Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

RICH2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.35 KB, 31 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TX GÒ CÔNG TRƯỜNG TIỂU HỌC BÌNH ĐÔNG 2. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Đề tài:. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 5. Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Giàu Chức vụ: Giáo viên Tổ: Khối 5. Năm học: 2012-2013.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> LỜI CẢM ƠN. Kính thưa :Ban giám hiệu và toàn thể quý thầy cô của trường! Sau thời gian nghiên cứu với sự hỗ trợ nhiệt tình của Ban giám hiệu và toàn thể giáo viên khối 5 của trường thì đề tài “Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt văn miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp 5”đã hoàn thành. Những lời góp ý chân thành của quý thầy cô đã giúp tôi rất nhiều trong quá trình tìm hiểu, phân tích, đánh giá cũng như rút ra kết luận trong sáng kiến kinh nghiệm này. Sáng kiến kinh nghiệm bước đầu tìm tìm ra những biện pháp giúp học sinh học tốt văn miêu tả lớp 5 là những cố gắng nỗ lực của tôi trong việc áp dụng những kiến thức lý luận vào thực tiễn giáo dục và cũng là sự tìm tòi học hỏi kinh nghiệm trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu. Tuy nhiên do thời gian và kinh nghiệm bản thân tích luỹ chưa nhiều cho nên sáng kiến kinh nghiệm này chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, tôi kính mong nhận được những nhận xét, góp ý chân tình để giúp đỡ tôi có thêm kinh nghiệm phục vụ công tác được tốt hơn.. Xin chân thành cám ơn!.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN A - MỞ ĐẦU.....................................................................................................trang 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.................................................................................trang 1 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.........................................................................trang 2 3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU..............................................trang 2 3.1. Phạm vi nghiên cứu..................................................................................trang 2 3. 2. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................trang 3 4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.........................................................................trang 3 4.1. Giai đoạn 1...............................................................................................trang 3 4.2. Giai đoạn 2...............................................................................................trang 3 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................................................trang 3 5.1. Phương pháp quan sát..............................................................................trang 3 5. 2. Phương pháp phân tích............................................................................trang 3 5.3. Phương pháp tổng hợp.............................................................................trang 3 5.4. . Phương pháp thực nghiệm.....................................................................trang 4 B - NỘI DUNG..................................................................................................trang 5 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN..............................................................trang 5 2. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH .............................................................................trang 5 2.1. Thuận lợi:.................................................................................................trang 5 2. 2. Hạn chế:..................................................................................................trang 6 3. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN KHI DẠY MÔN TẬP LÀM VĂN ...........................................................................................................................trang 8.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> 3.1 Điều tra phân loại học sinh........................................................................trang 8 3.2. Rèn học sinh thực hiện tốt khâu chuẩn bị bài mới ..................................trang 8 3.3. Hướng dẫn kĩ thuật viết văn cho học sinh .............................................trang 10 3.4. Cá thể hoá hoạt động dạy học................................................................trang 19 3.5. Chấm bài thường xuyên.........................................................................trang 20 C - KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC............................................................................trang 21 1. Về học sinh .................................................................................................trang 21 2. Về giáo viên ................................................................................................trang 22 D - BÀI HỌC KINH NGHIỆM ......................................................................trang 23 E - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................trang 25 TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................trang 26.