Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Những vấn đề pháp lý về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Nguyễn Thị Ngàn

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2012-L

HÀ NỘI, 2016

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----------------------

Nguyễn Thị Ngàn

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2012-L



NGƯỜI HƯỚNG DẪN: THS. NGUYỄN ĐĂNG DUY

HÀ NỘI, 2016

2


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận là cơng trình nghiên cứu của riêng em. Các kết
quả nêu trong khóa luận chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực.
Vậy, em viết lời cam đoan này đề nghị Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
xem xét để em có thể bảo vệ khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Ngàn

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................7
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC .............................................................................................................10
1.1. Khái quát về Doanh nghiệp nhà nước .....................................................10
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước ....................................................10
1.1.2. Vị trí, vai trị của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị

trường................................................................................................................13
1.2. Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ................................16
1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ...............................16
1.2.2. Sự cần thiết phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ....................20
Chương 2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY ..........................................................28
2.1. Mục tiêu, yêu cầu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước .................29
2.2. Đối tượng, điều kiện cổ phần hóa.............................................................32
2.3.

Các hình thức cổ phần hóa ....................................................................35

2.4.

Đối tượng mua cổ phần..........................................................................36

2.5.

Xử lý tài chính khi cổ phần hóa ............................................................40

2.6. Xác định giá trị doanh nghiệp ..................................................................42
2.7.

Bán cổ phần lần đầu ...............................................................................50

2.8.

Chính sách đối với doanh nghiệp sau cổ phần hóa .............................52

Chương 3. THỰC TRẠNG THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP

LUẬT CỔ PHẦN HĨA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
HIỆN NAY ...............................................................................................................53
3.1.
Thành tựu đạt được và những hạn chế trong thi hành pháp luật cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam qua các giai đoạn ................53
3.1.1. Giai đoạn 1990- 2001 ...........................................................................53
3.1.2. Giai đoạn 2002- 2010 ...........................................................................55
3.1.3. Giai đoạn 2011 đến nay .......................................................................57
3.1.4. Đánh giá tồn bộ q trình cổ phần hóa đến nay..............................67
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước……………………………………………………………………………75
3.2.1. Chủ trương, chính sách của nhà nước về cổ phần hóa giai đoạn
2016 2020…………………………………………………………………......75
3.2.2. Kiến nghị hồn thiện pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
tại Việt Nam.......................................................................................................78
KẾT LUẬN ..............................................................................................................87
4


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................89

5


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CP:

Chính phủ


HĐBT:

Hội đồng Bộ trưởng

IPO:

Phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu

NĐ:

Nghị định

ODA:

Hỗ trợ phát triển chính thức

QĐ:

Quyết định

TPP:

Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xun Thái Bình Dương

TT:

Thơng tư

TTg:


Thủ tướng

WTO:

Tổ chức Thương mại Thế giới

6


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương, chính sách lớn của
Đảng và nhà nước ta trong suốt 30 năm qua. Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận
kinh tế quan trọng trong nền kinh tế, được nhà nước giao phó nhiều nhiệm vụ đồng
thời được nhà nước tạo điều kiện, cơ hội về vốn, nguồn lực để phát triển. Tuy nhiên,
trên thực tế, doanh nghiệp nhà nước không tận dụng được những lợi thế của mình,
ngược lại cịn bộc lộ nhiều hạn chế, tính khơng hiệu quả so với các thành phần kinh
tế khác. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là yêu cầu tất yếu để khắc phục những
thiếu sót của bộ phận doanh nghiệp nhà nước, khi nền kinh tế nước ta chuyển từ tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Q
trình này nhằm đa dạng hóa hình thức sở hữu, đổi mới phương thức quản lý đồng thời
nhằm thúc đẩy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mở ra triển vọng xây dựng thị trường vốn
lành mạnh, phong phú, tạo điều kiện cơ cấu lại nền kinh tế. Cổ phần hóa khơng nhằm
xóa bỏ bộ phận doanh nghiệp nhà nước, ngược lại, tăng cường vai trò chủ đạo của
doanh nghiệp nhà nước, nâng cao chất lượng doanh nghiệp nhà nước nói riêng và
chất lượng nền kinh tế nói chung.

Q trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã có những bước đi mạnh mẽ
từ những năm đầu thí điểm 1990 cho đến tận hơm nay, khi cổ phần hóa hóa đang dần
bước vào giai đoạn cuối hồn thành. Hàng loạt văn bản pháp lý đã được ban hành để
hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện cổ phần hóa ở tất cả các cấp, ngành, địa phương.Tư
tưởng, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về cổ phần hóa được quán triệt
sâu sắc trong tất cả các văn bản, các nghị quyết Đại hội Đảng IX, X, XI, XII.
Nhận thấy được tầm quan trọng của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước cùng những thành tựu, hạn chế mà nước ta đạt được trong quá trình cổ phần hóa
suốt 30 năm qua, em đã chọn đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình là:
“Những vấn đề pháp lý về cổ phầGHGGn hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam”.
Việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý và thực tiễn thi hành pháp luật cổ phần hóa

7


doanh nghiệp nhà nước hiện nay có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết, để từ đó rút ra
những kinh nghiệm, đưa ra những kiến nghị nhằm thúc đẩy, hoàn thiện tiến trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước, hướng tới mục tiêu hồn thành q trình cổ phần
hóa các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới.
2.

