáo dục.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo xác định “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố
cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng
lực của người học”;“Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm
chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề
nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo
dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ
năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo,
tự học, khuyến khích học tập suốt đời”. Theo tinh thần đó, các yếu tố của quá
trình giáo dục trong nhà trường trung học cần được tiếp cận theo hướng đổi mới
nhằm hình thành và phát triển cho HS những NL chung chủ yếu: năng lực tự học
(NLTH), NL giải quyết vấn đề và sáng tạo, NL thẩm mỹ, NL thể chất, NL giao
tiếp, NL tính tốn, NL cơng nghệ thơng tin và truyền thơng (ICT), trong đó
NLTH được đặt lên hàng đầu thể hiện tầm quan trọng của việc tự học, tự nghiên
cứu của HS trong thời đại hiện nay.
1.1.2. Thế kỷ XXI là thời đại của nền “kinh tế tri thức”. Công nghệ thông
tin, khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển đã và đang dẫn đến sự bùng nổ
thông tin. Ngày nay mạng internet đang là nơi để mỗi người tự cập nhật thơng tin
cho mình. Thế giới đang vận hành và thay đổi từng giây. Để nắm bắt được thơng
tin khơng cịn cách nào khác là mỗi chúng ta phải đọc và phải học từng ngày,


từng giờ.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn CNH - HĐH với mục tiêu đến năm 2020
sẽ cơ bản trở thành nước công nghiệp. Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc
CNH - HĐH là con người là nguồn lực người Việt Nam được phát triển về số
lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Để làm được điều
này giáo dục Việt Nam đang phải đứng trước một bài tốn: phải đổi mới một
cách tồn diện từ mục tiêu, nội dung đến phương pháp và phương tiện dạy học.
Mục đích cuối cùng là để từng cá nhân tự mình có ý thức tạo được một cuộc cách
mạng học tập trong bản thân mỗi con người. HS được phát triển hài hòa về thể
chất và tinh thần, con người cá nhân và con người xã hội trên cơ sở duy trì, tăng
cường và định hình các phẩm chất và NL đã hình thành ở cấp trung học sơ sở; có
kiến thức, kỹ năng phổ thơng cơ bản được định hướng theo lĩnh vực nghề nghiệp
1


phù hợp với năng khiếu và sở thích; phát triển NL cá nhân để lựa chọn hướng
phát triển, tiếp tục học lên hoặc bước vào cuộc sống lao động với phẩm chất, NL
của một công dân.
Luật giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28 quy định: “Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh;
phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”.
Để đáp ứng được mục tiêu chương trình giáo dục cấp THPT sau năm 2015
khơng cịn cách nào khác là HS phải tự học, tự tìm tịi và khám phá những nguồn
thơng tin mới bổ ích cho mình. Bản thân mỗi HS và nhà trường phải tiến hành
một cuộc cách mạng trong học tập. Trước tiên và trên hết là cuộc cách mạng về
phương pháp dạy và học. Phương pháp dạy - học văn cũng khơng nằm ngồi mục
tiêu đó. Làm sao để HS quan tâm, yêu - thích và học tốt môn Văn đang là nỗi băn

khoăn, trăn trở của các nhà phương pháp.
1.1.3. Giờ văn học sử (VHS) mở ra nhiều cơ hội cho HS tự học, vừa có kiến
thức khái quát, vừa có kiến thức cụ thể, mang tính tổng hợp, tính tích hợp cao.
Các bài VHS trong chương trình là những bài tổng kết về một thời kỳ văn học,
một giai đoạn văn học, khái quát về một tác gia (tiểu sử và sự nghiệp sáng tác),
khái quát về một tác phẩm (giá trị nội dung và nghệ thuật).
Văn học của bất cứ thời kỳ nào bao giờ cũng vận động và phát triển trong sự
gắn bó chặt chẽ với chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, văn hóa của một thời kỳ
lịch sử nhất định. Do vậy kiến thức của giờ VHS là kiến thức mang tính tổng hợp
về lịch sử, xã hội, văn hóa, triết học, tơn giáo, chính trị... Những kiến thức mang
tính tổng hợp như kiến thức về lịch sử, về tư tưởng, văn hóa có ảnh hưởng qua lại
tới văn học.
Với khối lượng kiến thức như vậy GV không thể truyền đạt tất cả cho HS
trong các buổi học trên lớp mà GV cần định hướng cho HS tự học bằng hệ thống
câu hỏi, bài tập để các em tự động não suy nghĩ tìm hiểu khám phá kiến thức
trong SGK, tự đọc sách, tự tra cứu tài liệu mở rộng kiến thức. Đây là cơ hội tốt
nhất cho sự phát triển NLTH ở HS.
1.1.4. Đối với các bài VHS lâu nay GV vẫn giữ phương pháp giảng dạy theo
kiểu truyền thụ kiến thức một chiều: GV giảng, HS lắng nghe, ghi nhớ và biết
nhắc lại đúng những điều mà GV đã truyền đạt. GV chủ động cung cấp kiến thức
cho HS, áp đặt cách cảm, cách hiểu biết của mình tới HS, kết quả kiểm tra, đánh
giá tùy thuộc vào khả năng tái hiện lượng kiến thức ít hay nhiều theo lời thầy
giảng hoặc theo kiến thức sẵn có trong SGK. Phương pháp dạy học như vậy đã
làm thủ tiêu NLTH, HS khơng có cơ hội phát triển NL độc lập sáng tạo, tự
nghiên cứu của mình. Dẫn đến tình trạng HS chán học, thờ ơ với bài giảng của
GV. Làm thế nào để thu hút được sự quan tâm của HS trong giờ VHS, qua đó
phát triển NLTH cho các em để khi rời ghế nhà trường THPT các em đáp ứng
2