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> A – MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong việc dạy và học Tiếng Việt xét trên hai phương diện : - Phân môn Tập làm văn tập vận dụng các hiểu biết và kĩ năng về Tiếng Việt do các phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp đồng thời góp phần hoàn thiện chúng. Để làm được một bài văn nói hoặc viết, người làm phải hoàn thiện các kĩ năng nói, đọc, viết, phải vận dụng các kiến thức về tiếng Việt. Trong quá trình vận dụng này, các kĩ năng và kiến thức đó được hoàn thiện và nâng cao dần. - Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản (nói và viết). Nhờ vậy Tiếng Việt không chỉ là hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp, tư duy, học tập. Nói cách khác, phân môn Tập làm văn đã góp phần thực hiện hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học… Qua chuyên đề Tập làm văn lớp 5 và qua kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm ở khối lớp 5, tôi nhận thấy việc việc dạy và học phân môn này đang gặp nhiều khó khăn, không chỉ đối với học sinh mà cả đối với giáo viên cũng cảm thấy băn khoăn, ái ngại. Do đó giáo viên cũng gặp nhiều khó khăn trong việc rèn năng lực viết văn cho học sinh, nhất là đối với học sinh địa phương nơi tôi giảng dạy. “Môn văn là chìa khóa để mở cửa các môn học khác”, thật vậy năng lực nói (diễn đạt) thường đi đôi với năng lực viết, nói tốt thì sẽ viết tốt. Thực tế cho thấy, bình thường các em nói chuyện với nhau rất dễ dàng với đủ cách nói mọi lúc mọi nơi nhưng đến giờ Tập làm văn thì các em lại tỏ ra lúng túng. Rõ ràng học sinh vẫn chưa phát huy hết khả năng và tính chủ.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> động của mình trong học tập, khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ văn học của các em còn nhiều hạn chế, do đó gây cho các em sự lơ là đối với môn học này, chưa biết diễn đạt ý mình bằng những câu văn hay, sử dụng từ chưa hợp lý, ý tưởng còn khô khan, chưa dồi dào, phong phú. Trước những yêu cầu của đổi mới giáo dục hiện nay đòi hỏi học sinh không chỉ có kĩ năng viết đúng ngữ pháp mà còn phải có kĩ năng viết văn hay. Do đó, ngay từ đầu năm học tôi đã đề ra và bắt đầu thực hiện một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập làm cho lớp tôi và thời gian dần trôi những biện pháp ấy được tôi đúc kết thành những kinh nghiệm nhỏ nhưng đối với tôi là rất quý báu và là hành trang để tôi tiếp tục thực hiện và hoàn thiện hơn trên con đường dạy học của mình. Tôi xin được chia sẻ qua nội dung của đề tài “Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn lớp 5”. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu đề tài, tôi không có nhiều tham vọng mà chỉ nhằm mục đích đóng góp một phần công sức của mình vào công tác giáo dục của nhà trường. Với việc nghiên cứu đề tài, tôi mong muốn sẽ có được bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực tiễn giảng dạy giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn lớp 5 trong trường Tiểu học Bình Đông 2 nói riêng, trong ngành giáo dục nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu đề tài thành công, đồng thời là chất lượng học tập của các em học sinh cũng sẽ được nâng lên một cách đáng kể. 3 . PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 3.1. Phạm vi nghiên cứu: Nhằm đi sâu vào một vấn đề và chỉ dừng ở mức độ sáng kiến kinh nghiệm nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu một số biện pháp dạy học Tập làm văn cho học sinh lớp Năm. Với phạm vi nghiên cứu.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> như vậy, tôi hi vọng sẽ thu được nhiều kết quả khả quan, góp phần thực hiện nhiệm vụ của một nhà giáo trong giai đoạn mới. 3. 2. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 5 trong trường Tiểu học Bình Đông 2. 4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: Chọn đề tài này để nghiên cứu, tôi đề ra những nhiệm vụ cho từng giai đoạn như sau: 4.1. Giai đoạn 1: (Năm học 2011- 2012) Điều tra phân loại đối tượng học sinh lớp 5 của trường. Từ đó mạnh dạn áp dụng những biện pháp nhằm giúp học sinh yêu thích và học tốt Tập làm văn trong chương trình Tiếng Việt lớp Năm. 4.2. Giai đoạn 2: (Năm học 2012- 2013) Phát triển sáng kiến kinh nghiệm thành đề tài nghiên cứu. Tiếp tục áp dụng những biện pháp nhằm giúp học sinh lớp Năm, nhất là học sinh trung bình - yếu . 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Khi nghiên cứu và thực hiện đề này chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 5.1. Phương pháp quan sát: Tôi đã khảo sát thực tế giờ dạy của lớp 5, khảo sát sách giáo khoa, sách giáo viên để hiểu được thực tế dạy học môn Tập làm văn ở lớp 5. 5. 2. Phương pháp phân tích: Tôi đã phân tích thực trạng dạy học Tập làm văn lớp 5, phân tích tìm hiểu nội dung, phương pháp dạy học Tập làm văn qua sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt lớp 5. 5.3. Phương pháp tổng hợp:.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Tôi đã tổng hợp các kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu, khảo sát, dự giờ, tổng hợp các kết quả từ việc nghiên cứu nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy Tập làm văn lớp 5. 5.4. Phương pháp thực nghiệm: Tôi đã soạn giáo án và dạy thực nghiệm ở lớp 5 trường Tiểu học Bình Đông 2..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> B - NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN: Hiệu quả của việc dạy học không chỉ phụ thuộc vào nội dung dạy học mà còn phụ thuộc vào phương pháp dạy học của người giáo viên. Đặc biệt là tập làm văn là môn mà các em ở tiệc yếu hơn các môn khác. Bởi vậy người giáo viên phải có nhiệm vụ giúp các em nối tiếp một cách tự nhiên các bài khác nhau trong môn Tiếng Việt như tập đọc, chính tả, ngữ pháp, kể chuyện…nhằm giúp các em có năng lực nói, viết. Nhờ năng lực này, các em biết sử dụng Tiếng Việt làm công cụ tư duy giao tiếp , học tập. Giúp các em bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy và qua đó hình thành nhân cách cho các em. Để cung cấp và giúp các em có những kiến thức Tiếng Việt, người giáo viên phải có những biện pháp dạy Tập làm văn cụ thể, logic qua các chi tiết của phân môn Tập làm văn. Đây là một môn học khó, làm sao để học sinh biết làm văn đúng thể loại, đủ ý, câu văn lưu loat, có hình ảnh, có tình cảm… không sai lỗi, trình bày đẹp, là vấn đề mà nhiều giáo viên như tôi phải suy nghĩ. Trong những lúc chấm bài chưa chú ý, câu còn lủng củng, ý nghèo nàn, sai lỗi nhiều. Vì vậy, tôi đã tìm ra một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tập làm văn lớp 5. 2. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH : 2.1. Thuận lợi: 2.1.1. Giáo viên: Đội ngũ giáo viên cũng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy. 2.1.2. Học sinh: Đa số học sinh có đủ Sách giáo khoa và các đồ dùng học tập..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> 2. 2. Hạn chế: 2.2.1. Giáo viên: - Việc vận dụng dạy học tích hợp chưa được giáo viên vận dụng triệt để nên lượng kiến thức, kĩ năng cung cấp cho các em trong một tiết Tập làm văn thường rất lớn, nhiều lúc dẫn đến tình trạng quá tải trong tiết học. - Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng đôi khi cũng ngại không dám “thoát li” các gợi ý của sách giáo khoa, sách tham khảo vì sợ sai và không đủ thời gian cho một tiết học. 2.2.2. Học sinh: - Học sinh chưa vận dụng được các kiến thức, kĩ năng đã học trong các phân môn của Tiếng Việt, của các môn học khác, của các lớp dưới vào học tập môn Tập làm văn. Chẳng hạn, khi dạy cho học sinh cấu tạo một bài văn tả cảnh, giáo viên cần hướng dẫn các em tìm hiểu văn bản mẫu để rút ra nhận xét. Trong khi đó, nếu dựa trên kiến thức đã học về văn miêu tả ở lớp Bốn để hình thành cho các em cấu tạo bài văn tả cảnh ở lớp Năm rõ ràng là nhanh hơn. - Học sinh của nhà trường đa số là học sinh trung bình, yếu về làm văn. Với đối tượng này, việc học tập của các em còn gặp một số khó khăn sau: + Tiếng Việt là tiếng nói để giao tiếp của các em nhưng vốn Tiếng Việt lại rất hạn chế. Trong khi đó, việc học kiểu bài miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp Năm lại yêu cầu vốn từ ngữ, năng lực tư duy rất lớn. Vốn từ của các em chưa phong phú, chưa hiểu hết nghĩa của từ nên việc vận dụng vào bài làm còn nhiều sai sót. + Chương trình Tiếng Việt mới có rất nhiều ưu điểm trong việc phát huy sáng tạo của học sinh nhưng lại tương đối nặng đối với đối tượng học sinh trung bình, yếu..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> + Đôi lúc, do nhiều nguyên nhân, một số giáo viên vẫn lạm dụng phương pháp “làm mẫu” đối với học sinh trung bình, yếu, từ đó dẫn đến tình trạng học sinh “coppy” nhau hoặc học thuộc bài văn mẫu. + Thời gian quy định đối với một tiết học cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc dạy Tập làm văn trong nhà trường Tiểu học. + Trong các lớp vẫn còn rải rác một số học sinh yếu, cá biệt, có học sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo. Đây là một trở ngại lớn cho việc dạy học tập làm văn cho các em. Với những học sinh này, yêu cầu đặt từng câu văn rời rạc còn khó, nói gì đến việc hướng dẫn các em đặt một đoạn văn theo cầu. + Kĩ năng làm văn miêu tả của các em học sinh yếu hầu như không có. Các em chưa biết cách quan sát, thực hiện làm một bài văn miêu tả chưa đúng quy trình, chưa biết cách chọn lọc các chi tiết miêu tả đặc sắc để đưa vào bài văn, làm cho bài văn thành “một mớ hỗn độn” của các chi tiết hoặc là thành “một bản liệt kê” với rất nhiều chi tiết. - Với học sinh khá, giỏi, việc dạy học tập làm văn cũng gặp một số tồn tại sau: + Do trong lớp có nhiều đối tượng học sinh nên giáo viên thường sử dụng phương pháp làm mẫu để tạo đà giúp học sinh trung bình, yếu làm văn. Phương pháp này giúp học sinh yếu có thể làm được bài bằng những gợi ý. Tuy nhiên, một số học sinh học được lại thường hay bắt chước các câu, đoạn văn mẫu nên nhiều bài làm có các câu, đoạn giống nhau. + Có sự chênh lệch rất lớn về trình độ của học sinh khá, giỏi và học sinh trung bình, yếu nên giáo viên rất khó sử dụng các phương pháp “hiện đại” để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục. Nếu chú ý đến học sinh khá, giỏi thì sẽ bỏ qua học sinh trung bình, yếu. Nhưng nếu tập trung vào học.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> sinh trung bình, yếu, kiên trì với đối tượng này đạt được yêu cầu bài văn thì lại ảnh hưởng đến sự phát triển của số học sinh khá, giỏi. + Học văn miêu tả, làm văn miêu tả nhưng nhiều học sinh lại thiếu vốn sống thực tế nên dẫn đến một số tình huống hay gặp trong dạy học văn miêu tả như: Học sinh không biết làm bài nên bỏ giấy trắng hoặc làm bài văn rất ngắn- khoảng 4, 5 dòng; các em sử dụng các gợi ý của giáo viên hay sử dụng các đoạn văn mẫu để viết. + Một khó khăn nữa là nhiều học sinh viết chữ chưa đẹp, nếu không nói là rất xấu, sai chính tả. Nhiều bài văn có chữ viết lem nhem, đầy vết bẩn. Với một bài văn đầy lỗi chính tả, tẩy xoá thì việc đọc lại bài, trau chuốt câu văn, sửa ý, sửa từ quả là khó khăn, gian khổ. 2.2.3. Cha mẹ học sinh: Cha mẹ các em hầu như ít quan tâm đến việc học hành của các em do phải vất vả với việc đồng áng, mưu sinh, do nhận thức chưa đúng về giáo dục, do hiểu biết và trình độ còn hạn chế,… 3. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN KHI DẠY MÔN TẬP LÀM VĂN : 3.1 Điều tra phân loại học sinh: Giáo viên điều tra, phân loại, nắm chắc từng đối tượng học sinh: năng khiếu, trung bình, học sinh yếu và học sinh cá biết. Nắm chắc được đối tượng học sinh, giáo viên sẽ đề ra được kế hoạch dạy học phù hợp, có những biện pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Đồng thời, tạo điều kiện tốt nhất góp phần phụ đạo học sinh yếu biết làm văn miêu tả, có thể vận dụng làm được một bài văn hoàn chỉnh. 