Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

SKKN2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.78 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN QUẢNG ĐIỀN TRƯỜNG MẦM NON XUÂN DƯƠNG. Đề tài: MỘT SỐ HÌNH THỨC GIÚP TRẺ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ, LỨA TUỔI 5 – 6 TUỔI, LỚP A2 TRƯỜNG MẦM NON XUÂN DƯƠNG. Giáo viên thực hiện: TRƯƠNG THỊ HÀ Quảng An, Tháng 4 năm 2012.. PHÒNG GD & ĐT QUẢNG ĐIỀN. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> TRƯỜNG MN XUÂN DƯƠNG. Độc lập- Tự do- Hạnh phúc. Xuân Dương, ngày 22 tháng 05 năm 2012.. SÁNG KIẾN CẢI TIẾN KỸ THUẬT Đề tài:. MỘT SỐ HÌNH THỨC GIÚP TRẺ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ, LỨA TUỔI 5 - 6 TUỔI, LỚP A2, TRƯỜNG MẦM NON XUÂN DƯƠNG (Đề nghị công nhận danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở). I/ SƠ YẾU LÝ LỊCH: - Họ và tên: TRƯƠNG THỊ HÀ; Bí danh: Không; Giới tính: Nữ. - Ngày tháng năm sinh: 15/ 07/ 1975. - Quê quán: Quảng An; Quảng Điền; Thừa Thiên Huế. - Nơi thường trú: An Xuân; Quảng An; Quảng Điền; Thừa Thiên Huế. - Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Xuân Dương. - Chức vụ hiện nay: Giáo viên. - Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm mầm non. - Những khó khăn, thuận lợi trong việc thực hiện nhiệm vụ: + Khó khăn: - Một số trẻ không qua mẫu giáo nhỡ. - Trẻ chủ yếu học ở trường là chính. - Đường xá thấp, về mùa mưa trẻ đến trường khó khăn. - Đời sống của phụ huynh còn nghèo, nguồn thu từ phụ huynh còn hạn chế. - Sự tiếp thu của trẻ không đồng đều. - Các trang thiết bị, đồ dùng, phương tiện, sân bãi để tổ chức cho trẻ hoạt động chưa đáp ứng được nhu cầu. + Thuận lợi: - Trẻ cùng một độ tuổi (5- 6 tuổi) - Có trang thiết bị dạy công nghệ thông tin. - Trẻ đến lớp chuyên cần, lớp bán trú 100% - Phòng học thoáng mát, sạch sẽ, đủ diện tích để tổ chức hoạt động. - Có điều kiện để tự học và bồi dưỡng chuyên môn. - Được dự giờ, thao giảng, được Ban giám hiệu góp ý,chỉ đạo,bồi dưỡng chuyên môn. I/ SƠ LƯỢC ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH ĐƠN VỊ: 1. Tóm tắt tình hình đơn vị: - Trường mầm non Xuân Dương mặc dù được xây dựng kiên cố nhưng tường rào và sân chơi chưa đáp ứng nhu cầu. Đội ngũ của trường đều có tâm huyết, có.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> tinh thần và trách nhiệm cao, đoàn kết, biết giúp đỡ lẫn nhau trong công việc, yêu nghề, mến trẻ và luôn hoàn thành các nhiệm vụ của ngành, cấp trên giao. 2. Thuận lợi : - Trường có 5 lớp mẫu giáo và 01 nhóm trẻ - Được sự quan tâm của chính quyền địa phương đặc biệt là Phòng giáo dục và Đào tạo Quảng Điền đã đầu tư trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi từng bước hoàn thành cơ sở vật chất, trẻ được học phân chia theo độ tuổi và thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới - Sự giúp đỡ của phụ huynh trong việc chăm sóc giáo dục trẻ - Đội ngũ giáo viên đa số còn trẻ, có năng lực, đều đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn 3. Khó khăn: - Trường nằm cuối vùng hạn lưu sông bồ thường xuyên mưa lụt xảy ra nên ảnh hưởng đến quá trình giảng dạy, cất giữ đồ dùng, đồ chơi. - Địa phương không có nguồn kinh phí đầu tư nên khuôn viên, sân trường chưa được quy hoạch - Phụ huynh chủ yếu làm nghề nông, nhận thức có hạn, kinh tế khó khăn III/ MỤC ĐÍCH YÊU CẦU: Equation Chapter (Next) Section 1 Tuổi mầm non là lứa tuổi cần sự quan tâm đặc biệt của cha mẹ và cô giáo. ở giai đoạn này, những mối quan hệ, có những sự vật, hiện tượng xảy ra xung quanh trẻ đều có tác động rất lớn đến bản thân trẻ. Vì vậy cha mẹ và cô giáo đều mong muốn dạy trẻ những điều hay, lẽ phải, những thói quen tốt và những hành vi có đạo đức để hình thành nhân cách cho trẻ sau này. Là một giáo viên mầm non, tôi nhận thấy việc giáo dục trẻ thông qua các hình thức giúp trẻ phát triển ngôn ngữ "văn học" là mốc khởi đầu rất quan trọng nhất đối với trẻ. Trước khi đi vào nghiên cứu đề tài này, tôi thấy việc cho trẻ làm quen với văn học vẫn diễn ra theo hai hình thức chính là trong tiết học và ngoài tiết học những chưa có yếu tố sáng tạo, các hình thức cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học thường lặp đi lặp lại trong các tiết học dẫn đến việc trẻ ít hứng thú với việc kể chuyện, đọc thơ. Với hình thức đơn điệu sẽ làm trẻ không chú ý lên cô, tập trung vào việc khác hoặc buồn ngủ. Việc nghiên cứu một số hình thức cho trẻ em làm quen với văn học hiện tại tôi đi sâu nghiên cứu ở độ tuổi mẫu giáo lớn và đối tượng chính là các cháu của lớp tôi trong năm học 2011 - 2012 này. IV/ NHỮNG GIẢI PHÁP CHÍNH: Qua quá trình giảng dạy tôi bắt đầu thực hiện việc nghiên cứu một số hình thức cho trẻ làm quen với văn học gồm có các hình thức sau: 1. Giải pháp1: Giờ hoạt động chung: Đây là hình thức cơ bản cho trẻ làm quen với văn học. Các tác phẩm văn học cho trẻ làm quen trong hoạt động này thường nằm trong chương trình, có nội dung phù hợp với chủ đề đang thực hiện. Thời gian của hoạt động này thường không nhiều từ 30 đến 35 phút. Vì vậy trong giờ hoạt động này tôi sử dụng rất nhiều hình thức khác nhau đề gây hứng thú cho trẻ giúp trẻ nhanh chóng hiểu nội dung truyện, nhớ truyện, thuộc thơ và đọc kể diễn cảm. Trong hoạt động này.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> hình thức sử dụng đồ dùng trực quan rất có hiệu quả. Đồ dùng trực quan có thể là tranh ảnh, làm phim, mô hình, sa bàn, rối, trang phục ... - Đồ dùng trực quan dùng để giới thiệu bài: + Ví dụ: Chuyện “Tay phải, tay trái” - Chủ đề “Bản thân”. Tôi lựa chọn hình thức sử dụng tranh minh hoạ. Chuẩn bị bức tranh chân dung trong các bộ phận: Tay phải và tay trái được gắn vào và cử động được. Tôi giới thiệu bằng cử động cả hai tay và nói: “Xin chào các bạn, các bạn hãy đoán tôi là ai nhé! Trên cơ thể của các bạn tôi làm được rất nhiều việc như: Khiêng, bê...rất nhiều thứ. Nếu không có tôi thì không thể làm dược việc gì.Nào các bạn, hãy đoán tôi là ai? - Đồ dùng trực quan còn là hình thức sử dụng để giảng giải từ khó trong nội dung tác phẩm: thường mỗi bài thơ, câu truyện, mỗi nhóm chữ cái lại đem đến cho trẻ một vài từ mới, một số chữ cái mới có cấu tạo tương đối giống nhau và cô sẽ giải thích cho trẻ để trẻ hiểu ý nghĩa của từ mới, và các chữ khó phân biệt đó như sau:. + Ví dụ 1: Thơ “ Hoa kết trái ” - Chủ đề “ Thế giới thực vật ”. Trong bài thơ này có từ “rung rinh” tôi chọn để giải thích từ khó trong câu thơ: “Hoa mận trắng tinh Rung rinh trong gió”. Tôi đã làm một cành