Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Do dung day hoc tu lam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.07 MB, 20 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I/ ĐẶT VẤN ĐỀ: Xuất phát từ thực tế giảng dạy bộ môn toán trong những năm qua tại trường THCS. Bản thân luôn tìm tòi, học hỏi những kinh nghiệm từ đồng nghiệp về phương pháp giảng dạy phân môn hình học. Đặc biệt là những dạng toán quỹ tích đơn giản. Nhưng đó là vấn đề khá trừu tượng đối với HS bậc THCS. Nếu các em được quan sát các mô hình cụ thể thì chắc chắn rằng việc tiếp cận các kiến thức của các em cùng với sự hướng dẫn của GV sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.Bên cạnh đó, khi HS tiếp cận với các dạng hình hình học thì việc giới thiệu các mô hình liên quan đó sẽ kích thích sự chú ý, tò mò trong các em. Hơn thế nữa, với sự sáng tạo của người GV dạy môn toán thì việc tạo ra các mô hình đó một cách đơn giản từ các vật dụng sẵn có và dễ tìm quả là rất thú vị. Qua một thời gian thực hiện tại đơn vị trường sở tại và một số đơn vị trường trong huyện bản thân nhận thấy đã mang lại hiệu quả nhất định. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “Một vài kinh nghiệm làm đồ dùng dạy học môn toán bậc THCS” để trao đổi và học hỏi kinh nghiệm cùng các đồng chí đồng nghiệp. Trong nội dung của đề tài sẽ đề cập tới tính hiệu quả của việc sáng tạo và sử dụng các mô hình hình học vào dạy học tại đơn vị, đề xuất các giải pháp khắc phục. Đề xuất và trình diễn 4 mô hình hình học được tác giả đã sáng tạo và áp dụng có hiệu quả vào dạy học. Các mô hình hình học này được tác giả mô tả cụ thể từ cách làm, trình diễn và vận dụng vào các bài dạy cụ thể. Đồng thời các bài học kinh nghiệm được tác giả trình bày lô gíc, rõ ràng để các đồng nghiệp góp ý, lựa chọn và có thể tự làm được các mô hình hình học để phục vụ cho công tác giảng dạy. II/ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI: 1/ Cơ sở lý luận: Thứ nhất: Như chúng ta đã biết, con đường nhận thức của nhân loại là: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Vậy thì trong quá trình hướng dẫn và tổ chức cho HS các hoạt động tiếp cận, lĩnh hội và vận dụng kiến thức của toán học. Thì sự kết hợp hài hoà giữa kênh chữ và kênh hình (trong đó có mô hình hình học) chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao hơn đối với bài học, tiết học và môn học được vận dụng đó. Thứ hai: Hơn nữa, một số hình hình học phẳng trong chương trình THCS được tạo thành từ các đoạn thẳng nối kín với nhau. Việc thay đổi vị trí các đỉnh và độ dài.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> các cạnh sẽ tạo ra được các hình hình học khác nhau. Điều này GV hoàn toàn thực hiện được nhờ sự bố trí hợp lý các yếu tố tạo nên hình hình học đó. Thứ ba: Việc sử dụng hợp lý các mô hình hình học phẳng để giảng dạy bộ môn toán được khuyến khích áp dụng. Từ đó GV có thể tự sáng tạo ra các đồ dùng dạy học phù hợp. Bởi trong bộ đồ dùng và thiết bị dạy học được cấp thì các mô hình này hầu hết chưa có đầy đủ để phục vụ cho giảng dạy bộ môn toán. Thứ tư: Đối với các học sinh bậc THCS nói chung và các em HS bậc THCS ở miền núi nói riêng, thì các em rất cần những mô hình minh hoạ để qua đó có thể dễ dàng tiếp cận các kiến thức