Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tài liệu Luận văn " SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG CÁC TỔNG CÔNG TY THỰC SỰ TRỞ THÀNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ LỚN MẠNH. " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.38 KB, 30 trang )













Luận văn


SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG
CÁC TỔNG CÔNG TY THỰC SỰ
TRỞ THÀNH CÁC TẬP ĐOÀN
KINH TẾ LỚN MẠNH. "


















1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế
theo hướng phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Theo đó,
chúng ta khuyến khích sự phát triển mạnh mẽ của tất cả các thành phần kinh
tế. Đặc biệt kinh tế Nhà nước mà nòng cốt là các doanh nghiệp Nhà nước
(DNNN), phải đủ mạnh để giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Sức mạnh của DNNN không chỉ thể thể hiện ở quyền lực hành chính của
Nhà nước mà còn ở sức mạnh kinh doanh thực sự của doanh nghiệp. Thí điểm
thành lập các Tổng công ty Nhà nước theo hướng hình thành và phát triển các
tập đoàn kinh tế mạnh là một chủ trương đúng đắn của Nhà nước ta nhằm tổ
chức lại khu vực kinh tế Nhà nước, tạo nền tảng cho sự ổn định và phát triển
kinh tế đất nước. Thực tế hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước trong
những năm qua đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ, ngày càng
khẳng định được vai trò chủ đạo của DNNN trong nền kinh tế. Tuy nhiên về
mô hình tổ chức Tổng công ty Nhà nước vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn. Để
nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của Tổng công ty, tiến tới xây
dựng một số Tổng công ty đạt được các yêu cầu cơ bản của một tập đoàn kinh
tế, cần phải tổng kết, đánh giá lại mặt mạnh, mặt yếu của mô hình Tổng công
ty, từ đó có biện pháp, chính sách tăng cường, củng cố, nâng cao hiệu quả
hoạt động của Tổng công ty, lựa chọn các Tổng công ty Nhà nước quan trọng,
hoạt động có hiệu quả, có khả năng và điều kiện để xây dựng thành lập đoàn
kinh tế mạnh. Trong bài viết này em xin đề cập đến một số phương hướng,

biện pháp nhằm giải quyết vấn đề trên.

2
NỘI DUNG

I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG CÁC TỔNG CÔNG TY THỰC SỰ TRỞ
THÀNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ LỚN MẠNH.
1. Các Tổng công ty Nhà nước có quy mô lớn (Tổng công ty 91,90) là
công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
Đảng và Nhà nước luôn nhận thức rõ sự cần thiết phải có một khu vực kinh tế
Nhà nước đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả để giữ vững vai trò điều tiết nền
kinh tế, tạo chỗ dựa vật chất cho Nhà nước trực tiếp điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. Một hệ thống các DNNN hoạt động có hiệu quả là một tác nhân quan trọng
để Nhà nước làm đối tượng với các thành phần kinh tế khác trong việc kìm
chế những sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế do các thành phần kinh tế
tư nhân gây ra (do chạy theo lợi nhuận đơn thuần), kìm chế sự lũng đoạn của
các thành phần kinh tế khác trong từng ngành hàng, lĩnh vực cụ thể. Nhờ đó,
Nhà nước có thể hướng nền kinh tế đó theo chiến lược đã chọn. Các DNNN là
lực lượng vật chất để Nhà nước ta thực hiện sử định hướng XHCN. Muốn xây
dựng chủ nghĩa xấ hội, nhất thiết Bộ phận sở hữu này phải được củng cố, phát
triển, phải được xem vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Không có các nhân tố kinh tế xã hội chủ nghĩa đủ sức liên kết,
dẫ dắt các thành phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo của CNXH, chắc chắn sẽ
không thể có được CNXH. Đặc biệt, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần với sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế thì
điều đó là tất yếu. Nếu hệ thống các DNNN không được củng cố, lớn mạnh,
không đủ sức mạnh vật chất để trụ vững trong cạnh tranh, Nhà nước XHCN
sẽ không thể có lực lượng vật chất để điều tiết hoạt động của nền kinh tế đi

theo định hướng XHCN.