Mục đích nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu của khóa luận là làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý về cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam, thấy được những thành tựu đạt được
cũng như những khó khăn, hạn chế mà các doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa
gặp phải. Từ đó, rút ra những kinh nghiệm, đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp
luật và thi hành. Khóa luận đi sâu nghiên cứu và khẳng định sự đúng đắn của các chủ
trương, chính sách cổ phần hóa của Đảng và nhà nước.
Việc nghiên cứu và phân tích những vấn đề khái quát cơ bản về doanh nghiệp

nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được khóa luận thực hiện dưới góc
độ pháp luật, thơng qua phân tích các quy định pháp luật hiện hành về cổ phần hóa,
cũng như thực trạng tiến hành cổ phần hóa ở các doanh nghiệp. Từ đó khóa luận chỉ
ra những điểm bất cập trong các quy phạm pháp luật và đề xuất các kiến nghị, giải
pháp hoàn thiện.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Khóa luận nghiên cứu những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước tại Việt Nam trong 30 năm qua.
Khóa luận nghiên cứu và phân tích những khái quát cơ bản về doanh nghiệp
nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; phân tích các quy định pháp luật
hiện hành về cổ phần hóa, phân tích thực trạng tiến hành cổ phần hóa và đề xuất các
kiến nghị, giải pháp hồn thiện.
4.

Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em tiến hành khai thác thông tin từ các sách,
báo, tạp chí, và luận văn nhằm tìm kiếm số liệu của các bộ, ngành, doanh nghiệp, số
liệu của Tổng cục thống kê. Tham khảo các cơng trình nghiên cứu về cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước của các tác giả trong nước. Đối chiếu, so sánh, thống kê, hệ
thống, đưa ra những tổng hợp, phân tích về vấn đề nghiên cứu.
8


5.

Bố cục của khóa luận


Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa
luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Chương 2: Nội dung pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt
Nam hiện nay.
Chương 3: Thực trạng thi hành và giải pháp hoàn thiện pháp luật cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam hiện nay.

9


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC
1.1.

Khái quát về Doanh nghiệp nhà nước

1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước là một khái niệm hồn tồn khơng mới khi hình thái
doanh nghiệp này khơng thể thiếu trong bất kỳ nền kinh tế của các nước trên thế giới.
Ngân hàng thế giới 1991 định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước như sau: “Doanh
nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh tế mà quyền sở hữu hay quyền kiểm sốt thuộc
về Chính phủ, và phần lớn thu nhập của chúng được tạo ra từ việc bán hàng hóa và
dịch vụ”.
Đối với Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp nhà nước cũng được đề cập trong
nhiều văn bản pháp luật. Tuy nhiên khái niệm doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
khơng bất biến mà có sự thay đổi trong từng thời kỳ.
Theo điều lệ xí nghiệp cơng nghiệp quốc doanh ban hành kèm theo Nghị định

số 50/HĐBT ngày 22/03/1988 và quy chế về thành lập, giải thể doanh nghiệp nhà
nước ban hành kèm Nghị định 338/HĐBT ngày 20/11/1991 thì “Doanh nghiệp Nhà
nước là tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách
chủ sở hữu”.
Doanh nghiêp nhà nước hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã
hội của nhà nước. Khái niệm này không cụ thể, chỉ khẳng định sự can thiệp trực tiếp
và toàn diện của nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp.
Khái niệm doanh nghiệp nhà nước được đề cập lần đầu trong luật doanh nghiệp
nhà nước 1995. Theo đó, “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu
tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động cơng ích,
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà
nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý” [26, 84].
Quan niệm này về cơ bản giống với các văn bản pháp lý trước đó, tập trung đề cập
đến vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong hoạt động kinh doanh, cơng ích vì mục

10


tiêu kinh tế xã hội. Với khái niệm này, doanh nghiệp nhà nước có thể hoạt động trên
mọi lĩnh vực, ngành nghề bởi vai trị quan trọng của nó.
Trải qua nhiều lần sửa đổi luật, khái niệm doanh nghiệp nhà nước cũng có
những thay đổi theo. Theo luật doanh nghiệp nhà nước 2003, “Doanh nghiệp nhà
nước là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn
góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức cơng ty nhà nước, cơng ty cổ phần, công
ty trách nhiệm hữu hạn” [27, 84]. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có
các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh
trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi,
có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. Luật doanh nghiệp nhà
nước 2003 đã liệt kê các đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp nhà nước. Khái niệm này

đã cụ thể hơn khi khẳng định doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước
sở hữu tồn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần chi phối, vốn góp chi phối thay vì chỉ là
doanh nghiệp do nhà nước đầu tư vốn như trước. Doanh nghiệp nhà nước được tổ
chức dưới nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với các mơ hình doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường như công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn.
Năm 2005, luật doanh nghiệp mới ra đời thay thế luật doanh nghiệp năm 2000
và luật doanh nghiệp nhà nước 2003. Luật doanh nghiệp 2005 đã thống nhất, khơng
có sự phân biệt đối xử đối với tất cả các doanh nghiệp, khơng phân biệt tính chất sở
hữu, thành phần kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa là doanh nghiệp
trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ [28, 85]. Như vậy, đối tượng thuộc
diện doanh nghiệp nhà nước được mở rộng dưới mọi hình thức chỉ cần doanh nghiệp
có trên 50% vốn điều lệ thuộc sở hữu nhà nước.
Luật doanh nghiệp 2014 đã thu hẹp đối tượng thuộc diện doanh nghiệp nhà
nước khi định nghĩa “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ
100% vốn điều lệ” [29, 85]. Đây là một thay đổi lớn trong quan niệm về doanh nghiệp
nhà nước phù hợp với nền kinh tế hiện nay. Theo đó, nhà nước giảm dần sự can thiệp
vào hoạt động của doanh nghiệp bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà
nước và vốn đầu tư tư nhân. Sự thay đổi định nghĩa này đem lại sự bình đẳng trong
kinh doanh giữa các thành phần doanh nghiệp, đặc biệt đem lại sự công bằng cho
11


