Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) sử dụng hệ thống câu hỏi liên hệ phát huy tính tích cực chủ động của học sinh khi giảng dạy một số bài trong chương trình lịch sử 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.16 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
SỬ DỤNG HỆ THỐNG CÂU HỎI LIÊN HỆ PHÁT HUY TÍNH
TÍCH CỰC CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH KHI GIẢNG DẠY
MỘT SỐ BÀI TRONG CHƯƠNG TRÌNH LỊCH SỬ 10

Người thực hiện : Mai Đại Chính
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc mơn: Lịch sử

THANH HĨA, NĂM 2019


MỤC LỤC
Trang
I. MỞ ĐẦU………………………………………………………………. …2
`1. Lí do chọn đề tài………………………………………………... …......2
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………….. ....5
3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………......5
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………....5
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận……………………………………………………...5
2. Thực trạng vấn đề………………………………………. …………6
3. Giải pháp để tiến hành giải quyết vấn đề………………………….......7
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối………………………… ....13
III. KẾT LUẬN ĐỀ XUẤT
1. Kết luận…………………………………………………………….. 15


2. Kiến nghị ………………………………………………..…………......15

1


I. MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài .
Như chúng ta đã biết những năm gần đây chất lượng dạy Sử và học Sử đang thu hút
sự quan tâm, chú ý của tồn xã hội. Trong bối cảnh đó với nhiệm vụ là một giáo viên
giảng dạy môn Lịch sử luôn trăn trở về việc dạy của mình, làm sao để nâng cao chất
lượng dạy học Lịch sử, làm sao để các em học sinh u thích mơn học này trong bối
cảnh mà những đòi hỏi của nghề nghiệp trong tương lai khiến rất nhiều học sinh khơng
cịn mặn mà, tâm huyết với khối C nói chung và đặc biệt là mơn Lịch sử nói chung.
Cũng như các mơn học khác, mơn Lịch sử có nhiệm vụ và khả năng góp phần vào
việc thể hiện mục tiêu đào tạo của trường phổ thơng nói chung. Bộ mơn Lịch sử cung
cấp cho học sinh những kiến thức cơ sở của khoa học Lịch sử, nên địi hỏi học sinh
khơng chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống.
Cho nên, cùng với các môn học khác, việc học tập Lịch sử đòi hỏi phát triển tư duy,
thơng minh, sáng tạo cho học sinh.
Đã có quan niệm sai lầm cho rằng học Lịch sử chỉ cần học thuộc lòng sách giáo
khoa, ghi nhớ các sự kiện - hiện tượng Lịch sử là đạt, không cần phải tư duy - động
não, khơng có bài tập thực hành… Đây là một trong những nguyên nhân làm suy giảm
chất lượng môn học.
Người giáo viên trong dạy học Lịch sử đa số chỉ làm nhiệm vụ nói lại nội dung sách
giáo khoa. Như vậy, bài giảng không thể gây hứng thú cho học sinh học tập, gây nhàm
chán trong tâm lý dạy - học của cả giáo viên lẫn học sinh.
Đa số học sinh coi bộ môn Lịch sử là mơn phụ vì vậy, các em ít chú ý nghe giảng.
Các em ghi chép những gì giáo viên ghi trên bảng và chỉ học thuộc lịng những gì đã
được ghi trong vở, không biết kết hợp với sách giáo khoa và khơng biết tìm hiểu mối
liên quan giữa Lịch sử với các môn học khác... Các em lười suy nghĩ, khơng biết phân

tích vấn đề, hay nhớ nhầm lẫn giữa nội dung này với nội dung khác, không biết nêu
vấn đề để thảo luận và tìm hiểu.
Vị trí mơn Lịch sử trong trường phổ thông chưa thật sự được coi trọng, cả giáo viên
và học sinh đều có sự nhìn nhận chưa đúng về mơn học. Thái độ học mơn Lịch sử của
các em học sinh cịn mang tính chất đối phó với các kì thi, kiểm tra, ghi nhớ kiến thức,
sự kiện lịch sử một cách máy móc, học vẹt, không hiểu sâu sa bản chất vấn đề.
2


