Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tài liệu Suy nghĩ về công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.56 KB, 15 trang )

Suy nghĩ về công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay
Nguyễn Kiến Giang
1. “Công bằng là đạo người ta ở đời”
Có lẽ không cần phải chứng minh dài dòng rằng công bằng từ ngàn xưa
đã là một trong những khát vọng lớn nhất, một trong những lý tưởng xã
hội cao nhất của mọi con người. (Trong tiểu luận “Công bằng xã hội và
kinh tế”, tôi đã trình bày khái quát về vấn đề này, xin được khỏi nhắc lại).
Ðối với người Việt Nam, công bằng bao giờ cũng được coi là một thứ đạo
lý sống của cộng đồng cũng như của mỗi cá nhân. “Công bằng là đạo
người ta ở đời...”, nhiều người đã thuộc lòng câu này từ thời nhỏ tuổi.
Thật ra, chưa có một tác giả nào nói một cách kỹ lưỡng và có hệ thống về
đạo lý này của người Việt cả. Nhưng qua những lẽ sống và những hiện
thực sống của người Việt xưa nay, có thể hiểu được những nội dung cơ
bản của nó. Và cũng như ở các nước khác, khái niệm “công bằng” được
hiểu, được xác định từ những cái ngược lại với nó, mà theo ngôn ngữ
khoa học, đó là sự xác định theo lối tiêu cực: công bằng được hiểu từ
những bất công.
Người Việt cảm nhận rất sâu sắc những nỗi bất công lớn qua cuộc đời
của mình cũng như qua những quá trình lịch sử của dân tộc mình: những
bất công mà cộng đồng mình gánh chịu đối với những thế lực bên ngoài
cộng đồng, những bất công trong nội bộ cộng đồng về địa vị, tài sản,
công tội, trí tuệ v.v...
Khi sự độc lập tự chủ của đất nước bị xâm phạm và tước đoạt thì nỗi bất
công lớn nhất chiếm lĩnh tim óc mọi người Việt là thân phận nô lệ của
mình đối với những thế lực xâm lược bên ngoài. Mà trong lịch sử Việt
Nam không ít lần cả dân tộc rơi vào cảnh nô lệ ấy. Vì thế, công bằng
trước hết được cảm nhận như sự thoát khỏi thân phận nô lệ cho nước
ngoài. Bằng cảm nhận ấy - và nó đã trở thành một tâm thức chủ đạo của
người Việt - không ít lần người Việt đứng lên chiến đấu một mất một còn
giành lại độc lập tự chủ của đất nước. Ðạo lý công bằng này được nói rõ
trong những “tuyên ngôn” lớn, chỉ tính một ngàn năm trở lại đây, nó thể


hiện nổi bật từ “Nam quốc sơn hà nam đế cư” đến “Không có gì quý hơn
độc lập tự do”...
Trong nội bộ cộng đồng dân tộc, sự cảm nhận về bất công cũng được thể
hiện rất rõ trong các quan hệ xã hội khác nhau: thống trị - bị trị; giàu -
nghèo; sang - hèn... Xin nói ngay, các quan hệ này không được coi là bất
công tự bản thân chúng. Ðạo lý Nho giáo, Phật giáo và cả Ðạo giáo nữa
ăn rất sâu vào tâm thức người Việt, khiến người ta coi những quan hệ
thứ bậc (hierarchique) như một cái gì tự nhiên, do Trời định đoạt, do phúc
đức cha ông, do đức độ cá nhân tạo nên. Ở người Việt ngày trước,
không hề có khái niệm “giai cấp” (do đó, cũng không có khái niệm “đấu
tranh giai cấp”) mà khái niệm chiếm ưu thế trong các quan hệ xã hội là
“hòa”, là “nhường”, là “nhẫn”. Thỉnh thoảng có nổi lên những cuộc đấu
tranh xã hội quyết liệt nhưng không phải là để xóa bỏ hệ thứ bậc xã hội
cũ mà là xóa bỏ những hiện tượng loạn cương, như xã hội học gọi tên.
Có vua là tự nhiên, người ta chỉ chống lại hôn quân (bạo chúa) và ủng hộ
minh quân (minh chúa). Có quan cai trị cũng là tự nhiên, người ta chỉ
chống tham quan ô lại và ưa thích những liêm quan, những vị quan trung
nghĩa. Giàu nghèo cũng là tự nhiên, người ta chỉ bài bác những ác bá,
trọc phú và tán dương những người giàu ân đức. Trong quan hệ gia đình
cũng vậy, người ta không chống lại quyền uy gia trưởng mà chỉ bài bác
những người bố ác nghiệt với con cái, những anh em bất nghĩa với nhau.
Người ta tin vào “mệnh trời”, vào sự sáng suốt của trời (“Trời có mắt”),
vào “ác giả ác báo”, vào “luân hồi” như một sự điều chỉnh tự nhiên... Một
xã hội công bằng đối với người Việt xưa là vậy. Công bằng về đạo lý hơn
là về xã hội, về tính chính đáng (legitimité) hơn là về quyền lợi kinh tế. Nó
hướng tới một trạng thái “đại đồng” nhưng “tiểu dị”, tới một trật tự được
coi là tự nhiên, mà thật ra, đó là một trật tự noi theo những khuôn mẫu
(stéréotyes) lâu đời. Nói như thế, không phải là tuyệt đối không có xu
hướng bình quân trong ý thức xã hội. Những vết tích thị tộc nguyên thủy,
những tác động dòng họ thường là chỗ dựa khá bền vững cho xu hướng

