TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA NGỮ VĂN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NIÊN KHÓA 2013 – 2017
ĐÓNG GÓP CỦA PHAN THỊ VÀNG ANH QUA BA TẬP
TRUYỆN NGẮN KHI NGƢỜI TA TRẺ, Ở NHÀ, HỘI CHỢ
Sinh viên thực hiện: Kiều Thị Hoa
Lớp: D13NV01
Khóa: 2013 – 2017
Hệ: Chính quy
Bình Dƣơng, Tháng 05 năm 2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA NGỮ VĂN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NIÊN KHÓA 2013 – 2017
ĐÓNG GÓP CỦA PHAN THỊ VÀNG ANH QUA BA TẬP
TRUYỆN NGẮN KHI NGƢỜI TA TRẺ, Ở NHÀ, HỘI CHỢ
Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Thanh Xuân
Sinh viên thực hiện: Kiều Thị Hoa
Lớp: D13NV01
Khóa: 2013 – 2017
Hệ: Chính quy
Bình Dƣơng, tháng 05 năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả nêu
trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố trong các cơng trình khác.
Sinh viên
Kiều Thị Hoa
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt q trình học tập và hồn thành khóa luận này, chúng tơi
đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của Quý thầy cô. Với lịng
kính trọng và biết ơn sâu sắc tơi xin được bày tỏ lời cảm ơn:
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới cô giáo Nguyễn Thị Thanh
Xuân, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tơi trong suốt q trình nghiên
cứu khoa học và hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Nhân dịp này, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn tới giáo viên phản biện cùng
các thầy cô giáo trong hội đồng và các thầy giáo, cô giáo khoa Ngữ văn
trường Đại học Thủ Dầu Một đã ân cần dạy bảo cho tôi trong suốt những
năm học vừa qua. Qua đây tơi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã
quan tâm động viên, khích lệ, giúp đỡ tơi trong suốt thời gian học tập và
nghiên cứu.
Thủ Dầu Một, tháng 5 năm 2017
Kiều Thị Hoa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................1
1.Lí do chọn đề tài ..................................................................................................1
2.Lịch sử nghiên cứu ..............................................................................................2
3.Mục đích nghiên cứu ..........................................................................................5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: ...................................................................5
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu: .....................................................................................5
4.2 Phạm vi nghiên cứu: ........................................................................................6
5.Phƣơng pháp nghiên cứu: ..................................................................................6
6.Cấu trúc khóa luận: ............................................................................................6
NỘI DUNG .............................................................................................................7
Chƣơng 1: TRUYỆN NGẮN PHAN THỊ VÀNG ANH TRONG DÒNG
CHẢY CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI ...............................7
1.1.Đơi nét về tiểu sử và q trình sáng tác của Phan Thị Vàng Anh ..............7
1.1.1. Tiểu sử ...........................................................................................................7
1.1.2. Quá trình sáng tác .......................................................................................8
1.2. Miêu tả khái quát về các tập truyện ngắn Khi ngƣời ta trẻ; Ở nhà; Hội
chợ của Phan Thị Vàng Anh .................................................................................9
1.3. Truyện ngắn và những thành công cơ bản của Phan Thị Vàng Anh .....11
Chƣơng 2: ĐÓNG GÓP CỦA BA TẬP TRUYỆN NGẮN KHI NGƢỜI TA
TRẺ; Ở NHÀ; HỘI CHỢ TRÊN CÁC PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG ............16
2.1. Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh với đề tài tình yêu, gia đình thời
đƣơng đại ..............................................................................................................16
2.2. Vấn đề nhận thức và phản ánh hiện thực đời sống thành thị thời kinh tế
thị trƣờng ..............................................................................................................28
2.3. Cảm hứng phơi bày những mâu thuẫn và xung đột tâm lý của tuổi trẻ
thời đại ..................................................................................................................37
2.4. Cảm hứng biểu dƣơng cá tính và sự dấn thân của tuổi trẻ đƣơng đại ....41
2.5. Sự thống nhất của các nguồn cảm hứng sáng tạo ......................................43
Chƣơng 3: ĐÓNG GÓP CỦA BA TẬP TRUYỆN NGẮN KHI NGƢỜI TA
TRẺ; Ở NHÀ; HỘI CHỢ TRÊN MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 46
3.1 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ...................................................................46
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ....................................................................49
3.2.1. Xây dựng nhân vật qua cá tính, hành động ............................................49
3.3. Nghệ thuật sử dụng ngơn ngữ......................................................................58
3.3.1. Ngôn ngữ đối thoại.....................................................................................58
3.4. Giọng điệu nghệ thuật ..................................................................................65
3.4.1 Giọng điệu hài hƣớc, hóm hỉnh .................................................................66
3.4.2 Giọng điệu triết lý, suy ngẫm, trăn trở .....................................................70
3.4.3. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm ...............................................................73
KẾT LUẬN ...........................................................................................................79
A. TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................81
B. TÀI LIỆU THAM KHẢO INTERNET ........................................................84
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975, đất nước được thống nhất, xã hội đã
có những bước chuyển biến vơ cùng to lớn. Những năm đầu của thập niên 80, nhờ
công cuộc Đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng năm 1986, cả nước
bước vào thời kì khơi phục, phát triển và đổi mới tồn diện. Cùng với sự chuyển
mình của đất nước, nền văn học đã có những cơng cuộc đổi mới ngày càng thành
công, đáp ứng được yêu cầu chung của xã hội. Bằng sự thức tỉnh ý thức cá nhân với
sự sáng tạo của nhà văn đã tạo nên sự phát triển phong phú và đa dạng cho nền văn
học Việt Nam. Văn học thời kì này quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong
các mối quan hệ thế sự và đời tư, những số phận ấy được các nhà văn tìm tịi, thể
nghiệm trên nhiều phương diện và thể loại. Trong đó, truyện ngắn và tiểu thuyết là
hai thể loại có sự chuyển biến liên tục, phong phú và đa dạng. Một số những cây bút
đã có những đóng góp cho nền văn học Việt Nam về thể loại truyện ngắn ở các
chặng đường trước chúng ta phải kể đến như: Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lê
Minh Khuê... Bên cạnh đó, đáng chú ý là sự xuất hiện của những nhà văn trong
những năm 90 và gần đây đã đem lại cho văn xuôi sự khởi sắc mới như: Nguyễn
Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Nhật Ánh,…. Cùng đóng góp vào cơng
cuộc đổi mới văn học giai đoạn này là Phan Thị vàng Anh – một nhà văn nữ với
phong cách sáng tác mới lạ cả về hình thức lẫn nội dung.
1.2. Phan Thị Vàng Anh là một trong số thế hệ những cây bút mới xuất hiện
trong những năm 90. Cô đã đem lại cho văn xuôi một màu sắc mới, với nhiều cá
tính và những thể nghiệm mạnh bạo trong cách viết. Ở truyện ngắn của Phan Thị
Vàng Anh chúng ta thấy dường như rất nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội được cô đưa vào trong tác phẩm của mình. Mặc dù Phan Thị Vàng Anh viết về
nhiều đề tài khác nhau, nhưng trong mỗi truyện ngắn của cô, ta đều thấy được chiều
sâu tư tưởng mà cô gửi gắm vào trong tác phẩm như: Hội chợ (Tập truyện, NXB
Trẻ, 1995); Khi người ta trẻ (Tập truyện, NXB Hội Nhà văn,1993); Ở nhà (Truyện
thiếu nhi, NXB Trẻ, 1994)... Và Phan Thị Vàng Anh cũng đã gặt hái được nhiều
thành cơng trong sự nghiệp văn chương của mình như: Giải nhất truyện rất ngắn của
tạp chí Thế giới cho tác phẩm “Hoa muộn” 1995; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt
1
Nam cho tập truyện “Khi người ta trẻ” năm 1993 và Giải thưởng Hội Nhà
văn Hà Nội năm 2007.
