Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Luận văn thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn thành phố long xuyên, tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.67 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN BẢO QUỐC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN
VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN,
TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN BẢO QUỐC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN
VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN,
TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH MẠNH TUẤN

HÀ NỘI, 2021




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm hướng tới
mục tiêu chăm lo đời sống nhân dân, bảo đảm tiến bộ công bằng xã hội, đây là một
trong những chính sách xã hội hướng vào mục tiêu phát triển con người, tạo cơ hội
cho người nghèo tham gia vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và
được tiếp cận với các dịch vụ cơ bản như: giáo dục, y tế, văn hóa, thơng tin, khoa
học kỷ thuật… góp phần nâng cao đời sống vật chất và tin thần của nhân dân.
Thành tựu công tác giảm nghèo của nước ta trong những năm qua đã góp phần
tăng trưởng kinh tế bền vững và thực hiện công bằng xã hội, được Liên hiệp Quốc
tuyên dương là một trong những quốc gia về đích sớm trong thực hiện mục tiêu phát
triển thiên niên kỷ.
Bên cạnh những thành tựu đạt được cơng tác giảm nghèo vẫn cịn bộc lộ một
số hạn chế nhất định như: chính sách cịn chồng chéo, thiếu thống nhất đồng bộ, kết
quá giảm nghèo chưa bền vững, tốc độ giảm nghèo không đồng đều, nhận thức và
tổ chức thực hiện chương trình giảm nghèo ở địa phương, cơ sở chưa có sự thống
nhất cao, sự phối hợp giữa các chương trình, dự án giảm nghèo chưa chặt chẽ…
Nguyên nhân của thực trạng này là do cơng tác tổ chức thực hiện, cụ thể hóa chính
sách cịn hạn chế, phương thức thực hiện chính sách giảm nghèo chưa mang tính
bền vững, người dân chưa thực sự nỗ lực giảm nghèo, cịn trơng chờ ỷ lại vào hỗ trợ
của nhà nước, công tác đánh giá và giám sát thực thi chính sách cịn hạn chế…
An Giang là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long có tiềm năng, lợi
thế đa dạng về phát triển kinh tế nông nghiệp, tuy vậy nhiều vùng, địa phương trong
tỉnh cũng cịn khó khăn, nên cơng tác giảm nghèo ln được coi trọng cùng với quá
trình phát triển KT-XH của tỉnh. Thành phố Long Xuyên là đô thị trực thuộc tỉnh
An Giang, là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của tỉnh, có thế mạnh về thương
mại, dịch vụ, khoa học và công nghệ, kinh tế tăng trưởng khá ổn định và đạt được
nhiều thành tựu đáng kể. Công tác giảm nghèo luôn là mục tiêu then chốt trong kế

hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, tuy nhiên tỷ lệ hộ nghèo và cận
nghèo trở nên cao đột biến khi thành phố tiến hành điều tra, rà soát hộ nghèo theo

1


hướng tiếp cận đa chiều, năm 2016 toàn thành phố có 1.567 hộ nghèo với 5.474
nhân khẩu (chiếm 2,14% so với tổng số dân trên địa bàn), số hộ cận nghèo là 2.787
hộ với 10.163 nhân khẩu (chiếm 3,8% so với tổng số dân trên địa bàn). Bên cạnh đó
thực hiện chính sách giảm nghèo ở thành phố vẫn cịn một số bất cập như: Một số
chương trình, chính sách cịn thiếu đồng bộ, chưa có sự thống nhất cao về nhận thức
và hành động, công tác triển khai, thực hiện chính sách cịn hạn chế, người nghèo
trên địa bàn thành phố đã tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản, song thu nhập vẫn
còn ở mức thấp, hộ nghèo hàng năm có giảm nhưng thiếu bền vững, tái nghèo và phát
sinh nghèo còn nhiều, tỷ lệ hộ nghèo giảm chưa đồng đều, vẫn còn nhiều nơi tỷ lệ
nghèo ở mức cao, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, kết quả giảm nghèo thiếu
tính bền vững, bên cạnh đó chính sách giảm nghèo cịn chồng chéo, phân tán, thiếu tính
hệ thống, nhiều chính sách chưa khuyến khích người nghèo tích cực vươn lên thốt
nghèo, cơ chế phối hợp, chỉ đạo, điều hành ở các cấp còn nhiều hạn chế, chưa phát huy
được vai trị tích cực của các tổ chức chính trị-xã hội trong việc tham gia tổ chức các
hoạt động giảm nghèo ở cơ sở; chưa khơi dậy được tiềm năng thế mạnh của địa
phương, sự tham gia chủ động, tích cực, sáng tạo của người dân, của cộng đồng cùng
nhau vươn lên thoát nghèo… chưa tìm được những giải pháp thiết thực, phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội địa phương. Đề tài: “Thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững trên địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang” được chọn làm đề tài
cho luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Chính sách cơng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức
thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, về công tác giảm nghèo, đạt được nhiều kết
quả quan trọng. Tuy nhiên, tình hình các hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ đặc biệt khó

khăn vẫn cịn nhiều. Giảm đói nghèo là mục tiêu thiên niên kỷ, là chương trình quốc
gia, là mối quan tâm lớn của các tổ chức quốc tế, đề tài nghiên cứu của nhiều học
giả với các bài viết trên các tạp chí, các báo, luận văn, đề tài khoa học và các cơng
trình nghiên cứu. Do hạn chế về số trang, luận văn xin chọn lọc một số nghiên cứu
liên quan:

2


Luận văn thạc sĩ quản lý cơng “Thực thi chính sách giảm nghèo bền vững trên
địa bàn huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang” của Đinh Thị Hồng Thắm (2017) nghiên
cứu thực trạng thực thi chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện An
Minh, tỉnh Kiên Giang, đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi chính sách giảm
nghèo bền vững trên địa bàn huyện An Minh.
Luận văn thạc sĩ chính sách cơng “Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
từ thực tiễn Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh” của Hồ Thụy Đình Khanh (2018)
nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại
Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh, giải pháp hồn thiện việc thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững tại Quận 6.
Luận văn thạc sĩ triết học “Nâng cao vai trị lãnh đạo của Đảng về cơng tác
xóa đói giảm nghèo trên địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang hiện nay”
của Tô Thị Mai Thanh (2018) nghiên cứu, đánh giá thực tiễn về thực hiện chính
sách xóa đói giảm nghèo, kinh nghiệm của một số huyện trên địa bàn tỉnh và đề
xuất các giải pháp nâng cao vai trị lãnh đạo của Đảng về cơng tác xóa đói giảm
nghèo trên địa bàn thành phố Long Xuyên hiện nay.
Luận án tiến sĩ kinh tế “Hoàn thiện các chính sách giảm nghèo ở tỉnh Quảng
Ninh” của Hồng Thị Hảo (2017) nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về nghèo
và chính sách giảm nghèo, phân tích đánh giá q trình xây dựng và thực hiện các
chính sách giảm nghèo ở tỉnh Quảng Ninh để từ đó đưa ra các quan điểm, định
hướng, giải pháp hoàn thiện các chính sách giảm nghèo ở tỉnh Quảng Ninh.