bình quân, nhất là ở các làng xã. Nhưng xu hướng này chưa bao giờ là
xu hướng chủ đạo và cũng chưa bao giờ được “lý luận hóa”.
Người Việt đấu tranh cho đạo lý công bằng một cách bền bỉ và đôi khi
cũng khá quyết liệt, nhất là vào những thời kỳ suy tàn của các triều đại
(Lý, Trần, Lê, Nguyễn), bằng những cuộc nổi dậy mà một số nhà sử học
gọi chưa thật chính xác lắm là các cuộc “khởi nghĩa nông dân” hay “cách
mạng nông dân” (mô phỏng theo những cách gọi cuộc “chiến tranh nông
dân” ở châu Âu thời Trung đại và Cận đại). Trên thực tế, đó là những
cuộc nổi dậy nhằm thay đổi triều đại hơn là những cuộc khởi nghĩa mang
những lý tưởng công bằng xã hội của nông dân (như các cuộc nổi dậy
Hoàng Cân hay Thái Bình thiên quốc ở Trung Quốc ngày xưa, dù rằng
những cuộc nổi dậy này vẫn chưa thoát khỏi hệ tư tưởng quân chủ cổ
truyền). Song nhìn chung, các cuộc đấu tranh cho công bằng chủ yếu vẫn
diễn ra một cách “hòa bình”, bằng những hình thức bài bác, chế giễu và
kiện tụng.
Từ cuối thế kỷ thứ XIX - đầu thế kỷ thứ XX, các quá trình xã hội mới
được mở đầu ở Việt Nam. Một mặt, sự thống trị của thực dân Pháp được
thiết lập; đất nước mất độc lập tự chủ; dân Việt Nam trở thành nô lệ cho
nước ngoài; nỗi bất công lớn nhất đối với dân Việt Nam xuất hiện và đây
không chỉ là bất công về chính trị. Những sự bóc lột của thực dân Pháp
(chiếm đất đai làm đồn điền, độc quyền mua bán, khai thác hầm mỏ,
v.v...) dẫn tới chỗ của cải đất nước phần lớn lọt vào tay những “ông chủ”
nước ngoài, gây ra cùng khổ, đói nghèo của số đông dân chúng. Mặt
khác, các quan hệ kinh tế và xã hội mới đã hình thành theo hướng phân
hóa giai cấp ngày càng rõ rệt, những bất công và giàu nghèo tăng lên.
Ngoài những bất công về đạo lý, về chính trị, còn chồng chất thêm những
bất công mới gắn liền với đời sống vật chất - kinh tế hàng ngày của
người dân. Ý thức về những bất công ấy ngày càng lan rộng và ăn sâu
trong xã hội.
Lúc đầu, ý thức này nảy sinh dưới ảnh hưởng của thuyết tiến hóa