được chuẩn đầu ra mà sách giáo khoa (SGK) lần này hướng tới. Đây là vấn đề
đang thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Vì vậy tơi lựa chọn đề tài: “Phát triển năng lực tự học(NLTH) cho học sinh
lớp 11 qua giờ văn học sử” nghiên cứu, với mong muốn được góp phần nhỏ bé
vào q trình đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT hiện nay, bằng các
biện pháp học tập phù hợp qua việc dạy các bài VHS giúp phát triển NLTH cho
HS THPT.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất những phương pháp, biện pháp dạy học trong giờ VHS nhằm phát
triển NLTH cho HS.
Góp phần phát triển NLTH cho HS theo yêu cầu đổi mới của chương trình
và SGK sau 2015.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
HS lớp 11 và NLTH.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tơi dự kiến sẽ sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
1.4.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết
Để thực hiện đề tài này chúng tôi tiến hành nghiên cứu các tài liệu, lý luận
khác nhau bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về
đối tượng. Sau đó tổng hợp từng mặt, từng bộ phận thơng tin đã được phân tích
tạo ra một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về vấn đề nghiên cứu.
1.4.2 Phương pháp điều tra, khảo sát
Để nắm được thực trạng vấn đề nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện, có
hệ thống, đảm bảo tính chính xác, khách quan, chúng tôi tiến hành điều tra bằng
phiếu đối với GV và HS. Kết quả điều tra là căn cứ chủ yếu để xây dựng các biện
pháp nâng cao chất lượng hoạt động dạy - tự học.
1.4.3. Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành thu thập thơng tin về q trình tự học ở trường THPT để nắm
được thực trạng dạy và học hiện nay dựa trên cơ sở quá trình giao tiếp bằng lời

nói. Đưa ra những câu hỏi theo một chương trình được định sẵn trên những cơ sở
đề tài đã đưa ra.
1.4.4. Phương pháp thực nghiệm
Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở trường THPT theo phương án đã soạn
thảo, nhằm khẳng định tính khả thi của việc lựa chọn phương pháp dạy học, các
biện pháp sư phạm đã sử dụng với mục đích bồi dưỡng NLTH cho HS.

3


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là một tấm gương sáng về tự học. Đó là cách
học kiên trì, bền bỉ, năng động và học thường xuyên. Quan niệm về tự học,
Người cho rằng“Tự học là cách học tự động” và “phải biết tự động học tập”.
Theo Người: “tự động học tập” tức là tự học một cách hồn tồn tự giác, tự chủ,
khơng đợi ai nhắc nhở, không chờ ai giao nhiệm vụ mà tự mình chủ động vạch kế
hoạch học tập cho mình, rồi tự mình triển khai, thực hiện kế hoạch đó một cách
tự giác, tự mình làm chủ thời gian để học và tự mình kiểm tra đánh giá việc học
của mình”. Lênin cũng có câu nói rất nổi tiếng nói về q trình học lâu dài và
thường xun cần có ở mỗi người: “ Học! Học nữa! Học mãi” đã khẳng định ý
chí và nghị lực quyết tâm học tập suốt đời. Để làm được điều đó địi hỏi bản thân
người học phải có ý thức tự học, học tập phải là nhiệm vụ thường xuyên, được
tiến hành bền bỉ, lâu dài, có củng cố, rèn luyện mới đạt hiệu quả cao.
Người có NLTH là người có khả năng tự mình động não suy nghĩ, sử dụng
các NL trí tuệ và có khi cả cơ bắp, cùng các phẩm chất, động cơ, tình cảm, nhân
sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực kiến thức nào đó của nhân
loại, biến nó thành sở hữu của riêng mình.
Kiến thức VHS là một hệ thống những luận điểm, những nhận định vừa
mang tính cụ thể, vừa mang tính khái qt giúp HS nâng cao mặt lí luận, tầm

nhìn bao quát sâu sắc hơn. VHS cung cấp cho HS một khối lượng kiến thức
phong phú về tri thức cụ thể đó là tác phẩm, tác giả, mốc thời gian, sự kiện văn
học. Ngồi ra, VHS cịn có khả năng rèn luyện tư duy logic và tư duy hình tượng
cho HS. Tư duy logic và tư duy hình tượng rất cần thiết cho việc tiếp nhận tri
thức văn chương, đặc biệt đối với tri thức VHS nói riêng. Qua giờ VHS HS sẽ
được rèn luyện các kỹ năng như: Phân tích, tổng hợp, cụ thể hóa, khái quát hóa,
ghi nhớ, so sánh, đối chiếu, suy luận,... Ngồi ra giờ VHS cịn hình thành ở HS
thói quen tự nghiên cứu và làm việc với SGK như: Xác định các luận điểm chính
của bài học, hệ thống hóa các luận cứ, luận chứng, phạm trù, định nghĩa.
Kiến thức VHS vừa có tính liên mơn vừa có tính liên cấp giúp HS tích lũy
và mở rộng tri thức, biết suy luận theo phương pháp tư tưởng tiến bộ. Ngồi mối
quan hệ liên mơn, liên cấp, kiến thức VHS cịn có tác dụng lớn trong việc bồi
dưỡng, mở rộng tri thức nhiều mặt cho HS.
Kiến thức VHS cịn góp phần giúp HS hình thành quan điểm và phương
pháp phân tích, đánh giá các hiện tượng văn học một cách khoa học. Với lượng
kiến thức rộng như vậy việc chỉ nghiên cứu SGK sẽ gây khó khăn cho HS trong
việc tiếp nhận kiến thức VHS.
Đối với tác phẩm văn học được học ở bình diện VHS, việc phân tích, đánh
giá phải xuất phát từ nguồn gốc ra đời của tác phẩm, đặc biệt chú ý đến cảm hứng
sáng tác sau đó xem xét mối quan hệ giữa đề tài và chủ đề, hình thức và nội dung
trên cái nhìn tổng thể, đặt các tác phẩm đó trong vị trí nhất định của q trình
4


