Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Đề tài: Những đóng góp của nghành thương mại trong quá trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới của VN  

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.85 KB, 23 trang )

Mục lục
A-Lời Mở Đầu
B-Cơ sở lí luận
I.Nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1-Tư duy của Đảng về nền kinh tế thị trường.
1.2 Nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
a_Đặc trưng
b_Mục Tiêu
II. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế thế giới
1. Khái niệm toàn cầu hóa
2. Tính tất yếu của toàn cầu hóa
3. Lợi ích và hạn chế của toàn cầu hóa
C. Những đóng góp của ngành thương mại Việt Nam trong quá trình
hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới
I. Quá trình hội nhập kinh tế thế giới của VN
1. Tiến trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam
2. Những thành tựu đã đạt được trong quá trình hội nhập KT TG
II. Thực trạng hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam
1. Thuận lợi
2. Khó khăn
III. Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong quá trình hội nhập
D.Kết luận:
A-LỜI MỞ ĐẦU:
Thương mại đã ra đời rất lâu và nó đã tồn tại qua các phương thức
sản xuất xã hội. Xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá. Vì thế hoạt động
thương mại vừu chịu sự chi phối của các quy luật của nền sản xuất hàng
hoá,vừa chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế vốn có của mỗi chế độ xã
hội – Chính trị mà nghành thương mại đang hoạt động. Sản xuất là điểm
xuất phát, tiêu dùng là điểm cuối cùng còn thương m ại :Thực hiện chức
năng phân phối và trao đổi là khâu trung gian.Với vị trí này thương mại
một mặt chịu sự chi phối của sản xuất và tiêu dùng, mặt khác nó tác động


tích cực và chủ động trở lại đối với sản xuất và tiêu dùng. Thương mại vừa
đại diện cho người tiêu dùng để tác động đến sản xuất,vừa đại diện cho sản
xuất để tác động đến tiêu dùng, góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở
rộng phát triển, nó đóng vại trò như một mắt xích trong bộ máy kinh tế.
Sự hát triển lực lượng sản xuất toàn cầu,sự phát triển khoa học công
nghệ thông tin như vũ bão,và xét về bản chất sự phát triển các mối quan hệ
kinh tế thị trường, theo đó luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của uỷ
ban của liên hợp quốc về thương mại thông qua ngày 26/6/1985 đã xác
định nội dung của hoạt động thương mại theo nghĩa rộng “bao gồm hầu
như tất cả các quan hệ liên quan đến hoạt động kinh tế như : Giao dịch,
mua bán,dịch vụ …”.Tuy nhiên xuất phát từ yêu cầu, nội dung và phạm vi
nghiên cứu của chương trình học (giáo trình thương mại 1)nên trong tiểu
luận này chỉ đề cập đến vấn đề hoạt động theo nghĩa hẹp : “thương mại
thực hiện chức tổ chức và lưu thông hàng hoá” mà cụ thể của nội dung cần
nghiên cứu là. “ Vai trò của ngành thương mại trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam”.
B-Cơ sở lí luận
I.Nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1-Tư duy của Đảng về nền kinh tế thị trường.
1. _Khái niệm kinh tế thị trường
Theo quan điểm của Samuelson trích trong kinh tế học thì: “ Một nền kinh tế
thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân
và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là một phương
tiện giao thông để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân
khác nhau, không có bộ não trung tâm nó vẫn giải được bài toán mà máy
tính lớn nhất hiện nay cũng không thể giải nổi. Không ai thiết kế ra nó. Nó tự
xuất hiện và nó đang thay đổi cũng như xã hội loài người.”
Theo quan điểm của đảng ta, một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ
bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường. Nói
cách khác nền kinh tế thị trường chính là nền kinh tế hàng hoá chịu sự điều

khiển của cơ chế thị trường. Nền kinh tế này khác với nền tập trung ở chủ thể
xác định các vấn đề cơ bản của nền kinh tế mà nền kinh tế tập trung chủ thể
này là nhà nước thông qua các mệnh lệnh hành chính. Chính sự khác biệt này
tạo ra sức mạnh và là động lực cho nền kinh tế phát triển.Tại Việt Nam kể từ
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã xác định xây dựng nền kinh
tế thị trường nhưng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tức là có sự can
thiệp của nhà nước vào nền kinh tếnhưng không phải can thiệp vào nền kinh
tế theo kiểu mệnh lệnh hành chính mà can thiệp thông qua các chính sách
kinh tế vĩ mô nhằm ổn định nền kinh tế và tạo điều kiện cho mọi thành phần
kinh tế tham gia vào sản xuất và kinh doanh. Sự can thiệp này được xem là
cần thiết nhằm thiết lập khuôn khổ pháp luật phù hợp, sữa chữa những
khuyết tật của thị trường, đảm bảo sự công bằng xã hội và ổn định nền kinh
tế vĩ mô ( Kinh tế học –Samuelson). Đây là lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp đã
được Samuelson đưa ra/ Theo ông phát triển kinh tế phải dựa trên hai bàn
taylà cơ chế thị trường và nhà nước: “điều hành một nền kinh tế không có cả
chính phủ lẫn thị trường thì cũng như định vỗ bằng một bàn tay”. Tuy nhiên
trong hoàn cảnh nước ta thì sự can thiệp của nhà nước còn đóng vai trò giữ
cho nền kinh tế đi theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2 Nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
a_Đặc trưng:
Hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có các đặc trưng
sau :
• Là một nền kinh tế hỗn hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị
trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước. Các quy luật khách quan của nền
kinh tế thị trường được tôn trọng, các mạch máu kinh tế và các ngành trọng
yếu (khai mỏ, ngân hàng, quốc phòng ) được nhà nước quản lý. Các thông lệ
quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được vận dụng một cách hợp lý.
Nền kinh tế chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
• Là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế

tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế. Đất đai
thuộc sở hữu toàn dân
• Là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội
nhập kinh tế thành công.
• Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối
lại qua phúc lợi xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo
hướng nâng cao hiệu quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa các địa phương. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã
hội; công bằng xã hội được chú ý trong từng bước, từng chính sách phát
triển.
• Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.
• Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân
được khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.
b_Mục Tiêu
Mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân lao động và tất cả
các thành viên trong xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền
với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý
và phân phối.
II/ Tính tất yếu của hội nhập kinh tế thế giới.
1. Khái niệm toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa
các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế, v.v trên
quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được
dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại
hay "tự do thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy
các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại,

kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hoá.
2. Tính tất yếu của toàn cầu hóa.
Bước vào thế kỉ XXI , tình hình thế giới có những biến đổi sâu sắc và mạnh
mẽ. Khoa học công nghệ có những bước nhảy vọt chưa từng thấy, nền kinh tế
tri thức sẽ chiếm vị trí càng lớn mạnh trong quá trình phát triển. Toàn cầu
hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế tất yếu trong
quan hệ kinh tế hiện nay.
Hội nhập, tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế không chỉ tạo ra những điều
kiện thuận lợi mà cả những khó khăn thách thức cho phát triển kinh tế xã hội
của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong xu thế đó, ở các mức độ khác nhau các
nước không thể không tham gia hội nhập bởi lẽ toàn cầu hóa đã lôi cuốn các
nước bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy vừa hợp tác, vừa tăng sức
ép cạnh tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế.
Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả
trong kinh tế, văn hóa và bảo vệ môi trường phòng chống tội phạm thiên tại
và các đai dịch Các công ty xuyên quốc gia tiếp tục cấu trúc lại hình thành
những tập đoàn khủng lồ chi phối các lĩnh vực kinh tế , vì vậy các quan hệ đa
phương không chỉ giới hạn ở quan hệ lợi ích kinh tế mà còn lợi ích khác,
những liên kết các nước đang phát triển cùng đấu tranh vì sự toàn cầu hóa,
chân chính đấu tranh lại sự áp đặt không công bằng, thiếu bình đẳng của các
nước phát triển và tập đoàn xuyên quốc gia.
Như vây, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là một xu hướng tất yếu và là
yêu cầu khách quan đối với bất kì một nước nào trên con đường phát triển
trong điều kiện thế giới hiện nay. Thực chất hội nhập là con đường đấu tranh
để giành thị trường hàng hóa, vốn kĩ thuật, kinh nghiệm tham gia phân công
lao động quốc tế để khai thác tiềm năng bên ngoài kết hợp phát huy tối đa
nội lực, không ngừng nâng cao sức mạnh về kinh tế và vị thế quốc gia, trước
tác động mạnh mẽ của xu thế đã khiến cho không một quốc gia nào có thể
đứng ngoài xu thế đó.
3. Lợi ích và hạn chế của toàn cầu hóa.

3.1. Lợi ích
a.Thúc đẩy mạnh mẽ lực lượng sản xuất
Toàn cầu hóa, trước hết là toàn cầu hóa về kinh tế, bắt nguồn từ sự phát triển
của lực lượng sản xuất, từ tính chất xã hội hóa của sản xuất trên phạm vi
quốc tế. Trước đây, khi phân tích về quá trình quốc tế hóa sản xuất tư bản
chủ nghĩa, C. Mác và Ph. Ăng - ghen đã vạch rõ : "Vì luôn bị thúc đẩy bởi nhu
cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp toàn cầu.
Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối
liên hệ ở khắp nơi Do bóp nặn thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm
cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới "
Điều này có nghĩa là từ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trong
nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, cùng với sự thôi thúc của động lực đạt
lợi nhuận cao của giai cấp tư sản, xu thế toàn cầu hóa đã xuất hiện. Khi đã
xuất hiện, nó tác động trở lại làm cho lực lượng sản xuất trên thế giới nói
chung và ở các nước đang phát triển nói riêng có điều kiện phát triển mạnh
mẽ. Ngày nay, thực tế xã hội tiếp tục khẳng định tính đúng đắn của những
quan điểm trên của C. Mác và Ph. Ăng-ghen trong điều kiện mới.
Với mục tiêu giành lợi nhuận tối đa, thông qua các mối liên hệ quốc tế rộng
rãi do toàn cầu hóa đưa lại, các nước phát triển đang tìm cách đầu tư vào
các nước đang phát triển. Ngược lại, để đưa đất nước tiến nhanh, các nước
đang phát triển cũng có nhu cầu thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn từ nước
ngoài. Sự gặp gỡ của hai nhu cầu này làm cho dòng chảy về vốn, công nghệ,
dịch vụ từ các nước phát triển chuyển vào các nước đang phát triển ngày
càng tăng. Chẳng hạn, tính theo tỷ lệ GDP, luồng vốn thâm nhập vào các nước
đang phát triển trong 10 năm từ 1986 đến 1996 đã tăng khoảng 2 lần Riêng
Trung Quốc, trong 3 năm 1993 - 1995 đã nhận được 110 tỉ USD, vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm khoảng 20% tổng đầu tư của cả nước. FDI
cung cấp 34,7% đầu tư cho hàng xuất khẩu và 28,7% đầu tư cho công nghiệp
của Trung Quốc năm 1994 Thực tế này cũng cho thấy, những nước đang
phát triển bứt lên được về kinh tế là những nước đã tận dụng được các cơ

hội và thu hút được những khoản FDI lớn nhất.
Để sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, bắt buộc các nước đang phát triển phải
nâng cao trình độ về mọi mặt, đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản
lý, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động. Tất cả
những điều đó đưa đến một kết quả là : các nước phát triển thì ngày càng
giàu có, còn các nước đang phát triển cũng phát triển mạnh mẽ về lực lượng
sản xuất. Sự phát triển của các nước NICs, đặc biệt là những "con rồng" châu
Á trong mấy thập kỷ qua đã chứng minh điều đó.
b. Khai thác mọi nguồn lực trong và ngoài nước, đẩy mạnh sự phát
triển, dần dần thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến
Toàn cầu hóa làm cho thị trường mỗi quốc gia được mở rộng ra phạm vi
quốc tế, nhờ đó quan hệ mua bán hàng hóa và dịch vụ được tăng lên nhanh
chóng. Thông qua thị trường mở cửa, các quốc gia có thể trao đổi những
thành tựu mới của khoa học - công nghệ hiện đại, làm cho nền khoa học - kỹ
thuật và sản xuất trong nước phát triển mạnh mẽ. Các nước đang phát triển
nói riêng cũng có điều kiện khai thác tối đa những thế mạnh của đất nước,
dân tộc ; tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế theo hướng
chuyên môn hóa để thu lợi nhuận cao, hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại, sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước ; đồng thời thu hút những gì cần
thiết và có lợi từ bên ngoài, phục vụ cho sự phát triển đất nước.
Trong quá trình mở cửa, hội nhập, nếu các nước đang phát triển có đường
lối, chính sách đúng đắn, phù hợp và biết khai thác mặt tích cực của toàn cầu
hóa, tranh thủ lợi thế so sánh riêng, tận dụng cơ hội thu hút được nguồn đầu
tư lớn và các nguồn lợi khác của thế giới, thì sẽ tạo được sự phát triển với tốc
độ nhanh. Ngày nay, nhờ xu thế toàn cầu hóa, với chính sách tăng cường mở
cửa, hội nhập của nhiều quốc gia, các nước đang phát triển còn có thể lựa
chọn, ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật và dây chuyền công nghệ
tiên tiến để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, nâng cao năng lực của nền
kinh tế nhờ phương thức đi tắt, đón đầu các thành tựu khoa học - công nghệ
mới nhất. Chính bằng cách đó, một số nước đang phát triển như Trung Quốc,