của bài học. Với các thao tác hợp lý của GV tạo được sự chú ý và tập trung của HS, từ đó gây nên các hiệu ứng “dây chuyền” trong quá trình tư duy và sáng tạo của các em để tiếp cận, lĩnh hội và vận dụng các kiến thức của bài học. 2/ cơ sở thực tiễn: Việc sáng tạo ra các mô hình hình học phẳng đơn giản thì hoàn toàn thực hiện được từ các vật liệu dễ tìm và có sẵn trong thực tế. Các vấn đề về thay đổi độ dài của các cạnh thì được giải quyết bằng cách dùng các ăng ten ti vi và các dây cao su (vật liệu này rất sẵn), vấn đề thay đổi vị trí các đỉnh được thực hiện bằng việc cho các thanh trượt lên nhau hoặc khoan sẵn các lỗ định vị trên bảng dùng để thể hiện mô hình đó. Việc thực hiện áp dụng trên lớp của GV là hết sức dễ dàng nhờ sự linh hoạt của các tính năng ưu việt và hiệu quả của ăng ten kết hợp với dây cao su. Toàn bộ được trình diễn trên một bảng riêng biệt nên HS dễ dàng quan sát và theo dõi khi GV thể hiện. Chính vì vậy mà mọi GV đều có thể sử dụng hiệu quả các mô hình này. Mặt khác, các bài toán quĩ tích được giới thiệu trong chương trình THCS đối với các em HS là rất trừu tượng. Việc GV định hướng, gợi mở giúp các em phát hiện, suy đoán “quỹ tích” là rất khó thực hiện; Nếu biểu diễn trên hình thì phải xác định một số vị trí( kể cả các vị trí đặc biệt) thì lại mất thời gian, thậm chí đôi khi còn thiếu chính xác. Giải pháp đơn giản thay thế cho các thao tác trên là dùng mô hình để giới thiệu- càng làm tăng tính sinh động, gần gũi nên GV có thể giảm được mức độ trừu tượng và HS tiếp cận nội dung một cách nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG I/ THỰC TRẠNG: Các bậc đàn anh, đàn chị đi trước đã có rất nhiều các mô hình hình học phẳng để giới thiệu và trình diễn trong khi giảng dạy. Tuy nhiên vấn đề quan tâm ở đây là hầu hết đều dùng các vật liệu là gỗ hoặc sắt để thay đổi độ dài các cạnh của hình là hơi khó. Điều này dẫn đến yếu điểm là khó sử dụng và đôi khi lại không chuẩn khi.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> thực hiện. Bên cạnh đó nhiều GV ngại khó nên không thực hiện, dẫn đến các tiết dạy trên lớp trở nên khô cứng và thiếu tính hiệu quả. Trong khi đó, các em HS chỉ được tiếp cận kiến thức qua các hình vẽ minh hoạ của GV. Dẫn đến trong các em hiểu mơ hồ và trừu tượng về các nội dung đó. Nên việc vận dụng kiến thức vào thực tế toán học còn gặp nhiều khó khăn nhất định. Phương pháp giảng dạy của GV truyền thụ kiến thức cho HS ở đây chủ yếu mang tính thông báo một chiều chứ không tổ chức được cho các em tự mình và kết hợp với nhóm bạn cùng rút ra được những điều mới mẻ và lý thú từ bài học. Bên cạnh đó, hiện nay một số tiết học GV đã ứng dụng thành công các phần mềm gây hiệu ứng trên màn chiếu cũng có kết quả nhất định. Tuy nhiên cách làm này được lạm dụng nhiều nhưng vẫn không thể thay thế được các mô hình cụ thể mà bản thân mỗi em HS cũng có thể thực hiện dễ dàng ngay trên lớp học. Qua thực tế điều tra và thống kê của tác giả đã thực hiện cho thấy: Về kỹ năng quan sát, suy đoán và vẽ hình cũng như sự hứng thú học tập của các em HS còn rất thấp. Tính hiệu quả mang lại sau mỗi tiết học, mỗi bài học, mỗi chương chưa thể hiện rõ rệt. Sau đây là bảng tổng hợp thống kê về sự hứng thú và tính hiệu quả của học sinh ở ba khối lớp tại đơn vị công tác đó là: Lớp. Tập trung hứng thú. Chất lượng. học tập. học tập. Sĩ số Tập trung. Ít tập trung. TB trở lên. Dưới TB. SL. TL%. SL. TL%. SL. TL%. SL. TL%. 