(Darwin, Spencer...), lý giải những bất công đối với dân tộc theo lối “mạnh
được yếu thua”. Về sau, từ khi chủ nghĩa Mác-Lênin du nhập vào Việt
Nam thì những bất công trong các quan hệ giữa dân tộc và chủ nghĩa
thực dân và giữa các giai cấp xã hội khác nhau được giải thích theo
thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp. Khái niệm “công bằng xã hội” không
phải được hiểu từ những kiểu bất công “đối ngoại” và “nội bộ” ấy mà chủ
yếu là từ kiểu bất công thứ nhất, vì không một người Việt Nam nào, dù
thuộc giai cấp nào, lại không cảm thấy nỗi nhục mất nước để nuôi khát
vọng độc lập và tự do của dân tộc. Không những thế, các cuộc đấu tranh
chống ách áp bức nước ngoài được tiến hành chủ yếu bằng sức mạnh
bạo lực. Những bất công trong nội bộ cộng đồng tạm thời được đặt
xuống dưới và được giải quyết bằng những biện pháp ôn hoà, trừ một số
trường hợp cực đoan (như thời kỳ xô viết Nghệ An, với khẩu hiệu “trí,
phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ!”).
Song không phải vì thế mà ý thức về công bằng xã hội bị lu mờ. Cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc nào, ngoài mục tiêu giành độc lập dân tộc
ra, cũng noi theo những lý tưởng xã hội nào đó. Ở Việt Nam, sự du nhập
và truyền bá chủ nghĩa cộng sản đã mang lại cho những bộ phận quần
chúng nhất định, nhất là trong các tầng lớp nghèo khổ, một ý thức công
bằng xã hội mạnh mẽ. Ðằng sau sự vẫy gọi của lòng yêu nước, ở chân
trời xa còn hiện lên hình ảnh mờ ảo nhưng tha thiết của một xã hội công
bằng, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn.
Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và những năm đầu kháng chiến
chống Pháp, lòng yêu nước quật khởi và ý thức công bằng xã hội trở
thành những động lực tinh thần mạnh mẽ của người Việt Nam. Phải nói
rằng đó là những năm đẹp nhất, hào hùng nhất trong lịch sử dân tộc
hàng nghìn năm. Công bằng xã hội lúc đó thể hiện ở tinh thần cùng nhau
hy sinh cho đất nước, ở những sự điều hòa quyền lợi giữa các tầng lớp
xã hội khác nhau (vận động giảm tô, hiến điền, “thóc gạo khao quân”...).
Nhưng chẳng bao lâu, với sự du nhập chủ nghĩa Mao từ Trung Quốc đầu

những năm 50, vấn đề công bằng xã hội được đặt ra theo tinh thần “đấu
tranh giai cấp”, mô phỏng những kinh nghiệm “đấu tố” của Trung Quốc
trong các phong trào cải cách ruộng đất, “tam phản”, “ngũ phản”, v.v...,
mà về thực chất, đó là quan niệm về công bằng xã hội theo chủ nghĩa
bình quân của nông dân nghèo khổ. Hậu quả của các cuộc vận động
“giảm tô” và “cải cách ruộng đất” thật ghê gớm. Chưa bao giờ xã hội Việt
Nam bị chia cắt thô bạo đến thế, chưa bao giờ công bằng xã hội vốn là
đạo lý của người Việt lại được thực hiện một cách vô đạo lý đến thế. Việc
sửa sai đã giúp giảm bớt những hậu quả tai hại ấy nhưng những cuộc
“đấu tố” dã man trong cải cách ruộng đất vẫn là một ký ức nặng nề của
toàn xã hội. Ngày nay nhìn lại, nhiều người cho rằng hoàn toàn có thể
tiến hành cải cách ruộng đất theo lối ôn hòa hơn nhiều và có hiệu quả
hơn nhiều (như kinh nghiệm Ðài Loan cho thấy).
Nhưng chưa học xong bài học đau xót của cải cách ruộng đất, thì cuối
những năm 50 - đầu những năm 60 (tức là ngay sau cải cách ruộng đất),
người ta lại giải quyết vấn đề công bằng xã hội theo lối “xóa bỏ các giai
cấp bóc lột” dưới hình thức “cải tạo xã hội chủ nghĩa” mà về thực chất, đó
là những sự tước đoạt. Không những các “giai cấp bóc lột” (như tư sản,
phú nông, tiểu chủ...) bị tước đoạt, mà cả những người lao động có sở
hữu tư nhân (nông dân, tiểu thương, thợ thủ công, v.v...) cũng bị tước
đoạt. Những cấu trúc kinh tế và xã hội “mới”, hoàn toàn giả tạo, được
thiết lập cho phù hợp với “chủ nghĩa xã hội”. Cấu trúc kinh tế chỉ gồm hai
thành phần: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Tương ứng với cấu trúc
kinh tế đó là cấu trúc xã hội gồm hai giai cấp chính: giai cấp công nhân và
giai cấp nông dân tập thể. Cộng thêm vào đó là “tầng lớp trí thức xã hội
chủ nghĩa” mà trên thực tế, mang tính chất viên chức hơn là tính chất trí
thức. Cách giải quyết vấn đề công bằng xã hội theo lối đó đã dẫn tới
những hậu quả tai hại như thế nào cho sự tồn tại và phát triển bình
thường của xã hội Việt Nam, tưởng không cần phải chứng minh nữa. Một
quan niệm thô sơ về công bằng xã hội như vậy, sau khi giải phóng miền