Bùi Sỹ Lợi (2011), với bài viết “Giải pháp giảm nghèo bền vững ở Việt Nam”
giới thiệu những thành công nổi bật về giảm tỷ lệ nghèo, giảm chênh lệch mức sống
giữa thành thị và nơng thơn, tăng thu nhập bình qn đầu người…, sau 10 năm thực
hiện chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo ở Việt Nam, giải pháp cần được thực thi
như xây dựng chiến lược giảm nghèo toàn diện, đẩy mạnh phân cấp ngân sách cho
địa phương, đổi mới cách tiếp cận đa dạng chính sách hỗ trợ…để kết quả giảm
nghèo mang tính bền vững [24].
Phạm Tất Thắng với bài viết “Giảm nghèo đa chiều bền vững cho các tỉnh Tây
Bắc” đăng trên Tập chí Cộng sản điện tử ngày 14/9/2016 [38] nhấn mạnh bên cạnh

3


mục tiêu GNBV, hạn chế tái nghèo, thực hiện tăng trưởng kinh tế, bảo đảm ASXH,
cải thiện đời sống nhân dân, Chương trình MTQG GNBV giai đoạn 2016-2020 cịn
nhấn mạnh tới việc tạo điều kiện cho người nghèo được tiếp cận một cách tốt nhất
các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là đối với người dân ở các địa bàn nghèo, trong
đó có các tỉnh Tây Bắc.
Luận án Tiến sỹ kinh tế “Những giải pháp kinh tế xã-hội nhằm nâng cao thu
nhập của nông dân nghèo vùng ĐBSCL” của Lê Thị Nghệ. Trong Luận án đã nêu
lên thực trạng mức thu nhập của nông dân vùng ĐBSCL và nguyên nhân, phân tích
chỉ ra những nguyên nhân của bộ phận dân cư thu nhập thấp ở ĐBSCL, chỉ ra
những giải pháp cơ bản để nâng cao thu nhập cho những nông dân nghèo vùng này.
Báo cáo của Ngân hàng thế giới (World Bank), “Bước tiến mới giảm nghèo và
thịnh vượng chung ở Việt Nam (2018)”; báo cáo nghiên cứu và nêu những thành
công đáng kể trong giảm nghèo, đánh giá tiến bộ của Việt Nam với những thành
công nổi bật và thúc đẩy chia sẻ thịnh vượng chung, xác định những khó khăn chính
mà người nghèo đối mặt, đặt ra những thách thức đối với việc thúc đẩy chương
trình giảm nghèo và thịnh vượng chung [48].
Báo cáo nghèo đa chiều ở Việt Nam, giảm nghèo ở tất cả các chiều cạnh để

đảm bảo chất lượng cuộc sống cho mọi người do Bộ Lao động TB&XH phối hợp
thực hiện cùng Trung tâm Phân tích và Dự báo-Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, Tổng Cục Thống kê, Viện Nghiên cứu phát triển MêKơng và Chương trình
Phát triển của Liên hợp quốc tại Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu và đưa ra bức tranh
tổng quan về giảm nghèo đa chiều ở Việt Nam, phân tích về xu hướng giảm nghèo
ở nhóm đồng bào DTTS và người khuyết tật và đưa ra một số khuyến nghị trong
quá trình thực hiện Chương trình MTQG GNBV và các chính sách giảm nghèo
nhằm đảm bảo chất lượng cuộc sống tốt cho mọi người, không để ai bị bỏ lại phía
sau và đạt được “giảm nghèo ở mọi chiều cạnh và mọi nơi” [9].
Nhìn chung, các cơng trình nêu trên tiếp cận cơng tác xố đói giảm nghèo và
chương trình GNBV ở Việt Nam và các địa phương dưới nhiều góc độ khác nhau cả
về lý luận và thực tiễn. Theo hiểu biết của cá nhân tơi, đến nay vẫn chưa có nghiên

4


cứu nào đề cập đến vấn đề thực trạng, giải pháp thực hiện chính sách GNBV trên
địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tổng kết lý luận về thực hiện chính sách GNBV trên thế giới và
đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo tại thành phố Long Xuyên,
tỉnh An Giang, luận văn đề xuất giải pháp nhằm tăng cường việc thực hiện chính
sách giảm nghèo theo hướng bền vững ở thành phố Long Xuyên.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài xác định 03 nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách cơng trong cơng tác giảm nghèo
bền vững ở Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo tại thành phố
Long Xuyên;

- Trên cơ sở chỉ ra hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong thực hiện chính
sách giảm nghèo tại thành phố Long Xuyên và quan điểm chính sách của Nhà nước
về xóa đói giảm nghèo, luận văn đề xuất một số giải pháp tăng cường thực hiện
chính sách GNBV tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu về thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo theo
chương trình giảm nghèo bền vững của thành phố Long Xun, tỉnh An Giang dưới
góc độ chính sách cơng.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: trên địa bàn thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Phạm vi thời gian: tập trung nghiên cứu thực trang thực hiện công tác giảm
nghèo bền vững, chủ yếu trong giai đoạn 2015-2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận

5


Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách của
Nhà nước về chính sách giảm nghèo.
Luận văn sử dụng cách tiếp cận đa ngành để đánh giá nghèo đa chiều và giảm
nghèo bền vững, cách tiếp cận chính sách cơng để hệ thống hóa cơ sở lý luận về
thực hiện chính sách giảm nghèo, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giảm
nghèo tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang; trên cơ sở đường lối, chủ trương,
quan điểm của Đảng chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách giảm nghèo
bền vững.
5.2 Phương pháp nghiên cứu

Luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp tổng hợp, thu thập dữ liệu: để rà sốt văn bản chính sách về cơng
tác xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam từ 2015-2020 các cấp.
Phương pháp phân tích: trên cơ sở số liệu thu thập được, luận văn sẽ phân tích
theo ý tưởng nghiên cứu để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: thực hiện việc so sánh chính sách, kết quả
thực hiện xóa đói giảm nghèo ở địa bàn thành phố Long Xuyên giai đoạn hiện tại
với những giai đoạn trước để đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo
trên địa bàn nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận vân
6.1 Ý nghĩa lý luận
Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách GNBV và thực trạng thực
hiện chính sách GNBV tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Luận văn rút ra
một số kết luận, đề xuất giải pháp về thực hiện chính sách giảm nghèo tại thành phố
Long Xuyên theo hướng bền vững, dài hạn, hướng đến chất lượng thực thi của
chính sách giảm nghèo.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Dựa trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng của công tác giảm nghèo trên địa bàn
thành phố Long Xuyên. Qua kết quả nghiên cứu thực trạng, luận văn chỉ rõ những

6


ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân, cho thấy những vấn đề thực tiễn triển khai chính
sách giảm nghèo bền vững ở thành phố Long Xuyên. Từ đó đề xuất phương hướng,
giải pháp thực hiện phù hợp và khả thi nhằm nâng cao hiệu quả trong việc xác định
vấn đề và chuẩn bị những giải pháp chính sách một cách cụ thể trong việc giảm
nghèo bền vững.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, học tập,
cũng như giúp người đọc có thể hiểu thêm về những vấn đề lý luận, thực tiển trong

thực hiện chính sách GNBV ở thành phố Long Xuyên. Đồng thời luận văn cũng có
thể là nguồn tài liệu giúp các nhà quản lý đưa ra những chính sách đúng đắn và hiệu
quả trong q trình thực hiện chính sách đối với công tác giảm nghèo bền vững.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn
của thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
1.1 Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
1.1.1 Về khái niệm nghèo
Khái niệm nghèo trên thế giới
Theo Ủy ban Kinh tế xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương: “Nghèo là
một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con
người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển
KT-XH phong tục tập quán của địa phương” [27].
Theo báo cáo tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhagen Đan Mạch năm 1995 đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về nghèo như
sau: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới một đô la (1$) mỗi
ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm cần thiết để
tồn tại” [27].

Theo nhóm nghiên cứu của UNDP (Chương trình phát triển liên hợp quốc),
UNFPA (Quỹ dân số Liên hợp quốc), UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc)
trong công trình “Xố giảm nghèo ở Việt Nam-1995” đã đưa ra định nghĩa: “Nghèo
là tình trạng thiếu khả năng trong việc tham gia vào đời sống quốc gia, nhất là tham
gia vào lĩnh vực kinh tế” [20].
Theo báo cáo về tình hình phát triển Thế giới-Tấn cơng nghèo năm 2000,
Ngân hàng Thế giới (WB) thừa nhận quan điểm truyền thống hiện nay về nghèo:
“Nghèo không chỉ bao hàm sự khốn cùng về vật chất được đo lường theo một khái
niệm thích hợp về thu nhập và tiêu dùng mà còn là sự hưởng thụ thiếu thốn về y tế”
[20]. Báo cáo nêu bật “Nghèo có nghĩa là khơng có nhà cửa quần áo, ốm đau khơng
có ai chăm sóc, mù chữ và không được đến trường” [20]. Báo cáo chỉ ra “Người
nghèo đặc biệt là dễ bị tổn thương trước những biểu hiện bất lợi nằm ngồi khả
năng kiểm sốt của họ. Họ thường bị các thể chế của Nhà nước và xã hội đối xử tàn
tệ, bị gạt ra rìa và khơng có tiếng nói quyền lực trong các thể chế đó” [20].

8


Khái niệm nghèo ở Việt Nam
Quan niệm nghèo của Việt Nam là thừa nhận định nghĩa chung về nghèo do
Ủy ban Kinh tế xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tháng
9/1993 tại Bangkok Thái Lan, các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cao và cho
rằng: “Nghèo là một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu
cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo
trình độ phát triển KT-XH phong tục tập quán của địa phương” [27]. Trên cơ sở
quan niệm về nghèo, Việt Nam đưa ra các khái niệm tương xứng đó là hộ nghèo, xã
nghèo, vùng nghèo…
Quan niệm về nghèo: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện
thoả mãn một phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống
thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện” [16]. Quan

niệm về hộ nghèo: “Hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình chỉ thoả mãn một
phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình
của cộng đồng xét trên mọi phương diện” [16].
Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện như:
Thu nhập: Đa số những người nghèo thường làm những công việc đơn giản,
lao động chân tay, công việc cực nhọc nhưng thu nhập thấp, công việc bấp bênh,
không ổn định, phụ thuộc vào thời vụ và có tính rủi ro cao do liên quan nhiều đến
thời tiết. Hầu hết các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con người như ăn, mặc, chỗ ở chỉ
được đáp ứng với mức độ rất thấp, thậm chí cịn khơng đủ. Điều này đã kéo theo
hàng loạt các vấn đề khác như làm giảm sức khoẻ của người nghèo, do đó giảm
năng suất lao động, từ đó giảm thu nhập... cứ như thế, nó tạo nên vịng luẩn quẩn
mà người nghèo rất khó thốt ra được.
Y tế-giáo dục: Những người nghèo có nguy cơ mắc phải các bệnh thông
thường cao như ốm đau, các bệnh về đường giao tiếp, tình trạng sức khoẻ không
được tốt do ăn uống không đảm bảo, lao động cực nhọc. Người nghèo thường sống
ở những nơi có điều kiện vệ sinh, y tế thấp, chẳng hạn, họ không được sử dụng
nguồn nước sạch, khơng có cơng trình phụ hợp vệ sinh. Do người nghèo có thu