1.3. Về truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu, luận văn thạc sĩ, báo cáo… Tuy nhiên, cơng trình đi sâu tìm hiểu về đóng góp
của Phan Thị Vàng Anh qua ba tập truyện ngắn Khi người ta trẻ, Hội chợ, Ở nhà
của chị vẫn thì cịn nhiều giá trị cần được khai thác. Vì vậy, với bản thân là một sinh
viên ngành sư phạm ngữ văn và là một độc giả rất yêu thích những tác phẩm của
Phan Thị Vàng Anh, chúng tôi chọn đề tài này làm khóa luận tốt nghiệp. Chúng tơi
mong muốn góp thêm tiếng nói vào sự khẳng định những thành công đáng ghi nhận
của Phan Thị Vàng Anh trên con đường sáng tạo nghệ thuật và những đóng góp của
chị cho nền văn học Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử nghiên cứu
Khi đọc truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh độc giả sẽ thấy được những
vấn đề ở mỗi truyện ngắn của chị mang lại đều toát lên chiều sâu thấm thía về cuộc
sống. Do đó, những tác phẩm của chị ra đời đã nhận được sự quan tâm không chỉ
của độc giả mà còn thu hút các nhà nghiên cứu, các nhà phê bình. Hiện nay, có rất
nhiều bài viết đề cập đến sáng tác của Phan Thị Vàng Anh cùng với những ý kiến
đánh giá:
Huỳnh Như Phương trong Lời giới thiệu Khi người ta trẻ nhận xét: “Vàng
Anh viết mà như không hề viết – và do vậy khơng cần phải kháng cự hay đối phó gì
hết – tới như một thứ văn chương lúc thì hùng hồn đạo mạo như một lời hiệu triệu
và điếu văn chính trị, lúc thì bóng bẩy và sướt mướt như một lá thư tình của một cơ
nàng đỏng đảnh. Văn chương của Vàng Anh là trị chơi nói bằng ngơn ngữ trị chơi,
vì thế mà nó thật”[31; tr41].
Huỳnh Như Phương đã nhận xét trong tập truyện ngắn Khi người ta trẻ là
“một cái sân chơi mà ở đó các nhân vật đã chơi hết mình với đủ thứ trị, từ ấm ớ, vớ
vẩn đến điên rồ và ngông cuồng nhất.Tuy nhiên, đằng sau tất cả những trị vui đó là
một khơng khí ngột ngạt và u uất, đơi khi rất mơ hồ, vây phủ lấy tuổi trẻ. Cịn về
phương diện ngơn ngữ thì “Ngịi bút này rủ rê những từ ngữ tinh nghịch nhất để làm
văn học, cái việc mà ai cũng cho là cần phải nghiêm túc. Chính lối viết, cách suy
nghĩ, cách nhìn đời khác lạ của Phan Thị Vàng Anh cũng như một số cây bút trẻ đã
2
mang lại một khơng khí mới cho cái thế giới văn chương đang có nguy cơ già
cỗi”[31; tr5].
Huỳnh Như Phương trong bài Trong sân chơi của Vàng Anh có nêu: “Trong
thế giới của Vàng Anh, những sự vật gần gũi nhất lại đưa tâm hồn con người đi xa
nhất. Trong sân chơi những ngày thường đó nhiều khi con người nghe tiếng hội hè
trong lịng mình. Ấy là vì Vàng Anh biết cách lạ hóa những điều quen thuộc biết
làm cho da diết những điều tưởng như nhạt nhẽo”[29; tr5].
Tác giả Huỳnh Phan Anh trong cuốn Ghi nhận về một thế giới nghệ thuật của
Phan Thị Vàng Anh cũng đã nhận định: “Hai tập truyện ra đời trong khoảng cách
hai năm, mỏng mảnh như nhau, bao gồm những truyện thường ngắn, có khi rất
ngắn, bấy nhiêu cho một thế giới đang hình thành, sinh sơi nảy nở, một thế giới
khơng ngớt trở về trên những trang giấy đang kêu gọi, bổ sung cho nhau, vẫn là nó
nhưng khơng đơn giản là nó, bởi nó ln được vén mở, soi rọi thêm, nó ln tìm
kiếm những bến bờ và những chiều sâu mới”[ 1; tr75]; Hay “đọc Phan Thị Vàng
Anh tức tìm đến, làm quen cái thế giới rất gần gũi và cũng rất xa lạ của những tâm
hồn trai gái với những ưu tư, những quan hệ buộc ràng, những biến cố khơng vượt
ra ngồi cuộc sống đời thực thường ngày… Đối với họ dường như cuộc sống lúc
nào cũng toát ra một mùi vị đơn điệu, buồn chán với toàn những cái nhạt nhẽo “vớ
va vớ vẩn”. “Nhân vật của Phan Thị Vàng Anh khi tỉnh táo cũng như lúc điên rồ họ
không hề đánh mất sự thuần khiết, ngay trong tuyệt vọng, bế tắc. Vàng Anh rất tiết
kiệm chữ nghĩa. Cô cũng không dẫn dắt, không tạo đột biến, khơng gây bất ngờ, tất
cả dường như chỉ cịn là những tiểu xảo không cần thiết”[1; 5].
Về các sáng tác của Phan Thị Vàng Anh: Hội chợ, Khi người ta trẻ I, Khi
người ta trẻ II được giới báo chí đánh giá: “Đây là cây bút, dịng mực có sự hài hòa
của một tấm lòng nhân ái và một trí thơng minh sắc sảo. Tác giả của hai truyện Kịch
câm và Đất đỏ sẽ đi rất xa.[51; tr4].
Hay Phạm Xuân Nguyên cũng đã có nhận định rằng về Phan Thị Vàng Anh
rằng: “Vàng Anh viết truyện vừa vui vẻ vừa nghiêm túc. Nghiêm túc như trò chơi
và vui như trò chơi... Thế giới truyện của Vàng Anh là thế giới chập đôi của thơ
ngây và già dặn như vốn có trong mỗi con người, mỗi cuộc đời bình thường quanh
ta. Khi viết truyện Vàng Anh thích khơng áp đặt tư tưởng giống như xây một căn
3
nhà có nhiều cửa tùy thích tính cách độc giả, ai muốn đi cửa nào thì đi... Người đọc
hết sức sửng sốt trước tầm vóc sâu sắc và to lớn của vấn đề đặt ra trong truyện và
bút pháp già dặn, vững vàng của cấu trúc truyện”[26; tr6].
Hồ Thế Hà trong Tạp chí cửa Việt viết về Đặc sản truyện ngắn Phan Thị
Vàng Anh có viết: “Thế giới của Vàng Anh riêng và lạ lắm. Trước hết, nó rất ngắn,
ngắn chỉ vài ba trang in mà người ta thường gọi là truyện ngắn mi ni. Ngắn nhưng
lại chứa đựng nhiều ý tưởng, nhiều mối quan hệ đời sống và tất cả lại được chứa
đựng trong ngôn ngữ và kiểu viết tình cờ, tự nhiên như khơng phải đó là ngơn ngữ
văn chương vậy. Truyện Vàng Anh như nhiều người gọi là truyện khơng có cốt
truyện nhưng thật lạ, khả năng mở sau câu chuyện làm ám ảnh mọi người” hay
“Vàng Anh có biệt tài dựng chuyện. Những vấn đề tưởng vớ vẩn, được kể một cách
tự do nhưng thực ra là cách viết cốt sao qua đó, người đọc thấy được mối quan hệ
bên trong, bên sâu. Con người âu lo, cơ đơn, ln tự vấn khơng ngừng tìm kiếm và
lý giải mọi sự tồn tại là đặc điểm dễ thấy nữa trong thế giới truyện ngắn Vàng
Anh”[47; tr1].