3.2. Rèn học sinh thực hiện tốt khâu chuẩn bị bài mới : - Do thời gian dành cho tiết tập làm văn trên lớp chỉ từ 35 đến 40 phút, vì thế các em cần phải có sự đầu tư từ trước, nếu không chuẩn bị bài thì việc học tập trên lớp của các em gặp nhiều khó khăn và kém hiệu quả..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Tuy nhiên, việc phải chuẩn bị gì và chuẩn bị như thế nào còn phụ thuộc vào sự định hướng của giáo viên. Do đó, tôi thường định hướng cho các em chuẩn bị bài một cách rõ ràng, cụ thể. * Ví dụ : Ở tiết 8 “Hãy tả ngôi trường thân yêu đã gắn bó với em nhiều năm qua”. Tôi cho các em xác định những yêu cầu trọng tâm của đề bài và gạch dưới những từ ngữ trọng tâm đó qua các câu hỏi như : + Đề bài thuộc thể loại văn gì ? (miêu tả) + Đối tượng tả là gì ? (ngôi trường thân yêu gắn bó với em) Việc xác định trọng tâm của đề bài giúp các em tránh được sự lạc đề hoặc đi lan man xa yêu cầu trọng tâm. Mặt khác, tôi chú trọng khâu định hướng qua sát cho học sinh, trước khi quan sát các em phải trả lời được : + Các em quan sát những gì ? + Quan sát theo thứ tự nào ? * Ví dụ 1: Tả một người bạn thân của em ở trường . Tôi gợi ý cho học sinh quan sát một bạn học sinh mà các em chọn tả : Quan sát từ xa đến gần : Từ xa thấy bạn ấy có hình dáng thế nào ? Cao hay thấp ? Mập hay ốm ? Đó chính là phần tả bao quát hình dáng của bạn đó. Đến gần, em thấy bạn ấy có điểm gì nổi bật khác với các bạn khác, ví dụ : nước da, mái tóc, mặt, mũi, miệng, dáng đi, giọng nói, ánh mắt, nụ cười…Để giúp cho bài văn của các em sinh động hơn, có hồn hơn tôi còn nhắc nhở các em quan sát một cách tinh tế, tỉ mỉ để phát hiện những nét riêng biệt, nổi bật của đối tượng mình tả và tả bằng chính những cảm nhận đó một cách chân thật nhất. Ví dụ : Các em quan sát ánh mắt của bạn ấy ở những thời điểm khác nhau như : trong học tập, lúc vui chơi hay khi tham gia các hoạt động sinh hoạt tập thể hoặc những lúc bạn thuộc bài, được điểm cao và được cô khen thì ánh mắt của bạn ấy thế nào ? Và khi có ai đó.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> gây lỗi với bạn như vô ý giẫm chân lên chân bạn thì ánh mắt biểu hiện của bạn ta sao? Khi bạn ấy phạm lỗi thì thái độ bạn ấy lúc nhận lỗi thế nào?... * Ví dụ 2 : Tả một người thân của em trong gia đình. Nếu các em chọn tả ông hoặc bà của em, các em thấy ông bà là người gần gũi thương yêu chúng ta hàng ngày, vậy khi quan sát em thấy ánh mắt ông (bà) ra sao ? (đôi mắt dịu hiền, ánh lên vẻ trìu mến). Cũng đôi mắt ấy, khi các em bị điểm kém vì không thuộc bài thì ánh mắt thế nào (ánh mắt buồn bã, lo âu). Tôi còn dùng hệ thống câu hỏi để kích thích sự tưởng tượng khêu gợi óc tò mò, dựng lại hình ảnh sự vật mà các em quan sát trước, phát huy khả năng tư duy sáng tạo của các em. Từ đó, học sinh có hứng thú chuẩn bị bài đầy đủ và tỉ mỉ để lên lớp học tốt. + Động viên học sinh phải thuộc ghi nhớ vì đó là những kiến thức cô đọng nhất để hình thành kĩ năng thực hành. Mục ghi nhớ trọng tâm là dàn bài đại cương, các em sẽ dựa vào đây để lập dàn bài chi tiết. Qua dàn bài chi tiết, học sinh sẽ nói và viết văn tương đối thuận lợi, đi đúng yêu cầu trọng tâm và bố cục đầy đủ, rõ ràng. Vì tôi nhận thấy ở đa số các em chưa phân biệt được rõ ràng bố cục của bài văn, các em còn lơ mơ khi đi vào viết bài văn hoàn chỉnh mà chưa thật sự nắm chắc cách bố cục của thể loại văn mình đang học. Sự chuẩn bị bài đầy đủ, tỉ mỉ giúp các em học tập, làm văn hiệu quả hơn, viết đúng với yêu cầu của đề bài hơn. 3.3. Hướng dẫn kĩ thuật viết văn cho học sinh : 3.3.1. Khắc phục viết sai ngữ pháp : Ngay từ các lớp nhỏ, các em đã tự học : “Khi nói và viết phải thành câu thì người nghe và người đọc mới hiểu được”. Vậy mà các em vẫn cứ viết sai ngữ pháp, câu què, cụt khi thì thiếu chũ ngữ hoặc vị ngữ thậm chí có khi thiếu cả hai thành phần chính. Bởi vậy, giáo viên thường khắc phục hiện tượng này trong tiết trả bài tập làm văn. Giáo viên đưa ra những câu.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> văn học sinh viết còn sai lên bảng và hướng dẫn học sinh tìm cách sửa, điều chỉnh cho đúng. Bản thân thiết nghĩ khi giáo viên hướng dẫn cả lớp sửa, thường những em viết sai lại không biết mình viết sai, không biết câu văn mà giáo viên đưa ra đó là của mình. Vì thế, các em không có sự tập trung cao độ vào việc nhận thức được những lỗi sai và nắm cách sửa chữa, dẫn đến việc khắc phục viết sai ngữ pháp cho học sinh kém hiệu quả. Do vậy, tôi thường làm như sau : Trước khi cho học sinh cả lớp sửa, tôi gặp riêng từng em có câu văn sai, hướng dẫn, chỉ bảo nhẹ nhàng, giúp các em hiểu và nắm được cách khắc phục nhược điểm của mình, đồng thời tôi động viên, nhắc nhở các em ghi nhớ để lần sau không mắc phải nữa. Và đến khi đưa ra cho cả lớp sửa, các em lại được học hỏi và rút kinh nghiệm thêm một lần nữa, lúc này những biện pháp đưa ra khắc phục, sửa chữa lại càng có sức thuyết phục đối với các em và làm cho các em có càng khắc ghi những lỗi đó mà không lập lại lần sau. * Ví dụ : Trên cành cây, trong vòm lá xanh. Những bông hoa trắng xóa điểm lác đác. - Tôi hỏi học sinh viết sai : em hãy cho biết đâu là chủ ngữ, vị ngữ trong câu thứ nhất của em ? (học sinh đó không trả lời được). - Hãy xác định chủ ngữ, vị ngữ câu thứ hai ? - Học sinh xác định : (Những bông hoa / trắng xóa điểm lác đác.). CN. VN. - Tôi chỉnh lại : Những bông hoa trắng xóa / điểm lác đác . CN. VN. Tôi giảng giải : “Những bông hoa trắng xóa” là cụm danh từ làm chủ ngữ trong câu. Vậy “Trên cành cây”, “trong vòm lá xanh” là thành phần gì trong câu? Có tên gọi là gì ? (là thành phần phụ - là trạng ngữ chỉ nơi chốn).