Nam, còn được áp dụng trong cả nước, cũng với những cuộc “cải tạo xã
hội chủ nghĩa” như đã được làm ở miền Bắc trước đó. Toàn xã hội lâm
vào ngõ cụt, cho tới khi bắt đầu công cuộc “đổi mới” từ năm 1986. Có thể
nói một cách tổng quát rằng: việc giải quyết vấn đề công bằng xã hội theo
lối “xã hội chủ nghĩa” ấy đã thất bại.
2. Thực trạng bất công trong xã hội Việt Nam hiện nay
Sự thất bại về công bằng xã hội, như kinh nghiệm các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây cho thấy, không những biểu hiện ở sự bất lực trong việc
giải quyết những bất công, mà còn biểu hiện ở sự xuất hiện những bất
công mới.
Lúc đầu, đúng là có những đảo lộn xã hội thật lớn lao trước sự vui mừng
của một số người và sự tuyệt vọng của một số người khác. Và đây không
phải là điều gì mới. Ngay sau Cách mạng tháng Mười Nga, Pierre Pascal,
một trí thức Pháp hưởng ứng cuộc cách mạng này sớm nhất, đã mô tả
không khí xã hội Nga hồi đó: “Một cảnh tượng độc nhất làm say lòng
người: sự sụp đổ của một xã hội. Bây giờ chính là lúc thực hiện thánh thi
thứ tư trong những lời kinh chủ nhật và Magnificat (Văn chầu Thánh
Mẫu): Những kẻ cường quyền bị hạ bệ và kẻ nghèo khổ đứng lên khỏi
bùn đen. Những ông chủ nhà bị dồn vào một gian phòng, và ở mỗi gian
phòng khác có một gia đình đến ở. Không còn người giàu nữa: chỉ có
những người nghèo và những người nghèo hơn. Trí thức không được coi
là đặc quyền và không còn được tôn trọng nữa. Người thợ trước đây
được đề bạt lên làm giám đốc, chỉ huy các kỹ sư. Tiền lương từ trên
xuống dưới gần ngang nhau. Quyền sở hữu chỉ còn lại những bộ áo quần
người ta mặc hàng ngày. Quan tòa không còn phải áp dụng luật pháp.
Hôn nhân chỉ còn là một sự đăng ký giá thú và ly hôn có thể được báo
bằng tấm danh thiếp. Con cái được ăn học để giám sát bố mẹ. Những
tình cảm hào hiệp bị sự khốn khó xua đuổi: trong gia đình người ta tính
từng mẩu bánh hay vài gam đường. Vẻ dịu dàng bị coi là tội lỗi. Sự hiếu
thảo bị giết bởi cái chết hiện ra khắp nơi. Tình bạn chỉ còn như là tình

đồng chí”. (Pierre Pascal, Journal, t.2, trích theo R. Furet, Le passé d’une
illusion, Robert Laffont, Paris, 1995, tr. 131). Không phải cảnh tượng này
diễn ra ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đúng hệt như vậy, nhưng
những đảo lộn xã hội ở mức độ khác nhau đã xảy ra khắp nơi. Và những
thể chế về công bằng xã hội sau khi thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa thì
gần như giống nhau. Ðại đa số dân chúng biến thành những người làm
công cho Nhà nước hoặc trực tiếp (công nhân, viên chức), hoặc gián tiếp
(nông dân tập thể, xã viên hợp tác xã). Tất cả đều do một bộ máy toàn
năng điều khiển. Sự phân phối bình quân, hay gần như bình quân, được
thiết lập về tư liệu sinh hoạt. (“Một yêu anh có may-ô, Hai yêu anh có cá
khô ăn dần...” là một hiện thực cách đây chưa xa ở nước ta). Và hẳn
người ta còn nhớ cảnh gắp thăm mua phụ tùng xe đạp, mua quần đen...
Những cảnh đó đã chấm dứt với “đổi mới”, với “kinh tế thị trường”, được
nhiều người cảm nhận như một biến đổi xã hội quan trọng. Có người nói
rất đúng rằng, trong một nền kinh tế “thiếu hụt” (économie de deficit) thì
đó là sự phân phối nạn nghèo khổ cho mọi người. Chế độ bao cấp quả
tình cũng thật chu đáo: từ chiếc tã cho trẻ sơ sinh đến tấm vải liệm cho
người chết. Không ai chết đói cả, hoặc nếu có thì, như người ta nói, chỉ là
“có nơi có lúc” nhưng hầu hết không đủ no và thiếu dinh dưỡng. Ðứng về
một mặt nào đó, một xã hội “đại đồng” (hiểu theo nghĩa “rất giống nhau”)
đã hiện lên trước mắt chúng ta. Và bây giờ, sau khi xóa bỏ chế độ bao
cấp, không phải không có người còn luyến tiếc!
Nhưng đó chỉ làm một mặt của tấm huân chương. Còn mặt khác của nó
(thật khó phân định đây là mặt phải hay mặt trái) là sự hình thành một xã
hội thứ bậc (societé hiérarchique) với những đặc quyền lớn và nhỏ. Ở đô
thị, xã hội phân chia thành hai hạng người: người của Nhà nước được
hưởng các loại tem phiếu do cơ quan, xí nghiệp phát và người không
phải của Nhà nước chỉ có phiếu N (nhân dân) do các phường, các khu
phố phát. Và ngay trong “những người của Nhà nước”, sự chênh lệch về
mức cung cấp rất lớn, nếu tính từ phiếu E đến bìa A (chưa nói tới một số