3
Để đảm bảo cho các DNNN đủ làm đối tượng với các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác, chúng ta đang xucs tiến xây dựng các tập
đoàn kinh doanh mạnh của Nhà nước mà bước đầu là việc thành lập các Tổng
công ty 91 (Quyết định 91/Ttg) và 90 (Quyết định 90/Ttg) việc thành lập các
Tổng công ty này nhằm tập trung vốn, kỹ thuật để tăng cường sức cạnh tranh,
tự vươn lên giành vị trí chi phối ngành hàng hoặc một số ngành hàng, trở
thành xương sống của nền kinh tế. Các Tổng công ty Nhà nước hiện nay
chiếm khoảng 80% sản lượng và vốn của khu vực DNNN, có khả năng chi
phối toàn Bộ nền kinh tế. Việt Nam.
2. Thành lập các Tổng công ty Nhà nước là một biện pháp để sắp
xếp lại các DNNN.
Nhằm khắc phục sự dàn trải và nâng cao hiệu quả hoạt động của các
DNNN, thời gian qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách sắp xếp lại
DNNN. Đặc biệt, ngày 7/3/1994, thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số
s90/Ttg và 91 Ttg thành lập 18 - Tổng công ty có quy mô quốc gia và 73
Tổng công ty có quy mô nhỏ hơn. Gọi tắt là các Tổng công ty 91,90. Theo các
quyết định này thì tất cả các Tổng công ty (được thành lập trước đó) không đủ
điều kiện về vốn, tài sản phải hạ cấp. Hiện nay, các Tổng công ty Nhà nước
này thu hút gần 1100 DNNN là thành viên hạch toán độc lập hoặc phụ thuộc,
chiếm khoảng 30% tổng số DNNN đang hoạt động và khoảng 70% doanh
nghiệp do trung ương quản lý. Tính đến cuối năm 1999, cả nước có
5.925DNNN, mặc dù số lượng DNNN giảm gần 50% so với năm 1989 song
DNNN vẫn giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
3. Thí điểm thành lập các Tổng công ty Nhà nước theo hướng hình
thành và phát triển các tập đoàn kinh tế mạnh là một chủ trương đúng
đắn của Nhà nước ta.
Các Tổng công ty hiện nay về cơ bản là doanh nghiệp 100% vốn Nhà

nước, vận hành theo cơ chế “công ty mẹ”, “công ty con”. Đây chính là bước
khởi đầu cho việc hành thành cáctập đoàn kinh tế lớn, kinh doanh đa ngành,
có hiệu quả và sức cạnh tranh cao. Tại hội nghị sơ kết mô hình Tổng công ty

4
Nhà nước, nhìn chung, lãnh đạo các Tổng công ty đều tán thành ý kiến thí
điểm mô hình “công ty mẹ, công ty con”. Tổng giám đốc Tổng công ty dệt
may, ông Bùi Xuân Khu nói: “công ty mẹ - công ty con là mô hình rất linh
hoạt và hoạt động theo dạng tập đoàn lớn. Mô hình này sẽ đem lại hiệu quả và
sự hợp tác cao hơn trong công việc”. Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Thuỷ sản
Việt Nam cho biết: “ công ty mẹ- công ty con là mô hình tập đoàn kinh tế có
quy mô lớn về vốn, lao động, doanh thu và thị trường. áp dụng mô hình này,
Tổng công ty Thủy sản Việt Nam sẽ có phạm vi hoạt động rộng, kinh doanh
đa ngành, đa nghề, nhiều lĩnh vực. Công ty mẹ sở hữu số lượng vốn lớn, giữ
cổ phần chi phối trong công ty con. Bên cạnh các tổ chức sản xuất, kinh
doanh còn các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm...”.
Để nâng cao sức cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng
công ty tiến tới xây dựng một số Tổng công ty đạt được các yêu cầu cơ bản
của một tập đoàn kinh tế, trước hết phải tổng kết, đánh giá lại để thấy sẽ mặt
mạnh mặt yếu của từng Tổng công ty, thứ hai là có biện pháp, danh sách tăng
cường, củng cố các Tổng công ty, thứ ba là lựa chọn các Tổng công ty Nhà
nước quan trọng hoạt động có hiệu quả để xây dựng thành lập tập đoàn kinh
tế mạnh.
II. TỔNG KẾT LẠI MÔ HÌNH TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC
1. Mô hình tổ chức Tổng công ty Nhà nước
Hiện nay, các Tổng công ty Nhà nước được tổ chức theo quyết định số
90/ Ttg và 91/Ttg ngày 7/3/1994 của thủ tướng Chính phủ gọi tắt là Tổng
công ty 90 và Tổng công ty 91. Các Tổng công ty này vận hành theo cơ chế
“công ty mẹ” và “công ty con”; tổ chức gồm: Hội đồng quản trị (HĐQT);
Tổng giám đốc (TGĐ), Ban kiểm soát; các đơn vị thành viên.

Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91 được phân biệt dựa trên quy mô v
ốn pháp định, số lượng doanh nghiệp thành viên; cấp có thẩm quyền quyết
định thành lập, phê chuẩn điều lệ và bổ nhiệm nhân sự Bộ máy của Tổng
công ty.

5
Việc lựa chọn mô hình Tổng công ty như trên, lúc đầu, sự hoạt động có
thể chưa có hiệu quả so với mô hình doanh nghiệp hoạt động độc lập thành
lập theo quyết định 338; song, cái được lớn là giảm đáng kể số lượng doanh
nghiệp trực thuộc Bộ quản lý ngành hay cấp hành chính địa phương cũng như
giảm số lượng doanh nghiệp không cần thiết, tiếp tục duy trì qua sắp xếp lại
khi đưa vào Tổng công ty. Cái được lớn và cơ bản tạo cho Bộ và cấp hành
chính địa phương thực hiện đúng đắn chức năng quản lý Nhà nước đáp ứng
yều cấp thiết việc nâng cao hiệu quả và hiệu lực hoạt động của Bộ máy quản
lý hành chính hiện nay.
2. Các kết quả bước đầu.
Hiên nay, cả nước có 17 Tổng công ty 91, 74 Tổng công ty 90. Các Tổng
công ty này đã dung nạp gần 1100 DNNN làm thành viên, tương đương 70%
số DNNN đo trung ương quản lý; chiếm s80% tổng số vốn và giá trị sản
lượng của DNNN. Do đó, các Tổng công ty Nhà nước không những chi phối
cơ bản khu vực DNNN mà còn chi phối cả nền kinh tế. Kết quả bước đầu như
sau:
* Các Tổng công ty Nhà nước đã đi vào ổn định, khắc phục khó khăn,
vươn lên đạt kết quả đáng kể về sản xuất, kinh doanh.
Hầu hết các Tổng công ty đều đạt mức tăng trưởng được giao về tổng
sản lượng sản xuất, tổng doanh thu, nộp ngân sách, lãi, lỗ, thu nhập bình quân
người lao động, kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu và một số chỉ tiêu quan trọng
khác đầu tăng trưởng qua các năm. Có một số Tổng công ty ngày càng lớn
mạnh, có thêm lực phát triển, hoạt động có hiệu quả, ổn định, vững chắc; như
Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông, Tổng công ty dầu khí, Tổng công ty

Than, Tổng công ty điện lực, Tổng công ty Hàng Không, Tổng công ty Xi
măng, Tổng công ty Thuốc lá, Tổng công ty Rượu bia, nước giải khát, Tổng
công ty Xăng dầu.
Các Tổng công ty này không chỉ đạt được các chỉ tiêu hiện tăng trưởng
mà thị phần của ngành ngày càng được mở rộng, tỷ lệ huy động năng lực sản
xuất cao.