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Giữa thành phần chính (CN-VN) và thành phần phụ (trang ngữ) trong câu có sử dụng dấu chấm không ? (không dùng dấu chấm câu) - Em hãy sửa chữa lại câu trên cho đúng ngữ pháp : Trên cành cây, trong vòm lá xanh, những bông hoa trắng xóa điểm lác đác. - Tôi yêu cầu những em viết sai ngữ pháp về nhà ôn lại, học thuộc phần ghi nhớ về chủ ngữ - vị ngữ ở lớp Bốn, đến lớp trả bài cho tổ trưởng, tổ trưởng báo cáo lại cho tôi. Quan điểm của tôi ở phần này là không đợi đến khi học sinh viết sai rồi mới khắc phục sửa chữa, mà giáo viên cần giúp các em khắc phục tận gốc việc dẫn đến viết sai ngữ pháp của học sinh. Đó là phải thường xuyên tổ chức cho học sinh ôn tập, củng cố để “lấp chỗ hỏng” kiến thức cho các em. Bởi lẽ các em không nắm hoặc nắm không chắc những kiến thức, kĩ năng cơ bản về câu ở các lớp dưới dẫn đến việc các em viết sai ngữ pháp, không diễn đạt được một ý trọn vẹn. Vì thế, hằng ngày trong việc dạy tiếng Việt, tôi thường xuyên tổ chức cho học sinh lĩnh hộ kiến thức, kĩ năng của bài mới kết hợp với việc ôn luyện kiến thức, kĩ năng đã học một cách linh hoạt, sáng tạo. Thực tế chứng minh, chỉ khi học sinh nắm vững những kiến thức, kĩ năng đã học thì các em mới có điều kiện thuận lợi để tiếp thu bài mới được dễ dàng và hiệu quả. Bởi vậy, ở bất kì phân môn nào của môn Tiếng Việt hay bất kì tiết học nào có vận dụng kiến thức cũ và liên quan đến kĩ năng viết của học sinh, tôi cũng có thể cho các em ôn luyện lại những kiến thức mà các em đã học từ các lớp dưới. 3.3.2. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý: Đây là một việc làm khó. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh lập dàn ý trước khi làm thành một bài văn hoàn chỉnh. Có lập được dàn bài thì mới có thể tìm ý, sắp xếp ý, viết thành một bài văn mạch lạc, bố cục rõ ràng, ý văn trong sáng. 3.3.3. Rèn kĩ năng sắp xếp, diễn đạt ý:.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Đề bài: Hãy miêu tả một người bạn thân của em. Học sinh quan sát, viết nhanh ra giấy những điều mà mình quan sát được. Ví dụ: + Bạn Thu Nga học chung lớp với em. + Bạn chơi thân với em từ năm học lớp Một. + Chúng em rất thân nhau. + Em sẽ cố gắng làm những điều thật tốt để tình bạn của chúng em mãi mãi bền lâu. + Những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ. + Bạn có nước da ngăm ngăm của một người con gái đồng quê. + Bạn hay phát biểu và hiểu bài rất nhanh nên được thầy và các bạn khen ngợi. + Bạn rất hay cười.. + Bằng tuổi với em nhưng cao hơn em một cái đầu. + Nga viết chữ rất đẹp. Bạn đã được chọn dự thi viết chữ đẹp vòng trường và đạt giải ba. + Mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt ngăm đen dễ thương. + Bạn không gây gỗ với ai bao giờ. + Thầy cô thường lấy bạn để làm gương. Sau khi tìm ý, cho các em chọn và sắp sếp ý thành các đoạn Mở bài, Thân bài, Kết bài phù hợp. Ví dụ:.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> * Đoạn mở bài: Em và bạn Thu Nga chơi thân với nhau từ năm lớp Ba. Chúng em rất thân nhau. Đi học, em thường đi chung với bạn. * Đoạn thân bài: Bằng tuổi với em cao hơn em một cái đầu. Bạn có nước da ngăm ngăm của một người con gái đồng quê quen dầm mưa dãi nắng. Bạn rất hay cười, mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt ngăm đen dễ thương. Thu Nga có đôi mắt to rất đẹp với hàng lông mi dài, cong. Đôi mắt bạn luôn ánh lên ra vẻ hồn nhiên, chất phác. Mái tóc bạn không đen như tóc em nhưng dài hơn. Nga viết chữ rất đẹp, bạn đã được chọn dự thi viết chữ đẹp vòng trường và đạt giải ba. Thầy thường lấy bạn ra làm gương cho chúng em noi theo để rèn chữ. Ở lớp, thầy thường khen bạn hiểu bài rất nhanh. Em chưa thấy bạn gây gỗ với ai bao giờ. * Đoạn kết bài: Mỗi khi vắng Thu Nga, nhất là những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ. Em sẽ cố gắng làm những điều thật tốt để tình bạn của chúng em mãi mãi bền lâu. Giáo viên cần lưu ý cho học sinh mục đích của từng đoạn văn. Đoạn mở bài có tác dụng giới thiệu cho người đọc, người nghe biết xuất xứ nhân vật. Đoạn thân bài là bức tranh vẽ bằng lời về hình dáng, đường nét, cử chỉ, hoạt động, tính nết của nhân vật. Có chọn được những chi tiết đặc sắc, tiêu biểu thì ta mới nhận ra nhân vật đó mang những cá tính riêng. Bạn học sinh trong bài là một học sinh vùng nông thôn với những đặc điểm riêng, cá tính riêng không lẫn lộn với bất cứ bạn học sinh nào khác. Đoạn kết bài mang đậm dấu ấn cá nhân của người viết. Không thể có đoạn kết bài chung cho mọi học sinh. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nêu được cảm xúc tự nhiên, chân thật, không sáo rỗng kiểu như: Em rất yêu quý bạn….

<span class='text_page_counter'>(19)</span> 3.3.4. Rèn kĩ năng viết văn hay : + Trong suốt quá trình dạy tập làm văn cho học sinh, bên cạnh việc hướng dẫn, nhắc nhở học sinh khi đặt câu phải có đủ hai bộ phận chính đó là chủ ngữ và vị ngữ, tôi còn luôn động viên, khuyến khích các em cần thêm những thành phần phụ như trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ…Để câu văn tránh được sự khô khan, cứng nhắc và trở nên mượt mà, sinh động hơn, dễ đi vào lòng người hơn. Tôi còn chú tâm đến việc tạo cho học sinh một bầu không khí học tập vui tươi, tích cực và sáng tạo thông qua các hình thức : Thi đua, trò chơi, làm bài tập trắc nghiệm… Nhằm kích thích học sinh hứng thú, ham thích học phân môn Tập làm văn. + Việc rèn cho học sinh biết viết những câu văn hay để hình thành những đoạn văn, bài văn sinh động, giàu hình ảnh không phải một sớm một chiều mà có được. Đó