9


nhập thấp, khơng đủ trả khoản tiền viện phí lớn cũng như các chi phí thuốc men,
nên tiếp cận các dịch vụ y tế của người nghèo rất thấp.
Khơng có tiếng nói và quyền lực: Những người nghèo thường bị đối xử khơng
cơng bằng, họ thường khơng có tiếng nói quyết định trong các công việc chung của
cộng đồng cũng như các cơng việc liên quan đến chính bản thân họ. Trong cuộc
sống những người nghèo chịu nhiều bất công do sự phân biệt đối xử. Người nghèo
luôn cảm thấy bị sống phụ thuộc, luôn nơm nớp lo sợ, trở nên tự ti, khơng kiểm sốt
được cuộc sống của mình.
Tiêu chí xác định chuẩn nghèo:

Chuẩn nghèo giai đoạn 2016-2020 được áp dụng theo Quyết định số
59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, quy định cụ thể như sau:
Hộ nghèo khu vực nông thôn là hộ đạp ứng một trong hai tiêu chí sau: Có thu
nhập bình qn đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống. Có thu nhập bình
qn đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ
số đo lường múc độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Hộ nghèo khu vực thành thị là hộ đạp ứng một trong hai tiêu chí sau: Có thu
nhập bình qn đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống. Có thu nhập bình
qn đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ
số đo lường múc độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
(các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản gồm 10 chỉ
số: tiếp cận các dịch vụ y tế, bảo hiểm y tế, trình độ giáo dục của người lớn, tình
trạng đi học của trẻ em, chất lượng nhà ở, diện tích nhà ở bình qn đầu người,
nguồn nước sinh hoạt, hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh, sử dụng dịch vụ viễn thông, tài
sản phục vụ tiếp cận thông tin) [44].
Khái niệm nghèo có thể thống nhất về mặt định tính song khơng thống nhất về
mặt định lượng. Mỗi quốc gia khác nhau, mỗi vùng miền khác nhau trong một quốc
gia mức sống của người dân cũng có sự khác nhau. Hơn nữa mặt định lượng của
mức nghèo cũng biến động theo thời gian tương ứng với sự biến động về sự phát
triển KT-XH của quốc gia đó.

10


Trên cơ sở các quan niệm về nghèo, luận văn sử dụng khái niệm nghèo như
sau: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư khơng có những điều kiện về cuộc
sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, quyền được tham gia vào các
quyết định của cộng đồng”. Cách tiếp cận này giúp chúng ta nâng cao nhận thức về
các nguyên nhân gây ra nghèo đói nhằm có những phương hướng cách thức hành
động đúng đắn để tấn cơng đẩy lùi nghèo đói, làm cho chất lượng cuộc sống của

người dân ngày càng tốt đẹp hơn.
1.1.2 Chính sách giảm nghèo
Chính sách là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các tài liệu và trên các
phương tiện truyền thông, tuy nhiên đây là thuật ngữ khó có thể định nghĩa một
cách cụ thể và rõ ràng.
Chính sách là q trình tác động của chủ thể nào đó vào khách thể nào đó để
đạt tới mục tiêu mà chủ thể mong muốn. Cách hiểu này tương tự như định nghĩa về
“Quản lý là một quá trình, trong đó chủ thể quản lý tác động lên khách thể quản lý
để đạt tới mục tiêu do chính chủ thể quản lý đưa ra”, khi đó chính sách được xem
như một cơng cụ của q trình quản lý mà chủ thể sử dụng để tác động lên khách
thể nhằm đạt tới mục tiêu đã định. Quá trình triển khai chính sách chính là q trình
tác động của người quản lý lên đối tượng bị quản lý [19].
Theo James Anderson (2003) cho rằng “Chính sách là một q trình hành
động có mục đích mà một cá nhân hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định
trong việc giải quyết vấn đề” [21].
Theo Peter Boothroyd (2003) cho rằng “Chính sách là những quyết định, qui
định của Nhà nước (tức là các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương)
được cụ thể hố thành các chương trình, dự án cùng các nguồn lực, vật lực, các thể
thức, qui trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác động vào đối tượng có liên quan, thay
đổi trạng thái của đối tượng theo hướng mà Nhà nước mong muốn” [21].
Nhà kinh tế Franc Ellis cho rằng, khơng thể có định nghĩa duy nhất cho thuật
ngữ “chính sách” vì lẽ chính sách có thể được hiểu là đường lối hành động ở nghĩa
tầm vĩ mơ và có thể được hiểu là các biện pháp tác động, can thiệp của chủ thể quản
lý lên đối tượng bị quản lý. Ông cho rằng: “trên tầm vĩ mơ, chính sách được xem

11


như đường lối hành động mà Chính phủ lựa chọn đối với quản lý Nhà nước về một
lĩnh vực nào đó, có thể là kinh tế, xã hội và mơi trường” [22].

Như vậy có thể thấy rằng: Chính sách là một phạm trù của khoa học quản lý, nó
đề cập rất rộng các giải pháp ảnh hưởng, tác động của chủ thể đến khách thể của hệ
thống quản lý, có phạm vi rộng từ cấp vĩ mơ (quốc gia, chính phủ) tới các cấp địa
phương như Tỉnh, Huyện, Xã và tới từng đơn vị KT-XH trong một hệ thống KT-XH
xác định. Điểm chung nhất trong khái niệm về chính sách, dù ở cấp độ nào cũng đều
phải hiểu rằng chính sách là một trong các công cụ của quản lý. Trong hình thành và
vận hành chính sách đều phải có 3 nhóm yếu tố, đó là: Chủ thể, khách thể và mục tiêu
của chính sách.
Mỗi chính sách đều phải phục vụ cho một hoặc một số mục tiêu nhất định, do
một chủ thể nào đó đưa ra và tác động (ảnh hưởng) đến một hoặc một số khách thể
(đối tượng hưởng lợi) nhằm đạt tới mục tiêu đã xác định. Vì vậy, mỗi chính sách
phải có: chủ thể, khách thể và mục tiêu của nó. Chính sách sẽ là vơ nghĩa hay khơng
khả thi khi nó khơng xác định được 3 nhóm nhân tố nói trên, hay nói cách khác là
chính sách bắt nguồn từ ý chí của chủ thể, không định được khách thể (đối tượng
hưởng lợi) và không đưa ra được mục tiêu cần đạt tới [28].
Có nhiều khái niệm khác nhau về chính sách, tuy nhiên trong khn khổ luận
văn đưa ra khái niệm về chính sách như sau: “Chính sách dùng để chỉ ý định của
chính quyền các cấp. Chính sách bao gồm những dự định lập kế hoạch, hướng dẫn,
phát động, tài trợ hoặc thông qua các dự án, chương trình, hoặc những hoạt động
đang được thực hiện của chính phủ”.
Xuất phát từ cách tiếp cận trên thì, “Chính sách giảm nghèo” có thể hiểu là
những quyết định, quy định của Nhà nước được cụ thể hóa trong các chương trình,
dự án cùng với nguồn lực, vật lực, các thể thức, quy trình hay cơ chế thực hiện
nhằm tác động vào các đối tượng cụ thể như người nghèo, hộ nghèo hay xã nghèo
với mục đích cuối cùng là giảm nghèo.
1.1.3 Giảm nghèo bền vững
“Giảm nghèo bền vững” đã được một số nghiên cứu đề cập từ những năm
trước 2000. Nhưng đến năm 2008 cụm từ “giảm nghèo bền vững” được sử dụng