sáng tác của nhà văn, tìm hiểu lịch sử tiếp nhận của độc giả đối với tác phẩm qua
các thời đại.
Vì vậy, để học tốt VHS, HS cần chủ động, tự giác trong học tập, huy động
thêm các nguồn lực bên ngồi SGK như: tìm kiếm tài liệu trên mạng Internet qua
các nguồn học liệu mở, blog... tài liệu tham khảo, trao đổi thảo luận cùng bạn bè,
thầy cô để cùng nhau làm rõ những luận cứ, luận điểm trong bài VHS.

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Đối với giáo viên
Từ trước tới giờ, kiến thức VHS ở trường phổ thơng cịn nhiều ngộ nhận,
chưa quan tâm đúng mực, đặc biệt trong quá trình giảng dạy nhiều GV có thái độ
xem nhẹ, thậm chí bỏ qua chúng. Thực tế cho thấy tình trạng dạy bài VHS theo
phương pháp truyền thống vẫn được sử dụng một cách rộng rãi. Điều này được
thể hiện trước hết ở việc soạn giáo án của GV. Phần lớn GV soạn giáo án chỉ chú
trọng đến hoạt động của thầy mà khơng chú trọng đến hoạt động của trị, nếu có
là rất ít. Cũng có nhiều GV chưa nhận thức được việc soạn giáo án là một phương
pháp giảng dạy, tiến trình dạy học có đạt được kết quả cao hay không là phụ
thuộc vào phương pháp soạn giáo án của GV, phương pháp dạy học chi phối cách
soạn giáo án của GV.
Bên cạnh đó, phương pháp dạy truyền thống chiếm ưu thế, chủ yếu GV
thuyết trình và “độc diễn”. Phương pháp dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp
đặt, HS phải học thuộc kiến giải của thầy. Bên cạnh đó khi giảng dạy GV chưa có
biện pháp giám sát việc chuẩn bị bài, đọc bài, học bài của HS. Đa số GV dạy văn
đều có ý thức khơi dậy thói quen và NLTH, tinh thần chủ động tích cực, ni
dưỡng hứng thú học văn cho HS. Nhưng nhìn chung họ thường tỏ ra lung túng,
thậm chí bất lực trong việc thực hiện những mong muốn của mình.
Với cách dạy như vậy GV không thể phát huy được tính chủ động của HS.
HS là khách thể trong quá trình dạy học, thụ động và hồn tồn phụ thuộc vào
hoạt động của GV. Không phát huy được NL tư duy, phân tích, so sánh tổng hợp
của HS.
2.2.2. Đối với học sinh
Thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học công nghệ, đa số HS chỉ
muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kinh tế, kĩ thuật,... HS ít có hứng thú với
mơn văn, các em cho rằng không học văn vẫn biết đọc, biết viết, học văn không
thiết thực, nhưng đổi lại nếu các em không học các mơn khoa học tự nhiên thì coi
như là học kém, nếu em nào theo học các môn khoa học xã hội thì bị coi nhẹ.
Điều đáng nói nữa là hiện nay xã hội hiện đại có tác động khơng nhỏ đối với

HS phổ thơng. Các em có thể nói vanh vách về tiểu sử của một ca sĩ, người mẫu,
diễn viên điện ảnh thậm chí họ là người nước ngoài, nhưng lại tỏ ra ấp úng khi
được hỏi đến tiểu sử của một tác gia văn học, sự nhầm lẫn về tác giả của tác
phẩm này với tác phẩm khác hay cịn gọi là “ râu ơng nọ cắm cằm bà kia” là hiện
tượng vẫn diễn ra. Điều này cho thấy, giữa môn văn với thực tế cuộc sống cũng
có độ chênh khá lớn. Những điều được học khi ngồi trên ghế nhà trường không
5


được HS vận dụng ngồi cuộc sống, thậm chí có tình trạng phê phán trái chiều
trở lại thầy cơ.
Do ngại đọc, ngại tìm hiểu bài trước khi lên lớp nên khả năng phát hiện,
nắm bắt luận điểm, cách lập dàn ý của HS còn non yếu. Nhiều trường hợp nhầm
lẫn đưa luận điểm lớn thành luận điểm nhỏ và ngược lại.
Tất cả những vấn đề nêu trên cho thấy thực trạng dạy và học nói chung, bộ
mơn Ngữ văn nói riêng cần phải thay đổi một cách toàn diện về phương pháp, để
từ đó phát huy được NLTH, sự chủ động của HS trong học tập. Tạo cho các em
tâm thế độc lập trên mọi lĩnh vực. Đây là vấn đề cịn nhiều băn khoăn, trăn trở.
Qua đó, giúp các em có được phương pháp học tập chủ động nhất để tự tin khi
bước vào lớp học..
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề
Xuất phát từ thực trạng trên bản thân đã tiến hành các giải pháp sau:
2.3.1. Nhóm biện pháp chuẩn bị bài học trước khi lên lớp
Đây là một hoạt động thường lệ diễn ra trước giờ học, không chỉ riêng đối
với bất kỳ mơn học nào. Đó là việc GV hướng dẫn HS chuẩn bị trước nội dung
bài học sắp tới để các em có thể chủ động trong giờ học và học tập tốt hơn. Hoạt
động này khuyến khích tính tích cực của các em. Tạo thế chủ động trong suy
nghĩ. Các em sẽ không bị áp đặt bị động trước lời giảng của GV.
Nhưng thực tế giảng dạy cho thấy, hoạt động này chưa được chú trọng từ