là cả một quá trình lâu dài, bền bỉ, đòi hỏi học sinh phải kiên trì, tích lũy vốn từ phong phú, hiểu nghĩa từ, nắm chắc về từ loại, từ gần nghĩa, cùng nghĩa, từ trái nghĩa…kết hợp với việc nắm vững từng thể loại văn cũng như việc lựa chọn từ ngữ phù hợp với văn cảnh để đặt câu có hình ảnh. Biết sử dụng những biện pháp tu từ, so sánh, nhân hóa giúp cho người đọc dễ dàng cảm nhận được ý tưởng, tâm tư tình cảm của mình gửi gắm trong lời văn, ý văn. Vì thế, để góp phần giúp học sinh viết được những câu văn hay, tôi cho học sinh học tập so sánh bài làm của mình với bài làm của bạn, phát hiện những câu văn hay để học tập và ghi vào sổ tay văn học của mình. * Ví dụ : 1. Trước tầm nhìn của em, cánh đồng trải dài mênh mông với một màu xanh ngút ngàn vẫn đang im lìm như còn tận hưởng giấc ngủ thanh bình của buổi sớm. (Tả cánh đồng lúa chín – Hạ Vi)..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> 2. Đầu gà to bằng nắm tay, khô khằn như chỉ có da bọc xương. Trên đỉnh đầu nhô lên một cái mào to hình răng cưa sần sùi, đỏ thắm như bông hoa mào gà. Đôi mắt đo đỏ, lừ đừ, lộ vẻ dữ tợn. Mỏ gà to bằng ngón tay út của em và có màu vàng nhạt. Cái cổ thon dài rất linh hoạt, lúc nào cũng lắc lư, ngẩng lên, hạ xuống như một cánh tay lực lưỡng, hiếu động. (Tả con vật em yêu thích “Con gà trống” – Hoàng Yến) 3. Nhánh sông Sài Gòn chảy qua lưu vực chợ Bình Dương, mọi người ở đây vẫn quen gọi là sông Bạch Đằng. Dòng sông hiền hòa uốn lượn sau chợ Thủ Dầu Một trông như một dải lụa đào mềm mại. (Tả dòng sông – Tú Trinh) 4. Mỗi búp huệ nhìn từ xa như những hạt ngọc thon thon, xinh xinh bằng đầu ngón tay út của thiếu nữ. Trên mỗi cành huệ có búp xoè nở, búp thì he hé mỉm cười còn những búp ở ngọn thì vẫn ôm sát vào nhau đợi chờ. (Tả một loài hoa mà em yêu thích – Chí Trung) + Trong việc tổ chức hướng dẫn học sinh học tập làm văn, ở bất kì thể loại nào, tôi cũng tạo điều kiện cho học sinh được bộc lộ và phát huy vốn văn chương của mình. Các em có dịp phát triển năng lực diễn đạt, khả năng tư duy sáng tạo và trí thông minh qua nhiều hình thức thi đua với các bạn trong nhóm cũng như trong toàn lớp học. Cụ thể tôi thực hiện như sau : Tôi đưa ra những câu văn bình thường có đủ hai bộ phận chính : Chủ ngữ và vị ngữ rồi yêu cầu các em tự suy nghĩ, cùng thi đua bổ sung thêm những từ ngữ, hình ảnh, sau đó tôi giúp các em điều chỉnh để có những câu văn hay giàu hình ảnh và hấp dẫn hơn. * Ví dụ 1 : Kiểu bài tả cảnh. a) Trên cành cây chim hót. Học sinh : - Trên cành cây chim hót líu lo..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> - Trên cành cây, những chú chim non cất tiếng hót líu lo. - Trên cành cây, những chú chim cất tiếng hót líu lo như chào đón chúng em đến trường. - Trên cành cây, chim hót líu lo như đón chào một ngày mới. b) Tiếng gà gáy đánh thức mọi người dậy. Học sinh : - Sáng sớm, tiếng gà gáy đánh thức mọi người dậy. - Mỗi buổi sáng, tiếng gà gáy đánh thức mọi người dậy đi làm. - Hôm nào cũng vậy, tiếng gà gáy lanh lảnh như chiếc đồng hồ đánh thức mọi người dậy đi làm. - Hôm nào cũng thế, tiếng gà gáy dõng dạc như chiếc đồng hồ đánh thức mọi người dậy chuẩn bị một ngày mới. * Ví dụ 2 : Kiểu bài tả người . a) Ông em già rồi nhưng vẫn khoẻ. Học sinh : - Ông em già rồi nhưng vẫn khoẻ vì ông thường xuyên tập thể dục. - Ông em già rồi nhưng vẫn còn khoẻ nên hàng ngày ông vẫn chăm vườn, nhổ cỏ, tưới cây. b) Bé Lan đang tập đi. Học sinh : - Bé Lan đang chập chững tập đi. - Ngoài sân, bé Lan đang chập chững tập đi. - Ngoài kia, bé Lan đang chập chững tập đi trông dễ thương quá! - Ô kìa ! Bé Lan đang lẫm chẫm bước đi trông thật đáng yêu….

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Ở hình thức thi đua này, học sinh đã được học tập trong một môi trường rất tích cực. Tâm lý các em rất thích được khen và nhất là khen trước tập thể lớp. Em nào cũng muốn được cô và các bạn biết đến câu văn của mình. Em nào cũng muốn thể hiện tài năng của mình trước sự chứng kiến của cả lớp. Vì thế, các em đã đem hết khả năng và vốn từ ngữ ra thi thố với các bạn. Từ đó các em không chỉ phát triển được khả năng tư duy ngôn ngữ, trí thông minh và óc sáng tạo mà càc em còn được rèn luyện về kĩ năng dùng từ đặt câu, biết lựa chọn và sử dụng những hình ảnh, biện pháp so sánh, nhân hóa để đạt được những câu văn sinh động hấp dẫn. 3.3.5. Rèn luyện và phát huy khả năng tự học, tự bồi dưỡng văn cho học sinh : - Theo định hướng đổi mới việc dạy và học hiện nay là : Học sinh tự học, tự nghiên cứu để chiếm lĩnh kiến thức mới dưới sự tổ chức, dẫn dắt của giáo viên. Do vậy, trước những yêu cầu đổi mới giáo dục, trước sự phát triển của đất nước ta hiện nay thì việc rèn luyện và phát huy khả năng tự học, tự nghiên cứu để tự mình chiếm lĩnh kiến thức cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết. Hơn nữa, thời gian các em học tập dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy cô trên lớp rất là ít ỏi so với thời gian các em ở bên gia đình. Do đó, việc trang bị cho các em năng lực tự học là một việc làm phù hợp với su thế đổi mới của phương pháp dạy học hiện đại. Trong việc tổ chức học tập trên lớp, tôi luôn khuyến khích các em tự chiếm lĩnh nội dung bài thông qua những hình thức thi đua cá nhân, tập thể, (nhóm) góp phần phát huy năng lực tự học của các em. Tôi luôn nhắc nhở, động viên các em cần phải rèn luyện thói quen tự học tự nghiên cứu, đọc sách báo kể cả những lúc ở nhà không có sự hướng dẫn trực tiếp của thầy cô. Đặc biệt trong dạy Tập làm văn, để rèn luyện và phát huy khả năng tự học của học sinh, tôi đã đưa ra qui định chung cho cả lớp đó là : Khi làm văn không được văn mẫu, những bài văn có sẵn trong sách tham khảo….