12



chính thức trong văn bản hành chính ở Việt Nam tại Nghị quyết số 30a/NQ-CP
ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vững đối với 61 huyện nghèo, tiếp đó là Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011
của Chính phủ về Định hướng giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020 và Quyết
định số 1722/QĐ-TTg ngày 02/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương
trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020.
Tính đến thời điểm này vẫn chưa có một định nghĩa hay khái niệm chính thức
về “giảm nghèo bền vững”, nhưng trong các báo cáo (Báo cáo giảm nghèo giai đoạn
2006-2010, báo cáo thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, Báo cáo tổng kết đánh giá
Chương trình mục tiêu giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020…) hay các văn
bản hành chính thì tình trạng tái nghèo ln được xem là “vấn đề cơ bản” đối với
giảm nghèo bền vững.
“Bền vững“ là không lay chuyển được, là vững chắc. Như vậy nên hiểu bền
vững là một yêu cầu về sự “chắc chắn” đối với kết quả giảm nghèo. Mục đích rất rõ
ràng của GNBV chính là đảm bảo hay duy trì thành quả giảm nghèo một cách lâu
dài, bền vững. Nếu hiểu “bền vững” với nghĩa là duy trì, là vững chắc thì có thể
hiểu GNBV là tình trạng dân cư đạt được mức độ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản
hay mức thu nhập cao hơn chuẩn (nghèo) và duy trì được mức độ thỏa mãn những
nhu cầu cơ bản hay mức thu nhập trên mức chuẩn đó ngay cả khi gặp phải rủi ro.
Giảm nghèo bền vững có thể được hiểu là quá trình thực hiện cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần cho người nghèo hướng tới nâng cao năng lực tự thốt nghèo và
khơng rơi trở lại trạng thái nghèo của người dân [45]. Hay nói cách khác giảm
nghèo bền vững có thể được hiểu với nghĩa đơn giản là thốt nghèo bền vững hay
khơng tái nghèo.
Về lý thuyết, nghèo là sự không thỏa mãn các nhu cầu cơ bản. Nên GNBV được
phản ánh thông qua sự cải thiện và duy trì mức độ thỏa mãn các nhu cầu cơ bản ở
mức cao (cao hơn chuẩn), thông qua các tiêu chí phản ánh mức độ thỏa mãn nhu cầu
về dinh dưỡng, nhà ở, giáo dục, vệ sinh, sức khỏe,…

Trên thực tế, nghèo được phản ánh và đo lường thơng qua thu nhập nên GNBV
có thể được phản ánh thơng qua cải thiện thu nhập và duy trì mức thu nhập cao hơn

13


chuẩn nghèo trong một khoảng thời gian nhất định. Mặt khác, theo cách tiếp cận sinh
kế, GNBV là kết quả sinh kế, gồm hai giai đoạn: thốt nghèo và khơng tái nghèo trong
một thời gian nhất định. Vì vậy, GNBV ở cấp hộ, có thể phản ánh đồng thời thơng qua
hai tiêu chí: thốt nghèo và khơng tái nghèo.

Giảm nghèo bền
vững

Thỏa mãn các nhu
cầu cơ bản

Thu nhập tăng và
duy trì ở mức cao

Thốt nghèo và
khơng tái nghèo

Hình 1.1. Các tiêu chí phản ánh giảm nghèo bền vững [15].
1.1.4 Chính sách giảm nghèo bền vững
Nhìn dưới gốc độ giảm nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều là cách tiếp
cận mới nhằm hạn chế việc bỏ sót những đối tượng tuy không nghèo về thu nhập
nhưng lại nghèo về các chiều cạnh khác. Thay vì xem xét nghèo thu nhập những ai
không được khám chữa bệnh, không được đến trường, không được tiếp cận thông
tin cũng được xác định là nghèo. Cái nghèo không chỉ gắn liền với sự thiếu thốn thu

nhập, chi tiêu mà cịn là việc khơng được thỏa mãn các nhu cầu xã hội cơ bản khác.
Việc chuyển đổi phương pháp đo lường nghèo theo cách tiếp cận đa chiều sẽ
tạo điều kiện để nhận dạng đối tượng nghèo chính xác, cụ thể hơn, tăng cường tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân để có giải pháp hỗ trợ phù hợp hơn với
nhu cầu và đặc tính của hộ nghèo, hộ cận nghèo, từ đó tạo cơ hội để các địa phương
trong cả nước thực hiện bền vững hơn các chính sách giảm nghèo.
Với mục đích tác động tốt hơn, tồn diện hơn đến người nghèo, việc chuyển
đổi đánh giá nghèo từ đơn chiều sang đa chiều nhằm giúp đảm bảo mức sống tối
thiểu, đồng thời đáp ứng các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, từng bước
GNBV. Thơng tin về tình trạng nghèo đa chiều cũng giúp theo dõi tiến trình giảm
nghèo và đánh giá tác động của các nhóm chính sách qua thời gian giữa các vùng,
các nhóm dân cư để điều chỉnh cho phù hợp…