phía HS và GV. Bài soạn của HS mang tính chất đối phó là chủ yếu, sự kiểm tra
của GV đối với việc chuẩn bị bài của HS chưa sát sao, cịn bng lỏng. Trong
nhóm biện pháp này GV có thể tiến hành theo các bước sau:
2.3.1.1. Lập kế hoạch học tập cho giờ VHS
GV cần hướng dẫn cho HS cách xây dựng kế hoạch học tập từ ban đầu.
Ngay từ tiết học đầu tiên của môn học, GV không cần phải dạy ngay mà cần giới
thiệu sơ lược về chương trình, nội dung và phương pháp học một cách khái quát
nhất để HS hiểu và từ đó, tự xây dựng cho mình kế hoạch học tập phù hợp
GV cần thường xuyên đánh giá quá trình lập kế hoạch học tập ở HS. Đánh
giá thường xuyên của GV và bản thân HS về q trình tự học và hồn thành kế
hoạch tự học là phương tiện mạnh mẽ, để kích thích, nâng cao q trình tự học
của người học.
Ví dụ: Lập kế hoạch học tập bài tác giả Nam Cao
Trước hết cần xác định mục tiêu bài học là:
- Nắm được những nét chính về conngười, quan điểm nghệ thuật, các đề tài
chính, sự nghiệp sáng tác và phong cách nghệ thuật của Nam Cao.
- Rèn kỹ năng hệ thống hóa kiến thức, phân tích, tổng hợp những vấn đề
VHS.
Tiếp theo là lập kế hoạch thực hiện mục tiêu:
+ Tìm hiểu về tiểu sử, con người nhà văn Nam Cao
+ Tìm hiểu quan điểm nghệ thuật của Nam Cao
+ Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của Nam Cao
6


Phương pháp thực hiện:
+ Đọc SGK, tài liệu tham khảo, tra cứu trên mạng internet những tài liệu có
liên quan đến nhà văn Nam Cao.
+ Phương pháp đọc và ghi nhớ tài liệu.
+ Tóm tắt các ý chính, viết đề cương cho bài học

Cuối cùng là kiểm tra, điều chỉnh kế hoạch:
Nhìn lại kế hoạch, cơng việc xem có gì bất hợp lí khơng; có những bước
cơng việc nào cần phải kiểm tra, thơng thường có bao nhiêu cơng việc thì cũng
cần số lượng tương tự các bước phải kiểm tra, ví dụ kiểm tra lại các kế hoạch đề
ra, phương pháp thực hiện có gì bất hợp lí để điều chỉnh kịp thời.
2.3.1.2. Nghiên cứu bài học
Nghiên cứu bài học nghĩa là việc GV định hướng cho HS chuẩn bị bài trước
ở nhà, nhất là việc đọc SGK, tài liệu tham khảo có liên quan. Đối với bài VHS có
kiến thức sâu rộng, nếu chỉ học trên lớp HS sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy,
việc khuyến khích HS nghiên cứu bài trước khi lên lớp là một việc làm rất quan
trọng, khi đến lớp chú ý nghe cô giáo giảng bài cùng với sự chuẩn bị ở nhà thì
kiến thức của các em sẽ được đào sâu hơn.
2.3.1.3. Xây dựng đề cương cho bài học
Đây là khâu cuối cùng của việc chuẩn bị bài học trước khi lên lớp. HS tiến
hành xây dựng đề cương cho bài học sau khi đã nghiên cứu tài liệu, SGK có liên
quan đến bài học. Việc lập đề cương cho bài học giúp cho HS theo dõi bài giảng
và tiếp nhận tri thức của GV một cách chủ động hơn.
GV hướng dẫn HS vạch ra các ý chính, xác định ý lớn và các ý nhỏ triển
khai cho ý lớn, nhận biết và phân tích các sự kiện lịch sử liên quan đến bài học.
Sắp xếp hệ thống luận điểm đã thu thập được từ tài liệu và SGK thành một hệ
thống hồn chỉnh, lơgíc. Sau đó các em viết thành một bài theo cách nghĩ của
mình về bài học đã chuẩn bị để khi đến lớp trình bày cho GV và các bạn nhận xét
Ví dụ: Đối với bài về tác giả Nam Cao, sau khi đã tiến hành các biện pháp
trên thì các em tiến hành xây dựng đề cương cho bài học do mình chuẩn bị. Ở đề
cương này các em vạch ra những ý chính về:
- Tiểu sử, con người nhà văn Nam Cao, trong đó bao gồm: tên thật của nhà
văn, quê quán, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp, tính cách con người.
- Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao: Nghệ thuật vị nhân sinh; Nghề văn
phải là nghề sáng tạo.
- Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao: Trước cách mạng và sau cách mạng.