6
* Các Tổng công ty ngày càng thể hiện được sức mạnh kinh tế và kinh
doanh, khẳng định vai trò, tác dụng của nó trên thực tế đối với hầu hết các
ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng của nền kinh tế nước ta.
Các Tổng công ty có sức mạnh cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh và
thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước. Một số loại sản phẩm của một số
ngành kinh tế do các Tổng công ty sản xuất đã và đang có vị trí đứng ở thị
trường nước ngoài, tạo khả năng tự cân đối được kim ngạch xuất nhập khẩu
nhhư ngành Rượu - bia - nước giải khát, thuốc lá, Than, May mặc, Dầu khí.
Nhìn chung các Tổng công ty có khả năng và thực lực để thực hiện các
nhiệm vụ và chiến lược phát triển ngành do Chính phủ giao. Các Tổng công
ty 91 v à 90 đã được tổ chức và hoạt động ở tất cả các ngành kinh tế - kỹ thuật
quan trọng của đất nước. Do tiềm hợp vê số lượng các doanh nghiệp thành
viên và nguồn lực tích tụ, tập trung vốn, vào động, khoa học công nghệ, trình
độ tổ chức quản lý, nên các Tổng công ty đã có vai trò chủ đạo và chi phối cả
trong sản xuất và thị trường đối với các ngành kinh atế. Đối với một số ngành
kinh tế lớn, vai trò tác dụng của Tổng công ty ở chỗ tạo lập được trật tự trong
sản xuất và thị trường tiêu thụ thông qua cơ chế thống nhất quản lý và điều
hành toàn Tổng công ty và trực tiếp ký hợp đồng vơí các hộ tiêu thụ lớn, ổn
định, lâu dài. Điểm hình nhất là Tổng công ty Than, Tổng công ty Điện lực
trong quản lý thống nhất các đầu mối tiêu thụ. Còn hầu hết các Tổng công ty
đều quản lý thống nhất được các đầu mối thị trường xuất nhập khẩu.
* Đa ngành, đa lĩnh vực trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó

có ngành chủ đạo mang tên của Tổng công ty.
Thực tế hoạt động đã khẳng định được hướng hoạt động kinh doanh đa
ngành, đa lĩnh vực của các Tổng công ty là đúng đắn, nâng cao được hiệu quả
và vị trí của mỗi Tổng công ty trong cơ chế kinh tế thị trường đa thành phần
với mở cửa với thị trường bên ngoài, thích ứng được với các tình huống
chuyển đổi của nền kinh tế. Kinh nghiệm và thực tế hiện nay cho thấy đa
dạng hoá hoạt động theo đa ngành, đa lĩnh vực có ngành kinh tế chủ lực là
thiết thực, đem lại hiệu quả cao đối với các Tổng công ty.

7
3. Những vấn đề đặt ra trong hoạt động sản xuất của Tổng công ty.
Qua gần 6 năm hoạt động, bên cạnh những thành tích đạt được, mô hình
Tổng công ty Nhà nước cũng đã Bộc lộ một số mặt còn yếu kém.
3.1. Về tổ chức và các mối quan hệ, chức năng phân cấp hoạt động.
3.1.1. Vai trò của Hội đồng quản trị
Theo điều lệ mẫu Tổng công ty, cơ cấu và Bộ máy của mô hình Tổng
công ty mới gồm có: HĐQT, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc và Bộ máy giúp
việc. Tổng công ty được quản lý bởi HĐQT và được điều hành bởi Tổng
giám đốc. Nhưng trong thực tế thời gian qua, vai trò của HĐQT trong các
Tổng công ty hầu như rất mờ nhạt. Có một số Tổng công ty đã hoạt động vài
năm rồi mà vẫn chưa đủ số lượng thành viên HĐQT. Cá biệt, có Tổng công ty
cho tới tận đầu năm 1999 mới có chủ tịch HĐQT. Theo báo cáo của ban đổi
mới quản lý doanh nghiệp trung ương thì “Qua thực tế hoạt động cho thấy
một số thành viên HĐQT không đủ năng lực dù thiếu am hiểu chuyên môn
quản lý, chưa gắn bó với hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty”.
Và chức danh Chủ tịch HĐQT cũng gây nhiều tranh cãi trong giới doanh
nghiệp. Nhiều người cho rằng, Chủ tịch HĐQT là một chức danh “hữu danh
vô thực, là nơi để giải quyết chính sách” cho các cán Bộ đã quá tuổi nhưng
chưa về hưu... Phát biểu tại hội nghị tổng kết mô hình Tổng công ty, hầu hết ý
kiến của các đại biểu đều cho rằng, thời gian qua HĐQT đã không khẳng định