hoa mận bằng giấy mỏng, các cuống hoa nối với một sợi dây đồng rất mảnh. Khi đọc đến câu thơ “Rung rinh trong gió” tôi hỏi trẻ từ “ Rung rinh” nghĩa là như thế nào gọi 2- 3 trẻ sau đó tôi giải thích bằng lời kết hợp hình ảnh như lay động nhẹ làm cành hoa rung nhè nhẹ, tôi làm với trẻ “rung rinh” có nghĩa là rung nhè nhẹ, vì cơn gió thổi nhẹ đã làm cho hoa mận rung rình nhè nhẹ trong gió. + Ví dụ: Chuyện “Chú Dê đen": - Chủ đề “Thế giới động vật”. + Tranh 1: Dê trắng gặp chó Sói. + Tranh 2: chó Sói ăn thịt Dê trắng . + Tranh 3: Dê đen gặp chó Sói. + Tranh 4: Dê đen đuổi chó Sói vào rừng sâu. Cô treo tranh theo thứ tự từ đầu đến cuối lên bảng. Trẻ nhìn tranh chỉ vào hình ảnh trong tranh và kể tương ứng với nội dung trong tranh. Cô thay đổi trình tự các bức tranh, trẻ kể từ đầu đến cuối câu chuyện nhưng phải chỉ vào đúng bức tranh tương ứng sau đó sắp xếp lại cho đúng trình tự các bức tranh rồi kể lại. Hình thức kể lại chuyện theo tranh rất có hiệu quả vì khi trẻ nhìn vào các bức tranh trẻ sẽ hình dung ra diễn biến câu chuyện một cách đầy đủ từ đó có thể kể lại chuyện mà không bị nhầm lẫn. ở hình này cô kết hợp lồng chữ viết bằng cách viết nội dung câu chuyện bài thơ phía dưới của mỗi bức tranh phù hợp với hình ảnh minh hoạ trong các bức tranh. Ngoài ra cô có thể cho trẻ làm quen với chữ viết qua tên chuyện, tên bài thơ, tên các nhân vật trong bài thơ, câu chuyện đó. Qua những ví dụ minh hoạ ở trên, tôi thấy hình thức sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ hoạt động cho trẻ làm quen với văn học là hình thức rất cơ bản giúp giáo viên đạt được mục đích của giờ hoạt động. Ngoài ra tuỳ theo nội dung của từng hoạt động mà giáo viên có thể lựa chọn hình thức tổ chức giờ hoạt.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> động ở những địa điểm thích hợp, nhằm tạo cho trẻ một tâm trạng thoải mái, gần gũi với cuộc sống thực. 2. Giải pháp 2: Các hoạt động ngoài giờ: Với trẻ mầm non, hoạt động chung chiếm một thời gian rất ngắn so với thời gian của các hoạt động khác. Do đó tôi đã tận dụng thời gian đón trẻ, trả trẻ, hoạt động ngoài trời, hoạt động vui chơi hay trong hoạt động chuyển tiếp để giới thiệu hay ôn luyện các nhóm chữ cái đã làm quen ở tiết 1,các bài thơ, bài đồng dao, câu chuyện. Hình thức cho trẻ ôn tập là phát âm chữ cái, đoán chữ cái qua từ, đọc thơ hoặc kể lại tác phẩm cho trẻ nghe, sau đó cho trẻ đọc hoặc kể lại, tôi theo dõi, sửa sai cho trẻ để trẻ thể hiện đúng, diễn cảm. Muốn cho việc ôn luyện của trẻ hấp dẫn, trẻ hứng thú tham gia, tôi cần tổ chức ôn luyện dưới hình thức trò chơi: đoán tên, đóng kịch, đoán chữ cái qua từ, cánh cửa kỳ diệu... + Ví dụ: “Cháu hãy đọc các bài thơ viết về Bác Hồ”, “Cháu hãy đọc những bài thơ viết về các loài hoa”, hai tổ thi đua đọc các bài thơ "viết về những người thân trong gia đình" hay "về trường lớp mẫu giáo của bé",... + Ví dụ 1: Khi cho trẻ vẽ tự do theo ý thích ở giờ tạo hình cô có thể cho trẻ xem tranh và từ 'em vẽ", sau đó cho trẻ đọc bài thơ “Em vẽ” để giới thiệu bài để gây hứng thú cũng như để gợi ý đề tài cho trẻ. Một hình thức cũng khá hấp hẫn là cho trẻ làm quen với văn học theo các chủ đề gắn liền với việc tổ chức các ngày hội, ngày lễ: ngày 8/3, 1/6, 20/11, 22/12, tết