Bùi Việt Thắng trong Một lứa bên trời: Về diện mạo và khuynh hướng phong
cách truyện ngắn thế hệ 5x và 6x có viết: “Đọc Phan Thị Vàng Anh cứ thấy váng
vất cái lý tưởng đã nhuần nhuyễn trong từng câu chữ: ở đời khơng có cái gì là q
quan trọng và cũng khơng có cái gì là kém phần ý nghĩa. Đọc Phan Thị Vàng Anh
thêm một lần ta tới gần hơn cuộc đời vốn ln ln có thể làm ta ngạc nhiên vì
những bí ẩn khơn cùng và giúp ta bớt đi cái nhìn giản đơn sự việc, con người...
Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh là những mảnh vỡ của mảnh vỡ, vậy nên đôi khi
độc giả phải tự tay nhặt lên và gắn kết chúng lại để có một hình dung đầy đủ hơn về
cuộc sống”[38; tr21].
Trần Trọng Hiếu Tạp chí sơng Hương Khi người ta trẻ... hai mươi năm sau
có nêu rằng: “Hai mươi năm sau, đọc lại Khi người ta trẻ, một cách sịng phẳng,
chưa thể nói Phan Thị Vàng Anh và ngay cả những cây bút cùng lứa với chị đã tạo
được một khúc ngoặt thật rõ nét trong sự chuyển động của văn chương Việt Nam
thời Đổi mới, nhưng cũng có thể hiểu vì sao những nhà văn thuộc thế hệ đi trước,
giới phê bình đương thời lại ngạc nhiên đến vậy khi đọc một tập truyện mà nhiều
truyện trong đó chỉ những phác thảo vẩn vơ của một cô gái mới lớn. Người ta giật
4
mình khi đọc Vàng Anh trước hết bởi văn chương của chị xoay quanh những câu
chuyện vẩn vơ, tầm phào, nhí nhố của những người trẻ. Hay nói theo một thuật ngữ
có vẻ thời thượng nhưng rất hợp để nói về điều này, văn xuôi Vàng Anh chỉ bận
tâm đến những thứ tiểu tự sự. Nhưng sau đó, người ta lại giật mình hơn khi nhận ra
những thứ vẩn vơ, tầm phào, không mấy nghiêm túc kia lại hàm chứa nhiều điều
quan trọng. Truyện của Vàng Anh, trong khi tưởng tượng như đang kể những câu
chuyện vặt vãnh, nhỏ nhặt hay bông đùa, đặt ta đối diện với một thế giới đang mất
đi ý nghĩa, những cái chết vô nghĩa, sự trả thù vô nghĩa, sự chờ đợi vô nghĩa, tình
u vơ nghĩa, những ngày đi học đi làm vơ nghĩa... Văn chương của Vàng Anh là
một đề nghị thẳng thắn, một khẳng định bộc trực nhưng không đến mức gây hấn,
khiêu khích về quyền được khác, được lạ trong cách nhìn, cách nghĩ và cách
viết”[50; tr1].
Ngồi ra, truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh cũng là đối tượng của một số
luận văn như: Cảm hứng giễu nhại trong sáng tác của Phan Thị Vàng Anh (tác giả
Nguyễn thị Thu Hằng – ĐHSP Hà Nội 2006) hay Phong cách truyện ngắn hai cây
bút nữ Phan Thị Vàng Anh và Nguyễn Ngọc Tư (tác giả Ngô Thị Diễm Hồng –
ĐHSP Hà Nội 2009).
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu hệ thống những đóng góp về mặt nội dung
và nghệ thuật của truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh, từ đó cảm thụ, khám phá truyện
ngắn của Phan Thị Vàng Anh một cách sâu sắc, thấy được giá trị nhân văn và chiều
sâu tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm thơng qua sáng tác của mình. Thơng qua
truyện ngắn của cơ cịn giúp cho người đọc có cái nhìn tồn diện hơn về những giá
trị và đóng góp riêng qua truyện ngắn của nhà văn, thấy được phong cách riêng
trong việc thể hiện đề tài, chủ đề cũng như cách xây dựng hình tượng nhân vật trong
truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh. Qua việc nghiên cứu cũng góp phần khẳng
định tài năng của Phan Thị Vàng Anh và những đóng góp của chị cho tiến trình văn
xi Việt Nam đương đại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu:
5
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Đóng góp của Phan Thị Vàng Anh qua ba
tập truyện ngắn Khi người ta trẻ, Ở nhà, Hội chợ.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Khóa luận khảo sát tất cả các tập truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh đã
xuất bản. Tìm hiểu sâu ba tập: Khi người ta trẻ (tập truyện, 1993); Ở nhà (Truyện
vừa, 1994); Hội chợ (tập truyện, 1995).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện khóa luận này, chúng tơi sử dụng phối hợp các phương pháp
nghiên cứu sau:
-
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Nhằm làm nỏi bật về những
đóng góp của Phan Thị Vàng Anh trong ba tập truyện ngắn Khi người ta
trẻ, Hội chợ, Ở nhà.
- Phương pháp phân loại, thống kê: Được sử dụng nhằm liệt kê, phân
loại các nội dung sáng tác, nhân vật, giọng điệu…
-
Phương pháp hệ thống – cấu trúc: Nhằm tìm ra những đặc điểm cơ
bản trong truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh với những đóng góp của cơ
trong nền văn học Việt Nam.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Nhằm đưa ra những vấn đề giống
hay khác nhau để làm cho vấn đề được nói đến nổi bật hơn.
6. Cấu trúc khóa luận:
Ngồi phần mở đầu và kết luận thì nội dung chính của khóa luận được chia
thành ba chương như sau:
Chương 1: Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh trong dòng chảy của truyện ngắn Việt
Nam đương đại
Chương 2: Đóng góp của ba tập truyện ngắn Khi ngƣời ta trẻ, Ở nhà, Hội chợ trên
các phương diện nội dung
Chương 3: Đóng góp của ba tập truyện ngắn Khi ngƣời ta trẻ, Ở nhà, Hội chợ trên
một số phương diện nghệ thuật
6
NỘI DUNG
Chƣơng 1
TRUYỆN NGẮN PHAN THỊ VÀNG ANH TRONG DÒNG CHẢY CỦA
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1.
Đôi nét về tiểu sử và quá trình sáng tác của Phan Thị Vàng Anh
1.1.1. Tiểu sử
Phan Thị Vàng Anh sinh ngày 18 tháng 8 năm 1968 tại Hà Nội. Quê gốc ở
huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Cô tốt nghiệp Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí
Minh năm 1993, hiện tại cơ sống ở Thành phố Hồ Chí Minh, là hội viên Hội Nhà
văn Việt Nam từ năm 1996. Năm 2005, cô được bầu làm ủy viên ban chấp hành Hội
Nhà văn Việt Nam nhiệm kỳ 7.