được vị trí của mình trong Tổng công ty. Điều đó một phần do cơ chế, chính
sách chưa rõ ràng, nhưng phần chủ yếu vẫn là cán Bộ thành viên của HĐQT
không đủ năng lực để đảm nhận nhiệm vụ mới mẻ này, đặc biệt là chức danh
HĐQT.
3.1.2. Mối quan hệ giữa HĐQT và ban Tổng giám đốc.
Cho đến nay vẫn còn nhiều vướng mắc trong các quyết định về quyền
đại diện chủ sở hữu tài sản Nhà nước trong DNNN, vai trò và trách nhiệm của
Chủ tịch HĐQT chưa được xác định rõ nên đôi khi vẫn chưa có sự phối hợp
nhịp nhàng giữa HĐQT và ban TGĐ. Cùng một số vốn được giao nhưng cả

8
Chủ tịch HĐQT và TGĐ đều phải ký nhận. Như vậy, trách nhiệm thì tập thể
nhưng người điều hành chỉ là Tổng giám đốc. HĐQT tuy có trách nhiệm giám
sát nhưng vốn của các DNNN lại không thuộc quyền sở hữu của mình. Do đó,
trách nhiệm và quyền hạn của HĐQT cũng bị giới hạn. Hiện nay, giám đốc
của các doanh nghiệp thành viên chủ lực hầu hết chưa tham gia HĐQT của
Tổng công ty vì muốn tách chức năng quản lý và chức năng điều hành, nhưng
thực tế hai chức năng này gắn bó tới hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty.
Có nơi HĐQT trong khi chưa thực hiện tốt chức năng. Chủ yếu như xây dựng
chiến lược, quyết định dự án đầu tư, lựa chọn cán bộ nhưng lại sa vào lĩnh
vực điều hành của Tổng giám đốc. Có nơi Tổng giám đốc quyết định các vấn
đề thuộc quyền hạn của chủ tịch HĐQT. Lại có nơi chủ tịch HĐQT lại bao
biện công việc điều hành của giám đốc. Thực tế hiện nay cho thấy, nơi nào uy
tín và trình độ của chủ tịch HĐQT cao hơn thì thường can thiệp vào hoạt động
kinh doanh, lấn quyền của giám đốc, biến HĐQT thành cơ quan chủ quản của
doanh nghiệp. Ngược lại, nơi nào trình độ và uy tín của Tổng giám đốc cao
hơn thì vai trò của HĐQT trở lên mờ nhạt. Sở dĩ có tình trạng trên là vì quyền
hạn và trách nhiệm ở đây được phân công không xuất phát từ lợi ích kinh tế
mà hoàn toàn xuất phát từ năng lực quản lý hành chính.
3.2. Mối quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên và giữa

các đơn vị thành viên với nhau.
* Sự dính kết “hữu cơ” giữa các doanh nghiệp thành viên với Tổng công
ty chưa thực sự tồn tại; động lực xây dựng Tổng công ty đối với các đơn vị
thành viên bị thả nổi, không phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn Tổng
công ty.
Sau khi tham gia vào Tổng công ty, các DNNN thành viên hầu như hạch
toán độc lập. Họ phải tự “xoay sở”, tự lo công ăn việc làm, tự lo lỗ, lãi, các
Tổng công ty gần như không có vai trò gì. Đặc biệt sau khi Chính phủ ban
hành nghị định số 44/1998/NĐ - CP (ngày 29/6/98) và việc chuyển DNNN
thành Công ty cổ phần, một số doanh nghiệp trong các Tổng công ty Nhà
nước đã được thí điểm tiến hành cổ phần hoá. Điều đó có nghĩa là các doanh