Vậy trước thực trạng trên, nguyên nhân tại đâu? Có thể nói rằng, có nhiều ngun
nhân dẫn đến tình trạng trên. Song cần phải kể đến một số nguyên nhân rất quan trọng
như:
+ Nội dung kiến thức quá nhiều trong khi thời lượng ít làm cho cả thầy và trị phải
chạy theo thời gian để học hết chương trình. Quá nhiều các sự kiện học sinh phải nhớ.
Điều này khiến các em “sợ” học môn Sử.
+ Phương pháp dạy học chưa có sự đổi mới thật sự. Trong giờ học, người giáo viên
giữ vai trò chủ đạo, vẫn học theo lối cũ, có nghĩa là:
Khi tiến hành bài học, giáo viên đọc cho học sinh chép đề cương của bài giảng, giáo
viên tự sưu tầm tài liệu lịch sử và thơng báo trình bày cho các em trong giờ học. Các
sự kiện lịch sử, hiện tượng lịch sử, nhân vật lịch sử… khơng được trình bày một cách
cụ thể, sinh động, gợi cảm. Học sinh không làm việc trực tiếp với sử liệu. Người giáo
viên, không tận dụng được khả năng tạo ra sự xúc động, sự rung cảm của học sinh
trước các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Do đó, tác dụng giáo dục bộ mơn bị hạn chế.
Người học cịn bị thụ động trong q trình lĩnh hội kiến thức.
+ Quan niệm coi môn Sử là môn phụ vẫn còn tồn tại phổ biến trong nhà trường, học
sinh, phụ huynh học sinh và cả xã hội. Điều này đã tạo ra một sự bất bình đẳng giữa
mơn Sử với các môn học khác trong nhà trường. Trong khi đó, các mơn học đều có
nhiệm vụ trong việc góp phần giáo dục thế hệ trẻ theo nội dung, sở trường và ưu thế
của bộ mơn mình.
Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa ở trường THPT đã đặt ra một yêu cầu cấp

bách đối với giáo viên giảng dạy môn Lịch sử. Yêu cầu đặt ra đối với việc đổi mới
Phương pháp dạy học Lịch sử ở Trường trung học phổ thơng cần đạt là phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình học tập. Và một trong những biện pháp
quan trọng để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình học tập là
sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học Lịch sử.
Song việc đặt câu hỏi của giáo viên là một vấn đề khơng hề đơn giản, vì việc đặt câu
hỏi của giáo viên vừa thể hiện kiến thức, vừa là kinh nghiệm giảng dạy, vừa là nghệ
thuật.
Qua thực tế giảng dạy những năm trước đây và dự giờ một số đồng nghiệp trong nhà
trường, tôi nhận thấy hệ thống câu hỏi mà giáo viên đặt ra chủ yếu là những kiến thức
3


đã có sẳn trong sách giáo khoa và nhiệm vụ của các em là nhìn vào sách giáo khoa để
trả lời, không cần suy nghĩ, tư duy, không đặt học sinh vào tình huống có vấn đề. Hệ
thống câu hỏi mà giáo viên đặt ra chủ yếu là những kiến thức đã có sẳn trong sách giáo
khoa và nhiệm vụ của các em là nhìn vào sách giáo khoa để trả lời, không cần suy nghĩ
và vạy kết quả là không thu hút được sự chú ý quan tâm của học sinh hay nói cách
khác là khơng đặt học sinh vào tình huống có vấn đề cần suy nghĩ vì vạy không phát
triển được tư duy sáng tạo của học sinh, không thực hiện được nhiệm vụ quan trọng
của bộ môn là giúp học sinh là liên hệ những kiến thức đã học đề vận dụng vào thực
tiễn.
Thực tế trên đặt ra câu hỏi làm như thế nào để phát huy tính tích cực chủ động của
học sinh trong dạy học Lịch sử ? Đây là vấn đề cần sự chung tay của ngành khoa học
Lịch sử, những nhà viết sách, các nhà quản lí giáo dục và sự nỗ lực, nghiên cứu, tìm
tịi sáng tạo khơng ngừng của những giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Lịch sử ở
nhà trường phổ thông.
Từ thực tế giảng dạy trong những năm gần đây, là một giáo viên giảng dạy bộ môn
Lịch sử ở nhà trường tôi thấy rõ chất lượng dạy – học bộ môn Lịch sử ở nhà trường
đang có những dấu hiệu đi xuống, mà nguyên nhân là định hướng nghề nghiệp, những

đòi hỏi của xã hội về nhu cầu việc làm trong tương lai khiến khiến nhiều học sinh có
xu hướng “bng” bộ mơn này, nhưng một nguyên nhân nữa và cũng rất quan trọng đó
là từ phía giáo viên, trong bối cảnh mà đa số học sinh ngại học Lịch sử vì cho rằng lịch
sử khơ khan, nhàm chán và không thực tế đối với việc lựa chọn nghề nghiệp trong
tương lai thì những tiết giảng kém thuyết phục, nặng về đọc chép, không phát huy
được tính sáng tạo của học sinh lại càng đẩy xa hơn học sinh đối với bộ môn Lịch sử.
Tôi quan niệm có thể sự phát triển của xã hội, nhu cầu về nguồn nhân lực trong tương
lai khiến nhiều học sinh khơng cịn mặn mà với mơn Lịch sử song trách nhiệm của
người giáo viên khi lên lớp phải luôn tạo ra sức thuyết phục đối với bộ môn, khơi dạy
niềm đam mê lịch sử của học sinh vì trong bất kỳ hồn cảnh nào, thời kỳ nào thì bộ
mơn Lịch sử ở nhà trường phổ thông cũng hết sức quan trọng, đó là động lực để tơi
khơng ngừng nỗ lực nghiên cứu tìm ra những những hướng đi mới nhằm khơi dạy
niềm đam mê học sử của học sinh và một trong những giải pháp đó là việc sử dụng hệ
thống câu hỏi phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh và tôi đã chọn đề tài “ Sử
4