Phan Thị Vàng Anh là con gái nhà thơ Chế Lan Viên và nhà văn Vũ Thị
Thường. Cô là một cây bút trẻ, những sáng tác của cô được đông đảo bạn đọc yêu
mến. Cô đã làm thơ từ khi tuổi còn nhỏ với những vần thơ đơn giản, mộc mạc trong
bài “Mèo con đi học”. Ngồi ra, cơ cịn có những sáng tác để lại dấu ấn sâu đậm
trong lòng người đọc như: Khi người ta trẻ (tập truyện 1993); Ở nhà (Truyện vừa
1994); Hội chợ (tập truyện 1995); Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh – Nguyễn
Trọng Nghĩa (1999). Mặc dù so với các nhà văn khác, số lượng tác phẩm cũng
không phải là nhiều nhưng các tác phẩm của cô đã để lại ấn tượng sâu sắc trong
lòng độc giả và các nhà nghiên cứu phê bình. Nổi bật là tập truyện ngắn “Khi người
ta trẻ” của Phan Thị Vàng Anh đã được Hội nhà văn Việt Nam tặng thưởng năm
1994 cùng truyện ngắn “Hoa muộn” được trao giải nhất cuộc thi viết truyện cực
ngắn do Báo Nguyệt San tổ chức. Đó là những dấu mốc quan trọng đã khẳng định
được tài năng của cô về lĩnh vực truyện ngắn.
Phan Thị Vàng Anh đã cố gắng làm việc rất nhiều, ngoài làm việc ở bệnh
viện, cơ cịn bán tranh giúp các họa sĩ trẻ. Khơng những vậy, có một thời gian, Phan
Thị Vàng Anh cịn đi làm kế tốn cho một siêu thị ở Thành phố Hồ Chí Minh. Qua
đó, ở mỗi cơng việc nó đều mang lại cho cơ một chút kinh nghiệm trong cuộc sống
cũng đã giúp cô rất nhiều trong quá trình khám phá và viết văn.
Có thể nói, Phan Thị Vàng Anh là một nghệ sĩ đa tài, đặc biệt, cơ rất có
dun với sự nghiệp văn chương, bởi ở những tác phẩm đầu tay của mình Phan Thị
7
Vàng Anh đã thể hiện được phong cách sáng tác riêng và độc đáo. Chính vì điều đó,
cơ nhận được nhiều sự yêu mến cũng như lòng hâm mộ của đơng đảo bạn đọc
1.1.2. Q trình sáng tác
Từ năm 1977 lúc ấy Phan thị Vàng Anh mới 9 tuổi cô đã bắt đầu làm thơ với
bài thơ “Mèo con đi học”. Bài thơ đã được Tổ chức Liên hiệp quốc về văn hóa,
khoa học giáo dục trao giải thưởng. Cùng nhiều bài thơ khác thời niên thiếu của
Phan Thị Vàng Anh được đăng trên nhiều báo như: báo Kim Đồng, báo Khăn
Quàng Đỏ và được đông đảo các bạn thiếu nhi u thích đón đọc. Với tập thơ “Gửi
VB” năm 2006, Phan Thị Vàng Anh lại được nhận giải thưởng của Hội nhà văn
Việt Nam năm 2007. Gửi VB là một tập thơ đời thường, giản dị nhưng lại hết sức
tinh tế. Mặc dù cách miêu tả đơn giản, dửng dưng nhưng tâm lý nhân vật được miêu
tả có chiều sâu. Những cái tên cho từng truyện ngắn cũng hết sức ngắn gọn như:
Gửi VB, Công chức, về nhà, Ốm, Tân hơn… Có những truyện, khi đọc nhan đề lên
chúng ta thấy nó như một sự ngẫu hứng như: Trước khi đi Hội An, Ngày thứ hai ở
Hội An, Ngày thứ ba ở Hội An… Bên cạnh đó, đề tài cũng rất đơn giản: chúng
thường xoay quanh những sinh hoạt hằng ngày trong cuộc sống của tác giả: Ốm, Cơ
thể tôi ngày chủ nhật… Và đặc điểm nổi bật của tập thơ chính là cách tác giả phát
hiện và miêu tả lại đời sống một cách sắc sảo, tinh tế.
Ngoài làm thơ, Phan Thị Vàng Anh còn được biết đến với việc viết tạp bút.
Cô đã cho ra mắt quyển “Nhân trường hợp chị Thỏ bông” với bút danh Thảo Hảo
và được in tại Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam. Đó là sự tập hợp những bài tản
văn đã được đăng trong mục “Tôi nghe, đọc, thấy” của Báo Thể thao văn hóa các
năm 2002, 2003 và 2004. Khi đọc những tạp bút của Phan Thị Vàng Anh, người ta
sực tỉnh vì dường như đã vơ tình làm vuột mất đi bao điều thú vị xung quanh cuộc
sống hằng ngày. Các vấn đề được cô sử dụng trong các bài tản văn chủ yếu từ
những điều nhỏ nhặt được cô quan sát kĩ lưỡng như chuyện về văn hóa, thời sự, ứng
xử và vận dụng trong các bài tản văn theo nhiều cách viết và truyền tải khác nhau.
Với 34 bài tản văn, có những bài được cơ thể hiện rất thẳng thắn và tự do (Cụ Rùa
thuộc biên chế nào, Nếu tao là nhà nước…), lại có những bài nói về những điều phi
lý, mặt trái của xã hội (Món nợ ngành Giáo dục, Tơi cũng khơng muốn ăn cắp…),
bên cạnh đó cịn có những bài như (Tơi có thuốc ngủ rồi, khơng có chồng thì đừng
8
mong giàu, Lên đường đi các bác…). Với những bài tản văn được sáng tác bởi Phan
Thị Vàng Anh đều đáng để cho người đọc phải suy ngẫm từ đó tự rút ra cho mình
một bài học mà tác giả muốn gửi gắm thơng qua mỗi tác phẩm.
Bên cạnh đó, Phan Thị Vàng Anh cịn có tài trong lĩnh vực viết kịch bản
phim, phim có tên “Trong phường thành cơng, có làng thành cơng”. Bộ phim dài
33 phút được cơng chiếu vào năm 2004 tại Hà Hội. Đây là bộ phim được xây dụng
hài hước, hóm hỉnh của những người có chức tước, vai vế ở trong khu phố. Trước
đó khu phố chỉ là một ngôi làng, nhưng từ khi lên phố người ta bắt đầu sửa sang lại
đường dây, lắp đặt loa phóng thanh. Và kể từ đó, con người trở dường như được
tiếp thêm “năng lượng”, mọi hoạt động được diễn ra nhẹ nhàng, sinh động hơn.
Cho dù ở lĩnh vực sáng tác thơ, truyện, tạp văn hay phim thì Phan Thị Vàng
Anh cũng thể hiện được cơ là một người đa tài, với sự sáng tạo của mình trong lối
sáng tác dưới góc nhìn chân thành và giản dị. Bên cạnh đó, truyện ngắn của cơ cịn
chứng tỏ được sự sắc sảo, tinh tế của cô thông qua mỗi tác phẩm văn học.
1.2. Miêu tả khái quát về các tập truyện ngắn Khi ngƣời ta trẻ; Ở nhà; Hội chợ
của Phan Thị Vàng Anh
Phan Thị Vàng Anh là nhà văn nữ được nhiều độc giả yêu mến bởi phong
cách sáng tác mang đậm nét đặc sắc riêng, độc đáo và mới lạ. Đối với thể loại
truyện ngắn, ngoài những truyện được đăng trên các báo Tuổi trẻ, Tiền Phong, Văn
nghệ… đem lại sự thành công cho cô. Thì chúng ta phải kể đến các truyện trong ba
tập truyện ngắn (gồm 37 truyện) cũng góp phần khơng nhỏ trong sự nghiệp sáng tác
của cô như:
Tâp truyện Khi người ta trẻ (1993), Nhà xuất bản Hội nhà văn. Gồm các
truyện: Cuộc du ngoạn ngắn ngủi; Chuyện trẻ con; Con trộm; Đi thăm cha; Phục
thiện; Buổi học thêm ở tu viện; Khi người ta trẻ; Si tình; Mười ngày; Một ngày; Lảo
sư; Trị dối; Người có học; Nghỉ hè; Ngày học cuối; Hồng ngủ; Đất đỏ; Kịch câm.