9
nghiệp này đã tách hoàn toàn khỏi sự kiểm soát của Tổng công ty và hoạt
động theo một luật mới: luật công ty.
Theo số liệu điều tra ở TPHCM và Hà Nội thì chỉ có khoảng 13% các
doanh nghiệp (mà đa phần là nhỏ hay hoạt động chưa có hiệu quả) là cần có
Tổng công ty. Điều này cho thấy mô hình Tổng công ty chỉ có một phần tác
dụng với một số doanh nghiệp chưa khẳng định được trên thị trường và một
số các doanh nghiệp đặc thù. Còn phần lớn các doanh nghiệp khác thì mô
hình Tổng công ty là không cần thiết và không ít doanh nghiệp đang mong
muốn “độc lập” với cả Tổng công ty.
Điều này cho thấy, sự điều hành của Tổng công ty với các công ty thành
viên chưa đem lại hiệu quả cao, chưa hội tụ được các anh tài từ các công ty về
với Tổng công ty. Hiện tại có không ít ý kiến đề nghị trực tiếp hoặc gián tiếp
xem xét lại mô hình tổ chức Tổng công ty và điều lệ hoạt động của nó.
Ngoài ra, chính tư tưởng độc lập theo nghị định 388/HĐBT đã làm một
số đơn vị thành viên của các Tổng công ty không liên kết được với nhau,
hoạt động rời rạc, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn Tổng công
ty. Thậm chí các doanh nghiệp thành viên còn cạnh tranh lẫn nhau, gây thiệt

hại đến lợi ích của Nhà nước.
* Khác với các tập đoàn kinh tế của nước ngoài, mối quan hệ giữa “công
ty mẹ” và “công ty con” là mối quan hệ mang tính hữu cơ chặt chẽ, “công ty
mẹ” chi phối hoạt động của công ty con bằng các quan hệ tài chính, thị
trường, ở các Tổng công ty của Việt Nam, mối quan hệ này chỉ mang tính
“hành chính”, “cơ học”. Tổng công ty điều hành hoạt động của các doanh
nghiệp thành viên bằng các quyết định, bằng các ràng buộc về quyền lợi và
nghĩa vụ của doanh nghiệp với Tổng công ty. Điều này phản ánh một thực
trạng là, nếu Tổng công ty thực hiện vai trò của mình thì vô hình chung nó đã
biến mình thành cấp chủ quản cản trở hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp thành viên.
Sở dĩ có mâu thuẫn trên là vì các Tổng công ty Nhà nước được thành lập
chủ yếu bằng con đường hành chính tổ chức chứ không áp dụng những yếu tố
của kinh tế thị trường. Theo cách thức này, các DNNN trong cùng một ngành

10
được gom góp lại và được tham gia vào một tổ chức gọi là Tổng công ty Nhà
nước. Có những DNNN tham gia vào Tổng công ty không phải là tự nguyện
mà bị gò ép, họ thậm chí không có quyền quyết định vận mệnh của chính
mình. Tất cả những điều này đã không tạo ra được sự gắn kết cần thiết giữa
các đơn vị thành viên với Tổng công ty và do đó không phát huy được sức
mạnh tổng hợp của Tổng công ty.
3.3. Thiếu sự phân công, phân cấp cụ thể, rõ ràng về quản lý Nhà nước
và thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN giữa chính phủ với
Bộ quản lý ngành, Bộ chức năng và UBND cấp tỉnh, cấp huyện nên mối quan
hệ giữa Tổng công ty với các cơ quan quản lý Nhà nước rất phức tạp, có quá
nhiều đầu mối, trách nhiệm giải quyết công việc không rõ ràng và khó xác
định trách nhiệm khi xảy ra hậu quả.
Hiện tại đại diện quyền sở hữu Nhà nước được dàn trải ở nhiều cơ quan
đại diện làm nảy sinh nhiều vấn đề phiền hà cho doanh nghiệp, tạo ra nhiều sơ