ít người được cung cấp “theo nhu cầu”). Chưa nói tới rất nhiều bất công
khác làm người ta công phẫn: từ trường học cho con em đến những khả
năng tiến thân khác nhau, từ nhà nghỉ đến chỗ chữa bệnh, từ vé đi xem
các cuộc trình diễn đến vé nghỉ mát, v.v... Cũng chưa nói đến những cơ
hội đi nước ngoài học hành và công tác... Và cũng chưa nói tới những bất
công về mặt chính trị theo sự phân chia lý lịch: “trong sạch” và “có liên
quan” (với chế độ cũ, với gia đình bóc lột ngày xưa, với đủ mọi thứ đáng
nghi ngờ). Bất công hiện lên khắp nơi và khắp các lĩnh vực. Xin nhấn
mạnh: đó là những bất công được chính thức thừa nhận, không cần che
đậy, nhân danh “cách mạng”, “chủ nghĩa xã hội”, “thời kỳ quá độ”... Có
những bất công có thể hiểu được, nhưng có những bất công không thể
hiểu được vì những chế độ xã hội “lạc hậu” trước đây cũng không thấy
có.
Những bất công thời “quan liêu bao cấp” này đã làm triệt tiêu những động
lực lành mạnh của con người và ở một mức độ nào đó, làm “lưu manh
hóa” con người. Chúng phỉ báng nhân cách tốt đẹp của con người, đưa
con người vào trạng thái bệnh hoạn. Bởi vì để tồn tại và nhất là để tiến
thân, người ta buộc phải đi theo những tính toán nhỏ nhen: dìm dập
nhau, xu nịnh, giả dối, v.v... Ðạo đức suy đồi vì thế, guồng máy hỗn loạn
vì thế và cả nền kinh tế nữa, cũng mất hiệu năng vì thế.
Có người nói: nhắc lại cái “thời đã qua” ấy làm gì? Tôi nghĩ khác: phải
nhắc lại và nhắc lại nhiều hơn, không chỉ vì để tránh cho xã hội ngày mai
lại đi vào “vết xe đổ” ấy (ngày nay, không phải không có người muốn trở
lại), mà còn vì những hệ quả của những bất công này vẫn còn rất nặng
nề, gây khó khăn rất lớn cho việc tạo ra một không khí xã hội bình
thường và lành mạnh, do đó, cả cho sự phát triển xã hội hiện nay và sau
này.
Không có gì bí mật khi nói rằng một bộ phận khá lớn những người giàu
có hôm nay chính là những quan chức chiếm giữ những đặc quyền đặc
lợi hôm qua và bây giờ đang dựa vào những quyền lực sẵn có trong tay

để làm giàu. Ðúng là ta đang khuyến khích “dân giàu” (để cho “nước
mạnh”). Nhưng sự giàu có cần khuyến khích là sự giàu có do năng lực
(trí tuệ, kinh doanh) tạo ra, chứ không phải là bất cứ sự giàu có nào, nhất
là sự giàu có do tham nhũng, ăn cướp của dân, đầu cơ, buôn lậu... Một
hiện tượng khá phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa trước khi chuyển
sang kinh tế thị trường là chủ nghĩa tư bản quan chức (capitalism
nomenclatura): những quan chức có thế lực đang dùng tài sản đục khoét

×