6. 45. 19. 42,2. 26. 57,8. 21. 46,7. 24. 53,3. 7. 56. 21. 37,5. 35. 62,5. 22. 39,3. 34. 60,7. 8. 50. 18. 36,0. 32. 64,0. 19. 38,0. 31. 62,0. Tổng. 151. 58. 38,4. 93. 61,6. 62. 41,1. 89. 58,9. II/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: Để giải quyết vấn đề thay đổi độ dài các cạnh. Bản thân đã liên hệ, sử dụng các đoạn dây cao su và cần ăng ten của ti vi- tưởng chừng đơn giản nhưng rất hiệu quả trong khi sử dụng. Không chỉ cho phép ta thay đổi độ dài các cạnh mà còn có thể thay đổi vị trí các đỉnh “di động”- Bộ phận không thể thiếu của các bài toán quỹ tích. Sau đây là một số ví dụ minh hoạ cho tính năng hiệu quả này:.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> 1/ Ví dụ thứ nhất: Mô hình về đường trung trực của một đoạn thẳng Dựa vào tính chất đường trung trực của đoạn thẳng : “Những điểm nằm trên đường trung trực thì luôn cách đều hai điểm mút của đoạn thẳng đó” . Cho nên nếu chúng ta cho dịch chuyển điểm “cách đều” hai điểm mút của đoạn thẳng cho trước sao cho luôn đảm bảo được tính “cách đều” thì nó sẽ vạch nên “quỹ tích” cần mô tả. Sau đây ta có thể sáng tạo và ứng dụng mô hình một cách đơn giản: * Cách thực hiện: + Dụng cụ: 1 tấm bảng gỗ hình chữ nhật kích thước: 50cmx80cm có đế để dựng được trên bàn, có khung viền nổi 2 cm xung quanh để khoan cách lỗ định vị và được sơn màu xanh ( hoặc đen) để sử dụng như bảng chính. 4 đoạn sắt nhỏ (dây thép phơi duỗi thẳng, 2 cái sơn cùng màu với bảng và hai cái sơn khác màu với bảng đồ dùng) dài 90cm; 3 cái ăng ten ti vi: AB, MA, MB giống nhau và một số ốc vít nhỏ ( một số có lỗ để có thể xâu qua thanh sắt nhỏ) Một số dây cao su có khả năng đàn hồi tốt (có màu khác với bảng đồ dùng ) Sau đây là hình ảnh minh hoạ:.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> + Mô tả bằng hình vẽ: C d. M. A. B. D. + Cách làm: - Khoan định vị hai lỗ A và B trên bảng( định vị đoạn thẳng AB sao cho AB luôn lớn hơn tổng dộ dài ăng ten MA và MB ban đầu khi chưa tút ra). Nhằm mục đích để chốt M có thể di chuyển tự do trên thanh đường thẳng d - Khoan các lỗ C; D tên khung viền đủ nhỏ để xâu thanh sắt qua( Định vị đường trung trực d) - Đập bẹp đầu trên của 3 ăng ten và khoan lổ để vít ốc ghép nối 3 ăng ten MA, MB, AB lại với nhau và gắn kết trên bảng. Riêng thanh ăng ten MA và MB ốc vít M có lỗ để trượt trên thanh sắt d ( thanh sắt d được sơn cùng màu với bảng đồ dùngnhằm mục đích ẩn đường trung trực). Nối dây cao su giữa điểm C và điểm di động M- để mô tả các vị trí di động của M ( Thể hiện đường trung trực cần giới thiệu).

<span class='text_page_counter'>(6)</span> + Thao tác trình diễn: Đặt mô hình lên bàn GV và cho di chuyển ốc vít M trên thanh d ta được các vị trí của điểm cách đều A và B.Mỗi vị trí GV dùng phấn màu vạch theo ăng ten AB, AC và dây cao su thể hiện đường trung trực ( Hình vẽ trên). * Áp dụng vào dạy học: Dạy bài:” Đường trung trực của đoạn thẳng” - Hình học 6. Để hướng dẫn HS tìm hiểu về đường trung trực của đoạn thẳng AB. Đối với bài toán thuận: “Những điểm cách đều hai điểm mút của đoạn thẳng AB thì nằm trên đường trung trực d của đoạn