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Tuy nhiên, các em có quyền tham khảo để học cách làm văn, cách dùng từ ngữ, hình ảnh sinh động nhưng học thuộc để chép lại và nộp giấy cho thầy cô chấm điểm thì nhất định là không được. Thực tế hiện nay cho thấy, học sinh thường học thuộc văn mẫu để làm bài kiểm tra hoặc làm bài thi. Khi chấm bài, giáo viên thấy các bài văn hao hao giống nhau. Đó là một thực tế đáng buồn. Như vậy các em không phát triển được vốn từ ngữ, khả năng diễn đạt, óc sáng tạo của chính mình mà chỉ lệ thuộc máy móc vào văn mẫu. Để khắc phục tình trạng này, ở từng thể loại, tôi yêu cầu học sinh phải học thuộc dàn bài chung, từ đó vận dụng vào từng đề bài cụ thể để xây dựng hình thành một dàn bài chi tiết theo cách hành văn của từng em. Tôi giúp các em điều chỉnh dàn bài chi tiết cho hoàn chỉnh rồi từ dàn bài chi tiết đó, các em viết thành bài văn của mình. Tôi rất nghiêm khắc ở vấn đề này, nếu thấy bài văn của học sinh nào làm mà không phải là lời văn của các em, tôi yêu cầu học sinh đó về làm lại bài theo đúng khả năng, trình độ của mình. Tóm lại, ở biện pháp này, tôi đã giúp các em tự mình nghiên cứu tìm tòi và vận dụng để bộc lộ khả năng viết văn, khả năng diễn đạt, dùng từ ngữ, hình ảnh của mình. Từ đó tôi sẽ giúp các em uốn nắn để có những đoạn văn, bài văn hoàn chỉnh. Như vậy, việc nghiêm khắc với học sinh trong vấn đề chép văn mẫu cũng như việc hướng dẫn cho học sinh dựa vào dàn bài chung để viết văn bằng trình độ, khả năng của mình không chỉ tạo điều kiện để các em bộc lộ khả năng diễn đạt, phát triển vốn từ, cách lựa chọn hình ảnh phù hợp mà còn tạo điều kiện để các em được rèn luyện và phát huy khả năng tự học của mình. 3.4. Cá thể hoá hoạt động dạy học: - Quan tâm đến đối tượng học sinh trung bình, yếu đồng thời vẫn đảm bảo phát triển năng lực cảm thụ văn học đối với học sinh khá, giỏi. Ví dụ:.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> + Bài làm của một học sinh khá, giỏi: Ngoài ngôi nhà thân yêu đã gắn bó với tuổi thơ của em thì trường em chính là ngôi nhà thứ hai. Đi đâu xa, em nhớ nhà và mỗi khi về nhà thì em lại nhớ đến ngôi trường thân yêu này. + Bài của một học sinh trung bình: Nằm cập bên con đường làng trải đá là ngôi trường thân yêu của em. + Bài làm của một học sinh yếu: Mỗi ngày em thường cắp sách đến ngôi trường quen thuộc của em. - Khi học sinh đặt câu nêu cảm nghĩ của mình ở phần kết bài, giáo viên phải quan tâm đến từng em. Đối với học sinh trung bình, yếu, giáo viên phải hướng dẫn cụ thể cho các em bằng những gợi ý như: + Em hãy nói tình cảm của mình đối với ngôi trường (yêu, ghét)? (Em rất yêu ngôi trường). Em thể hiện tình yêu đó bằng những việc làm như thế nào ? (Em trồng cây, chăm sóc bồn hoa để trường em ngày càng đẹp hơn hay Em không bao giờ phá phách làm hỏng đồ đạc hay bẻ hoa của nhà trường). - Tuyệt đối không được hướng dẫn học sinh một cách đồng loạt để các em có những câu văn nghĩa chung chung như: “Cô giáo em có mái tóc đen huyền, mượt như nhung. Đôi mắt cô đen trong và sáng long lanh. Nước da của cô trắng mịn màng” hay “ Trường em mái ngói đỏ tươi. Cột cờ cao chót vót. Trên đỉnh cột cờ, lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Giờ ra chơi, các bạn ùa ra khỏi sân lớp như bầy ong vỡ tổ”. Phải hướng dẫn để học sinh tìm ra những nét đặc sắc của cảnh. Những nét đặc sắc đó giúp người đọc hình dung được cảnh vật cụ thể mà không lẫn lộn với cảnh vật khác. Ví dụ: Để hướng dẫn học sinh tả ngôi trường thân yêu, tôi cho học sinh quan sát, tìm ý và chọn những chi tiết mà chỉ trường tôi mới có: “ Ngôi trường của em không giống bất cứ một ngôi.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> trường tiểu học nào. Đó là một ngôi trường kiên cố nằm ven con kinh nhỏ và cặp cánh đồng lúa rộng bát ngát. Mùa nào cũng vậy, ngôi trường luôn nhận được những làn gió mát từ mặt kinh và cánh đồng đưa tới. Đây là ngôi trường thân yêu đã được xây dựng từ rất lâu rồi”. 3.5. Chấm bài thường xuyên: Đi đôi với công việc chấm bài là phải hướng dẫn học sinh sửa bài. Phải giúp các em phát hiện ra những điểm hay cần học tập và những điểm chưa hay, chưa đạt để sửa chữa trong bài văn của mình. Trên cơ sở đó, các em phải sửa lại bài làm của mình cho hay hơn, đúng hơn. Giáo viên cần tránh việc chê bai các em nhưng cũng không được lạm dụng lời khen, tạo sự thờ ơ của học sinh đối với lời khen do được khen quá nhiều, khen không đúng lúc.. C - KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Qua việc vận dụng những biện pháp trên vào thực tế dạy học Tập làm văn ở lớp tôi đã đem lại kết quả rất khả quan: 1. Về học sinh : - Hầu hết học sinh đều ham thích và hứng thú học tập phân môn này, các em không còn có biểu hiện ngại học mỗi khi nhắc đến nó. - Học sinh học tập trong không khí tự nhiên thoải mái, tích cực và hào hứng nhất là vào tiết làm bài miệng, ngoài việc các em nêu lên ý kiến diễn đạt của mình mà các em còn nhận xét được ý vừa nêu của bạn theo nhận thức của em một cách chân thật nhất. - Các em có điều kiện để bộc lộ những khả năng tư duy, hiểu biết, khả năng diễn đạt, phát triển vốn từ, trí thông minh và óc sáng tạo mà ở một số em yếu cũng đã nhận thức được để thực hiện bài văn thì ta phải thực.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> hiện như thế nào đúng nhất về phần cấu tạo của thể loại văn đó mặc dù ý diễn đạt của em yếu vẫn còn hạn chế theo mức độ của em. - Trong văn nói các em mạnh dạn hơn, diễn đạt lưu loát đầy đủ ý. Trong văn viết các em tiến bộ rõ rệt so với đầu năm học, khắc phục được nhược điểm về đặt câu, đồng thời biết lựa chọn từ ngữ, hình ảnh phù hợp để đặt câu, làm cho câu văn, đoạn văn và bài văn thêm sinh động. - Kết quả học tập của học sinh ở phân môn Tập làm văn qua các kì kiểm tra được nâng lên một cách rõ rệt. Cụ thể : Năm học. 2011-2012. 