Hàn Quốc, Xin-ga-po, Thái Lan đã tạo được sự phát triển nhanh, bền vững
và liên tục, đem lại sự thay đổi lớn lao cho đất nước, thu hẹp dần khoảng
cách chênh lệch, từng bước tiến kịp các nước tiên tiến.
c. Gìn giữ hòa bình, ổn định để phát triển
Toàn cầu hóa đã tạo ra sự gắn bó hữu cơ, sự liên kết, hợp tác, sự phụ thuộc,
ràng buộc lẫn nhau về nhiều mặt giữa các quốc gia trong quá trình mở cửa,
hội nhập. Chính trong môi trường liên kết, hợp tác đó, các quốc gia có điều
kiện hiểu biết và gần gũi nhau hơn. Nhờ không khí ngày càng thân thiện do
lợi ích của tất cả các bên trong quá trình liên kết, hợp tác tạo ra, toàn cầu
hóa đã đem lại khả năng thuận lợi cho việc giữ gìn hòa bình, ổn định để phát
triển ở tất cả mọi nước. Không có hòa bình và ổn định sẽ không có bất kỳ một
sự phát triển nào. Ngày nay, xu thế hòa bình, hợp tác để phát triển trở thành
xu thế chủ đạo của quan hệ quốc tế. Sự thăng hoa của xu thế này là một yếu
tố quan trọng làm cho quá trình toàn cầu hóa tiến triển thuận lợi.
Những cơ hội mà toàn cầu hóa tạo ra cho các nước đang phát triển là khách
quan và rất to lớn. Song, đó mới chỉ là khả năng. Khả năng này có biến thành
hiện thực hay không, hoặc được hiện thực hóa tới mức nào, điều đó còn tùy
thuộc vào nhân tố chủ quan về năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn
của mỗi quốc gia cụ thể. Không phải có cơ hội thuận lợi, thì nước nào cũng có
thể phát triển được.
3.2. Hạn chế
a. Mâu thuẫn và cạnh tranh quốc tế quyết liệt, nguy cơ tụt hậu gay gắt
Toàn cầu hóa là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa các thành viên
tham gia, chủ yếu là giữa các nước đang phát triển và chậm phát triển với
các nước phát triển (đứng đầu là Mỹ). Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa
là tham gia vào việc định ra và thực hiện "luật chơi chung". Để đảm bảo cho
các nước đều có lợi ích trong mở cửa, hội nhập, đòi hỏi các bên tham gia phải
hợp tác với nhau. Do có ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường, kinh nghiệm
quản lý và thực lực chi phối thị trường thế giới trong quá trình toàn cầu hóa,
các nước phát triển luôn nắm quyền quy định và khống chế những luật chơi

chung có lợi cho họ. Mặc dù "luật chơi" có vẻ "công bằng", nhưng thực chất
chúng luôn đem lại lợi thế cho những kẻ mạnh (các nước tư bản phát triển và
các công ty siêu quốc gia). Các nước đang phát triển, các nước nghèo thường
phải gánh chịu những điều bất lợi, thiệt thòi về phía mình. Trong quá trình
toàn cầu hóa, để thu được nhiều lợi ích, các nước phát triển luôn tìm mọi
cách chèn ép các nước đang phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Về kinh tế, các nước phát triển dùng sức mạnh để ép các nước đang phát
triển phải chấp nhận những điều khoản có lợi cho mình, tạo nên những bất
lợi cho các nước đang phát triển, khiến các nước này phải lệ thuộc về kinh tế
ngày càng nhiều.
Về chính trị, thông qua toàn cầu hóa các nước phát triển cũng buộc các nước
đang phát triển phải lệ thuộc vào họ. Việc Mỹ và NATO buộc Nam Tư phải từ
bỏ chủ quyền để đổi lấy khoản viện trợ tài chính, việc Mỹ thực hiện chính sách
cấm vận đối với Cu-ba và một số nước khác minh chứng rõ ràng cho điều đó.
Toàn cầu hóa đã tạo ra mâu thuẫn gay gắt giữa các nước đang phát triển với
các nước phát triển trong quá trình mở cửa, hội nhập. Không những thế, quá
trình toàn cầu hóa còn đặt các nước đang phát triển trước thách thức của sự
cạnh tranh quyết liệt. Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa là tham gia vào
thị trường thế giới. Đặc trưng cơ bản của thị trường là cạnh tranh. Cơ chế thị
trường tư bản chủ nghĩa điều tiết nền kinh tế theo qui luật "cá lớn nuốt cá
bé", "mạnh được, yếu thua", "kẻ nhanh sẽ chiếm phần người chậm, kẻ mạnh
chèn ép kẻ yếu" Để tồn tại và phát triển, các nước đang phát triển phải tìm
cách đổi mới về đường lối phát triển kinh tế, đổi mới cơ chế hoạt động, không
ngừng nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật, tổ chức - quản lý và công nghệ
hiện đại cho phù hợp với điều kiện hội nhập. Nếu không làm được điều đó thì
quá trình toàn cầu hóa sẽ đẩy các nước đang phát triển tới nguy cơ ngày
càng lệ thuộc, mất dần tính độc lập tự chủ, từng bước trở thành bãi thải công
nghệ cho các nước phát triển, làm cho đất nước tụt hậu ngày càng xa. Những
doanh nghiệp của các nước này nếu không nâng cao trình độ về mọi mặt,

tăng cường sức cạnh tranh, sẽ có nguy cơ phá sản và bị thôn tính. Quá trình
toàn cầu hóa thực sự đặt các nước đang phát triển trước một cuộc cạnh
tranh quyết liệt. Ở đây, thị trường cũng không kém phần khốc liệt hơn chiến
trường.
b. Phân hóa giàu nghèo giữa các quốc gia và trong nội bộ mỗi quốc gia
Toàn cầu hóa phân phối không đều lợi ích và cơ hội phát triển cho các quốc
gia. Do có tiềm lực kinh tế áp đảo và có ưu thế về nhiều mặt, các nước phát
triển đang nắm vị trí chủ đạo trong quan hệ phân công quốc tế và trong tiến
trình toàn cầu hóa. Họ luôn tìm cách giành lấy những lợi thế kinh tế về phía
mình, đẩy những bất lợi về phía các nước đang phát triển. Chính điều đó đã
tạo ra sự phân phối lợi ích không đều, làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo
giữa các nước và ngay trong nội bộ mỗi nước. Thực tế cho thấy, nếu như
toàn cầu hóa đem lại cho các nước phát triển những nguồn lợi khổng lồ và
tăng nhanh sự giàu có của họ một cách vô độ, thì nó cũng làm cho nhiều nước
đang phát triển ngày càng tụt hậu và phần lớn dân chúng trên thế giới ngày
càng nghèo đi.
"Báo cáo về phát triển con người" năm 1999 của Liên hợp quốc đã chỉ rõ :
Các nước phát triển với số dân khoảng 1,2 tỉ người, chiếm 1/5 dân số thế giới
nhưng chiếm 86% GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 đầu tư trực
tiếp nước ngoài và khống chế 75% đường dây điện thoại thế giới. Trong khi
đó các nước nghèo cũng chiếm 1/5 dân số thế giới nhưng chỉ chiếm 1% mỗi
lĩnh vực trên. Toàn cầu hóa làm cho sự phân hóa giàu nghèo giữa người với
người ngày càng tăng : Sự chênh lệch thu nhập của 20% người giàu nhất thế
giới và 20% người nghèo nhất thế giới năm 1960 là 30/1, đến năm 1990 là
60/1 và năm 1997 là 74/1. Đại hội đặc biệt của Liên hợp quốc ở Giơ-ne-vơ
tháng 6-2001 cũng chỉ ra rằng : Chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người
của nước giàu nhất (Thụy Sĩ, 40 800 đô-la) so với nước nghèo nhất (Ê-ti-ô-pi,
100 đô-la) hiện nay là 408 lần, trong khi hồi đầu thế kỷ XX mới là không quá
10 lần. Tài sản của 3 người giàu nhất thế giới nhiều hơn tổng giá trị tài sản
quốc dân của 60 nước nghèo.