nguyên đán, tổ chức hội thi kỷ năng sống của trẻ 5 tuổi… Tôi tổ chức cho các cháu trong lớp, trong các buổi liên hoan văn nghệ, trong đó có thể kể chuyện, đọc thơ, đóng kịch các tác phẩm văn học, chơi dân gian đọc các bài đồng dao hoặc trò chơi. Hình thức này thu hút được nhiều trẻ tham gia luyện tập, biểu diễn. Nó có tác dụng động viên, cổ vũ cho các cháu khá giỏi, đồng thời cũng khuyến khích các cháu yếu, nhút nhát tham gia vào các hoạt động nghệ thuật. Để việc tổ chức các ngày hội, ngày lễ có kết quả, tôi cần có kế hoạch luyện tập trước cho trẻ, không nên để sát ngày tổ chức mới bắt trẻ luyện tập liên tục khiến trẻ mệt mỏi, chán nản. Sau một thời gian luyện tập tôi lựa chọn một số cháu có khả năng hơn cho luyện tập thêm để tiến hành biểu diễn cho cả lớp xem. 3. Giải pháp 3: Góc văn học: Mỗi lớp mẫu giáo đều có góc văn học có đủ ánh sáng, có kê bàn, có các loại chuyện tranh, sách tranh cho trẻ và cô cùng làm. ở những thời gian ngoài giờ hoạt động chung, tôi gợi ý để các cháu tự lấy truyện tranh ra kể lại cho nhau nghe. Đối với những chuyện tranh mới, tôi tổ chức kể cho từng nhóm trẻ nghe vào các thời điểm khác nhau. Lúc đầu, tôi để cho trẻ tự tìm hiểu nội dung của các hình ảnh trong chuyện tranh, sau đó tôi dùng câu hỏi gợi ý để hướng sự chú ý của trẻ vào những hình ảnh chủ yếu của bức tranh, rồi đọc đoạn truyện dưới tranh. Ngoài ra tôi có thể kích thích phát triển tư duy cho trẻ bằng cách kể chuyện sáng tạo theo tranh. Góc văn học thực sự sẽ thu hút trẻ, giúp trẻ tiếp xúc với văn học một cách tự giác tôi thường xuyên thay đổi các loại truyện mới, viêt các bài thơ mới phù hợp với chủ đề đang thực hiện, kết hợp với việc cùng trẻ làm sách, tranh theo chủ đề nhằm tạo hứng thú cho trẻ, giúp trẻ học thành công và đạt kêt quả cao. Hình thức này giúp trẻ rất thoải mái khi làm quen với các tác phẩm văn học, trẻ hứng thú với sách, truyện,...kích thích tư duy của trẻ nhằm hình thành những kỹ năng giúp trẻ giao tiếp chính xác, rõ ràng..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> 4. Giải pháp 4: Kể chuyện sáng tạo: Hình thức này rất có tác dụng kích thích tư duy của trẻ đồng thời cũng giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, phát triển năng lực tri giác cụ thể và trí nhớ tức thì. Xuất phát từ một sự việc hiện tượng diễn ra xung quanh trẻ hay một chuyện bất chợt xảy ra, cũng có thể là chuyện bịa cô gợi ý, khuyến khích trẻ kể lại sự việc hay câu chuyện đó theo cách trình bày của một tác phẩm văn học hay sử dụng cách nói vần, phát âm chữ cái, những câu nói ngắn để tạo thành bài thơ ngắn, chuyện ngắn. + Ví dụ: Cô đặt các câu hỏi cho trẻ trả lời về tiến trình của buổi đi chơi, những cảm nhận của trẻ khi nhìn thấy các đồ chơi trong công viên, cho trẻ tả đặc điểm nổi bật của các đồ chơi mà trẻ thích. Sau đó cô giúp trẻ liên kết các diễn biến đó để kể thành một câu chuyện, cho trẻ đặt tên câu chuyện của mình, cô viết tên câu chuyện sáng tạo mà trẻ vừa kể cho trẻ xem và hỏi trẻ những gì nào con biết con kể lại cho cô và các bạn nghe nào. 5. Giải pháp 5: Tuyên truyền với phụ huynh: Hình thức này tôi đã thực hiện bằng cách in những tờ rơi các bài thơ, câu chuyện, từng nhóm chữ cái vừa học xong để trong góc tuyên truyền, để cha mẹ cùng phối hợp với các cô giúp trẻ ôn luyện khi ở nhà. Những bài thơ, câu chuyện này được thay đổi theo chủ đề và được in thành nhiều bản để nhiều phụ huynh được biết. Và để hình thức này có hiệu quả, tôi đã giới thiệu cho họ trong buổi họp phụ huynh đầu năm. Sau quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi thấy trẻ lớp tôi rất thích nghe kể truyện, đọc thơ, biết đọc thơ diễn cảm, thuộc nhiều truyện và kể rất hay. Để thấy rõ kết quả này tôi đã khảo sát trẻ theo từng chủ đề, từng giai đoạn để bồi dưỡng những trẻ yếu học tốt hơn, đạt kết quả cao hơn. V. KẾT QUẢ VÀ SỨC LAN TỎA CỦA SÁNG KIẾN: Với những giải pháp trên tôi đã tạo được mối quan hệ thân thiết gần gũi với phụ huynh để giúp trẻ tiếp thu nhanh hơn và tạo môi trường thân thiện giúp trẻ học tốt hơn từ đó tôi đã áp dụng vào thực tế của lớp mình nên kết quả trẻ đạt cao * Với trẻ: - 100% trẻ mạnh dạng tham gia vào hoạt động đọc thơ, đóng kịch, kể chuyện. - 100% trẻ đọc thuộc thơ, biết được nội dung chuyện - 95% vốn từ của trẻ phát triển rõ rệt. Trẻ nói rõ ràng mạch lạc hơn, nói nhiều câu có nghĩa đầy đủ. - 80% trẻ biết kể chuyện sáng tạo, phát huy khả năng và tưởng tượng tốt. - 80% trẻ kể chuyện theo trí nhớ tốt. - 90% trẻ đóng kịch thực hiện tốt vai diễn. * Kết quả giáo viên: - Tham gia đầy đủ các Hội thi do trường tổ chức - Giải Ba Hội thi giáo viên giỏi trường ( môn toán) VI. KẾT LUẬN: Sau khi nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi thấy việc lựa chọn giúp trẻ học tốt hoạt động làm quen với văn học là rất quan trọng. Nó quyết định đến sự thành công của tôi khi tổ chức hoạt động cho trẻ, đồng thời tôi cũng rút ra được một số kinh nghiệm để tổ chức tốt cho trẻ hoạt động với văn học và chữ viết như sau: 1. Nắm vững nội dung, yêu cầu bài dạy, hình thức hoạt động trong các loại tiết.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> 2. Nắm vững các kỹ năng kiến thức của trẻ để có thể rèn thêm cho trẻ, để tìm các biện pháp phù hợp với tâm sinh lý trẻ. 3. Làm đồ dùng, đồ chơi bằng nhiều hình thức, đủ loại hình, tận dụng nguyên vật liệu tìm kiếm sẵn có ở địa phương để thu hút trẻ và tạo ra số lượng để trẻ học. 4- Phải khiêm tốn học hỏi chị em đồng nghiệp trong trường, trong ngành luôn lắng nghe ý kiếnđóng góp của đông nghiệp. sự chỉ đạo chuyên môn của BGH 5. Làm tốt công tác tuyên truyền và kết hợp với phụ huynh 6. Xây dựng môi trường thân thiện với trẻ, với phụ huynh 7. Khi làm việc phải có kế hoạch, thời gian, không nôn nóng, phải dứt điểm 8. Phải gần gủi tôn trọng ý kiến của trẻ, lấy trẻ làm trung tâm để đáp ứng nhu cầu và phù hợp khả năng cá nhân của trẻ. Trên đây là sáng kiến cải tiến kỷ thuật mà tôi đã rút ra được trong việc thực hiện " Một số hình thức giúp trẻ phát triển ngôn ngữ "làm quen với văn học", lứa tuổi 5- 6 tuổi ở lớp A trường mầm non Xuân Dương”. Trên cơ sở này, tôi rất mong sự góp ý của đồng nghiệp, Ban giám hiệu và lãnh đạo cấp trên giúp tôi mang lại những kết quả cao hơn trong quá trình thực hiện đề tài này. Hội đồng xét sáng kiến của đơn vị Xác nhận :. Người viết sáng kiến Trương Thị Hà. Xếp loại: Hội đồng xét sáng kiến của Ngành Xác nhận:. Xếp loại:.

<span class='text_page_counter'>(8)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×