Đây là tập truyện được Hội nhà văn Việt Nam trao thưởng năm 1994. Nó đã đánh
dấu thời gian quan trọng của Phan Thị Vàng Anh trong việc khẳng định tài năng của
mình ở thể loại truyện ngắn.
Tập truyện Hội chợ (1995), Nhà xuất bản Trẻ gồm các truyện: Hội chợ; Con
nuôi; Bỏ trường; Hồi cổ; Nhật ký; Sau những hẹn hị; Tưởng; Quà kỷ niệm; Một
9
năm chỉ có một ngày; Yêu; Hoa muộn; Thương; Mưa rơi; Tháng bảy; Học trị
cưng; Có vợ; Có con. Và truyện ngắn “Hoa muộn” được trao giải nhất cuộc thi viết
truyện cực ngắn dưới một nghìn chữ do Báo Nguyệt san tổ chức. Trong tập truyện
này, Phan Thị Vàng Anh đã phản ánh những vấn đề về đạo đức của con người như:
Con ni, Bỏ trường, Có vợ, Có con; Câu chuyện về tình u đơi lứa trong đó có cả
những cuộc tình tay ba ngang trái, tình yêu đơn phương: Hội chợ, Hoa muộn, Sau
những hẹn hị… Nhìn chung, tập truyện chủ yếu xoay quanh các câu chuyện đời
thường, diễn ra trong cuộc sống hằng ngày của con người, nhưng lại là những vấn
đề đáng được quan tâm trong xã hội đổi mới.
Tập truyện Ở nhà (1994), Nhà xuất bản Trẻ gồm các truyện: Ở nhà; Chị em
họ. Trong tập truyện này, nhân vật trong truyện là những em nhỏ ở lứa tuổi học
sinh. Tuy nhiên, ở truyện ngắn Ở nhà, qua ngòi bút của Phan Thị Vàng Anh các em
được miêu tả như một người trưởng thành cả trong suy nghĩ lẫn hành động nhưng
vẫn không mất đi tính hồn nhiên, trong sáng của tuổi trẻ. Và ở truyện Chị em họ
cũng thế, dù tuổi còn trẻ nhưng Thùy lại có cái nhìn sâu sắc về con người, về cuộc
sống. Thùy cảm thấy trong xã hội con người đối xử với nhau bằng sự giả dối, thực
dụng.
Đến với ba tập truyện ngắn trên của Phan Thị Vàng Anh, chúng ta sẽ được
làm quen và cảm nhận những câu chuyện nhỏ nhặt, gần gũi trong cuộc sống nhưng
đằng sau những câu chuyện ấy lại là vấn đề đáng được quan tâm. Những câu
chuyện về đề tài tình yêu bao gồm: tình u của tuổi học trị, của sinh viên, hay
những chuyện tình đầy ngang trái, trắc trở như trong truyện các truyện: Chuyện trẻ
con, Khi người ta trẻ, Si tình, Mười ngày, Ngày học cuối (Tập truyện Khi người ta
trẻ). Hay các truyện: Hội chợ, Sau những hẹn hò (Tập truyện Hội chợ)… Nhìn
chung, nhân vật trong ba tập truyện được hướng đến đa số là ở lứa tuổi thanh thiếu
niên, họ sống nhưng không biết quý trọng quá khứ, chỉ nghĩ cho hiện tại nhưng lại
không vạch ra cho mình mục tiêu, lý tưởng sống nào cả. Họ sống chỉ đề cao tư
tưởng cá nhân, dửng dưng đối với cuộc sống xung quanh.
Ở truyện ngắn, Phan Thị Vàng Anh đã nhìn thẳng vào hiện thực cuộc sống
để phân tích tâm lý nhân vật, những đề tài về tình u, gia đình… Ngồi ra, cơ cịn
phản ánh về chủ đề đạo đức và thế sự thông qua ba tập truyện Khi người ta trẻ; Hội
10
chợ; Ở nhà. Có những truyện được cơ thể hiện với nội dung đơn giản, diễn ra nhẹ
nhàng như: Truyện ngắn Hồng ngủ, Cuộc du ngoạn ngắn ngủi…. Tuy nhiên, lại có
những truyện có sự rối rắm, phức tạp như truyện ngắn: Kịch câm, phục thiện... Phan
Thị Vàng Anh đã khám phá và thể hiện qua ba tập truyện ngắn gần như đầy đủ về
đời sống xã hội trong thời kỳ đổi mới đầy biến động. Dưới ngòi bút của mình, Phan
Thị Vàng Anh đã thu hút đơng đảo độc giả bằng phong cách sáng tác đặc trưng:
Ngắn gọn nhưng súc tích, những câu chuyện mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Bên
cạnh đó, thơng qua truyện ngắn, nhà văn đã bày tỏ sự trăn trở, lo lắng đối với thế hệ
thanh thiếu niên nói riêng và mọi người nói chung trong xã hội.
1.3. Truyện ngắn và những thành công cơ bản của Phan Thị Vàng Anh
Năm 1975, sau khi miền Nam được hồn tồn giải phóng, đất nước thống
nhất, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội với khí thế một dân tộc vừa giành được
thắng lợi vĩ đại. Tuy nhiên, nước ta đang vừa phải tập trung khắc phục hậu quả nặng
nề của 30 năm chiến tranh. Những năm 80, 90 của thế kỉ trước và đến bây giờ, xã
hội và con người Việt Nam phải trải qua sự thay đổi lớn lao, phải tự xây dựng lại
hình ảnh của chính mình cùng lúc với việc phải tự hình thành từng bước các tiêu chí
mới. Trong tình hình ấy, đời sống văn hóa - tư tưởng cũng có diện mạo và diễn biến
khá phức tạp, thậm chí có khi rơi vào khủng hoảng ở một bộ phận nào đó. Có khi sự
phê phán những hạn chế, bất cập của một thời đã qua được đẩy lên thành sự phủ
định tuyệt đối, quay lưng lại với mọi giá trị truyền thống. Đại hội Đảng lần thứ VI
năm 1986 trong nghị quyết đã xác định rõ: “ Đối với nước ta, đổi mới đang là nhu
cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”; “Phải đổi
mới, trước hết là đổi mới tư duy, chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn”. Tiếp theo
đó là Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị, cuộc gặp gỡ của Tổng Bí thư Nguyễn văn
Linh với đại diện giới nghệ sĩ đã mở ra chặng đường phát triển mạnh mẽ của văn
học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy về cách nhìn hiện thực, cách nhìn con
người và hơn thế nữa là con người dám nhìn thẳng vào sự thật. [23; 37].
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã trở thành con đường đưa đất nước ra khỏi
cuộc khủng hoảng để bước vào một thời kì phát triển mới. Sự suy thối kinh tế đã
được chặn lại và nền kinh tế bắt đầu có sự tăng trưởng với tốc độ ngày càng cao,
dần có sự ổn định và dần được hình thành. Đổi mới ở đây cũng chính là mở cửa
11
tăng cường giao lưu và hội nhập quốc tế trên mọi bình diện về kinh tế, văn hóa,
chính trị. Hơn hai mươi năm từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới ta đã diễn ra rất
nhiều sự thay đổi theo hướng tích cực, làm biến đổi sâu sắc, tồn diện hình ảnh đất
nước. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cịn đối mặt với nhiều nguy cơ và thách thức trên
con đường phát triển xã hội.