Không những thế, toàn cầu hóa cũng gây ra sự phân phối không công bằng
trong nội bộ mỗi quốc gia. Ngay tại Mỹ, vẫn còn 12% số dân, phải sống dưới
mức nghèo khổ.
c. Nguy cơ làm mất dần bản sắc văn hóa dân tộc
Quá trình toàn cầu hóa làm tăng giao lưu quốc tế và tính đồng nhất trên
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Giống như toàn cầu hóa kinh tế, toàn cầu
hóa văn hóa cũng tác động cả tích cực và tiêu cực đến mọi nước tham gia
quá trình hội nhập. Văn hóa của các nước phát triển sẽ ảnh hưởng mạnh đến
văn hóa các nước đang phát triển. Điều quan trọng là mỗi nước biết chủ
động đón nhận nó để có những đối sách thích hợp nhằm phát huy những mặt
tích cực, khắc phục những mặt tiêu cực trong quá trình hội nhập.
Quá trình toàn cầu hóa, sự nối mạng thông tin toàn cầu tạo điều kiện cho việc
du nhập những tư tưởng và lối sống lai căng, thiếu lành mạnh, thoát ly bản
sắc dân tộc. Nhiều giá trị văn hóa riêng của các nước đang phát triển bị xói
mòn và mất dần ảnh hưởng, thay vào đó là sự chấp nhận những "giá trị
chung". Nền văn hóa dân tộc bị tấn công, gặm nhấm, bị "đồng hóa" bởi văn
hóa bên ngoài. Chưa bao giờ ở các nước đang phát triển, những giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc lại phải chịu những tác động xói mòn mạnh mẽ,
gay gắt như thời kỳ này. Nhiều tệ nạn xã hội như cờ bạc, ma túy, mại dâm,
buôn lậu, ma-phi-a, bạo lực, gian lận thương mại phát triển như các đại
dịch thời Trung cổ. Tại nhiều nơi, nhất là các thành phố, thị xã, thị tứ đã xuất
hiện khá phổ biến lối sống thực dụng, chạy theo tiện nghi vật chất, tôn thờ
đồng tiền, sùng ngoại, coi nhẹ những giá trị lý tưởng, đạo đức của cha ông
Nhiều sinh hoạt văn hóa như lễ hội, biểu diễn nghệ thuật, bị nhuốm màu
thương mại hóa. Có thể nói, đây là "một cuộc xâm lăng văn hóa" của các
nước phát triển đang diễn ra trên khắp hang cùng ngõ hẻm các nước đang
phát triển.
Trong quá trình hội nhập, các nước đang phát triển cần chọn lọc, tiếp thu, kế
thừa những giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại để phát triển. Nhưng đồng
thời họ cũng phải biết bảo tồn, phát huy những giá trị, tinh hoa văn hóa của

dân tộc. Phải tìm trong chính mình sức mạnh nội sinh để đứng vững trước
thử thách của toàn cầu hóa. Nếu để mất bản sắc văn hóa dân tộc, thì dĩ nhiên
là không thể chấp nhận được. Song việc đề cao văn hóa dân tộc thái quá và
tràn lan lại có nguy cơ đưa đến tình trạng bài ngoại, đóng cửa, làm cho đất
nước bị tụt hậu ngày càng xa so với các nước phát triển. Rõ ràng, toàn cầu
hóa thật sự đặt ra những thách thức gay gắt cho văn hóa dân tộc.
C. Những đóng góp của ngành thương mại Việt Nam trong quá trình
hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới
I, Quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.
1. Tiến trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam
a Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế.
-Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước
với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền
kinh tế theo nhưng hình thức khác nhau.
Các chủ thể của hội nhập kinh tế quốc tế:
Các chủ thể chính là các quốc gia hoặc là tổ chức liên minh chính phủ hoặc là
tổ chức siêu quốc gia ( MĨ, Canada….) hoặc là tổ chức lai ghép giữa hai hình
thái trên ( vd: EU)
b, Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm:
-Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA)
-Khu vực mậu dịch tựu do (FTA).
-Liên minh thuế quan (CU).
-Thị trường chung.
-Liên minh kinh tế - tiền tệ.
c, Hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
-Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN ngày 25/7/1995.
-Việt Nam tham gia khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996.
-Tháng 11/ 198 Việt Nam gia nhập Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái
Bình Dương (APEC).

-Việt Nam gia nhập WTO vào ngày 7/11/2006.
-Tham gia cá tổ chức khu vực khác như:
+ASEM ( Asia – Europe Meeting).
+ASEAN +3 (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc).
+ASEAN – Trung Quốc.
+ASEAN – Nhật Bản.
+ASEAN - Ấn Độ……
2, Những thành tựu đã đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế thế
giới.
- Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất
khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết
trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích
và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định
hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (P5), các nước trong nhóm
G8; nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác chiến
lược toàn diện, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga,
thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây
Ban Nha. Số lượng các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài cũng tăng lên
(91 cơ quan) với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường
trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phòng kinh tế văn hóa.
- Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực
với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu,
Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham
gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định
hợp tác kinh tế đa phương. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại

tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá về hành
động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm
1996Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và đến năm
1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC).
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi
quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm
phán gia nhập Tổ chức này.
Tình hình Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có
một số điểm nổi bật sau:
2.1. Việt Nam đang tích cực tham gia và phát huy vai trò thành viên
trong các tổ chức kinh tế quốc tế.
Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN, APEC,
Việt Nam đã nỗ lực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và tích cực
tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các tổ chức này. Cụ thể như sau:
* Trong khuôn khổ WTO:
- Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách
thương mại theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn, việc cải cách này thể
hiện ở các cam kết đa phương về pháp luật và thể chế cũng như các cam kết
mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ.
- Việt Nam đã thực hiện đúng các cam kết đa phương và các cam kết mở cửa
thị trường hàng hoá, dịch vụ cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ nhằm
tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong giai đoạn ta hội nhập
sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu.
- Là thành viên của WTO, ta đã cố gắng tham gia tích cực các cuộc đàm phán
trong khuôn khổ WTO ở các nội dung có liên quan đến Việt Nam có liên quan
đến Việt Nam như nông nghiệp, công nghiệp, sở hữu trí tuệ, trợ cấp thủy
sản và chương trình hỗ trợ thương mại của WTO….
- Việt Nam đang tích cực chuẩn bị cho phiên rà soát chính sách thương mại