dụng hệ thống câu hỏi liên hệ phát huy tính tích cực và chủ động cho học sinh khi
giảng dạy một số bài trong chương trình Lịch sử 10”.
2. Mục đích nghiên cứu .
Mục đích của đề tài nhằm đưa ra một số giải pháp thực hiện việc xây dựng hệ thống
câu hỏi trong dạy học lịch sử để phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học
sinh, nâng cao hiệu quả giảng dạy bộ môn Lịch sử.
3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 10 trường THPT Nga Sơn.
4. Phương pháp nghiên cứu .
Để thực hiện tốt đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu hổ trợ.
- Phương pháp phát vấn, nêu vấn đề
- Phương pháp nghiên cứu bài học lấy học sinh làm trung tâm.

- Thao giảng, dự giờ trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá trình dạy.
- Áp dụng kinh nghiệm phương pháp mới trên lớp.
- Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh và làm bài để từ đó có điều chỉnh và bổ sung.
5. Những điểm mới của sáng kiến
Sáng kiến áp dụng phương pháp nghiên cứu bài học theo tình thần đổi mới của Bộ
Giáo dục và Đào tạo
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIÊM
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Bản thân lịch sử xã hội loài người và bộ môn Lịch Sử có nhiều ưu thế trong việc
giáo dục thế hệ trẻ và gây cho họ một sự hứng thú thật sự. Bởi vì qua môn học này tầm
nhìn của họ đối với cuộc sống quá khứ - hiện tại - tương lai được mở rộng hơn, họ tìm
thấy trong quá khứ nhiều câu trả lời xác đáng cho hôm nay và ngày mai.
Chính vì vậy mà .G.Tsecnưsepxki nhà tư tưởng dân chủ Nga thế kỷ XIX đã nói
rằng: “Có thể không biết không say mê học tập môn Toán...có thể không biết hàng
nghìn môn khoa học khác nhưng dù sao đã là người có giáo dục mà không yêu thích
lịch sử thì chỉ có thể là một con người không phát triển đầy đủ về trí tuệ”.
Như vậy giáo dục Lịch sử nói chung dạy Lịch Sử ở trường nói riêng ta phải làm thế
nào để phát triển tư duy gây hứng thú học tập cho học sinh, vậy trước hết gợi cho học
5


sinh phải phát hiện vấn đề cần tìm hiểu, hay nói một cách khác “Đặt học sinh vào tình
huống có vấn đề ”. Không thấy vấn đề không giải quyết vấn đề, vì việc học tập là một
hình thức của việc nhận thức khoa học, là một chuỗi các vấn đề được đặt ra và được
nhận thức ở mức độ cao hơn.
Có nhiều hình thức để tạo tình huống có vấn đề và giải quyết vấn đề như so sánh,
phân tích, đặt câu hỏi sử dụng các loại tư liệu tham khảo, đồ dùng trực quan, công
nghệ thông tin…
Một điểm quan trọng mà từ kinh nghiệm thực tiễn của giáo viên ở trường, dạy như
một công thức giáo điều rập khuôn, nếu sử dụng câu hỏi thì câu hỏi đặt ra quá đơn

giản, chỉ đòi hỏi học sinh trả lời có hoặc không. Điều này không giúp ích gì trong việc
tạo hứng thú cho học sinh.
Trái lại câu hỏi quá khó không vừa sức thì dễ làm các em nản chí, chính vì vậy câu
hỏi phải vừa đóng vừa mở. Vì vậy việc đặt câu hỏi có vai trò rất quan trọng trong giờ
dạy học Lịch Sử nói riêng và các môn học khác nói chung sẽ phát huy được tính tích
cực và gây hứng thú đối với học sinh.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Ở trường THPT Nga Sơn, đa số học sinh còn chưa say mê môn học Lịch Sử. Nếu
học thì các em chỉ học đối phó nhưng sự say mê và hứng thú, các em học Lịch sử để
lấy điểm tổng kết cuối năm chứ không phục vụ mục tiêu thi tuyển vào các trường đại
học, cao đẳng vì cho rằng học sử thiên về lí thuyết, khó thuộc và với thực tế trên đa
phần các em quên đi nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử không chỉ đơn thuần là học để thi
mà còn để hiểu biết về lịch sử dân tộc và nhân loại, để bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc
… rồi liên hệ và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống hiện nay. Đa số các em chưa độc
lập suy nghĩ để trả lời câu hỏi mà phải lệ thuộc hoàn toàn vào sách giáo khoa, hay chỉ
nêu một mốc thời gian mà không diễn tả được thời gian đó nói lên sự kiện gì. Bởi vậy
bản thân các em nên có một phương pháp học như thế nào để chiếm lĩnh kiến thức từ
bài giảng của giáo viên.
Mặt khác giáo viên ở trường chưa tuân thủ tính logic của bộ môn, chưa cải tiến nội
dung và phương pháp dạy học, chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh. Từ đó
dẫn đến học sinh nhàm chán, học một cách thụ động, dẫn đến chất lượng một số lớp
còn thấp, tỉ lệ học sinh yếu, kém còn nhiều.
6