Văn học giai đoạn này được nhìn nhận cởi mở hơn, nó gắn liền với cá tính
sáng tạo của nhà văn. Văn chương không phải được nhà văn thần thánh hóa lên mà
nó thể hiện tự nhiên những vấn đế trong xã hội một cách chân thật nhất. Văn
chương được ví như một hiện tượng của đời sống: “Văn chương sẽ sống cái sức
sống tự nhiên của nó. Nhưng tất cả mọi việc trên đời này, văn chương cũng có giới
hạn, có sự sáng lên, sự mất đi, có cái cao cả cũng có cái bình thường”(Lê Minh
Khuê)[56; 25]. Và theo Thái Thăng Long thì văn chương được quan niệm: “Với tôi
văn chương là một tôn giáo, nó khơng mang màu sắc chính trị nào cả. Nó là nỗi đau
khát vọng của con người”[56; 25]. Ở đây, văn học được nhìn nhận theo quan niệm
của tác giả và trong bản chất đặc thù của nghệ thuật ngôn từ. Từ đó, ta thấy nhà văn
đã có ý thức chủ động và sáng tạo trong quá trình sáng tác.
Trong mối quan hệ giữa nhà văn và độc giả, đây là mối quan hệ mật thiết qua
lại với nhau nhưng lại có sự bình đẳng ở cả hai phía chủ thể sáng tạo - độc giả tiếp
nhận và độc giả là người trực tiếp đánh giá các sáng tác của nhà văn. Nguyễn Huy
Thiệp đã xác định sự bình đẳng này rằng: “ Văn chương chỉ là bộ phận của đời sống
mà thơi. Mà đã là đời sống thì phải đối xử như đời thường. Huyễn hoặc chính mình,
coi mình là thiên chức, nâng cái nghiệp lên thành thần bí thì ắt sinh ra chứng coi
thường bạn đọc. Nhân vật, sự kiện trong truyện của tôi chỉ là những mảng, những
khối của cuộc sống. Tôi cho chúng tiềm nhập một cách tự nhiên. Truyện của tơi kết
thúc thường khơng có hậu. Đã có hậu thì răn dạy mất rồi, rằng cuộc đời này sao mà
đơn giản. Mà tơi thì răn dạy được ai. Vậy có lẽ ở đời, ăn nhau là ở cái thật”. [9; 26].
Theo Nguyễn Thị Thu Huệ thì cách nhìn nhận văn chương của cơ giản dị hơn:
“Người viết chỉ nên là một người bạn tâm tình với người đọc, chứ đừng là người
dạy người đọc vì chưa chắc cứ là nhà văn đã giỏi, đã có văn hóa”. [9; 26]. Ngày
nay, người đọc chiếm vị trí quan trọng cho sự thành công của tác phẩm. Bởi lẽ,
12
người đọc có quyền lựa chọn, quyền đánh giá sau mỗi tác phẩm mà họ tiếp cận, chứ
khơng cịn thụ động chọn lựa và đánh giá theo một tiêu chuẩn bắt buộc như trước.
Với sự tư duy nhận thức của nhà văn trong sáng tác chính là động lực giúp
họ có cái nhìn mới mẻ về con người và xã hội trong văn học sau 1975. Nếu ở giai
đoạn trước 1975, con người và cuộc đời được nhìn nhận trong sự hồn hảo của lý
tưởng, thì ở giai đoạn này, những góc khuất của đời sống đã được phản ánh thông
qua văn học. Văn học đã phơi bày tất cả những mâu thuẫn, éo le, hay những câu
chuyện bi hài trong cuộc sống đã được nhà văn đề cập đến. Văn xi sau 1975, bức
tranh về hiện thực khơng cịn hào hùng, được ca ngợi nhiều nữa mà là một hiện thực
rất đời thường, bình dị.
Văn xi năm 1986 ,với sự cách tân nghệ thuật, chúng ta không thể không kể
đến những cách tân trong thể loại truyện ngắn. Nếu ở thời kỳ trước, đóng vai trị
quan trọng nhất là cốt truyện, thì ở giai đoạn này những chi tiết và vấn đề xã hội
đang được quan tâm rộng rãi. Viết theo những dòng suy tưởng là hiện tượng thường
gặp trong truyện ngắn ở thời kỳ đổi mới. Không những đề tài được mở rộng, đa
dạng về cảm hứng sáng tác mà truyện ngắn còn được chú ý bởi bút pháp nghệ thuật
trong sáng tác. Truyện ngắn sau năm 1986, thực sự đã khẳng định được vị thế trong
nền văn học. Trong thời kỳ đổi mới, truyện ngắn đã thực sự thành cơng rực rỡ, và
để có được điều ấy, chúng ta phải nhắc đến những cây bút mở đầu cho sự đổi mới
nền văn học như: Nguyễn Kha, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy
Thiệp… Tiếp đến là những nhà văn thuộc thế hệ hiện đại như: Nguyễn Thị Thu
Huệ, Võ Thị Hảo, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh…
Đối với truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh, cơ đã nhìn thẳng vào hiện thực
xã hội mà phản ánh những vấn đề của cuộc sống. Đó là những băn khoăn, trăn trở
và bề bộn lo toan của con người trong thời đại mới. Bên cạnh đó, nhà văn cũng cho
chúng ta thấy được nguyên nhân khiến cho con người rơi vào trạng thái cô đơn, lạc
lõng. Đặc biệt, những truyện ngắn của cô tuy đơn giản nhưng bên trong lại ẩn chứa
ý nghĩa nhân sinh vô cùng sâu sắc. Trước năm 1975, thì mối quan hệ của con người
trong xã hội rất đơn giản, không đề cao cái tôi cá nhân. Nhưng sau 1975, sự phát
triển của xã hội đã làm cho con người cũng chịu ảnh hưởng. Con người sống trở nên
13
ích kỷ, ghen ghét, đố kỵ nhau… Họ đề cao lợi ích cá nhân, sống chạy theo vật chất,
những đam mê mù quáng của bản thân.
Những năm cuối thế kỷ XX, trong nền văn học Việt Nam hiện đại, có thể
thấy Phan Thị Vàng Anh là một trong số những cây bút trẻ. Tuy nhiên, cơ là một
người có ý thức rõ về vai trò của văn học trong thời kỳ đổi mới đất nước có tầm
quan trọng và ý nghĩa như thế nào đối với con người. Qua đó, cơ đã khơng ngừng
tìm tịi, sáng tạo để sáng tác văn học phục vụ cho nhu cầu của độc giả. Mặc dù Phan
Thị Vàng Anh sáng tác không nhiều so với các nhà văn khác, tuy nhiên, truyện ngắn
của cô lại nhận được sự yêu mến của đông đảo bạn đọc.
Phan Thị Vàng Anh đã khẳng định tài năng của mình trong các lĩnh vực: làm
thơ, truyện, tạp bút và viết kịch bản cho phim tài liệu… Và trong bất kì lĩnh vực nào
thì cơ vẫn ln thể hiện được bản thân với ngòi bút đầy sắc sảo và tinh tế. Đến với
ba tập truyện ngắn Khi người ta trẻ, Ở nhà, Hội chợ của Phan Thị Vàng Anh, chúng
ta sẽ được làm quen và cảm nhận những câu chuyện nhỏ nhặt, gần gũi trong cuộc
sống nhưng đằng sau những câu chuyện ấy lại là vấn đề đáng được quan tâm. Trong
truyện ngắn, Phan Thị Vàng Anh chủ yếu đề cập đến những câu chuyện thế sự và
đời tư của lứa tuổi thanh thiếu niên. Phan Thị Vàng Anh là một trong số những cây
bút có nhiều đóng góp cho nền văn học hiện đại Việt Nam và nhận được nhiều sự
yêu mến từ bạn đọc. Về lĩnh vực truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh được biết đến qua
các tác phẩm được đăng trên các báo: Tuổi trẻ, Tiền Phong, Văn nghệ… So với các
nhà văn khác, Phan Thị Vàng Anh sáng tác không nhiều nhưng cô đã để lại ấn
tượng sâu sắc trong lòng độc giả và đối với giới nghệ thuật phê bình đương đại.