+ Phong cách nghệ thuật:
Nam Cao ln có hứng thú khám phá “con người trong con người”, có biệt
tài diễn tả phân tích tâm lý nhân vật.
Nam Cao thường sử dụng thủ pháp đối thoại và độc thoại nội tâm.
Nam Cao thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh, tầm thường trong
đời sống hàng ngày để từ đó tìm ra triết lí sâu xa của cuộc sống.
Giọng điệu buồn thương chua chát, lạnh lùng mà đầy thương cảm, đằm
thắm yêu thương…
7


2.3.2. Nhóm biện pháp học tập trên lớp
Đó là hình thức tổ chức dạy học trong các giờ học chính khóa. GV tổ chức
các hoạt động học tập cho HS theo các nội dung học tập. Nhóm biện pháp này
nhằm giúp các em HS thực sự trở thành chủ thể của mọi hoạt động học tập. Ở đó
GV là người hướng dẫn, là trọng tài cho các em thông qua hình thức thảo luận
nhóm, thơng qua việc trả lời câu hỏi mà GV đưa ra
2.3.2.1. Thảo luận nhóm
Đây là một trong những phương pháp dạy học tạo được sự tham gia tích cực
của HS trong học tập. Trong thảo luận nhóm, HS được tham gia trao đổi, bàn
bạc, chia sẻ ý kiến về một vấn đề mà cả nhóm cùng quan tâm. Thảo luận nhóm
cịn là phương tiện học hỏi có tính cách dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ
quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng,
hình thành quan điểm cá nhân giúp HS rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề khó
khăn. Khơng khí học tập của nhóm là mơi trường giúp HS ham học hơn.
Ví dụ: Cho các em tiến hành thảo luận nhóm khi dạy bài tác giả Nguyễn
Đình Chiểu, GV có thể áp dụng phương pháp thảo luận nhóm như sau:
Bước 1: GV chia lớp thành 4 nhóm
Bước 2: GV giao nhiệm vụ cho từng nhóm cụ thể như sau:
Nhóm 1: Tìm hiểu về cuộc đời tác giả Nguyễn Đình Chiểu.

Nhóm 2: Tìm hiểu những tác phẩm lớn và nội dung chính của từng tác
phẩm.
Nhóm 3: Tìm hiểu nội dung thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Nhóm 4: Nghệ thuật thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Bước 3: Các nhóm tiến hành bàn bạc, thảo luận theo những nhiệm vụ đã
được giao. Cử ra một bạn làm thư kí để tổng hợp các ý kiến thảo luận.
Bước 4: Đại diện nhóm lên trình bày kết quả thảo luận của mình.
Bước 5: GV đưa ra nhận xét về việc thực hiện nhiệm vụ của các nhóm và
tổng kết lại bài.
Hiện nay, việc xây dựng những đôi bạn cùng tiến để cùng giúp đỡ nhau
trong học tập đang ngày càng phổ biến hơn. Nên kết hợp những HS yếu với HS
khá hơn, mục đích là để các em học tập tiến bộ hơn. Điều này cũng góp phần tạo
nên tình bạn thân thiết giữa các em HS. Thực tế cho thấy, nhiều trường đã áp
dụng hình thức này và đạt được kết quả tốt đẹp.
Ngồi ra, GV cũng có thể xây dựng các nhóm nhỏ làm việc với nhau lâu
dài, học nhóm ở nhà vào thời gian rảnh rỗi, hoặc là trước mỗi kỳ thi. Mỗi thành
viên trong nhóm phải chuẩn bị đề cương bài học, mỗi người một phần như: Đặc
điểm của văn học theo từng giai đoạn, thời kỳ, các thành tựu chủ yếu của văn học
giai đoạn đó, sự phân hóa các xu hướng văn học, phong cách nghệ thuật của tác
giả,... Mỗi em chuẩn bị bài trước, sau đó gặp nhau để cùng thảo luận, có thể tranh
thủ trước giờ lên lớp. Muốn đạt được kết quả cao nhất các thành viên trong nhóm
phải tự giác học tập, có ý thức xây dựng nhóm ngày một phát triển.
2.3.2.2. Dự án học tập
8


Ngồi phương pháp học tập theo nhóm thì GV cũng có thể áp dụng phương
pháp học theo dự án. Đây là một phương pháp hay hình thức dạy học trong đó
người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết
và thực tiễn, thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực

cao trong tồn bộ q trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến
việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá q trình và kết quả thực
hiện.
Ví dụ: Khi học bài về tác gia Nam Cao, GV có thể tiến hành dạy học theo
dự án như sau:
Bước 1: Chia lớp thành hai nhóm lớn với hai đề tài đó là:
Nhóm 1: Đề tài người nông dân trong sáng tác của Nam Cao, thực trạng
cuộc sống người nông dân giai đoạn 1940 - 1945 so với người nơng dân ngày
nay.
Nhóm 2: Đề tài người tri thức trong sáng tác của Nam Cao, hoàn cảnh xã
hội tác động đến họ như thế nào, so sánh người tri thức thời nay.
Bước 2: Xây dựng đề cương dự án
Đối với đề tài của nhóm 1 có thể xây dựng đề cương gồm các ý sau:
- Người nông dân giai đoạn 1940 - 1945:
+ Xã hội: Một nơng thơn Việt Nam nghèo đói, xơ xác, trên con đường phá
sản, bần cùng.
+ Con người: Thấp cổ, bé họng, bị chà đạp, hắt hủi, lăng nhục một cách tàn
nhẫn,... bị đẩy vào tình trạng lưu manh hóa.
- Người nông dân ngày nay:
+ Xã hội: Đất nước phát triển trên con đường xã hội chủ nghĩa, kinh tế phát
triển ổn định, máy móc đưa vào sản xuất thay thế sức lao động cho người dân.
+ Con người: Người dân làm chủ cuộc sống của mình, có quyền lợi và nghĩa
vụ rõ ràng.
Đề tài nhóm 2 GV hướng dẫn các em xây dựng đề cương và có thể gồm các
ý sau:
- Người trí thức thời phong kiến, có ý thức sâu sắc về giá trị sống và nhân
phẩm, có tài năng nhưng khơng có cơ hội phát triển, bị gánh nặng cơm, áo, gạo,
tiền và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt chi phối nên họ phải sống như “một kẻ vơ ích,
một người thừa”.
- Người trí thức ngày nay được sự quan tâm, chú trọng của xã hội. Họ luôn