lần đầu tiên của Việt Nam, dự kiến diễn ra trong khoảng thời gian đầu năm
2013.
* Trong khuôn khổ ASEAN
- Sau 16 năm tham gia Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN, 1995-
2011), mối quan hệ hợp tác khu vực giữa Việt Nam với ASEAN ngày càng
phát triển toàn diện và có tác động sâu sắc tới đời sống kinh tế, xã hội và
chính trị của Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên các diễn
đàn hợp tác khu vực và thế giới. Đối với ViệtNam, ASEAN luôn là đối tác
thương mại và đầu tư lớn nhất (riêng năm 2009, ASEAN là nhà đầu tư lớn
thứ 2 của Việt Nam, sau Hoa Kỳ).
- Việc thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng nhằm xây dựng Cộng đồng
ASEAN vào năm 2015 đã đóng góp thiết thực cho việc cải thiện môi trường
luật pháp trong nước, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài, cũng như làm cơ sở, làm tiền đề giúp Việt Nam tham
gia các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương khác
- Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Chủ tịch luân phiên của ASEAN vào
năm 2010, trong năm 2011, Việt Nam đã tích cực tham gia các chương trình
hợp tác nhằm thực hiện Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Cho tới nay,
Việt Nam là một trong số các nước có tỷ lệ thực hiện cao các biện pháp và
sáng kiến đề ra trong Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN.
* Trong khuôn khổ APEC
- Đối với Việt Nam, Diễn đàn APEC có ý nghĩa hết sức quan trọng. APEC là khu
vực dành viện trợ phát triển lớn nhất, chiếm tới 65% tổng số vốn đầu tư
nước ngoài, 60% giá trị xuất khẩu, 80% giá trị nhập khẩu, và 75% tổng số
khách du lịch quốc tế tới Việt Nam. Hầu hết các đối tác chiến lược quan
trọng và các đối tác kinh tế - thương mại hàng đầu của ta là các nền kinh tế
thành viên của APEC.
- Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn APEC năm 1998,
Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác của APEC như Báo
cáo về Chương trình Hành động Quốc gia hàng năm, thực hiện Chương trình

Hành động tập thể, các kế hoạch hợp tác về thuận lợi hoá thương mại, đầu
tư Ta cũng đảm nhận vị trí Chủ tịch và điều hành nhiều Nhóm công tác
quan trọng như Nhóm Công tác Y tế nhiệm kỳ 2009 - 2010, Nhóm công tác về
Đối phó với tình trạng khẩn cấp, Nhóm công tác về thương mại điện tử… Việt
Nam đã triển khai thành công hơn 60 sáng kiến, đồng bảo trợ hàng trăm
sáng kiến trên hầu hết các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ
thuật, y tế, đối phó với thiên tai, chống khủng bố Việt Nam đã được đánh giá
là một trong những thành viên năng động, đã có nhiều sự đóng góp tích cực
cho Diễn đàn APEC.
* Trong khuôn khổ ASEM
- Là diễn đàn đại diện hơn 60% dân số thế giới và đóng góp hơn 50% tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, ASEM không chỉ là cầu nối cho quan hệ
đối tác mới giữa hai châu lục Á-Âu mà còn hướng tới mục tiêu đem lại những
đóng góp thiết thực cho hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
- Trong hai năm qua (2010-2011), Việt Nam đã tích cực đề xuất và triển khai
nhiều sáng kiến, hoạt động của ASEM, nổi bật là việc tổ chức thành công
nhiều hội thảo quan trọng như "Hội thảo về tăng cường hình ảnh ASEM
thông qua các hoạt động văn hóa", "Hội thảo ASEM về vượt qua khủng
hoảng- định hình sự phát triển bền vững", "Diễn đàn ASEM về an ninh lương
thực", "Diễn đàn ASEM về biến đổi khí hậu", "Diễn đàn ASEM về lưới an toàn
xã hội", Diễn đàn Á – Âu (ASEM) về tăng trưởng xanh với chủ đề: “Cùng hành
động hướng tới các nền kinh tế xanh tăng”…
2.2. Việt Nam đang tích cực tham gia vào đàm phán, ký kết các Hiệp
định thương mại tự do
Trong những năm gần đây, thế giới đang được chứng kiến sự gia tăng nhanh
chóng của các Hiệp định thương mại tự do (FTA) để thiết lập các Khu vực
thương mại tự do. Phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của thế
giới và khu vực, tiến trình đàm phán và ký kết các FTA của Việt Nam đã được
khởi động và triển khai cùng với tiến trình gia nhập các tổ chức quốc tế và
khu vực. Đến nay, Việt Nam đã tham gia thiết lập FTA với 15 nước trong

khung khổ của 6 FTA khu vực, bao gồm:
+ Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) được thiết lập bởi Hiệp định ưu
đãi thuế quan có hiệu lực chung từ năm 1996; mở rộng sang lĩnh vực đầu tư
bởi Hiệp định khu vực đầu tư ASEAN (AIA) từ năm 1998 sau đó được thay thế
bằng Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA).
+ Khu vực thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc được thiết lập bởi Hiệp
định khung về hợp tác kinh tế quốc tế ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) năm
2002 và Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN – Trung Quốc (ACTIG) năm
2004, thực hiện từ 1/7/2005; riêng Việt Nam còn được điều chỉnh bởi Biên
bản ghi nhớ Việt Nam – Trung Quốc (tháng 7/2005).
+ Khu vực thương mại tự do ASEAN- Hàn Quốc được thiết lập bởi Hiệp định
hàng hoá ASEAN-Hàn Quốc (AKTIG) ký tháng 8 năm 2006, thực hiện từ
1/6/2007. Khu vực thương mại tự do ASEAN – Nhật Bản được thiết lập bởi
Hiệp định đối tác Kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) ký kết năm
2003, thực hiện từ năm 1998, riêng Việt Nam còn được điều chỉnh bởi Hiệp
định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) năm 2008; thực hiện từ
1/1/2009.
+ Khu vực thương mại tự do ASEAN – Úc và Niu Dilân được thiết lập bởi Hiệp
định thương mại tự do và quan hệ kinh tế thân thiện toàn diện ASEAN – Úc
và Niu Dilân (AANZCERFTA), ký kết từ tháng 2/2009, thực hiện từ 1/1/2010.
+ Khu vực thương mại tự do ASEAN - Ấn độ bước đầu hình thành và thiết lập
bởi Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Ấn độ (AICECA) ký
năm 2003 và Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN - Ấn độ (AITIG) ký kết
năm 2009, thực hiện từ 01/06 năm 2010.
Ngoài việc ký kết và tham gia các Hiệp định Thương mại tự do với tư cách là
thành viên khối ASEAN thì Hiệp định Thương mại tự do đầu tiên mà Việt Nam
ký kết với tư cách là một bên độc lập là Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam –
Nhật Bản (2008), tiếp đó là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Chi Lê
(11/11/2011). Hiện Việt Nam đang nghiên cứu tiền khả thi và triển khai đàm
phán FTA với một số đối tác như EFTA (bao gồm 4 nước là Thuỵ Sỹ, Na Uy,