Truyện ngắn Khi Người ta trẻ đã được Hội Nhà văn Việt Nam tặng thưởng năm
1994, cùng truyện ngắn Hoa muộn được trao giải nhất cuộc thi viết truyện cực ngắn
do báo Thế giới mới tổ chức.
Tìm hiểu truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh độc giả như được hịa mình
vào những câu chuyện đời thường trong cuộc sống. Đó là những điều rất nhỏ nhặt,
bình thường, chúng ta có thể bắt gặp trong cuộc sống hằng ngày với những mối
quan hệ bạn bè, gia đình, tình yêu…đã được nhà văn thể hiện rất chân thực. Phan
Thị Vàng Anh đã tạo cho mình một phong cách sáng tác rất đặc trưng: Truyện ngắn
14
gọn, nội dung súc tích mà sắc sảo, chính vì thế, truyện ngắn của cơ được đơng đảo
bạn đọc đón nhận và yêu mến.
15
Chƣơng 2
ĐÓNG GÓP CỦA BA TẬP TRUYỆN NGẮN
KHI NGƢỜI TA TRẺ; Ở NHÀ; HỘI CHỢ TRÊN CÁC PHƢƠNG DIỆN NỘI
DUNG
2.1. Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh với đề tài tình yêu, gia đình thời đƣơng
đại
Sau năm 1975, xã hội Việt Nam đã bước sang một thời đại mới, một thời đại
đang phát triển theo con đường cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Con người
đã thốt khỏi chiến tranh, được sống cuộc sống bình yên. Dù sống ở thời chiến hay
thời bình thì con người ln có những ước mơ, nhu cầu, khát vọng có được một tình
u, cuộc sống hạnh phúc. Phan Thị Vàng Anh là nhà văn trẻ, các sáng tác của cô
đều chứa đựng những vấn đề hiện thực của thời đại mới ấy. Với ngịi bút sắc sảo,
lối sáng tác bình dị, các tác phẩm của cô đã nêu lên được những nhu cầu, khát vọng
trong cuộc sống mà nổi bật là vấn đề về tình yêu, gia đình thời đổi mới. Những câu
chuyện về tình u, gia đình được cơ sáng tác là những câu chuyện, những sự việc
rất nhỏ nhặt trong cuộc sống, tuy nhiên nó lại chứa đựng được nhiều ý nghĩa nhân
văn sâu sắc.
Trong truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh, đề tài tình u được cơ đưa vào
một cách rất chân thực, hồn nhiên. Có thể nó chưa phải là mơt tình u mãnh liệt,
nồng cháy nhưng ở đây nó lại thể hiện bằng những hành động, cử chỉ, lời nói tự
nhiên và ngây thơ. Truyện Cuộc du ngoạn ngắn ngủi là một điển hình. Vào một
ngày hè, trong phường tổ chức cho trẻ con đi chơi liên tỉnh. Trong chuyến đi ấy,
Tuyền – một cô gái hoạt bát, đáng yêu đã tham gia rất nhiệt tình và đặc biệt cơ
khơng hiểu vì sao lại tham gia vào buổi cắm trại ấy, “có lẽ cơ đi để khẳng định:
những cái liếc mắt kín đáo, những câu nói dài khó hiểu, những cú đỏ mặt của anh
bí thư Đồn phường ngày thường là có lý do đàng hồng, chẳng phải vu vơ mà nó
thế…” [4; 17]. Qua đó, chúng ta có thể thấy được Tuyền cũng đã suy nghĩ và mong
ước về tình u. Tuy nhiên, nó vẫn cịn có chút e ngại, ngây thơ, trẻ con của tuổi
mới lớn. Cịn về Thái – anh bí thư Đồn lại có cử chỉ: “Anh lăn vào tấm trải, nửa
nằm nửa ngồi ôm cái đàn nhìn Tuyền và hát: Em đã cho tơi, cho tơi bầu trời…”[4;
8]. Dù đó chỉ là hành động nhỏ nhưng nó lại bộc lộ được tâm tình của anh dành cho
16
Tuyền. Cịn Tuyền, có lúc“cơ dựa vào gốc trứng cá, căm phẫn nheo mắt nhìn trời
rồi liếc anh bí thư vẫn đang thẩn thờ nhổ cỏ. Như anh đấy, tình cảm cứ giấm giấm
giúi giúi như ăn trộm, việc ma mãnh cũng sợ dư luận”[4; 12]. Hay khi cuối ngày ra
về, họ lại có những câu nói thể hiện sự quan tâm lẫn nhau “Để tôi xách cho, Tuyền
mệt rồi!”; “Anh có mệt khơng?” “Anh gật đầu thảng thốt nhìn cô. Tuyền cười,
nghĩ: Khốn nạn, mất rồi mới biết là đã có”[4; 12]. Chỉ bằng những cử chỉ, câu nói
đơn thuần nhưng qua ngòi bút của Phan Thị Vàng Anh, cơ đã nhìn nhận sự việc một
cách hết sức tinh tế.
Hay trong tác phẩm Chuyện trẻ con cũng vậy, tình u được nhìn dưới góc
nhìn của tuổi đơi mươi rất trong sáng và hồn nhiên. Hồn – một cơ gái dù tuổi đã
đôi mươi, tuy nhiên, suy nghĩ của cô rất ngây thơ. Sau khi đọc được một quyển sách
nói về tình yêu, vì chênh lệch tuổi tác nên họ có cách xưng hơ là “ơng” và “em”. Từ
đó, cơ lại có ý nghĩ táo bạo và bất ngờ là cơ cũng tìm cho mình một người u lớn
tuổi để có thể xưng hơ như trong truyện. Cơ lục lọi trí óc tìm cho mình một người,
và cơ đã tìm được chú Bằng – bạn của ba cô. Cuối cùng, cô nhận ra, chú không thể
là bồ của cô được. Cơ hỏi mẹ “Nếu bồ mình già q thì mình gọi là ông, xưng là em
hả?” Mẹ cô trả lời “Mày bồ với người lớn để làm gì? Để con rể lại là bạn của tao
và bố mày hả?” [4; 17]. Và rồi sau đó, cơ lại cảm thấy “hình như tơi lại có tình
cảm gì đó dành cho Tường. Rất dịu dàng, mơ hồ…không thể hiểu nổi”[4; 17].
Tường thua cơ vài tuổi, lúc đầu Hồn chỉ xem Tường như một cậu em út. Dù vậy
nhưng trong Hồn lại có suy nghĩ trái ngược “Có lẽ cả tơi và Tường đều sợ người
kia đốn được tình cảm của mình cho nên có ngày, cả hai cùng vui quá mức, có
ngày lại lạnh như tiền”[4; 18]. Cho đến khi Tường thể hiện tình cảm của mình dành
cho Hồn ngày một càng rõ, thì trong lịng Hồn lại cảm thấy rã rời: “Thơi thế là
hết, chẳng cịn gì là bí mật nữa!” Chính lúc ấy, Hồn lại thốt ra câu nói “Tường trẻ
con lắm, đừng bao giờ làm cái trò này nữa nhé!”[4; 19]. Cũng vì câu nói ấy mà sau
đó Hồn cảm thấy hối hận vì đã thốt ra một câu nói điên rồ. Nó khiến cơ phải lo
lắng, suy nghĩ, cơ lo sợ “Có lẽ, chẳng bao giờ Tường tỏ tình lần thứ hai với tơi”[4;
20]. Kể từ đó, ngày nào cô cũng mong vào trường để được gặp Tường, để có thể cãi
nhau, vui đùa như trước. Hồn khơng thể tâm sự cùng ai, “Ngày mai, tôi sẽ mua
17
một quyển sổ làm nhật ký”[4; 20]. Có thể, đây sẽ là một kỉ niệm đẹp trong thời sinh
viên của Hồn mà chẳng bao giờ cơ có thể qn được mối tình đầu chớm nở ấy.