được tạo cơ hội để phát triển nghề nghiệp, các văn nghệ sĩ là một phần không thể
thiếu của cuộc sống.
Bước 3: Các nhóm phân cơng các thành viên thực hiện cơng việc, hướng
dẫn các em chia nhỏ nhóm và phân công các nhiệm vụ liên quan đến đề tài.
Đối với nhóm 1 phân cơng nhau điều tra về cuộc sống, hồn cảnh xã hội chi
phối người nơng dân thời xưa. Thu thập các số liệu có liên quan đến đề tài.
Tương tự đối với nhóm 2 cũng vậy.
Bước 4: Sau khi đã tìm kiếm các thơng tin thì nhóm tập hợp các ý kiến lại
viết thành một bài để thuyết trình trước lớp.
9


Bước 5: GV dựa trên kết quả thực hiện đề tài của HS, rút ra những ý chính
và kinh nghiệm khi làm việc theo dự án.
Dạy học dự án yêu cầu HS sự tư duy tích cực để giải quyết vần đề, kích
thích động cơ, hứng thú học tập. Khuyến khích việc sử dụng các kỹ năng tư duy
bậc cao, giúp cho người học hiểu biết sâu sắc hơn nội dung học tập. Đây là hình
thức quan trọng để thực hiện phương thức đào tạo con người phát triển toàn diện,
học đi đôi với hành, kết hợp giữa học tập và nghiên cứu khoa học.
2.3.2.3. Học theo hình thức “chuyên gia”
Một kỹ thuật học tập rất quan trọng đối với việc phát triển NLTH cho HS
qua giờ VHS nữa đó là học theo hình thức chuyên gia. Dạy học truyền thống GV
là người giảng giải mọi thắc mắc cho HS lắng nghe. Với biện pháp này thì HS sẽ
trở thành những “chuyên gia” về một số lĩnh vực trong bài học là người giải đáp
các thắc mắc của những bạn khác trong lớp, ở đây GV là trọng tài hướng dẫn cho
buổi thảo luận của các em không đi lệch chủ đề của bài học.
Ví dụ: Khi học bài về tác gia Nguyễn Đình Chiểu phần nội dung thơ văn,
GV có thể lựa chọn một số HS trong lớp làm chuyên gia về các nội dung như: Lý
tưởng đạo đức, nhân nghĩa trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu hay lịng yêu nước,
thương dân trong các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, những bạn HS khác trong

lớp sẽ hỏi các bạn “chuyên gia” bằng những câu hỏi liên quan đến các nội dung
trên để các “chuyên gia” giải đáp và GV là người trọng tài, hướng dẫn, lắng nghe,
định hướng cho các em HS. Đối với các bài khái quát văn học GV có thể đưa ra
các chủ đề dựa vào các mục tiêu của bài học.
Với kỹ thuật học tập này GV sẽ khơi dậy được tính chủ động trong học tập,
nghiên cứu của HS, giúp các em có ý thức cao hơn với nhiệm vụ mà mình được
phân cơng. Từ đó tạo cho các em thói quen học tập chủ động, tự tin, giúp HS có
thêm các cơ hội thể hiện NL học tập của mình.
2.3.3. Nhóm biện pháp sau khi kết thúc bài học
Đây là nhóm biện pháp được sử dụng vào cuối mỗi buổi học hay ngoài giờ
học trên lớp nhằm giúp HS củng cố lại lượng kiến thức đã học, nhận diện được
bài học ở tiết học tiếp theo.
2.3.3.1. Ghi nhật kí học tập
Cuối mỗi buổi học GV tiến hành ghi lại những gì đã học và những gì sẽ học
trong các buổi học tiếp theo. HS thơng qua nhật kí học tập mà GV đã đưa ra, ôn
lại bài và chuẩn bị bài học trước ở nhà. Việc làm này của GV tạo cho HS thói
quen tự học ở nhà trước khi lên lớp, các em sẽ học theo hướng dẫn của GV một
cách có khoa học chứ không phải học một cách tự phát, lan man.
GV nên cho ghi báo bài của cả tuần sau vào tiết học cuối cùng của tuần
trước để HS có thời gian và kế hoạch học trước ở nhà. Sau đó hướng dẫn các em
soạn bài bằng các câu hỏi đọc hiểu văn bản ở SGK Ngữ văn, các câu hỏi tìm hiểu
đơn vị kiến thức trong các bài tiếng Việt hay các bài tập làm văn. Từ đó chỉ ra
cho HS những việc làm cụ thể trong việc chuẩn bị bài mới như dàn ý, các đề
mục, tiêu đề…
10


Ví dụ khi dạy bài văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến Cách mạng tháng
Tám năm 1945, ngoài hệ thống câu hỏi ở cuối bài trong SGK, GV có thể bổ sung
thêm một số câu hỏi như:

Nêu những đặc điểm của nền văn học mới - văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ
XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Những thành tựu chủ yếu của nền văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến
Cách mạng tháng Tám năm 1945.
GV cần giao nhiệm vụ cụ thể cho HS ở tiết học tiếp theo để phát huy tối đa
NLTH và thúc đẩy HS tận dụng hết thời gian tự học. GV có thể phát phiếu trắc
nghiệm về kiến thức bài học tiếp theo để HS làm ở nhà hoặc có thể đưa ra một
vài câu hỏi mang tính tái hiện để HS đọc tài liệu trước ở nhà. Đây là hình thức
khuyến khích tự học đơn giản và hiệu quả. HS sẽ chú ý ngay vào bài học tiếp
theo. Bên cạnh đó, GV cũng nên đưa ra một vài lời giới thiệu về bài học tiếp
theo. Nó giúp tạo ấn tượng ban đầu trong HS và để gây sự tò mò của HS, các em
sẽ cảm thấy có hứng thú tìm hiểu về bài học đó. Lời giới thiệu phải ngắn gọn, thú
vị, nêu được những nét cơ bản nhất về bài học tiếp theo.
Ví dụ: khi giới thiệu về “tác giả Nam Cao”, GV có thể nói “Đây là một nhà
văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của ông đã vượt qua
được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời
sáng. Thời gian càng lùi xa những tác phẩm của ông lại càng bộc lộ ý nghĩa hiện
thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.
Ơng có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu
thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa ở nửa đầu thế kỷ XX, vậy ơng là ai?
Cơ và các em sẽ cùng tìm hiểu trong tiết học tiếp theo”.
2.3.3.2. Bài tập tích hợp ứng dụng
GV định hướng quá trình tự học cho HS bằng hệ thống các câu hỏi theo
mức độ từ thấp đến cao. Bài tập tích hợp ứng dụng được áp dụng trong phần
luyện tập, GV cho HS ôn bài bằng bài tập. Bài tập chính là tập hợp câu hỏi ở mức
độ cao hơn. Câu hỏi theo kiểu tích hợp, bài tập ở dạng tổng - phân - hợp, hoặc
theo kiểu quy nạp, diễn dịch.
Ví dụ khi dạy bài “Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách
mạng tháng Tám năm 1945”, GV có thể đưa ra bài tập như sau: Tại sao nói văn
học Việt Nam giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945

đổi mới theo hướng hiện đại hóa? Lấy dẫn chứng minh họa.
Cao hơn nữa là một bài tập tiểu luận nhỏ HS tự làm ở nhà.
Ví dụ khi dạy bài “văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” phần tác giả Nguyễn Đình
Chiểu, GV có thể đưa ra một bài tiểu luận nhỏ như sau: Đề xuất hướng tiệp cận
sự nghiệp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Hoặc cho HS tự lập hồ sơ học tập. Hồ sơ
học tập có thể được dùng cho rất nhiều hình thức khác nhau như: Các ghi chép từ
bài giảng, cách sắp xếp các ý chính khi đọc SGK hay sắp xếp ý tưởng để viết bài
kiểm tra. Đây là những hoạt động có tác dụng rèn luyện, phát triển tư duy logic,
trí tuệ của HS. Thực chất định hướng tự học nói trên là bước rèn luyện và phát
triển thói quen tự học cho các em.
11


2.3.3.3. Học tập với cộng đồng
Ngoài việc học trên lớp GV nên tạo cơ hội cho HS được va chạm, cọ sát với
cộng đồng bằng các giờ học ngoại khóa hay những câu lạc bộ văn học, những
buổi nói chuyện với các chuyên gia,.... Với phương pháp này HS sẽ trở nên mạnh
dạn hơn giúp cho các em cảm thấy tự tin hơn trong giao tiếp cũng như trong học
tập.
Có thể tổ chức các hoạt động như: Tổ chức câu lạc bộ về văn học, hội thi,
hội thảo đến các hình thức phức tạp hơn như: tham gia bảo vệ mơi trường, tìm
hiểu các di tích văn hóa, lịch sử ở địa phương... Về những nội dung liên quan đến
bài học. Câu lạc bộ văn học dân gian, hội thi tìm hiểu về tiến trình phát triển của
văn học Việt Nam hoặc tổ chức các cuộc thi sáng tác kịch bản, thơ, kịch,... Qua
đó khuyến khích tài năng sáng tác của HS các em sẽ u thích mơn văn hơn.
2.3.3.4. Các biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin
Hiện nay, cùng với sự phát triển ứng dụng của công nghệ thông tin, những
sản phẩm phần mềm phục vụ cho quá trình dạy và học đã xuất hiện khá phong
phú. Mỗi sản phẩm đều có một đặc trưng riêng, phục vụ cho mục tiêu xác định,
và cũng khơng có một sản phẩm nào vạn năng thay thế được các sản phẩm khác.

Mỗi GV tham khảo các phần mềm và lựa chọn phần mềm nào có thể dùng đưa
vào bài giảng trên lớp, phần mềm nào dùng hướng dẫn HS tự học để củng cố kiến
thức. Tùy vào từng môn học, bài học mà GV có sự lựa chọn các ứng dụng cho
phù hợp như: Xây dựng trang Web, xây dựng kho học liệu mở, viết blog
Ví dụ: Khi dạy bài “Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến
Cách mạng tháng Tám năm 1945”, cần xác định được mục tiêu bài học như sau:
* Về kiến thức:
Hiểu được một số nét nổi bật về tình hình xã hội và văn hóa Việt Nam từ
đầu thế kỷ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó chính là cơ sở, điều
kiện hình thành nền văn học Việt Nam hiện đại.
Nắm vững những đặc điểm và thành tựu chủ yếu của văn học thời kỳ này.
Nắm được những kiến thức cần thiết, tối thiểu về một số xu hướng, trào lưu
văn học. Có kỹ năng vận dụng những kiến thức đó vào việc học những tác giả,
tác phẩm cụ thể.
* Về kỹ năng:
Rèn luyện kỹ năng phân tích, kỹ năng tư duy văn học, rèn luyện tư duy logic
và tư duy hình tượng cho HS.
* Tư tưởng, thái độ:
Có cái nhìn đa diện, sâu sắc về văn học Việt Nam qua các chặng đường phát
triển.
Như vậy, vấn đề tự học ở HS là một vấn đề không hề đơn giản. Muốn hoạt
động học tập đạt kết quả cao, đòi hỏi HS phải tự giác, khơng ngừng tìm tịi học
hỏi. Ngồi ra, sự định hướng của người thầy đóng vai trị quyết định thúc đẩy sự
thành công trong việc chiếm lĩnh tri thức của người học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
12