14


Chương trình MTQG GNBV, với mục tiêu tạo điều kiện cho người nghèo phát
triển sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu, giúp người nghèo tiếp cận với các
dịch vụ y tế, giáo dục nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và thốt nghèo bền
vững. Các chính sách giảm nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay như sau:
Chính sách ưu đãi tín dụng cho người nghèo; chính sách hỗ trợ sản xuất, cung
cấp dịch vụ khuyến nơng, chính sách dạy nghề, giải quyết việc làm và xuất khẩu lao
động cho người nghèo, chính sách hỗ trợ về nhà ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt
cho hộ nghèo. Chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế, về GD&ĐT, chính sách trợ
giúp pháp lý cho người nghèo, chính sách trợ giúp các đối tượng BTXH, chính sách
hỗ trợ giảm nghèo đặc thù (Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về chương trình hỗ trợ
giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo nhất cả nước…).
Đặc thù của chính sách giảm nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều thể
hiện rõ ở phương pháp đo lường nghèo theo cách tiếp cận đa chiều, bao gồm cả thu

nhập và các chiều phi tiền tệ như nhà ở, tiếp cận nước sạch và vệ sinh, dịch vụ giáo
dục, y tế, BHYT và BHXH đã được sử dụng trong thiết kế Chương trình MTQG
GNBV giai đoạn 2016-2020 và trong q trình rà sốt hộ nghèo để xác định đối
tượng hưởng lợi của Chương trình, cũng như các chính sách giảm nghèo và trợ giúp
xã hội nhằm đảm bảo chất lượng cuộc sống tốt cho mọi người, khơng để ai bị bỏ lại
phía sau và đạt được “giảm nghèo ở mọi chiều cạnh và mọi nơi” [26].
Như vậy, Chính sách giảm nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều có thể
được xem như là chính sách giảm nghèo bền vững. Chính sách giảm nghèo bền
vững là một hệ thống các chính sách hỗ trợ giảm nghèo nói chung và các chính sách
giảm nghèo đặc thù với các dự án thuộc Chương trình MTQG GNBV ở các huyện
nghèo, xã nghèo, thơn, bản đặc biệt khó khăn.
1.1.5 Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
Thực hiện chính sách GNBV là quá trình biến các chủ trương, phương hướng
và biện pháp liên quan đến giảm nghèo thành những kết quả trên thực tế thơng qua
các hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước và sự tham gia rộng rãi của các tổ

15


chức, đơn vị, gia đình, cá nhân và tồn xã hội, nhằm hiện thực hố những mục tiêu
mà chính sách đã đề ra.
Đó là q trình triển khai hệ thống chính sách giảm nghèo theo chuẩn nghèo
tiếp cận đa chiều (chính sách ưu đãi tín dụng cho người nghèo, chính sách hỗ trợ
sản xuất, chính sách dạy nghề, giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động cho người
nghèo, chính sách hỗ trợ về nhà ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho hộ nghèo,
chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế, về GD&ĐT, chính sách trợ giúp pháp lý cho
người nghèo trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội, BHXH, BHYT, giải quyết việc làm...)
vào thực tiễn bằng các công cụ, bộ máy của nhà nước nhằm hiện thực hóa mục tiêu
đã đề ra [25, tr.44]. Việc thực thi chính sách giảm nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận
đa chiều như thế nào phụ thuộc vào các bộ phận (cơ quan nhà nước hoạch định

chính sách, cơ quan chấp hành thực hiện chính sách, cộng đồng xã hội tham gia
hoạt động, đối tượng thụ hưởng chính sách) và các bước cơ bản trong việc thực thi
chính sách giảm nghèo. Trên thực tế các bộ phận nói trên nhiều khi không tách biệt
độc lập một cách tuyệt đối mà có sự đan xen, lồng ghép với nhau (như người hoạch
định chính sách giảm nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều cũng là đối tượng
thụ hưởng chính sách...).
Việc thực hiện các bước trong thực thi chính sách giảm nghèo theo chuẩn
nghèo tiếp cận đa chiều phải được xem xét ở cấp độ chủ thể thực thi: Chính sách
giảm nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều được cấp trung ương hoạch định
(chính sách quốc gia) thì cấp thực thi chính sách giảm nghèo theo chuẩn nghèo tiếp
cận đa chiều đó là chính quyền địa phương các cấp. Trên cơ sở chính sách quốc gia,
chính quyền địa phương các cấp trên cơ sở điều kiện đặc thù của địa phương mình
lại tiếp tục thể chế hóa chính sách quốc gia thông qua việc ban hành các quyết định,
kế hoạch, chương trình (chính sách địa phương) và tổ thức thực hiện để hiện thực
hóa các chính sách nói trên. Vì vậy, trong tính tương đối, vừa có thể coi việc thực
thi chính sách giảm nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều của một tỉnh, thành
phố chỉ là một khâu trong chu trình chính sách (hoạch định, thực thi, đánh giá kết
quả) và vừa có thể coi việc thực thi đó hàm nghĩa cả chu trình chính sách (chính
sách địa phương) với cả 3 bước (hoạch định, thực thi, đánh giá kết quả). [26].

16


1.2 Nội dung thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam
Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020 được thơng qua tại Đại hội Đảng
tồn quốc lần thứ XI định hướng: “Đẩy mạnh GNBV, nâng cao thu nhập, không
ngừng cải thiện đời sống và chất lượng dân số của đồng bào các dân tộc thiểu số”,
“thực hiện có hiệu quả chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ bền vững;
đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để bảo đảm GNBV, nhất là tại các
huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XII của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là “Chăm
lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần…; đảm bảo an ninh xã hội, nâng cao phúc
lợi xã hội và GNBV” [2].
Những chủ trương GNBV còn được thể hiện ở nhiều văn kiện khác của Đảng
và được cụ thể hóa bởi hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước: “Cơng dân có
quyền được bảo đảm ASXH”, “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để cơng dân thụ
hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống ASXH, có chính sách trợ giúp người cao
tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hồn cảnh khó khăn khác” [30];
miễn học phí cho học sinh cấp trung học cơ sở theo lộ trình; các nhóm đối tượng
sinh viên, học sinh nghèo được miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập dạy nghề
[31]; hỗ trợ hộ gia đình nghèo và cận nghèo tại khu vực nông thôn; hộ gia đình tại
khu vực nơng thơn thuộc vùng thường xun bị ảnh hưởng bởi thiên tai, biến đổi
khí hậu; người thu nhập thấp, hộ nghèo, cận nghèo tại khu vực đô thị [29]; mọi
cơng dân đều bình đẳng, khơng bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp
cận thông tin và Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh
sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó
khăn thực hiện quyền tiếp cận thơng tin [32].
Giảm nghèo bền vững còn là cam kết của Việt Nam trong thực hiện các mục
tiêu thiên niên kỷ của Liên Hiệp quốc. Vì thế GNBV là nhiệm vụ, là giải pháp quan
trọng, cấp bách để hướng đến mục tiêu chung “Dân giàu, nước mạnh”. Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: tập trung triển khai
có hiệu quả các chương trình giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn. Đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức xóa đói, giảm nghèo gắn với phát

17


triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm
để xóa đói, GNBV; tạo điều kiện và khuyến khích người đã thốt nghèo vương lên
làm giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo [17,tr 224].