doanh nghiệp dân doanh. Mặt khác, định nghĩa mới về doanh nghiệp nhà nước có thể
thúc đẩy q trình cổ phần hóa và thối vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp nhà
nước hiện này- theo luật sư Nguyễn Hưng Quang. Theo tiến sĩ Lê Đăng Doanh: “Việc
giảm danh nghĩa và pháp lý số doanh nghiệp nhà nước có thể có lợi trong q trình
đàm phán hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)”. Sự thay đổi khái niệm
doanh nghiệp nhà nước đã giúp doanh nghiệp tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh
và đầu tư. Doanh nghiệp bắt buộc phải năng động, sáng tạo để có thể tồn tại và đứng

vững trên thị trường. Với sự thay đổi này, hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước sẽ diễn ra nhanh hơn. Tổ chức và điều hành doanh nghiệp sau tái cơ cấu sẽ có
những thay đổi tích cực khi có só sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý,
giữa quản lý của chủ sở hữu với điều hành hoạt động kinh doanh, giữa quản lý điều
hành với kiểm tra kiểm soát, đồng thời cơ cấu tổ chức được bố trí hợp lý, gọn nhẹ,
tinh giản được lao động gián tiếp. Sự phân biệt đối xử trên thực tế giữa các thành
phần kinh tế dần được xóa bỏ, tạo sự cạnh tranh bình đẳng.
Tuy nhiên cũng có những ý kiến khác cho rằng sự thay đổi định nghĩa về doanh
nghiệp nhà nước dẫn đến những hệ quả liên quan đến doanh nghiệp có cổ phần chi
phối là nhà nước như:
- Sự thay đổi này không làm giảm bớt số lượng doanh nghiệp nhà nước đang
tồn tại trên thực tế ở những doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước,
đồng thời cũng không hạn chế được những vấn đề của doanh nghiệp nhà nước. Năm
2011, số doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước là 1.217 doanh nghiệp chiếm
1/3 tổng số doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp đã cổ phần hóa. Thực tế, những
doanh nghiệp này vẫn được coi là doanh nghiệp nhà nước, nhà nước vẫn sử dụng để
thực hiện mục tiêu chính sách, vẫn thuộc quyền kiểm sốt của nhà nước, vẫn tồn tại
sự độc quyền, áp đặt của cổ đông nhà nước, cách thức quản trị doanh nghiệp khơng
thay đổi,...
- Khi doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước khơng cịn là doanh
nghiệp nhà nước sẽ dẫn đến việc nhà nước không mấy quan tâm đến loại doanh nghiệp
này. Vì vậy, doanh nghiệp khơng có cách tiếp cận đúng, khơng có các nỗ lực, các
biện pháp, chính sách cải cách phù hợp, dẫn đến phó mặc các doanh nghiệp này cho
những người đại diện cổ đông nhà nước.
12


- Khơng coi doanh nghiệp có cổ phần chi phối nhà nước là doanh nghiệp nhà
nước là đi ngược lại với thông lệ quốc tế. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, sau làn
sóng tư nhân hóa từ những năm 1980, các doanh nghiệp nhà nước ở những nước này

chủ yếu là những doanh nghiệp do nhà nước sở hữu cổ phần chi phối, thậm chí gồm
cả những doanh nghiệp có cổ phần dưới mức chi phối nhưng nhà nước vẫn nắm quyền
kiểm soát [13, 83].
Vậy, cần hiểu và vận dụng khái niệm mới về doanh nghiệp nhà nước một cách
khách quan, linh hoạt để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước, đồng thời tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị
trường hiện nay.
1.1.2. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sở hữu toàn dân là tư tưởng chi phối,
doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước đóng vai trị chủ
đạo trong mọi khu vực, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp nhà nước
thuộc sở hữu nhà nước, được điều hành, kiểm sốt về mọi phương diện bởi nhà nước.
Vị trí và vai trị của doanh nghiệp nhà nước ln được xác định và định hướng
bởi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước cũng như
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là chủ trương nhất quán của Đảng tại các kỳ đại
hội. Nghị quyết hội nghị Trung ương 3 khóa IX năm 2001 nêu rõ ”Doanh nghiệp nhà
nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà
nước định hướng và điều tiết kinh tế vĩ mơ, làm lực lượng nịng cốt, góp phần chủ
yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 3 khóa IX xác định ”Tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt
và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ
yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực sản phẩm
của nền kinh tế”. Đại hội X có sự điều chỉnh nhất định về vị trí của doanh nghiệp
nhà nước, đó là ”Xóa bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước và tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất
tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực cơng ích”.
Đại hội XI chỉ khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước mà không khẳng định
13