Liechtenstein và Ai-xơ-len), Liên minh Hải quan (bao gồm 3 nước là Nga,
Belarus và Kazakhstan), EU, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ Việt Nam cũng đã chính
thức tham gia vào đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái
Bình Dương (TPP) từ tháng 11/2010.
2.3. Việt Nam đã và đang thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc
tế với mức độ tự do hoá sâu rộng
* Các cam kết trong khuôn khổ WTO:
Toàn bộ các cam kết về thuế quan của Việt Nam trong WTO được thể hiện
trong Biểu cam kết về Hàng hoá của Việt nam:
- Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện
hành gồm 10.600 dòng thuế.
- Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với
mức thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4%
xuống còn 13,4%). Thời gian thực hiện sau 5- 7 năm.
- Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam cắt giảm thuế với khoảng
3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế);
* Cam kết thuế quan của Việt Nam trong các FTA khu vực
- Về mức độ tự do hoá: cơ bản là cao hơn mức cam kết gia nhập WTO của
ViệtNam. Trong đó, khoảng 90% số dòng thuế (tính theo dòng thuế của kim
ngạch nhập khẩu) với khung thời gian thực hiện cắt giảm xuống 0% trong
vòng 10 năm, có một số ít tỉ lệ dòng thuế được phép linh hoạt trong khoảng
thời gian kéo dài thêm 2 – 6 năm. Trong đó, mức độ tự do hoá trong cam kết
AFTA/CEPT/ATIGTA cao nhất (99 dòng thuế 8 số), thấp nhất là trong cam kết
AIFTA/AITIG (80 dòng thuế 6 số) và trong cam kết AJCEP (88,6% dòng thuế
10 số).
- Về lộ trình cắt giảm thuế: Với AFTA, ACFTA và AKFTA việc giảm thuế sẽ được
thực hiện theo lộ trình qui định cho các bước giảm thuế hàng năm (AFTA:
1996 – 2006 – 2015 – 2018, AKFTA: 2007 – 2016 – 2018). Mô hình giảm thuế
đối với các FTA còn lại (AJCEP, AIFTA, AANZFTA, VJEPA) sẽ cắt giảm dần đều
từng năm để đạt mức thuế suất cuối cùng theo cam kết. (AJCEP: 2008 – 2018

– 2024, VJEPA: 2009 – 2019 – 2015, AANZFTA: 2010 – 2018 – 2020, và AIFTA:
2010 – 2018 – 2021).
* Cam kết thuế quan của Việt Nam trong FTA Việt Nam – Chi

- Việt Nam cam kết xoá bỏ thuế quan đối với 87,8% số dòng thuế trong biểu
thuế nhập khẩu hiện hành (chiếm 91,22% kim ngạch nhập khẩu từ Chi lê
sang Việt Nam năm 2007) trong vòng 15 năm. Trong 12,2% số dòng thuế còn
lại có 4,08% số dòng thuế thuộc danh mục loại trừ (không tham gia giảm,
xoá bỏ thuế), 3,37% số dòng thuế được giữ nguyên thuế suất cơ sở và 4,75%
số dòng thuế được giảm thuế một phần.
2.4. Việt Nam đã và đang gặt hái được những thành tựu trong việc tự
do hoá thương mại và mở cửa thị trường
- Thời kỳ 2001-2010, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình
quân 17,42%, cao hơn 2,42% so với chỉ tiêu đề ra tại Chiến lược phát triển
xuất khẩu 2001-2010.
Tính riêng trong giai đoạn 2007-2010, là giai đoạn sau khi gia nhập WTO,
xuất khẩu tăng bình quân 14% năm, nhập khẩu tăng bình quân 11% năm.
Đến năm 2011, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa xuất
khẩu đạt 96,3 tỷ USD là là mức cao nhất từ trước tới nay, tăng33,3% so với
kỷ lục đạt được trong năm 2010. Đồng thời, mức nhập siêu của năm 2011 là
mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua.
- Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã có sự
chuyển dịch khá tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến
và giảm dần hàng xuất khẩu thô. Trong đó, tỷ trọng của nhóm hàng nông,
lâm, thuỷ sản giảm dần từ 29,37% năm 2001 xuống còn 23,3% vào năm
2010; nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đã tăng mạnh từ
35,72% vào năm 2001, lên 48,9% năm 2010; nhóm hàng nhiên liệu khoáng
sản giảm từ 34,92% năm 2001 xuống còn 27,8% năm 2010.
- Thị trường ngoài nước ngày càng mở rộng, đa dạng. Số lượng thị trường
xuất khẩu đã tăng gấp hơn 1,4 lần sau 10 năm, từ 160 thị trường lên trên

230 thị trường. Cơ cấu thị trường xuất, nhập khẩu đã có sự chuyển dịch theo
hướng giảm dần lệ thuộc vào thị trường Châu Á
II. Thực trạng hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.
1. Thuận lợi
• Thứ nhất, Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế sẽ khắc phục được tình trạng bị
phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế. Ví dụ như sự đối xử tối huệ quốc
(MFN) không điều kiện, thuế quan thấp cho hàng xuất khẩu của Việt Nam,
thúc đẩy việc thâm nhập thị trường cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam,
cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại với các nước, sự đối xử
theo hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập và củng cố cải cách kinh tế Việt Nam.
• Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế
cho các sản phẩm Việt Nam và thúc đẩy thương mại phát triển. Việt Nam sẽ
có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng ra thế giới nhờ được hưởng
những thành quả của các vòng đàm phán giảm thuế và hàng rào phi thuế,
tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng
dệt may và nông sản.
Bên cạnh việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa trong nước, Việt Nam còn tận
dụng được cơ hội từ nhập khẩu như lựa chọn nhập các loại hàng hóa có kỹ
thuật cao, công nghệ tiên tiến để nhanh chóng phát triển các ngành có công
nghệ cao, ngành mũi nhọn, nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển trên
thế giới.
• Thứ ba, Việt Nam sẽ có lợi từ việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp khi
có quan hệ với các cường quốc thương mại chính.
• Thứ tư, Việt Nam sẽ có điều kiện thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công
nghệ mới… của nước ngoài. Trong những năm qua, khu vực có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài thực sự đã trở thành một trong những động lực tăng
trưởng sản xuất công nghiệp Việt Nam. Đầu tư nước ngoài đã tác động mạnh
mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nguồn đầu tư trực
tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm gần
30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu và

giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã góp phần chủ yếu vào việc chuyển giao công nghệ,
đầu tư nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam trong những năm qua. Sự xuất
hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có tác động tích cực
như: tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các
nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm về cách thức quản lý sản
xuất, tiếp thị, tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm, phục vụ khách hàng…
• Năm là, nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nền kinh tế,
đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt
Nam.
2. Khó khăn:
• Một là, cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Cạnh tranh không chỉ giữa doanh
nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước trên thị trường nước ngoài để
xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ mà cạnh tranh ngay trên thị trường trong
nước. Điều đó gây sức ép không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là
những doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước, những doanh
nghiệp có tiềm lực tài chính và công nghệ yếu kém mà tình trạng này lại khá
phổ biến ở doanh nghiệp nước ta.
• Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu
tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụtiềm ẩn nhiều rủi ro, trong
đó có cả những rủi ro về mặt xã hội.
• Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách
cho việc bổ sung và hoàn thiện thể chế. Trong thời gian qua, mặc dù đã có
nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và
thương mại nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm.
• Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã làm bộc lộ nhiều bất cập của nền
hành chính quốc gia.
• Năm là, để bảo đảm tiến trình hội nhập đạt hiệu quả, bên cạnh quyết tâm về
chủ trươn, cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ
doanh nhân đủ mạnh. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với Việt Nam do

phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành nền kinh tế
mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị phù
hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc
phục.
• Sáu là, hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hóa.
Đồng thời, việc mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ
thông tin hiện nay, bên cạnh nhiều mặt tốt, những cái xấu cũng du nhập vào,
đòi hỏi các cấp lãnh đạo, quản lý và mọi người dân phải nâng cao bản lĩnh
chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm nâng cao sức đề kháng,
chống lại sự tha hóa, biến chất, chống lại lối sống hưởng thụ, tự do tư sản…
III. Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong quá trình hội nhập
1. Tăng cường đổi mới kinh tế trong nước và vai trò quản lý kinh tế
của Nhà nước
Đổi mới bên trong và hội nhập là hai quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau,
hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Đổi mới bên trong tạo tiền đề và điều kiện thúc
đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Ngược lại, hội nhập một mặt đặt ra yêu cầu
phải đẩy mạnh đổi mới, cải cách bên trong, mặt khác cũng tạo điều kiện
thuận lợi thúc đẩy quá trình đổi mới đó. Để hội nhập đạt được kết quả tích
cực, cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới, cải cách thị trường theo những
nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các
loại thị trường, đặc biệt quan tâm đến các thị trường quan trọng nhưng hiện
chưa có hoặc còn sơ khai như thị trường lao động, thị trường chứng khoán,
thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ.
Thứ hai, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những yếu kém hiện nay, gỡ bỏ
những vướng mắc cản trở sự phát triển. Cơ chế quản lý kinh tế cần được đổi
mới sâu rộng, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để
xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ
mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tiêu cực, lãng phí,

tham nhũng, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình
đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; định hướng
phát triển kinh tế - xã hội; duy trì ổn định kinh tế vĩ mô; điều tiết thu nhập;
kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với
nền kinh tế. Cơ chế thị trường kết hợp với cơ chế kế hoạch, quy hoạch; tăng
cường công tác thông tin kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, công tác
thống kê; ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ trong công tác dự
báo; kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
2. Cải thiện chính sách đầu tư gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Về lâu dài, đầu tư và tích tụ vốn có ý nghĩa quyết định đối với đối với sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đối với một nước có trình độ phát triển
thấp, đầu tư tư nhân còn yếu và cơ cấu sản xuất chưa phát triển đa dạng như
Việt Nam, theo kinh nghiệm quốc tế, mức đầu tư trong nước phải cao hơn
mức tích lũy nội bộ 25% GDP của ta hiện nay. Các chính sách khuyến khích
đầu tư cần ưu tiên cho việc xóa bỏ các biện pháp, chính sách có tác động làm
tăng giá các tư liệu sản xuất, trong đó có các biện pháp hạn chế thương mại;
tăng các biện pháp trợ cấp cho đầu tư sản xuất được áp dụng theo nguyên
tắc không phân biệt đối xử; đơn giản hóa chế độ khuyến khích đầu tư theo
hướng làm rõ các mục tiêu, công khai hóa và giảm bớt thủ tục hành chính;
chú ý hơn đến đầu tư sản xuất các ngành hàng phục vụ cho tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu; đa dạng hóa cơ cấu nền kinh tế; đầu tư nhà nước vào cơ
sở hạ tầng, thủy lợi, cảng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất có tác dụng
khuyến khích đầu tư tư nhân phát triển; kết hợp tốt giữa các biện pháp tăng
cường xuất khẩu với thay thế nhập khẩu ở một số lĩnh vực nhất định.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư cần phải dựa trên việc phát
huy các thế mạnh, các lợi thế so sánh quốc tế của đất nước, gắn với nhu cầu
thị trường trong nước và ngoài nước thì mới phát huy được hiệu quả và hỗ
trợ cho tiến trình hội nhập
3. Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng

cao tính chủ động, hiệu quả và khả năng cạnh tranh
Việc đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước có một ý nghĩa rất
quan trọng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và việc nâng
cao khả năng cạnh tranh hội nhập của bản thân các doanh nghiệp nhà nước.
Do đó, chúng ta cần phải tiếp tục tăng cường cải cách, đổi mới một cách
toàn diện các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính tự chủ, hiệu
quả và khả năng cạnh tranh của những doanh nghiệp này, góp phần thực
hiện chủ trương kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, đồng thời tạo thuận
lợi cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm tới.
4. Giải quyết vấn đề mất việc làm và thay đổi ngành nghề của người
lao động
Hội nhập là mở cửa tham gia vào quá trình toàn cầu hóa - cũng có nghĩa là
quá trình cạnh tranh và phân công lao động quốc tế. Việc phá sản hoặc thu
hẹp sản xuất kinh doanh, thu hẹp quy mô sử dụng lao động của một bộ phận
doanh nghiệp hoạt động trong một lĩnh vực, ngành nào đó kéo theo sự mất
việc của một bộ phận người lao động trong các doanh nghiệp đó là không thể
tránh k0hỏi. Tuy nhiên, bên cạnh việc có thể một hoặc một số ngành, nghề bị
mất hoặc teo đi, sẽ có những ngành, nghề mới ra đời hoặc được tập trung
phát triển hơn, thu hút lao động làm việc nhiều hơn trong các doanh nghiệp
thuộc khu vực ngành, nghề này. Như vậy, trong xã hội ở những thời điểm
nhất định có thể sẽ có tình trạng một bộ phận người lao động mất việc và
phải tìm việc làm mới. Nhà nước cần chủ động có chính sách và biện pháp
thích hợp giải quyết vấn đề này, tránh để nó trở thành một vấn đề có thể gây
bùng nổ xã hội bằng việc hỗ trợ cho sự hình thành mạng lưới an sinh xã hội
nhằm giải quyết các nhu cầu của những người không có khả năng tự lo cho
mình và có các chương trình đầu tư xã hội để giúp mọi người được đào tạo
những kỹ năng cần phải có trong một nền kinh tế hiện đại. Nhà nước cần sử
dụng vai trò điều tiết phân phối lại thu nhập xã hội để hỗ trợ những người bị
thất nghiệp (Qũy bảo hiểm xã hội, Qũy hỗ trợ thất nghiệp ) và có chính sách
tái đào tạo nghề nghiệp giúp người lao động bị mất việc có thể chuyển sang

nghề khác.
Cần bổ sung điều chỉnh và chi tiết hóa các quy định của Luật Lao động về
các chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm về hưu, bệnh tật, tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp, sinh đẻ, áp dụng cho các khu vực thành thị và các doanh
nghiệp. Luật chỉ quy định những nguyên tắc chung, còn các biện pháp tổ chức
thực hiện giao cho chính quyền các cấp xử lý.