Để đánh giá về kết quả thực nghiệm dựa trên các số liệu cụ thể, chúng tôi

tiến hành tập hợp điểm số các phiếu kiểm tra của HS ở cùng một lớp học với hai
thời điểm để tiến hành đối chứng, qua đó thấy được tính khả thi của đề tài đó là
thời điểm: trước khi thực hiện đề tài và sau khi thực hiện đề tài sau đó lập thành
bảng thống kê, phân loại kết quả. Kết quả phân loại được sắp xếp như sau:
Năm học 2017- 2018, sau khi trao đổi với đồng nghiệp, tôi đã vận dụng đề tài
“ phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 11 qua giờ văn học sử ”, kết quả thu
được có nhiều khả quan, cụ thể như sau:

Lớp

11A2

Sĩ số
49
49

11A4

Đối
tượng
Thực
nghiệm
Khơng
thực
nghiệm
Thực
nghiệm

Giỏi
Số

HS

Tỉ
lệ %

Khá
S
ố HS

Xếp loại
T.bình

Tỉ
lệ%

S
ố HS

24

3

6.1 17

34,6

2

4,1 14


28,6

24

Tỉ
lệ %

Yếu
Số
HS

Kém

Tỉ
lệ %

S
ố HS

Tỉ
lệ %

1

2.1

49

4


8,2

49,0

6

12,
2

3

6,1

Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy giờ học nào GV làm được những điều
như tơi đã trình bày thì sẽ phát huy được tinh thần tự học ở HS, các em hăng hái
đóng góp xây dựng bài, nhớ kiến thức bài dạy lâu hơn. Đặc biệt HS rất hào hứng
chờ đón tiết học từ mơn Ngữ văn.

13


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Trên đây chúng tôi đã trình bày vấn đề tài “ Phát triển năng lực tự học
cho học sinh lớp 11 qua giờ văn học sử”. Đề tài được viết xuất phát từ yêu cầu
thực tế của việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiện nay và kinh nghiệm
được chắt lọc từ quá trình dạy học của bản thân. Mặc dù phạm vi đề cập chưa
lớn, đối tượng học sinh chưa đa dạng, nhưng hi vọng đề tài này đã góp phần vào
thực hiện cuộc cách mạng đổi mới phương pháp dạy học đang diễn ra hiện nay.
Bởi trong giảng dạy khơng có phương pháp, biện pháp nào là độc tôn, là vạn
năng. Người dạy cần kết hợp các phương pháp, biện pháp một cách sinh động để

gây hứng thú, kích thích tính tích cực của học sinh trong q trình chiếm lĩnh tri
thức, rèn luyện kĩ năng tư duy, kĩ năng cảm thụ tác phẩm văn học một cách khoa
học logic, kĩ năng tổng hợp khái quát vấn đề mà không làm mất đi chất văn của
tác phẩm văn học.
Việc tự học của mỗi HS, mỗi người trong xã hội phải được coi là một bộ
phận quan trọng của cuộc cách mạng học tập, của chiến lược phát triển giáo dục
nước ta. Cần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo tinh thần nghị
quyết đại hội XI của Đảng: “Tiếp tục đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới,
thực hiện CNH - HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, tích cực, chủ động hội
nhập quốc tế sâu rộng hơn để đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại” đặt ra cho giáo dục, đào tạo nước nhà những yêu
cầu, nhiệm vụ, thách thức mới. Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế tri thức đang là áp lực của ngành giáo dục nói riêng và
của tồn Đảng, tồn dân nói chung. Điều này địi hỏi phải có định hướng phát
triển, có tầm nhìn chiến lược, ổn định lâu dài cùng những phương pháp, hình
thức, tổ chức, quản lý giáo dục và đào tạo cho phù hợp.
3.2. Với mục tiêu của giáo dục như trên, đề tài “ phát triển năng lực tự học
cho học sinh lớp 11 qua giờ văn học sử”, đã góp phần vào thực hiện cuộc cách
mạng đổi mới phương pháp dạy học đang diễn ra hiện nay.
Vì vậy, chúng tơi có một số đề xuất, kiến nghị sau:
- GV cần quan tâm tới việc giáo dục động cơ và thái độ học tập của HS, từ
đó phát triển NLTH cho HS.
- Thay đổi cách kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển NL học tập cho HS.
Quan tâm đến việc hình thành NL tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS.
- Trong thời kỳ hiện nay HS khơng chỉ nắm bắt thơng tin một phía nhà
trường mà còn từ nhiều nguồn khác. Vai trò của người GV nói riêng và của nhà
quản lý giáo dục nói chung là làm sao để phát huy hết tiềm năng đó, khơng để nó
phát huy tác dụng ngược lại từ nguồn thông tin sai lệch, phản khoa học.
- Muốn đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tổ chức hoạt động dạy tự học ở trường THPT cần có một lộ trình thích hợp và những giải pháp đồng bộ
(đầu tư cơ sở vật chất, trang bị máy tính, máy chiếu phục vụ cho quá trình dạy

học, mở các lớp tập tập huấn ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học cho
GV....).
14


Trên đây là một số kinh nghiệm và đề xuất của chúng tôi xin được chia sẻ
cùng đồng nghiệp. Rất mong được sự trao đổi, góp ý để chúng tơi hoàn thiện ở
các đề tài tiếp theo.
Xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hoằng Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.

Phạm Thị Thu Thủy

15



×