rõ ràng, trực tiếp và cụ thể về vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trong
nền kinh tế như Hội nghị trung ương 3 khóa IX và các văn kiện khác trước đây.
Trên thực tế, khu vực doanh nghiệp nhà nước đang được sắp xếp, đổi mới theo
hướng thu hẹp dần, giảm bớt ở nhiều vị trí khơng cần đến sự hiện diện doanh nghiệp
nhà nước, kể cả diện hoạt động- phạm vi ngành, lĩnh vực có doanh nghiệp nhà nước
và mật độ hiện diện của doanh nghiệp nhà nước- số lương doanh nghiệp nhà nước
cùng kinh doanh trong ngành, lĩnh vực. Số ngành, lĩnh vực nhà nước giữ 100% vốn
đã giảm từ 43 ngành, lĩnh vực năm 2002 xuống 20 ngành, lĩnh vực năm 2011. Số
doanh nghiệp nhà nước từ 12.600 doanh nghiệp năm 1991 cịn 3265 doanh nghiệp
năm 2011, trong đó, số doanh nghiệp sở hữu 100% vốn của nhà nước từ 5.655 doanh
nghiệp năm 2001 còn 1.254 doanh nghiệp năm 2013.
Doanh nghiệp nhà nước nắm giữ nhiều vị trí quan trọng có ảnh hưởng lớn đến
nhiều ngành, lĩnh vực và nền kinh tế. Cuối năm 2011, có 452 doanh nghiệp thuộc lĩnh
vực quốc phịng an ninh và hoạt động cơng ích chiếm 34,5%. Số doanh nghiệp còn
lại hoạt động kinh doanh và giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực hạ tầng. Đây là những
vị trí quan trọng cần có doanh nghiệp nhà nước để phát triển. Những vị trí này chủ
yếu do các tập đồn kinh tế, tổng cơng ty nhà nước nắm giữ. Các Doanh nghiệp nhà
nước chủ yếu thông qua các tập đồn kinh tế và tổng cơng ty nhà nước giữ vai trị chi
phối hoặc có ảnh hưởng đến các ngành, lĩnh vực quan trọng như điện, than, xăng dầu,
bưu chính viễn thơng, .... Doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm gần 1% tổng số doanh
nghiệp cả nước nhưng lại có các sản phẩm dịch vụ quan trọng trong nền kinh tế như
hệ thống lưới điện quốc gia đã vươn tới những vùng sâu, vùng xa, đưa tỷ lệ hộ sử
dụng điện cả nước đạt 97,5%. Doanh nghiệp nhà nước cung ứng gần như toàn bộ
than, phần lớn thép, xi măng cho nền kinh tế, cung ứng 85% sản lượng xăng dầu, 100%
vận tải đường sắt, 98% lượng vận tải hàng khơng nội địa, 56% dịch vụ tài chính, tín
dụng; 70% lượng gạo xuất khẩu, 80% lượng phân bón hóa học, 95% khách hàng sử
dụng dịch vụ viễn thông của 2 tập đồn bưu chính viễn thơng Việt Nam- VNPT và
tập đồn viễn thơng qn đội- Vietel. Năm 2012, Chính phủ đánh giá tình hình tài
chính và kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước phát triển tương

đối ổn định, hơn 80% doanh nghiệp làm ăn có lãi, các tập đồn, tổng cơng ty nhà

14


nước đạt tổng doanh thu hơn 1.621 nghìn tỷ đồng, tăng 2% so với năm 2011, lợi
nhuận trước thuế đạt 127,5 nghìn tỷ đồng.
Do nắm giữ các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế nên Doanh nghiệp nhà
nước giữ vị trí độc quyền ở một số ngành, lĩnh vực mang tính chất độc quyền tự nhiên
và độc quyền do cạnh tranh không lành mạnh mà ra. Nguyên nhân của thực trạng này
là do nhà nước thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất các doanh nghiệp nhà nước độc lập
thành các tổng công ty, sáp nhập các tổng công ty thành các tập đoàn kinh tế.
Doanh nghiệp nhà nước được dùng để điều tiết vĩ mô, ổn định thị trường, bình
ổn nền kinh tế. Vai trị này được nhấn mạnh đặc biệt trong thời ký kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp trước đây. Hiện nay, Doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục thể hiện vai
trị này, tuy nhiên, quy mơ và mức độ giảm đi rất nhiều. Năm 2008- 2009, doanh
nghiệp nhà nước được sử dụng nguồn vốn nhà nước hoặc nguồn vốn tự huy động để
tăng đầu tư, chống suy giảm kinh tế. Năm 2011- 2012, doanh nghiệp nhà nước được
sử dụng để thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bằng cách
cắt giảm đầu tư và chi tiêu, không tăng giá bán sản phẩm, dịch vụ (than, điện, xăng
dầu, sắt thép,..) theo yêu cầu của nhà nước. Tuy nhiên với nền kinh tế thị trương hiện
nay, vai trị điều tiết vĩ mơ khơng cịn phù hơp. Việc lạm dụng vai trị này làm thị
trường bọ bóp méo, tạo sự bất bình đẳng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, vị trí, vai
trị của doanh nghiệp nhà nước được định vị lại với nhận thức đúng đắn về kinh tế
nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo khơng biểu hiện ở số lượng đông đảo
doanh nghiệp nhà nước, chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế hay tổng sản phẩm quốc
nội, không phải ở việc doanh nghiệp nhà nước phải luôn luôn làm công cụ vật chất
để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô hay doanh nghiệp nhà nước phải nắm giữ
những vị trí then chốt trong nền kinh tế với toàn bộ là sở hữu nhà nước. Vai trò chủ

đạo của kinh tế nhà nước phải là ở việc doanh nghiệp nhà nước đi đầu ứng dụng tiến
bộ khoa học công nghiệp, đi đầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội.
Doanh nghiệp nhà nước góp phần bảo đảm vai trị chủ đạo của kinh tế nhà
nước. Doanh nghiệp nhà nước tạo lập, dẫn dắt, thúc đẩy hình thành, phát tiển nền
tảng hạ tầng kinh tế cơ bản và thiết yếu, tạo đà cho phát triển kinh tế xã hội, thúc đầy
cạnh tranh và hội nhập. Doanh nghiệp nhà nước làm công cụ khắc phục những thất
15


bại hoặc thiếu hụt của thị trường khi có các lĩnh vực, ngành nghề khơng có thị trường,
các thành phần kinh tế ngồi quốc doanh khơng tham gia hay do độc quyền tự nhiên,
chưa hình thành được thị trường cạnh tranh. Doanh nghiệp nhà nước làm công cụ hỗ
trợ với các chính sách điều tiết kinh tế, ổn đinh kinh tế vĩ mô được áp dụng trong
những trường hợp đặc biệt như khủng hoảng, suy giảm, lạm phát cao, ...
Doanh nghiệp nhà nước góp phần tạo ra vị thế chủ đạo cho kinh tế nhà nước
dựa trên ngành, lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước hoạt động, mức độ sở hữu của nhà
nước ở các doanh nghiệp nhà nước và tổng sở hữu nhà nước trong ngành, lĩnh vực
hoạt động chính hay quy mô của doanh nghiệp nhà nước.
1.2.

Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Theo quan điểm của nhiều quốc gia đã tiến hành cổ phần hóa như Trung Quốc,
Liên Xơ cũ, q trình cổ phần hóa nằm trong q trình lớn hơn là tư nhân hóa. Tư
nhân hóa theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc là “Sự biến đổi tương quan giữa nhà
nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước ưu tiên thị trường. Nền kinh
tế tư nhân được khuyến khích phát triển, hạn chế sự can thiệp trực tiếp của nhà nước
vào nền kinh tế” [16, 84].
Quan điểm cổ phần hóa của Trung Quốc dựa trên tư tưởng cơ bản của chủ

nghĩa Mác- Lenin coi cổ phần hóa là một bộ phận quan trọng trong chuyển đổi doanh
nghiệp nhà nước, với mục tiêu tìm kiếm hiệu quả kinh doanh chứ khơng phải tìm
kiếm các hình thức sở hữu khác nhau.
Quan niệm cổ phần hóa của các nước đều hướng đến việc nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh, thực hiện xã hội hóa sở hữu, chuyển mơ hình doanh nghiệp một
chủ sở hữu là nhà nước sang mơ hình cơng ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để phù
hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Tại Việt Nam, theo quan điểm của Đảng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, đáp ứng cơ chế thị trường, huy động vốn từ các
thành phần kinh tế. Đảng và nhà nước khẳng định cổ phần hóa khơng nhằm mục đích
tư nhân hóa. Cổ phần hóa hướng tới việc tháo gỡ khó khăn về vốn, cơ chế hoạt động,
không nhằm thu hẹp sở hữu nhà nước.
16


Thuật ngữ cổ phần hóa xuất hiện ở Việt Nam cuối những năm 1980, đầu những
năm 1990 gắn với công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước. Có hai luồng ý kiến
trái ngược nhau về cổ phần hóa ở nước ta. Một bên cho rằng cổ phần hóa ở Việt Nam
khơng khác gì q trình tư nhân hóa. Đa số cho rằng, cổ phần hóa ở Việt Nam khơng
phải tư nhân hóa. Khi luật doanh nghiệp 2005 cịn hiệu lực, ông Hồ Xuân Hùng- phó
trưởng ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương đã khẳng định: “Cổ phần
hóa các doanh nghiệp nhà nước hồn tồn khơng phải tư nhân hóa. Với những doanh
nghiệp nhà nước nắm giữ trên 50% vốn sau khi cổ phần, thì theo luật doanh nghiệp
nó vẫn là doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy khơng nên băn khoăn nó là tư nhân hay là
nhà nước”.
Trong tiến trình thực hiện cổ phần hóa, đã có rất nhiều khái niệm về cổ phần
hóa được đưa ra.
Ơng Đỗ Mai Thành cho rằng “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc nhà
nước bán một phần hay toàn bộ giá trị tài sản doanh nghiệp của mình cho các cá nhân
hay tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, hoặc bán trực tiếp cho cán bộ, công nhân

viên của chính doanh nghiệp nhà nước thơng qua đấu thầu cơng khai hay thơng qua
thị trường chứng khốn để hình thành nên các công ty cổ phần” [30, 85].
Hay một khái niệm khác: “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển
đổi doanh nghiệp nhà nước từ một chủ sở hữu duy nhất là nhà nước thành doanh
nghiệp đa sở hữu, theo đó tùy vị trí và tính chất cụ thể của doanh nghiệp trong nền
kinh tế quốc dân mà nhà nước vẫn giữ vai trị chi phối hoặc khơng cần giữ vai trò chi
phối nữa” [16, 84].
Như vậy, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước khơng phải q trình tư nhân
hóa mà là q trình đa dạng hóa chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Nhà nước sẽ chuyển
một phần hoặc toàn bộ phần vốn của nhà nước cho cá nhân, tổ chức khác như người
lao động trong doanh nghiệp, cổ đơng ngồi doanh nghiệp nhằm đa dạng hóa các chủ
sở hữu cho doanh nghiệp, góp phần tạo sự năng động và hiệu quả trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà
nước, phát huy cao độ quyền tự chủ của doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ
được giao. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để huy động
thêm vốn, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản
17


thuộc sở hữu nhà nước ngày càng tăng lên, tạo sự bình đẳng giữa khu vực kinh tế nhà
nước và khu vực kinh tế ngồi nhà nước.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam có những đặc điểm:
Thứ nhất, Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là biện pháp chuyển doanh
nghiệp từ sở hữu nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần- đa sở hữu. Doanh nghiệp
được cổ phần hóa sẽ khơng chỉ có một chủ sở hữu độc quyền quyết định mọi vấn đề
về đầu tư, kinh doanh mà sẽ có các chủ sở hữu- các cổ đơng đã đóng góp vốn, mua
cổ phần tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, Cổ phần hóa là q trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước sang công ty cổ phần. Đây là hình thức chuyển đổi loại
hình doanh nghiệp từ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là nhà nước sang

công ty cổ phần. Doanh nghiệp sau khi cổ phần phải hoạt động tuân thủ các quy định
của luật doanh nghiệp.
Ba là, Quá trình cổ phần hóa được tiến hành thơng qua hình thức nhà nước bán
một phần hay toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Khi tiến hành cổ phần
hóa, doanh nghiệp nhà nước tiến hành phát hành và chào bán cổ phần. Doanh nghiệp
nhà nước sẽ lựa chọn các hình thức phát hành cổ phần khác nhau căn cứ vào nhu cầu
nắm giữ cổ phần chi phối trong doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Nếu muốn nắm giữ
cổ phần chi phối, doanh nghiệp nhà nước lựa chọn hình thức bán một phần vốn nhà
nước hiện có hay phát hành thêm cổ phần để huy động vốn. Nếu khơng có nhu cầu
nắm giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp nhà nước có thể bán tồn bộ vốn nhà nước
hiện có để các nhà đầu tư tự quyết định phần trăm nắm giữ cổ phần của mình có tính
đến những giới hạn mà quy định pháp luật đặt ra.
Bản chất của cổ phần hóa:
Bản chất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được xem xét trên 3 khía
cạnh:
Về bản chất pháp lý: Q trình cổ phần hóa là thay đổi chủ sở hữu, biến doanh
nghiệp một chủ là nhà nước thành doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu khác nhau bằng
cách bán một phần hay tồn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp cho những
người khác. Những người này trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp theo tỷ lệ tài
18


sản mà họ sở hữu trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Các chủ sở hữu có quyền và nghĩa
vụ pháp lý, được hưởng lợi tức và các quyền tham gia hoạt động quản lý doanh nghiệp
tương đương với phần vốn góp đã mua.
Về bản chất chính trị: Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước khơng phải q
trình tư nhân hóa tồn bộ nền kinh tế mà là q trình tư nhân hóa một phần. Nhà nước
vẫn giữ phần vốn góp nhất định thậm chí là chi phối trong doanh nghiệp sau cổ phần
hóa. Theo luật doanh nghiệp 2005, sau khi cổ phần hóa, nhà nước vẫn nắm giữ trên
50% tổng vốn góp thì doanh nghiệp vẫn là doanh nghiệp nhà nước và nhà nước vẫn

nắm giữ vai trò chi phối, quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, với luật doanh nghiệp mới
2014, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa hồn tồn là cơng ty cổ phần, khơng cịn là
doanh nghiệp nhà nước, mọi hoạt động điều hành, quản lý, ra quyết định đều phải
tuân theo các quy định của luật doanh nghiệp về cơng ty cổ phần. Tuy nhiên, hình
thái sở hữu nhà nước vẫn tồn tại. Nó chỉ khơng cịn nắm giữ vai trị chi phối, vị trí
quyết định trong doanh nghiệp mà thơi. Cổ phần hóa khơng xóa bỏ sở hữu nhà nhà
nước mà chỉ giảm mức độ sở hữu nhà nước.
Về bản chất thương mại: Cổ phần hóa là việc mua bán cổ phiếu. Người bán là
doanh nghiệp mong muốn thu thêm tiền để tăng vốn chủ sở hữu. Họ buộc phải chia
nhỏ quyền lực của mình và san sẻ nó cho các chủ sở hữu khác. Người mua cổ phần
hướng đến việc hưởng lợi tức từ cổ phần mình đầu tư vào. Khi nắm giữ tỷ lệ cổ phần
nhất định, người mua cổ phần được gia tăng quyền lợi của mình khi tham gia vào
hoạt động quản lý, biểu quyết các vấn đề của doanh nghiệp.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những điểm khác với tính
quy luật chung của các nước, bởi:
- Các doanh nghiệp mà Việt Nam thực hiện cổ phần hóa được hình thành trong
q trình thực hiện cơng hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác
với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước phát triển khi doanh nghiệp
nhà nước là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất đã vượt quá tầm của
sở hữu tư nhân, đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu.
- Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm
trong cơ chế bao cấp và kế hoạch của nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường,

19


khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát
triển trong cơ chế thị trường, cạnh tranh.
- Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức
và hoạt động theo yêu vầu và kế hoạch của nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực

hiện cổ phần hóa ở các nước là tổ chức và hoạt động vì lợi nhuận tối đa của bản thân
và tuân theo quy luật thị trường.
- Lý do chính của chủ trương cổ phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp nhà
nước hoạt động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác
với lý do thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai
đoạn tập trung tư bản sang giai đoạn tập trung vốn xã hội trong và ngoài doanh nghiệp
để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh.
Như vậy, chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta là một
trong những giải pháp quan trọng nhằm giải quyết những tồn tại về tình trạng sản
xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước – vấn đề đang gây trở
ngại cho tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nước ta có những đặc thù, khác biệt nhất định về
đối tượng cổ phần hóa, chính sách, quy trình cổ phần hóa, vấn đề xác định giá trị
doanh nghiệp, xử lý các khoản nợ tồn đọng,... sẽ được đề cập ở phần nội dung sau.
1.2.2. Sự cần thiết phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một yêu cầu tất yếu khi nước ta bước
vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu này xuất phát từ
nhiều nguyên nhân mà quan trọng nhất là từ những hạn chế trong hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước và lợi ích mà cổ phần hóa đem lại.
Những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước hiện nay
Doanh nghiệp nhà nước được thành lập ngay sau khi miền Bắc được giải
phóng. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã góp phần tích cự vào sự nghiệp giải
phóng miền Nam. Tuy nhiên, sau khi đất nước thống nhất, cơ chế bao cấp, nền kinh
tế tự cung tự cấp đã triệt tiêu động lực sản xuất kinh doanh. Mục đích của việc thành
lập doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo ra tích lũy cho ngân sách nhà nước, tạo việc