Để khắc phục trình trạng trên và nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở trường,
bản thân tôi đã nỗ lực tìm tịi, nghiên cứu đưa ra các phương pháp học tập tích cực và
mang lại sự hứng thú cho học sinh và tôi đã chọn đề tài: “ Sử dụng hệ thống câu hỏi
liên hệ, phát huy tính tích cực và chủ động cho học sinh trong giảng dạy một số
bài trong chương trình Lịch sử 10”.

3. Các sáng kiến kinh nghiệm đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Việc đặt câu hỏi trong dạy học Lịch sử là một trong những biện pháp quan trọng để
phát triển tư duy học sinh. Song sử dụng câu hỏi và hệ thống câu hỏi như thế nào để
phát huy tính tích cực của học sinh là một vấn đề khó và phức tạp. Để thực hiện tốt
vấn đề trên, trước hết giáo viên phải thực hiện tốt khâu soạn giáo án.
Trước đây chúng ta xác định mục đích, yêu cầu của bài học là “Làm cho học sinh
nắm được hoặc hiểu được ..” có nghĩa là trong giờ dạy, giáo viên là trung tâm, học
sinh thụ động tiếp thu kiến thức, nhận thông tin từ người thầy. Nhưng từ khi đổi mới
chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giảng dạy, khâu soạn giảng cũng
có nhiều thay đổi, mục tiêu bài học có 3 mức dộ: biết, hiểu, vận dụng. Như vậy, chúng
ta đã chuyển hoạt động của giáo viên sang hoạt động của học sinh là chính, học sinh
xây dựng kiến thức cho mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên thông qua hệ thống câu
hỏi. Học sinh khơng chỉ nắm kiến thức mà cịn nắm phương pháp để hiểu và vận dụng
kiến thức.
Để đạt mục đích trên, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư cho bài soạn, đặt biệt là việc xây
dựng hệ thống câu hỏi của bài dạy. Sử dụng câu hỏi trong dạy học Lịch sử để phát huy
tính tích cưc học tập của học sinh có thể thực hiện ở tất cả các bước trong giờ dạy Lịch
sử.
Sử dụng câu hỏi trong dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng là một trong
những biện pháp quan trọng, rất có ưu thế để phát triển tư duy học sinh. Vì vậy, khi tổ
chức dạy học, giáo viên có thể sử dụng các dạng câu hỏi khác nhau như câu hỏi nêu
vấn đề, câu hỏi xác định mối liên hệ giữa câu hỏi với các sự kiện, hiện tượng lịch sử,
câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa sự kiện, hiện tượng lịch sử này với sự kiện hiện tượng
lịch sử khác cùng loại, câu hỏi liên hệ thực tiễn… Tuy nhiên trong khuôn khổ của đề
tài này người nghiên cứu chỉ giới hạn nghiên cứu dạng câu hỏi mang tính liên hệ thực
tiễn trong chương trình Lịch sử 10.
7


Để sử dụng câu hỏi mang tính liên hệ tơi đã quan tâm một số vấn đề sau:

+ Câu hỏi phải đảm bảo tính khoa học, tính liên hệ phải rõ ràng truyền tải mục đích
cụ thể.
+ Câu hỏi liên hệ phải sáng tạo, hấp dẫn, khơi dạy trí tị mị, thích khám phá của
học sinh, đặt học sinh vào hồn cảnh có vấn đề, buộc các em phải tư duy.
+ Lượng kiến thức trong bài học Lịch sử là rất nhiều và trong một bài học giáo viên
cần đưa ra rất nhiều dạng câu hỏi ở các cấp độ khác nhau và dưới nhiều dạng câu hỏi
khác nhau vì vậy việc sử dụng câu hỏi mang tính liên hệ tới lịch sử dân tộc hay liên hệ
thực tiễn bản thân giáo viên cũng cần phải lựa chọn một cách kỹ lưỡng, không nên
trong một bài học đưa ra quá nhiều câu hỏi dàn trải, lan man khơng có mục đích rõ
ràng và sử dụng câu hỏi trong thời điểm nào cho thực sự hợp lý, đảm bảo tính Logic
của bài học nhằm phát huy hiệu quả tối đa.
+ Do những câu hỏi dạng liên hệ thực tiễn khơng có hướng dẫn trả lời trong sách
giáo khoa vì vạy để đảm bảo mục tiêu giáo dục, người giáo viên phải nghiên cứu, tham
khảo các nguồn học liệu … để xây dựng hướng dẫn trả lời cho những câu hỏi này đảm
bảo tính khoa học, thực tiễn, có tính giáo dục.
+ Đối với những bài giáo viên sử dụng giáo án điện tử thì giáo viên khai thác thế
mạnh của nó để có thể cung cấp cho học sinh nghững hình ảnh, những số liệu … để
làm rõ thêm tính liên hệ thực tiễn trong bài học. Tuy nhiên cũng rất lưu ý về vấn đề
thời gian tránh lạm dụng bởi kiến thức trong bài học là rất nhiều, sử dụng câu hỏi liên
hệ chỉ là một nhỏ trong bài học mà thơi.
+ Vì đây là câu hỏi nhận biết và vận dụng nên giáo viên cũng khơng nên cầu tồn với
những câu trả lời của học sinh, cần trân trọng những ý tưởng của các .
Trong thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy tôi thường lựa chọn sử dụng dạng câu hỏi
này ở thời điểm :
+ Đặt câu hỏi sau khi kết thúc các mục hoặc kết thúc bài học
+ Đặt câu hỏi phục vụ cho dạy bài mới và cho học sinh về nhà tìm hiểu.
Các bước tiến hành:
- Giáo viên đưa ra câu hỏi.
- Học sinh nghiên cứu, thảo luận.
- Học sinh trả lời.

8


- Giáo viên bổ sung, góp ý.
Từ thực tiễn nghiên cứu và trực tiếp giảng dạy tôi đã xây dựng hệ thống câu hỏi
liên hệ thực tiễn một số bài trong chương trình Sách giáo khoa Lịch sử 10 như sau :
Bài 4: Các quốc gia cổ đại Phương Tây – Hy lạp và Rô ma
Khi dạy mục 3: Văn hóa cổ đại Hi Lạp và Rơ ma, giáo viên đặt câu hỏi:
Câu hỏi: Trong những thành tựu trên thành tựu nào có ý nghĩa lớn nhất đối với
Việt Nam?
Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các
nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi
nêu trên, giáo viên có thể củng cố:
Trong những yếu tố văn hóa mà nước ta ảnh hưởng của văn hóa Phương Tây thì chữ
viết chính là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất. Chữ viết của Việt Nam ngày nay ra đời
trên cơ sở bảng chữ cái La tinh, một thứ chữ khoa học, giễ viết…. góp phần tạo điều
kiện cho nền văn hóa Việt nam phát triển phong phú, đa dạng.
Bài 5: Trung Quốc thời phong kiến.
Khi dạy mục 3- Trung Quốc thời Minh – Thanh, khi cho học sinh tìm hiểu về chính
sách ngoại giao,giáo viên đặt câu hỏi:
Câu hỏi: Từ việc làm thất bại mưu đồ bành trướng nước ta trong thời kỳ này của
nhà Minh – Thanh, hiện nay chúng ta nên học tập bài học kinh nghiệm gì để giải
quyết vấn đề biển đảo ?
Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các
nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi
nêu trên, giáo viên có thể củng cố:
Chúng ta có thể rút ra hai bài học king nghiệm:
+ Thứ nhất tiếp tục vận dụng sách lược ngoại giao mềm dẻo “ Cứng rắn về
nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược” đẩm bảo giữ vững độc lập, chủ quyền
+ Thứ hai ngoại giao khôn khéo với các ước lớn, tranh thủ sự ủng hộ của các tổ

chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giải
quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hịa bình.
Bài 11: Tây âu thời hậu kỳ trung đại
Mục 1 – Những cuộc phát kiến địa lí, giáo viên đặt câu hỏi
9