Tuy nhiên, khơng phải ai cũng có được tình u đẹp, khơng phải ai cũng
được hưởng hạnh phúc. Mà trong tình u thì mn màu mn vẻ, những mối tình
khơng rõ ràng, dứt khốt nó khiến con người ta phải lao tâm, khổ trí vì nó. Chẳng
hạn trong truyện ngắn Khi ngƣời ta trẻ, dù biết rằng Vỹ đã có vợ nhưng Xuyên vẫn
yêu anh “Rồi cô cũng dừng lại. Người cô yêu (hơn là người u cơ) cả tính tình lẫn
dáng vẻ đều cịn rất trẻ con”[4; 42]. Cô thương anh rất nhiều, khi được hỏi “Sao em
có thể chịu đựng được cảnh một gà hai mề thế hả Xuyên?” cô chỉ cười nhạt rồi trả
lời: “Nó có phải chồng em đâu, chơi cho vui vậy thôi. Đi với ai cũng được, ngủ với
ai cũng được, em khơng quan tâm!”[4; 43], nói thì nói vậy, thế nhưng cơ lại trở nên
trầm lặng, ít nói “Thế giới sách vở của cơ thu lại bé tí, cơ làm những bài thơ tình
quanh quẩn chẳng ai thèm đăng, cô viết những trang nhật ký u uẩn chỉ ba nhân vật:
cô, Vỹ, Ngân. Cô không dám đề nghị một sự chọn lựa thẳng thừng ở Vỹ, sợ rồi Vỹ
sẽ thẳng thừng chọn Ngân khi bị dồn vào chân tường”[4; 43]. Vì tình yêu của mình,
dù biết trước kết quả sẽ không được như mong muốn, tuy nhiên, Xuyên vẫn không
từ bỏ, nhưng cô lại chẳng dám đối diện với nó. Chúng ta cũng có thể nhận thấy,
trong tình yêu, những thanh niên trẻ tuổi đã sống hết mình vì nó, sự mãnh liệt, khát
khao về hạnh phúc đơi khi khiến họ có những hành động nơng nỗi, suy nghĩ bồng
bột theo bản năng và cảm tính mà khơng màng đến hậu quả như nhân vật Xuyên, cô
đã tự tìm đến cái chết để giải thốt cho cuộc đời của mình: “Cơ tự tử bằng thuốc
ngủ. Khơng ai cứu được vì cơ là sinh viên y và hay đọc tiểu thuyết, nên cô dùng
thuốc với liều chết thật chắc chắn, ở một nơi khơng ai có thể can thiệp được”[4;
41]. Tình u là một con dao hai lưỡi, nó có thể làm cho con người ta trở nên tươi
vui, u đời hơn, nhưng cũng chính nó lại dồn người ta vào con đường khơng lối
thốt, để rồi phải đánh đổi bằng chính sự sống của bản thân. Qua số phận cay đắng,
ngắn ngủi của nhân vật, Phan Thị Vàng Anh như muốn cảnh tỉnh mọi người, đặc
biệt là giới trẻ, cần phải tỉnh táo trong chuyện tình cảm để có thể làm chủ trong
hành động của bản thân. Đồng thời, tác giả còn muốn thể hiện ý nghĩa, con người
dù mạnh mẽ đến đâu nhưng họ vẫn luôn muốn tìm cho mình một chỗ dựa tinh thần
và đặc biệt họ khát khao có được tình u lâu bền và vững chắc.
18
Hay trong truyện ngắn Si tình, Phan Thị Vàng Anh cũng đã thể hiện xuất sắc
ngòi bút tinh tế của mình. Vào đầu tác phẩm hai nhân vật trong truyện được tác giả
giới thiệu rất thân thiết, tình cảm, quá trình hai người mỗi khi gặp nhau như “kể
chuyện ở cơ quan anh, ở lớp em cho nhau nghe, đã chửi người này, khen người nọ,
xong đến chuyện hai đứa, lại giận nhau, rồi khóc, rồi xin lỗi... và đến chuyện cười,
những chuyện không vui lắm cũng cười”[4; 28]. Thân nhau, quen thuộc nhau là thế,
nhưng khơng hiểu vì lý do gì hai người khơng cịn gặp nhau sau một lần hẹn hị
nhưng anh khơng đến. Mẹ cơ thì lo cho mối tình của hai người, mẹ hỏi: “Con có
đến cơ quan tìm nó khơng? – Để làm gì? Em thấy, thật chẳng để làm gì. Mẹ dè dặt
mà giận: Nó tệ q! Em phì cười: Tệ gì, người ta khơng u, ép sao được”[4; 49].
Nhưng những câu nói của cô cũng chỉ là những câu mà cô tự trấn an bản thân mà
thơi. Cơ khơng hề trách móc anh điều gì, nhưng càng nghĩ cơ lại càng tủi thân “em
cũng đau đớn nhận ra chuyện tình của mình gồm tám phần nghĩa, hai phần tình.
Thật khốn nạn cái thân em, từ bé vẫn mơ mộng một mối tình với tám phần tình, hai
phần nghĩa!”[4; 50]. Và dường như trong mọi hoạt động của cơ hình ảnh của anh
ln nằm trong tâm trí, mọi thứ xung quanh cơ đều làm cơ nhớ đến anh từ việc thấy
tổ con tị vị, cơ vo mạng nhện nhét vào tổ của nó “Có lần, thấy em làm thế, có điều
, em nhét bằng cơm nguội, anh bảo: Em ác quá! A, anh là người luôn mắng em
ác”[4; 50]. Đến chuyện đọc một quyển sách hay thấy gà nhà đẻ khắp nơi, cô cũng
nghĩ đến là sẽ kể cho anh nghe. Hay những buổi hẹn hị vào thứ bảy cuối tuần của
đám bạn cơ, nó cũng làm cho cơ nhớ anh đến da diết: “Trời ơi, tụi nó vơ tình nhắc
lại thói quen của hai ta, anh và em căm ghét ngày thứ bảy, nó chật chội, đơng đúc,
ai cũng như ai. Và em chọn ngày thứ tư làm thứ bảy để hẹn hò”[4; 52]. Dù phải giữ
cho riêng mình biết bao nhiêu là kỷ niệm của hai đứa nhưng điều đó khơng làm cô
cảm thấy tuyệt vọng. Trái lại, cô lại tạo cho bản thân một thói quen để nhớ về anh
“Tám giờ ba mươi tối, ngày nào cũng đúng giờ ấy, em dành mười lăm phút để mở
lại báo cũ xếp thành từng chồng lớn trong nhà, em tìm ở trang sáng tác cái tên X.
Hay những gì liên quan đến X. rồi em cắt ra, tỉa góc trịn, phủi bụi, cho vào một cái
phong bì to dán bằng bìa cứng, mà ở một góc, em đề chữ tắt, tên anh”[4; 54]. Mặc
dù, những việc làm ấy không mang lại cho cô một kết quả hồn hảo nhưng nó lại
giúp cơ vơi đi phần nào nỗi buồn trong tình yêu.
19