20


làm cho người lao động nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp nhà nước không đáp

ứng được mục tiêu này.
Sự yếu kém trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước xuất phát từ nhiều
nguyên nhân:
- Do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài. Cơ chế kinh tế này
coi kinh tế quốc doanh dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, xem nhẹ quy luật kinh tế thị
trường nên hạch tốn doanh nghiệp mang tính hình thức, đội ngũ cán bộ quản lý quan
liêu, nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước không
hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu cảu thị trường và thực tế, thái độ lao động của
doanh nghiệp nhà nước mang tính ỷ lại, năng suất lao động thấp.
- Do sự yếu kém của đội ngũ cơng nhân, cán bộ quản lý và trình độ cơng nghệ.
Công nghệ lạc hậu dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao nên không thể
cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp khơng có tích lũy nội bộ.
- Trình độ quản lý vĩ mô nền kinh tế và doanh nghiệp cịn nhiều yếu kém. Hệ
thống chính sách pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, hiệu lực thấp gây khó khăn cho
doanh nghiệp. Pháp luật còn nhiều kẽ hở gây nên tình trạng kém hiệu quả trong quản
lý tài chính, kế tốn, kiểm tốn, thanh tra. Nhà nước khơng nắm được thực trạng hoạt
động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước không xác định rõ quyền lợi, trách
nhiệm của người lao động, người lao động khơng có trách nhiệm, khơng quan tâm
đến quản lý sử dụng tài sản doanh nghiệp, tham nhũng, tiêu cực phổ biến trong doanh
nghiệp.
Mặc dù được sắp xếp, đổi mới nhưng đến nay, đầu tư của các doanh nghiệp
nhà nước vẫn cịn dàn trải, nhiều tập đồn, tổng cơng ty đầu tư ra ngồi ngành vào
bất động sản, ngân hàng, tài chính, thị trường chứng khốn, đầu tư chéo vào các lĩnh
vực khác hàng chục tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2013 theo chỉ đạo của Chính phủ các
doanh nghiệp nhà nước đã thối vốn ngồi được 4.180 tỷ đồng nhưng mới đạt được
19% trong tổng vốn đã đầu tư ngồi ngành là 22.000 tỷ đồng. Vì vậy, việc thoái vốn
trong những năm tới của các doanh nghiệp nhà nước cần sự cố gắng rất lớn mới có
thể hồn thành mục tiêu đề ra. Khi thị trường bất động sản bị đóng băng, thị trường
chứng khốn giảm sút mạnh, tình hình trong nước và quốc tế gặp khó khăn đã khiến


21


cho tình trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước giảm sút, nợ đọng, nợ
xấu tăng lên đột biến. Tính đến cuối năm 2012, nợ phải trả của các doanh nghiệp nhà
nước tăng nhanh với hơn 1,3 triệu tỷ đồng (chiếm 56% tổng nguồn vốn), lớn hơn 1,46
lần vốn chủ sở hữu và chiếm 70% nợ xấu của các ngân hàng thương mại, nợ phải thu
của các doanh nghiệp nhà nước cũng tăng lên: 275.975 tỷ đồng trong đó, nợ khó địi
là 13.490 tỷ đồng.
Doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ một nguồn lực rất lớn của nền kinh tế
(chiếm 33,5% vốn sản xuất kinh doanh, 50% vốn đầu tư từ nhà nhà nước, 60% vốn
tín dụng của các ngân hàng thương mại, 70% vốn ODA,...) nhưng hơn 50% doanh
nghiệp nhà nước vẫn thuộc loại vừa và nhỏ, trình độ cơng nghệ, năng suất lao động
và hiệu quả sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp nhà nước cịn thấp. Tỷ suất
lợi nhuận bình qn của doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 2005-2011 chỉ đạt
5,8%, trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi trong cùng giai đoạn đạt
9,5%, gấp 1,6 lần so với doanh nghiệp nhà nước.
Tình trạng độc quyền trong kinh doanh đã khiến cho hoạt động của nhiều
doanh nghiệp nhà nước đạt hiệu quả thấp, thiếu động lực cạnh tranh, giá cả lên xuống
không phù hợp với cơ chế thị trường gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Mơ hình quản
lý các tập đồn, tổng cơng ty nhà nước vẫn cịn nhiều hạn chế, lúng túng, chưa rõ
ràng trong việc phân công, phân cấp và tổ chức thực hiện giữa chức năng sản xuất
kinh doanh và hoạt động cơng ích phi lợi nhuận. Năng lực quản trị doanh nghiệp chưa
được nâng cao và chậm được đổi mới. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà
nước trong việc quản lý tài sản nhà nước tại doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chồng
chéo; việc thanh tra, kiểm tra và cơ chế dân chủ, công khai, minh bạch trong quản trị
đối với doanh nghiệp nhà nước bị bng lỏng, tình trạng tham nhũng, lãng phí chậm
được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời đã gây thất thốt hàng nghìn tỷ đồng của
nhà nước điển hình là các vụ tham nhũng tại Tập đồn Cơng nghiệp tàu thủy Việt
Nam (Vinashin), Tổng công ty hàng hải Việt Nam (Vinalines), Công ty cho th tài

chính II,...
Với những hạn chế đó của doanh nghiệp nhà nước, việc tái cấu trúc doanh
nghiệp nhà nước nói chung và việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nói riêng là