Câu hỏi : Các cuộc phát kiến địa lí có tác động như thế nào đối với Việt Nam ?
Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các
nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi
nêu trên, giáo viên có thể củng cố:
- Tác động tích cực:
+ Về kinh tế : Thuyền buôn các nước phương Tây đế buôn bán với Đại Việt
ngày càng nhiều, bước đầu đưa nước ta tiếp xúc với thương mại quốc tế , thúc đẩy nền
kinh tế hàng hóa trong nước phát triển, tạo nên sự hưng khởi của các đơ thị.
+ Về văn hóa: Đạo thiên chúa, chữ Quốc ngữ được du nhập vào nước ta, làm cho
nền văn hóa Đại Việt phơng phú hơn, đa dạng hơn.
- Tác động tiêu cực: Là điều kiện để các nước phương Tây nhịm ngó , xâm lược
nước
Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam
Sau khi cho học sinh tìm hiểu bài, giáo viên đặt câu hỏi:
Câu hỏi: Là một học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, em thấy mình cần
phải làm gì để giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc ?
Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các
nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi
nêu trên, giáo viên có thể củng cố:
+ Các em cần nhận thức rõ đó là những giá trị văn hóa tốt đẹp được hun đúc, bồi
dưỡng hàng ngàn năm vì vậy cần phải gìn giữ và phát huy thông qua những việc làm
cụ thể….
+ Trong thời đại công nghệ 4.0, xu thế hội nhập với sự giao lưu văn hóa mạnh mẽ

giữa các quốc gia, châu lục thì việc giữ gìn bản sắc văn hóa lại càng được xem trọng
bên cạnh tiếp tục tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú, sán
lạng hơn nền văn hóa nước nhà, hịa nhập nhưng khơng hịa tan.
ta, ảnh hưởng tới chủ quyền dân tộc.
Bài: 17 Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến ( Từ thế
kỷ X –XV)
Sau khi học xong bài, giáo viên có thể hỏi:
10


Câu hỏi: Từ cuộc cải cách của Lê Thánh Tông đã để lại bài học kinh nghiệm gì
đối với cơng cuộc đổi mới đất nước hiện nay ?
Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các
nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi
nêu trên, giáo viên có thể củng cố:
+ Cải cách của Lê Thánh Tông nhắc nhở hậu thế :
- Khi hồn cảnh quốc tế và tình hình trong nước thây đổi thì phải đổi mới đất
nước, tạo tiềm lực cho đất nước phát triển
- Đổi mới phải toàn diện, không trừ lĩnh vực nào.
- Đổi mới giáo dục theo hướng tạo ra nhiều nhân tài, coi trọng nhân tài.
- Đổi mới phải đặc biệt coi trọng an ninh quốc gia, chú ý đến toàn vẹn lãnh thổ.
Bài 19: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỷ X- XV
Mục II – Kháng chiên chống xâm lược Mông- Nguyên ở thế kỷ XIII, giáo viên đặt
câu hỏi:
Câu hỏi: Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên thời Trần đã
để lại bài học kinh nghiệm gì trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ tổ qc hiện
nay ?
Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các
nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi
nêu trên, giáo viên có thể củng cố:

+ Bài học về việc đặt lợi ích quốc dân tộc lên hàng đầu, các nhà lãnh đạo đất nước
phải vừa có tài, vừa có đức, phải ln đặt lợi ích của nhân dân, của đất nước lên trên
lợi ích cá nhân, cống hiến suốt đời cho sự nghiệp ấy
+ Bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, quan tâm tới nhân dân, xem
trọng nhân dân…. để phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân trong xây dựng và bảo
vệ tổ quốc, đó là điều cốt lõi trong sự nghieejpcuar chúng ta hiện nay.
Bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc
Mục II – Giáo dục, văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật
Mục 1- Giáo dục, sau khi cho học sinh tìm hiểu những thành tựu nổi bật về giáo duc
thời kỳ này Giáo viên đặt câu hỏi
11


Câu 1: Theo em hiện nay chúng ta có thể học tập được những kinh nghiệm gì
từ sự phát triển của giáo dục nước ta thời kỳ này ?
Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các
nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi
nêu trên, giáo viên có thể củng cố:
Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển chúng ta cần rút ra những kinh nghiệm từ
nền giáo dục nước ta trong lịch sử:
+ Nhà nước tiếp tục xem giáo dục là quốc sách hàng đầu để chó chiến lược quan
tâm phát triển đúng mức
+ Phải có chính sách thu hút, đãi ngộ người tài, trọng dụng người tài, đặc biệt
trong bối cảnh mà hiện tượng “ chảy máu chất xám” vẫn đang còn phổ biến.
+ Chú trọng giáo dục gắn liền với thực tiễn, chú ý đến khoa học, kỹ thuật…
Thực tế cho thấy, dung lượng kiến thức ở mỗi bài học Lịch sử là tương đối nhiều vầ
để đảm bảo cho học sinh tiếp cận được kiến thức được đầy đủ các mức độ thông hiểu,
nhận biết và vận dụng cũng như tìm hiểu đầy đủ đơn vị kiến thức thì giáo viên cần linh
hoạt sắp xếp thời gian để sử dụng câu hỏi một cách hợp lí, tổ chức cho học sinh thảo
luận cũng đảm bảo khoa học về mặt thời gian.