hở trong cơ chế quản lý vốn và tài chính của doanh nghiệp mà hậu quả khó
lường hết cho cả các cơ quan quản lý Nhà nước lẫn doanh nghiệp.
3.4. Qua thực tế hoạt động có một số Tổng công ty đang đòi hỏi phải có
giải pháp tổ chức sắp xếp lại như: Tổng công ty đá quý và vàng (Tổng công ty
91), Tổng công ty cơ khí năng lượng và mỏ (Tổng công ty 90).
3.5. Tình trạng thiếu vốn của các DNNN là phổ biến và nghiêm trọng.
Tổng công ty Nhà nước tuy được ưu tiên các điều kiện vật chất, nguồn lực để
phát triển nhưng tình hình cũng không sáng sủa hơn. Năm 1998, vốn Nhà
nước bình quân của Tổng công ty 91 là 3661 tỉ đồng (260 triệu USD). Nhưng
trong số 17 Tổng công ty 91 có tới 14 Tổng công ty (82%) có mức vốn Nhà
nước dưới mức vốn bình quân, trong đó 6 Tổng công ty (35%) có mức vốn
Nhà nước dưới 1000 tỉ đồng. Điều đó có nghĩa là chỉ có 3 Tổng công ty 91 có
vốn Nhà nước là lớn.
Đối với Tổng công ty 90, tình hìnhh vốn còn đáng buồn hơn. Hơn 20%
số Tổng công ty 90 vốn Nhà nước chỉ có dưới 100 tỉ đồng, trong đó ở 13

11
Tổng công ty vốn từ ngân sách cấp cho mỗi Tổng công ty chỉ được dưới 40 tỉ
đồng.
Với quy mô vốn nhỏ hẹp như vậy, e rằng các Tổng công ty khó mà thực
hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của mình.
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CẦN LÀM ĐỂ CỦNG CỐ VÀ PHÁT
TRIỂN CÁC TỔNG CÔNG TY.
1. Chấn chỉnh Bộ máy tổ chức của HĐQT và xử lý lại mối quan hệ
giữa chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc.
* Hội đồng quản trị cần được chấn chỉnh cả về cơ cấu tổ chức và chất
lượng hoạt động. Bài kết luận hội nghị sơ kết mô hình Tổng công ty của Phó
Thủ tướng Ngô Xuân Lộc nêu rõ “chuẩn bị tốt về mặt nhân lực. Nâng cao
chất lượng hoạt động của HĐQT để đủ sức gánh vác nhiệm vụ. Chủ tịch
HĐQT và các thành viên của HĐQT phải là những người thuộc lĩnh vực hoạt

động của Tổng công ty, có kiến thức chuyên môn sâu rộng, am hiểu nội tình
của doanh nghiệp mà mình đang quản lý. Tham gia vào HĐQT có một số các
giám đốc của các công ty đầu đàn của Tổng công ty. Tổng giám đốc Tổng
công ty Dệt - May Việt Nam Bùi Xuân Khu nói: “Mô hình HĐQT cần hết sức
gọn nhẹ. Thành viên HĐQT phải là những người giỏi chuyên môn, am hiểu
ngành nghề thì mới có thể xây dựng các chiến lược, chính sách đúng đắn. Bên
cạnh đó có thể lập hội đồng cố vấn để giúp đỡ cho HĐQT.
Theo ý kiến của Thủ tướng chính phủ và của ban đổi mới quản lý doanh
nghiệp trung ương thì trong thời gian tới nên thí điểm mô hình chủ tịch
HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty. Một số Tổng công ty đồng tình
với giải pháp này. “Việc chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty là
hoàn toàn đúng” ông chủ tịch HĐQT Tổng công ty xây dựng số 1 nói. Nhưng
cũng có ý kiến cho rằng, chủ tịch HĐQT không nên kiêm nhiệm Tổng giám
đốc. Tổng giám đốc Tổng công ty điện lực Việt Nam Hoàng Trung Hải đề
nghị: “HĐQT nên chỉ có một số ít thành viên chuyên trách như: chủ tịch và
trưởng ban kiểm soát, còn các thành viên khác nên kiêm nhiệm. Chủ nhiệm
HĐQT phải là người quản lý có nhiều kinh nghiệm, năng động, có khả năng

×