22


một nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mơ
hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay.
Vai trò của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy vai trị to lớn của q trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước. Kết quả cổ phần hóa của các nước trên thế giới đã tiến hành
cổ phần hóa đã khẳng định chắc chắn điều đó.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước xử lý quan hệ sản xuất để phát triển lực
lượng sản xuất, tạo mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Cổ phần
hóa cải tạo lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất mới phát triển, giải quyết
mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đem lại sự đổi mới tư duy,
hiệu quả sử dụng phương tiện sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng hoạt động.
Cổ phần hóa góp phần tích cực thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Nguồn vốn thu được từ cổ phần hóa góp phần vào đổi mới công nghệ, đào tạo,
nâng cao chất lượng lao động thúc đẩy q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
huy và tận dụng những ưu điểm của lực lượng sản xuất, cải thiện quan hệ sản xuất.
Cổ phần hóa là địn bẩy để các doanh nghiệp tích cực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường
để tìm kiếm lợi nhuận.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước góp phần làm thay đổi tư duy xã hội chủ
nghĩa theo chế độ bao cấp lỗi thời lạc hậu, thay vào đó là tư duy năng động, nhạy bén
trước tình hình biến đổi của kinh tế thế giới. Chế độ kinh tế một chủ sở hữu là nhà
nước thực hiện chính sách bao cấp đã lỗi thời, bộc lộ những hạn chế trong kìm hãm
sự phát triển của kinh tế xã hội. Thay đổi nền kinh tế quan liêu, bao cấp sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đa dạng loại hình kinh tế, đa dạng sở

hữu thúc đẩy quá trình tìm kiếm lợi nhuận trước những thách thức khó khăn của nền
kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang cơng nghiệp dịch vụ, đẩy mạnh q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và nhà
nước.
Cổ phần hóa góp phần làm chuyển dịch các thành phần kinh tế. Trước cổ phần
hóa, doanh nghiệp hồn tồn thuộc thành phần kinh tế nhà nước, nhà nước nắm giữ
vốn và quyết định mọi hoạt động sống còn của doanh nghiệp. Sau cổ phần hóa, với
23


sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế từ việc nắm giữ cổ phần trong doanh nghiệp,
tỷ lệ sở hữu cổ phần sẽ quyết định doanh nghiệp đó thuộc thành phần kinh tế nào.
Nếu sở hữu của tập thể người lao động chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế tập thể. Nếu sở hữu nhà nước chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế nhà nước. Trường hợp sở hữu tư bản tư nhân chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế tư bản tư nhân. Như vậy, cổ phần hóa đã làm thành phần kinh tế nhà
nước giảm đi về mặt quy mô, thay vào đó là sự gia tăng quy mơ của các thành phần
kinh tế khác, góp phần vào sự chuyển dịch thành phần kinh tế.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước làm đa dạng hóa sở hữu vốn nhà nước,
xác định được rõ phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp và vốn của các nhà đầu tư khác,
từ đó gắn được quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà đầu tư với hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời vốn, tài sản nhà nước trong các doanh
nghiệp cổ phần hóa được đánh giá lại theo quy định, làm minh bạch được tài chính
doanh nghiệp, làm rõ được công nợ, xử lý được nhiều tồn đọng về vốn, tài sản, đất
đai để từ đó có phương án sử dụng hợp lý hơn.
Cổ phần hóa nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty, tăng
cường huy động vốn đầu tư từ xã hội, cải tiến khoa học kỹ thuật cơng nghệ, xóa bỏ
tư tưởng nhà nước bao cấp của công nhân viên, tạo ý thức làm việc tốt hơn cho cơng
nhân viên trong cơng ty, xóa bỏ cơ chế quản lý cứng nhắc, yếu kém và khắc phục tình
trạng lãi giả, lỗ thật cịn đang tồn tại trong doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa là cơ

hội để doanh nghiệp tự chủ kinh doanh, bố trí lại cơ cấu tổ chức trong công ty, tinh
giảm biên chế và có cơ hội để phát triển kinh doanh, tìm kiếm khách hàng mới và
nâng cao năng suất lao động. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ giải quyết được
mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, góp phần xã hội hóa lực
lượng sản xuất, thu hút thêm nguồn lực sản xuất. Khi cổ phần hóa, người lao động sẽ
gắn bó, có trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự của doanh
nghiệp và được hưởng thù lao và lợi nhuận dựa trên chính sức lực mà mình bỏ ra.
Phương thức quản lý được thay đổi sẽ tạo nên sự năng động, tự chủ hơn trong quá
trình sản xuất kinh doanh.
Cổ phần hóa là một yếu tố thúc đẩy sự hành thành và phát triển thị trường
chứng khoán, tạo nên một lĩnh vực hoạt động kinh tế năng động, đưa nền kinh tế Việt
24


Nam hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Các đợt chào bán cổ phần sẽ góp phần
làm thông tin công ty được công khai tạo sự cạnh tranh, phát triển hướng tới mục tiêu
tìm kiếm lợi nhuận. Cổ phần hóa là giải pháp quan trọng nhằm huy động các nguồn
lực trong và ngoài nước. Việc huy động các nguồn lực đặc biệt là nguồn vốn của các
cá nhân, tổ chức giúp doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu
tư, đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài
nước, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế.
Ưu điểm của công ty cổ phần
Ngay từ tên gọi ”cổ phần hóa”, q trình này đã gắn với kết quả chuyển đổi
doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Vậy tại sao hình thức cơng ty cổ phần
lại được lựa chọn làm mục tiêu chuyển đổi mà khơng phải một hình thức cơng ty khác
như cơng ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, ...? Phân tích những ưu điểm
của cơng ty cổ phần ta sẽ trả lời được câu hỏi trên.
Công ty cổ phần được định nghĩa theo luật doanh nghiệp 2014 như sau:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:

- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
- Cổ đơng có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không
hạn chế số lượng tối đa;
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
- Cổ đơng có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật doanh
nghiệp.
Cơng ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp.
Cơng ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn [29,
85].

25


×