Bài 23: Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỷ XVIII
Sau khi học xong kiến thức của bài, giáo viên có thể hỏi học sinh
Câu hỏi: Tai sao cách mạng tư sản Pháp có ý nghĩa to lớn như vậy nhưng khi ra
đi tìm đường cứu nước lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lại không chọn cuộc cách mạng
này để vận dụng vào cách mạng nước nhà ?
Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các
nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu hỏi
nêu trên, giáo viên có thể củng cố:
Mặ dù đây là cuộc cách mạng rất nỏi tiếng và có ý nghĩa lịch sử rất to lớn song khi
tìm hiểu, nghiên cứu kỹ thì người đưa ra kết luận : Cuộc cách mạng Pháp hay cách
mạng Mĩ, Anh… trước đó chưa xóa bỏ được quan hệ bó lột, nó chỉ là sự chuyển đổi từ
bóc lột của địa chủ phong kiến trong chế độ phong kiến sang bóc lột của tư sản trong
chế độ mới tư bản chủ nghĩa thậm chí hình thức bóc lột này cịn giã man hơn đó là bóc
lột sức lao động, hầu hết người lao động trong xã hội vẫn bị bóc tột, đời sống hết sức
12


khổ cực, chế độ TBCN thực chất chỉ đem lại sự tự do, sung sướng cho giai cấp thống
trị đó là tư sản. Cuộc cách mạng mà người kiếm tìm và học học phải là cuộc cách
mạng giải phóng thực sự, tất cả mọi người dân đều được tự do, bình đẳng và hạnh
phúc và sau này người tìm thấy điều đó ở cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại do
Lê nin và Đảng Bơn sê vích lãnh đạo.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Từ thực tiễn nghiên cứu và áp dụng trong giảng dạy trong vài năm gần đây đã cho
thấy sản phẩm nghiên cứu của tơi đã đảm bảo tính khả thi. Với việc cung cấp cho học
sinh hệ thống câu hỏi liên hệ thực tiễn sinh động đã khơi dạy tính tị mờ thích khám
phá những điều mới mẻ của học sinh, thu hút được học sinh trong những giờ học Lịch
sử.
Với đặc điểm học sinh nhà trường chất lượng đầu vào thấp, đa phần các em tiếp nhận

kiến thức cơ bản cịn khó khăn thì những câu hỏi mang tính nhận biết và vận dụng thì
càng khó khăn hơn nữa và người nghiên cứu đề tài cũng chỉ có một tham vọng là
những câu hỏi liên hệ thực tiễn trên chỉ áp dụng đối với học sinh có nhận thức khá trở
lên. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy việc áp dụng hệ thống câu hỏi
trên đã nhận được sự quan tâm và thu hút của đa số học sinh trong lớp, khi đặt các em
vào tình huống có vấn đề các em đã chủ động suy nghĩ và lựa chọn cho mình những
câu trả lời khá thú vị điều mà trước đây khơng thể có nếu như giáo viên cứ đi theo một
lối mồn là sử dụng những câu hỏi đã có đáp án săn trong sách giáo khoa và học sinh
nhìn sách giáo khoa để trả lời, khơng hề có sự vận động trí não, khơng hề có sự tư duy,
sáng tạo.
Sau mỗi bài học với việc cung cấp hệ thống câu hỏi liên hệ thực tiễn đã hình thành
cho học sinh kỹ năng phân tích, đánh giá, khái quát, liên hệ vào thực tiễn học tập và
lao động của bản thân qua đó góp phần định hướng mục đích và lý tưởng sống cho học
sinh trong thời đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc sử dụng câu hỏi liên
hệ, tổ chức cho học sinh trao đổi thảo luận và cử đại diện của tổ, nhóm lên thuyết trình
cũng góp phần rèn luyện kỹ năng nói, kỹ năng đối thoại, làm chủ tập thể của học sinh.
Thông qua hoạt động này phần đông các em đã tự tin hơn, chững chạc hơn…
13


Trong những năm gần đây, tôi luôn được nhà trường nhà trường phân cơng dạy lớp
10, đó là một thuận lợi để tôi nghiên cứu, khảo nghiệm đề tài của mình vào thực tiễn.
Kết quả khả quan trong đề tài nghiên cứu của tôi được minh chứng qua kết quả từ
phiếu thăm dò học sinh và kết quả trong làm bài kiểm tra.
- Về kết quả từ phiếu thăm dò sự hứng thú của học sinh
+ Năm học 2016 -2017: ( Trước khi nghiên cứu và ứng dụng )
Thái độ của học sinh
Hứng thú với bài học
Không hứng thú với bài học
Lớp

Sĩ số
SL
%
SL
%
10C
43
24
55,8
19
44,2
10D 42
20
47,6
22
52,4
+ Năm học 2017 -2018: ( Sau khi nghiên cứu và ứng dụng)
Thái độ của học sinh
Hứng thú với bài học
Không hứng thú với bài học
Lớp
Sĩ số
SL
%
SL
%
10C
44
36
81,8