2012-2013. Học kì. SSHS. Đầu năm HKI. 32/16. HKII. 28/14. Đầu năm HKI. 41/21. 31/15. 41/21. Giỏi 5/3. Khá. Trung bình. Yếu 13.4 4/3 %. 15.6%. 8/4. 25.0%. 15/6. 46.9%. 35.5%. 6/3. 19.4%. 13/6. 41.9%. 1/0. 3.2%. 41.9%. 10/4. 32.3%. 8/5. 25.8%. 0. 0. 9/7. 22%. 17/4. 41.5%. 13/9. 31.7%. 2/1. 4.9%. 14/ 9. 34.2%. 18/8. 43.9%. 8/4. 19.5%. 1/0. 2.4%. 11/ 6 13/ 6.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> 2. Về giáo viên : - Sau mỗi tiết dạy tập làm văn, tôi cảm thấy lòng mình thanh thản và tự tin khi học sinh học tập tích cực chủ động, sáng tạo, ngày càng tiến bộ. - Bản thân không còn cảm thấy ái ngại và khó khăn mỗi khi dạy phân môn tập làm văn. - Việc dạy tốt phân môn này là động lực để tôi dạy tốt những môn học khác..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> D - BÀI HỌC KINH NGHIỆM - Để thực hiện những biện pháp như trên, giáo viên cần phải chú trọng phần chuẩn bị cho bài mới. Chuẩn bị tốt sẽ dạy tốt và học tốt, đặc biệt, khâu học sinh chuẩn bị ở nhà, giáo viên cần định hướng một cách cụ thể, rõ ràng và khoa học thì việc chuẩn bị của học sinh mới có kết quả tốt. - Trong việc tổ chức cho học sinh hoạt động học tập, giáo viên thường xuyên kiểm tra, phát hiện ra những chỗ “hỏng” kiến thức của học sinh để kịp thời giúp các em bổ sung cho đầy đủ. Nhất là phải thường xuyên cho học sinh ôn luyện, củng cố những kiến thức đã học một cách linh hoạt, lồng ghép vào các hoạt động tìm hiểu kiến thức mới nhằm khắc phục tận gốc những sai sót của học sinh. - Luôn tạo bầu không khí vui tươi, tự nhiên, thoải mái, kích thích học sinh hứng thú hoạt động học tập để phát huy khả năng diễn đạt trong văn nói cũng như trong văn viết. - Hình thức dạy học phải đa dạng, phong phú tạo cho học sinh môi trường học tập tích cực, chủ động và sáng tạo. Học sinh có điều kiện được bộc lộ những khả năng sẵn có, tích luỹ và phát triển vốn từ ngữ, rèn luyện kĩ năng lựa chọn, sử dụng từ phù hợp, giàu hình ảnh để có những câu văn hay, đoạn văn hay và bài văn hay. - Cần khuyến khích học sinh tham khảo những bài văn hay để học cách diễn đạt, cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh sinh động…thật nghiêm khắc đối với học sinh chép văn mẫu. Bởi chép văn mẫu, các em sẽ không phải suy nghĩ, không phải động não. Do đó, các em không phát triển được khả năng tư duy, óc sáng tạo dần dần học sinh có thói quen ỷ lại và lười biếng. Tuy nhiên, giáo viên cần phải giúp học sinh có những kĩ năng thành thạo trong việc hình thành một dàn bài chi tiết từ dàn bài chung và từ dàn bài chi tiết để viết ra một bài văn hoàn chỉnh bằng chính khả năng của mình. Giáo viên cũng cần lưu ý chỉ chấm bài, sửa bài đối với những bài văn thực chất.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> của học sinh, không chấm những bài văn chép từ văn mẫu. Có như vậy mới giúp các em rèn luyện khả năng tự học, tự bồi dưỡng cho mình..

<span class='text_page_counter'>(30)</span> E - KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Tổ chức cho học sinh học tốt phân môn Tập làm văn là tạo thuận lợi cho học sinh học tốt các môn học khác. Để học sinh có kĩ năng viết văn đúng ngữ pháp, sử dụng hình ảnh sinh động, từ ngữ phong phú đòi hỏi phải có sự kiên trì, bền bỉ, sự nỗ lực cố gắng của cả thầy và trò. Cả hai phía đều phải có hứng thú với phân môn này. Tuy nhiên, sự đam mê hứng thú của học sinh chỉ có được khi người giáo viên thực sự có tâm huyết trong giảng dạy mà thôi. Bởi tâm huyết của người thầy thể hiện ở phương pháp dạy học tích cực, sáng tạo, từ đó đem đến cho học sinh lòng say mê, hứng thú học tập. Việc giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn Tập làm văn phụ thuộc vào nhiều vấn đề như : Trang thiết bị dạy học, cơ sở vật chất, phương pháp dạy học của giáo viên… Những giải pháp mà tôi thực hiện như trên chỉ nêu lên một vấn đề nhỏ của phương pháp dạy học trong việc giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn Tập làm văn. Do khả năng có hạn nên trong việc trình bày không tránh được những thiếu sót. Rất mong được quý thầy cô góp ý chân thành để sáng kiến kinh nghiệm của tôi ngày càng hoàn thiện hơn. Với những kết quả ban đầu thu được sau một thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm “Một vài biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn lớp 5” , tôi đề nghị Nhà trường tổ chức khảo nghiệm và có ý kiến góp ý, chỉ đạo để tôi tiếp tục hoàn chỉnh đề tài. Nếu đề tài này được công nhận, đề nghị Nhà trường tạo điều kiện cho tôi tiếp tục triển khai đề tài trong Nhà trường để góp phần nâng co chất lượng dạy học Tiếng Việt nói riêng, chất lượng dạy học cho học sinh lớp Năm nói chung..

<span class='text_page_counter'>(31)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hướng dẫn dạy Tập làm văn phù hợp với trình độ học sinh – Trần Mạnh Hưởng, Phan Phương Dung, Nguyễn Văn Diệp, Phạm Thi Thanh Hà, Nguyễn Thị Mơ – NXB Giáo dục năm 2006 2. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 - Tập 1- tập 2 – NXB Giáo dục năm 2006. 3. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 5 – Tập 1- tập 2- NXB Giáo dục năm 2006 4.Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn học lớp 5 – NXB Giáo dục năm 2006. 5. Bài tập nâng cao Tiếng Việt 5 – Nguyễn Thị Nhung – NXB Hà Nội năm 2006 6. Văn miêu tả và Phương pháp dạy văn miêu tả ở Tiểu Học - NXB Giáo dục. năm 2006.. 7. Http://www.google.com.vn.

<span class='text_page_counter'>(32)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×