Từ những quan điểm, định hướng chính sách giảm nghèo bền vững nêu trên,
Việt Nam đã thực hiện hàng loạt các chương trình, chính sách nhằm hướng tới giảm
nghèo một cách bền vững thông qua các giải pháp chủ yếu bằng sự can thiệp, tác
động trực tiếp đến người nghèo và tác động qua lợi ích kinh tế cụ thể, qua các nhóm
chính sách hỗ trợ giảm nghèo chung, như:
Hỗ trợ về giáo dục và đào tạo: Thực hiện có hiệu quả chính sách miễn, giảm
học phí, hỗ trợ học bổng, trợ cấp xã hội và hỗ trợ học tập đối với học sinh nghèo ở
các cấp học.
Hỗ trợ sản xuất, dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo: Tạo
điều kiện cho người nghèo tiếp cận các nguồn vốn, gắn với việc hướng dẫn cách
làm ăn, khuyến nông và chuyển giao kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất. Thực hiện
có hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo.
Hỗ trợ về nhà ở: Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ về nhà ở cho hộ nghèo
khu vực nông thôn, miền núi để cải thiện nhà ở.
Hỗ trợ về y tế và dinh dưỡng: Thực hiện có hiệu quả chính sách cấp thẻ BHYT
cho người nghèo, hỗ trợ mua thẻ BHYT đối với người thuộc hộ cận nghèo, chính
sách hỗ trợ người nghèo bệnh nặng, bệnh hiểm nghèo; ưu đải đầu tư để đạt chuẩn
cơ sở bệnh viện, trạm y tế các xã nghèo, huyện nghèo.
Hỗ trợ người nghèo hưởng thụ văn hóa, thơng tin: Tổ chức thực hiện tốt
chương trình đưa văn hóa, thơng tin về cơ sở, đa dạng hóa các hoạt động truyền
thơng, giúp người nghèo tiếp cận các chính sách giảm nghèo, phổ biến các mơ hình
giảm nghèo có hiệu quả, gương thoát nghèo.
Hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ trợ giúp pháp lý: Thực hiện có hiệu
quả chính sách trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, tạo điều kiện cho người
nghèo hiểu biết quyền và nghĩa vụ của mình, chủ động tiếp cận các chính sách trợ
giúp của Nhà nước vươn lên thoát nghèo.

18



Bên cạch nhóm chính sách hỗ trợ giảm nghèo chung, Nhà nước đã lựa chọn và
thực hiện đồng bộ các giải pháp, cụ thể như:
Tăng nguồn lực đầu tư và cân đối nguồn lực trung hạn của nhà nước cho các
chính sách, chương trình giảm nghèo, lựa chọn chính sách để ưu tiên phân bổ, sử
dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lực, bảo đảm lồng ghép chính sách và nguồn lực có
hiệu quả. Thúc đẩy kết nối phát triển KT-XH giữa các vùng khó khăn với các vùng
phát triển. Thực hiện chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng, hỗ trợ thị trường
phù hợp đặc điểm vùng nhằm thu hút các nhà đầu tư, doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư, phát triển CSHT, sản xuất kinh doanh, đào tạo
nghề, giải quyết việc làm cho lao động tại chổ, nâng cao khả năng sản xuất hàng
hóa gắn với thị trường tại các địa phương nghèo, địa bàn khó khăn, vùng đồng bào
DTTS. Kết hợp chặt chẽ giữa chính sách giảm nghèo với phát triển KT-XH với
quốc phịng-an ninh.
Thực hiện chính sách hỗ trợ có điều kiện gắn với đối tượng, địa bàn và thời
hạn thụ hưởng nhằm tăng cơ hội tiếp cận chính sách và khuyến khích sự tích cực,
chủ động tham gia của người nghèo. Duy trì, bổ sung một số chính sách hỗ trợ phù
hợp đối với hộ mới thoát nghèo và hộ cận nghèo.
Tăng nguồn vốn ưu đãi cho hộ nghèo, cận nghèo, điều chỉnh đối tượng, mức
vay, lãi suất, thời hạn cho vay phù hợp gắn với chính sách khuyến nông, chuyển
giao khoa học kỷ thuật, xây dựng, nhân rộng mơ hình thốt nghèo gắn với cộng
đồng dân cư trên địa bàn.
Ưu tiên đầu tư CSHT và phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho
vùng đồng bào DTTS, huyện nghèo, xã nghèo, xã biên giới, vùng đặc biệt khó
khăn. Giải quyết cơ bản tình trạng hộ đồng bào DTTS khơng có đất ở và giải quyết
đất sản xuất hoặc chuyển đổi nghề, kết hợp đào tạo nghề gắn với giải quyết việc
làm, tăng thu nhập cho hộ đồng bào DTTS nghèo chưa được hỗ trợ đất sản xuất,
đồng thời có chính sách giải quyết tình trạng di dân không theo quy hoạch của một
số địa phương.
Nâng cao tỷ lệ phổ cập giáo dục và tỷ lệ đào tạo nghề khu vực nông thôn,
đồng bào DTTS, phân luồn giáo dục nghề hợp lý, hiệu quả, duy trì các chính sách