5. Tăng cường cải cách hành chính
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã phân tích sâu sắc nội dung vấn đề cải
cách hành chính. Mặc dù công cuộc cải cách hành chính ở nước ta trong
những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng vẫn còn một
số tồn tại chủ yếu sau:
 Thể chế hành chính vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của phát triển kinh tế,
xây dựng nhà nước, mở cửa hội nhập và phục vụ nhân dân, thể hiện ở thể chế
pháp luật không đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống, trật tự kỷ cương bị vi phạm
nghiêm trọng; cải cách thủ tục hành chính chưa được tiến hành thường
xuyên, chậm tổng kết việc thực hiện "một cửa, một dấu", chậm công bố
những văn bản pháp luật hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp; số vụ khiếu
nại, tố cáo hành chính vẫn còn tồn đọng nhiều; những phiền hà, sách nhiễu
trong thực thi công vụ chưa được khắc phục triệt để;
 Tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, tầng lớp trung
gian, chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp. Đặc biệt, sự phân cấp thẩm
quyền trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành, giữa Trung ương và địa
phương chưa cụ thể, thiếu nhất quán, dẫn đến tranh chấp thẩm quyền, đùn
đẩy trách nhiệm và thiếu sự phối hợp giữa các ngành, các cấp;
 Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập. Đội ngũ đông nhưng
không mạnh, không đồng bộ, vừa thừa vừa thiếu; trình độ kiến thức, năng lực
lãnh đạo và quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ quản lý kinh tế
thị trường. Một bộ phận cán bộ thoái hóa, tham nhũng, quan liêu, cục bộ, cơ

hội trong thực thi công vụ. Chính sách đối với cán bộ, công chức, nhất là về
tiền lương, còn nhiều bất hợp lý. Nội dung chương trình và phương pháp đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa bảo đảm, chậm đổi mới.
Những tồn tại trên trong cải cách hành chính đã làm tăng các chi phí trong
quá trình sản xuất kinh doanh, gây ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng cạnh
tranh và hội nhập quốc tế của các doanh nghiệp và nền kinh tế quốc gia. Để
hỗ trợ cho quá trình hội nhập mang lại hiệu quả thiết thực, một trong những
yêu cầu quan trọng cấp thiết hiện nay đối với nước ta là tiếp tục đẩy mạnh
cải cách hành chính theo hướng: đẩy mạnh cải cách hành chính đồng bộ với
đổi mới kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị và mở cửa hội nhập nhằm thực
hiện mục tiêu xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội và nhân dân
tốt hơn. Theo đó, cần tập trung thực hiện một số việc chính sau:
 Thực hiện triệt để việc tách chức năng quản lý hành chính nhà nước (hành
chính công quyền) với hoạt động sản xuất kinh doanh và sự nghiệp;
 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế, tạo cơ sở pháp lý để xây
dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng và
phát triển sản xuất, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, tạo khung pháp lý phù hợp với luật lệ quốc tế, bảo đảm môi trường
cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh
doanh. Để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, hiện thực, khách quan, quy
trình xây dựng thể chế, pháp luật cần được đổi mới, tạo cơ chế phản biện,
thẩm định hợp lý, nâng cao năng lực, thu hút đội ngũ cán bộ, chuyên gia, kể
cả chuyên gia tư vấn nước ngoài vào xây dựng thể chế;
 Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước cần được cải cách trên cơ sở phân
công, phân cấp rõ ràng cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm; tinh giản, kiện
toàn tổ chức theo mô hình quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực bao quát
trong phạm vi cả nước đối với tất cả các thành phần kinh tế; cải tiến phương
thức hoạt động, sự chỉ đạo của các cơ quan nhà nước để nâng cao chất
lượng, hiệu quả và đáp ứng những biến động của cơ chế thị trường và những

thách thức của quá trình hội nhập;
 Xây dựng và hoàn chỉnh thể chế, hệ thống văn bản tiêu chuẩn nghiệp vụ, làm
cơ sở pháp lý và khoa học cho việc xây dựng, quản lý đội ngũ cán bộ, công
chức theo tinh thần của chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới. Công tác cán bộ,
công chức cần được đổi mới từ khâu quy hoạch, thi tuyển, đào tạo, bồi
dưỡng, đánh giá sử dụng, quản lý, đến xây dựng các chế độ chính sách. Chính
sách tiền lương cần được cải cách theo hướng: trả tương xứng với nhiệm vụ,
gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội; trả đúng là thực hiện đầu tư phát triển.
 5. Cải cách tài chính công trên cơ sở phân cấp mới theo luật định, nguyên tắc
công khai, minh bạch trong thu chi.
KẾT LUẬN
Từ khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nước ta đã mở rộng hợp tác quan hệ với nhiều nước trên thế
giới, mức tăng trưởng những năm gần đây thuộc diện cao (khoảng
7%).Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã có những bước tăng quan trọng
(năm 2002 là 17 tỷ U SD) nhiều đơn vị, doanh nghiệp nhà nước và tư nhân
đã đứng vững trên thị trường có khả năng cạnh tranh cao với các tổ chức
kinh tế như Bitis, Kymdan, Dệt Thái Tuấn…v.v.góp phần đáng kể vào mức
tăng GDP hàng năm. Nhìn chung sự hình thành và phát triển thương mại
đóng vai trò không thể thiếu của mỗi quốc gia ,nó như một chiếc cầu nối
của mức tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên trong quá trình áp dụng phát triển nền kinh tế thị trường ở
nước ta cũng cần phải xem xét lại một số vấn đề đáng quan tâm mà ngành
thương mại cần phải điều chỉnh như ,năng lực kinh doanh còn yếu không ít
cơ sở chỉ biết chạy theo lợi nhuận thuần tuý ,chưa cạnh tranh một cách lành
mạnh để chiếm lĩnh thị trường,phương thức kinh doanh chưa phải là
phương thức của các nhà buôn lớn và kém hiệu quả dẫn đến lợi nhuận chưa
cao, chưa tương ứng với tiềm năng vốn có của nó, một số địa bàn còn bỏ
trống nhất là vùng sâu vùng xa, lãng phí và thất thoát tài sản còn lớn, dẫn

đến nhiều tệ nạn tiêu cực chủ yếu là do trình độ chính trị ,và nghiệp vụ của
cán bộ, nhân viên còn thiếu bất cập.Chính những điều này nếu không được
củng cố và khắc phục kịp thời sẽ làm suy giảm vai trò chủ đạo của thương
mại nhà nước trên kĩnh vực lưu thông suy giảm tác dụng hỗ trợ cho các
thành phần kinh tế khác trên bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội: Bình
đẳng,phát triển và phồn vinh.
Cảm ơn Thầy giáo hướng dẫn đã giúp
đỡ nhóm hoàn thành bài thảo luận
này!!!

×