8
18,2
10D
41
35
85,3
6
14,7
- Về kết quả điểm sau những bài kiểm tra ( Kiểm tra 1 tiết)
+ Năm học 2016 -2017: ( Trước khi nghiên cứu và ứng dụng )
Sĩ số

Giỏi
SL
%

Khá
SL
%

TB
SL
%

Yếu
SL
%

Lớp
10C

43
0
0
13
30,2
29
67,4
2
10D 42
1
2,3
14
33,4
26
62
1
+ Năm học 2017 -2018: ( Sau khi nghiên cứu và ứng dụng)
Lớp Sĩ số
10C
44
10D 41

Giỏi
SL
%
2
6

4,5
14,6


Khá
SL
%
24
26

TB
SL
%

54,5
63,4

18
9

41
22

Kém
SL
%

2,4
2,3

Yếu
SL
%

0
0

0
0

0
0

Kém
SL
%
0
0

0
0

0
0

Kết quả bước đầu đạt được trong nghiên cứu và giảng dạy của bản thân là cơ sở để
tôi mạnh dạn chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp và nhận được sự đánh giá tích cực,
từ năm học 2018-2019 đề tài của tơi đã được cả nhóm chuyên môn Lịch sử trong nhà
trường ứng dụng rộng rãi trong dạy học và cũng thu được những kết quả khả quan. Đó
là động lực để những năm tiếp theo tôi tiếp tục nghiên cứu, mở rộng phạm vi nghiên
cứu của đề tài không chỉ ở phần Lịch sử thế giới lớp 10 mà cịn trong tồn bộ chương
trình lịch sử THPT.
14



III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Sử dụng câu hỏi liên hệ trong dạy học Lịch sử để phát huy tính tích cực, chủ động
trong học cho học sinh trung học phổ thông hiện nay là rất cần thiết. Vì nó có ảnh
hưởng rất lớn đến việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử. Tuy nhiên đặt câu
hỏi như thế nào để phát huy trí thơng minh, tính tích cực trong học tập của học rõ ràng
không phải là vấn đề đơn giản và để việc sử dụng hệ thống câu hỏi nói trên có hiệu
quả địi hỏi người giáo viên phải có một q trình nghiên cứu khoa học, nghiêm túc và
đặc biệt là phải tâm huyết với nghề, tâm huyết với học sinh.
Nội dung trình bày trong đề tài chỉ là kinh nghiệm của bản thân và phạm vi nghiên
cứu cũng bó hẹp trong một phần lịch sử nhất định, trong quá trình thực hiện khơng thể
tránh khỏi những hạn chế, sai sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của q thầy cơ để đề
tài được hoàn chỉnh, đưa vào ứng dụng rộng rãi trong q trình giảng dạy lịch sử,
nhằm góp phần thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng bộ môn
lịch sử ở trường THPT.
2. Kiến nghị
- Với nhà trường: Nhà trường tiếp tục tạo mọi điều kiện tốt nhất để những ý tưởng
mới, sáng tạo và hiệu quả được đưa vào giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục của bộ mơn Lịch sử nói riêng và các mơn học khác nói chung. Giáo viên bộ môn
tiếp tục cùng với người nghiên cứu tiếp tục nghiên cứu phát triển mở rộng đề tài trên
phạm vi rộng hơn và có tính ứng dụng rộng rãi hơn.
- Với Sở Giáo dục và Đào tạo: Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề,
trao đổi về chuyên môn, phương pháp giảng dạy, để giáo viên giảng dạy Lịch sử được
trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 22 tháng 5 năm 2019

Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.

15


Mai Đại Chính

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 hiện hành.
16


2- Lý luận dạy học của Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị - NXB Giáo dục 2004.
3- Tạp chí nghiên cứu lịch sử.
4- Con đường và biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông”
của Ngô Minh Oanh NXB Giáo dục năm 2008.

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO
HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
17


Họ và tên tác giả: Mai Đại Chính
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Nga Sơn

TT
1.


Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

Lồng ghép giáo dục bảo vệ
môi trường trong giảng dạy

Ngành GD cấp Tỉnh

C

2013

C

2016

một số bài Lịch sử SGK 122.

Ban cơ bản

Sử dựng hệ thống câu hỏi hỏi
phát huy tính tích cực và chủ
động của học sinh trong

Ngành GD cấp Tỉnh

giảng dạy phần Lịc sử thế
3.

giới – SGK Lịch sử 12.
Sử dựng hệ thống câu hỏi
liên hệ phát huy tính tích cực
và chủ động của học sinh

Ngành GD cấp Tỉnh

trong giảng dạy phần Lịc sử
thế giới – SGK Lịch sử 11

18

C

2018



×