19


hỗ trợ cho học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, đổi mới và nâng cao
hiệu quả công tác đào tạo cử tuyển gắn với sử dụng.
Điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và chính sách
BHYT để đảm bảo tăng cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho
người nghèo, người cận nghèo.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước, hồn thiện cơ chế điều hành, phân
cơng đầu mối chịu trách nhiệm chính, phân cấp đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn cụ
thể cho địa phương, cải cách thủ tục hành chính và phương thức để người dân, cộng
đồng tham gia và tiếp cận chính sách giảm nghèo, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý
thức tự vương lên thoát nghèo.
1.3 Tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
1.3.1 Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững
Xây dựng kế hoạch, chương trình triển khai thực hiện chính sách là bước cần
thiết, quan trọng để bảo đảm thực hiện đạt các mục tiêu chương trình đã đặt ra, kế
hoạch này phải được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống và gồm các
bước sau đây: Kế hoạch về tổ chức, điều hành như hệ thống các cơ quan tham gia,
đội ngũ nhân sự, cơ chế thực thi, kế hoạch cung cấp nguồn vật lực như tài chính,
trang thiết bị, kế hoach thời gian triển khai thực hiện, kế hoạch kiểm tra, đơn đốc
thực thi chính sách, dự kiến về quy chế, nội quy về tổ chức và điều hành thực thi
chính sách. Việc lập kế hoạch, tổ chức điều hành cần đảm bảo những dự kiến về hệ
thống các cơ quan chủ trì và cơ chế phối hợp giữa các cấp ủy, chính quyền với các
tổ chức chính trị-xã hội ở cơ sở (phường, xã). Trong quá trình triển khai thực hiện
chính sách GNBV cần xác định rõ cơ chế trách nhiệm, quyền hạn, nhiệm vụ của tổ
chức, cán bộ, công chức trong việc triển khai và tổ chức thực hiện các chương trình,
dự án chính sách giảm nghèo tại địa phương, bên cạnh đó việc xây dựng chương

trình kế hoạch thực hiện chương trình MTQG GNBV phải gắn với nhiệm vụ chính
trị của từng cơ quan và xem nhiệm vụ thực hiện chính sách GNBV là trách nhiệm
chung của các cơ quan từ Trung ương đến địa phương.
1.3.2 Phổ biến và tuyên truyền về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững

20


Đây là một hoạt động quan trọng, có ý nghĩa lớn với cơ quan nhà nước và các
đối tượng thực thi chính sách GNBV. Phổ biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp
cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về mục
đích yêu cầu của chính sách, về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hồn
cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách… để họ tự giác thực hiện theo yêu
cầu quản lý của cơ quan nhà nước, đồng thời cịn giúp cho mọi cán bộ, cơng chức
có trách nhiệm tổ chức thực thi nhận thức được đầy đủ tính chất, mức độ, quy mơ
của chính sách với đời sống xã hội để chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp
thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực thi có hiệu quả
kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao.
Tuyên truyền vận động thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cần được
thực hiện thường xuyên liên tục, để mọi đối tượng cần được tun truyền ln củng
cố lịng tin vào chính sách và tích cực thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.
Cơng tác tun truyền, phổ biến chính sách cần được thực hiện bằng nhiều hình
thức như: trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với các đối tượng tiếp nhận, tuyên truyền, phổ
biến gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng xã hội…
Tùy theo yêu cầu của các cơ quan quản lý, điều kiện cụ thể của từng địa phương,
trình độ dân trí mà có thể lựa chọn các hình thức tun truyền, vận động thích hợp.
Tuyên truyền, phổ biến các chính sách giảm nghèo là một trong những khâu
quan trọng để góp phần thực hiện tốt công tác giảm nghèo bền vững. Với sự nổ lực
của các cấp ủy, chính quyền địa phương, sự chung tay của cộng đồng và nổ lực tự
vươn lên của chính người nghèo là hết sức quan trọng. Chỉ khi nào người nghèo có

nhận thức, ý chí vươn lên thì lúc đó các chính sách hỗ trợ của nhà nước, của xã hội
mới thực sự hiệu quả, việc thốt nghèo mới thực sự bền vững.
1.3.3 Phân cơng, phới hợp thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
Chính sách GNBV được thực thi trên phạm vi rộng lớn, vì thế số lượng cá
nhân và tổ chức tham gia thực thi chính sách là rất lớn. Số lượng tham gia bao gồm
các đối tượng tác động của chính sách, nhân dân thực hiện và tổ chức bộ máy thực
thi của nhà nước. Khơng chỉ có vậy, các hoạt động thực hiện mục tiêu chính sách
diễn ra rất phong phú và cũng hết sức phức tạp theo không gian và thời gian, chúng

21


đan xen nhau, thúc đẩy hoặc kìm hảm nhau theo quy luật… Để tổ chức thực hiện
chính sách GNBV có hiệu quả cần phải tiến hành phân công phối hợp giữa các cơ
quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yêu tố tham gia thực thi
chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách. Trong
thực hiện chính sách có sự phân cơng cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp.
Chính sách có thể tác động đến lợi ích của một bộ phận dân cư, nhưng kết quả tác
động lại liên quan đến nhiều yếu tố, quá trình thuộc các bộ phận khác nhau, nên cần
phải phối hợp chúng lại để đạt yêu cầu quản lý.
Hoạt động phân công phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách
GNBV một cách chủ động, sáng tạo để ln duy trì chính sách được ổn định, góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách.
1.3.4 Đơn đớc, kiểm tra thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
Đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách GNBV là hoạt động của cơ quan, cán
bộ, cơng chức có thẩm quyền thực hiện thơng qua các cơng cụ hữu ích nhằm làm
cho các chủ thể thực thi nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực hiện các biện pháp
theo định hướng chính sách, nhất là kiểm tra việc bình xét hộ nghèo, việc thực hiện
các chính sách hỗ trợ để bảo đảm cơng bằng, khách quan, khơng để xảy ra tình
trạng vụ lợi, trục lợi từ chính sách. Trên thực tế, khi triển khai thực hiện chính sách,

khơng phải bộ phận nào cũng làm tốt, làm nhanh như nhau, vì thế cần phải có hoạt
động đôn đốc, theo dõi, kiểm tra để vừa thúc đẩy các chủ thể nỗ lực nhiều hơn để
hoàn thành nhiệm vụ, vừa phòng, chống những hành vi vi phạm quy định trong thực
hiện chính sách giảm nghèo bền vững, thực hiện tốt công tác kiểm tra để kịp thời
uốn nắn những hạn chế khuyết điểm và vi phạm trong thực hiện chính sách, đồng
thời kịp thời điều chỉnh các vấn đề phát sinh, bất cập trong thực hiện chính sách cho
phù hợp với thực tiển, cũng như phát huy những kết quả tích cực đã đạt được, nâng
cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, cơng chức trong q trình được giao thực hiện
chính sách giảm nghèo ở đơn vị, địa phương..
1.3.5 Tổng kết thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
Đánh giá tổng kết trong bước tổ chức thực thi chính sách GNBV được hiểu là
q trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách giảm

22


×