thẳng AB”. GV giới thiệu cho HS yếu tố không đổi là khoảng cách MA = MB ( hai ăng ten MA,MB được định vị trước là bằng nhau). GV cho dịch chuyển điểm M trên thanh CD, khi đó dây cao su sẽ dài ( ngắn) ra - thể hiện đường trung trực d của đoạn thẳng AB. Sau khi GV trình diễn và giới thiệu thì có thể yêu cầu một số HS lên cùng tham gia thể hiện. Chính điều này càng kích thích sự chú ý và hứng thú ở các em Áp dụng vào mô tả và hướng dẫn HS tìm hiểu phần đảo của bài toán: “Những điểm nằm trên đường trung trực d của đoạn thẳng AB thì luôn cách đều hai điểm mút của đoạn thẳng AB”. Thì GV chỉ cần thay đổi cách bố trí mô hình như sau: Thay thanh CD bằng thanh sắt khác màu- để thể hiện đường trung trực, gỡ dây cao su ra. Cho điểm M dịch chuyển trên đường trung trực d, cho HS quan sát nhận xét về khoảng cách từ M đến A, B ứng với mỗi vị trí của điểm M. ( mô hình ở dưới). Với mỗi vị trí của điểm M trên mô hình thì GV cho HS lên thể hiện và định vị bằng phấn màu rồi sau đó cho các em đo và kiểm tra lại kết quả về khoảng cách từ điểm M đến hai điểm mút A và B. Từ đó, các em tự rút ra được nhận xét về những điểm thuộc đường trung trực d của đoạn thẳng AB ( Hình minh hoạ sau)..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> C d. M. A. B. D Nhận xét 1: Qua việc áp dụng mô hình trên vào dạy bài: “Đường trung trực của đoạn thẳng” thấy rằng: Việc trình diễn của GV trên lớp được thực hiện dễ dàng, HS quan sát với mức độ tập trung và chú ý cao. Kết hợp để các em cùng được tham gia thể hiện và xây dựng bài càng làm tăng tinh thần hợp tác, thân thiện giữa Thầy và Trò, giữa Trò và Trò. Cùng với sự tổ chức hợp lý các hoạt động nên hiệu quả của tiết học đạt được cao hơn. Qua tiết học thì các em có thể hiểu, ghi nhớ và vận dụng các kiến thức một cách tốt hơn. Ngoài việc sử dụng mô hình này để dạy bài học trên. GV có thể sử dụng để dạy các bài học khác: + Dùng mô hình để giới thiệu các loại góc: Tù, Nhọn, Vuông. Bẹt ở HH6 Bằng cách bố trí lại như sau: Lấy ăng ten AB ra. Cho điểm M dịch chuyển ứng với các vị trí mà góc cần giới thiệu. + Dùng mô hình để giới thiệu tính chất đường trung trực của tam giác/ HH7..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> + Dùng mô hình để giới thiệu tia phân giác của một góc/HH6 và tính chất đường phân giác của tam giác/ HH7…. 2/ Ví dụ thứ hai:Mô hình quĩ tích những điểm cách đều một đường thẳng cho trước một khoảng cho trước: Như chúng ta đã biết: “Tập hợp các điểm H cách đường thẳng AB cho trước một khoảng h cho trước là hai đường thẳng song song CD và EF và cách đường thẳng AB cho trước đó một khoảng bằng h”. Trên cơ sở đó, ta cho đoạn thẳng MH trượt vuông góc ( có đầu mút M) trên đường thẳng cố định AB, thì khi đó đầu mút H sẽ vạch lên đường thẳng CD song song cách đường thẳng AB một khoảng MH = h. Nếu ta quay đoạn thẳng HM xuống phía dưới và tiếp tục thực hiện các thao tác như trên thì ta được đường thẳng EF song song và cách đường thẳng AB một khoảng bằng h. Xuất phát từ ý tưởng trên, Tôi đã sáng tạo ra mô hình biểu diễn cho tính chất đó một cách đơn giản như sau: +Cách làm: Từ mô hình thứ nhất (đã nêu ở trên), GV chỉ cần khoan thêm các lỗ trên khung viền của bảng tại các vị trí A; B; C; D; E; F. Dùng dây cao su CD và EF(để mô tả quĩ tích cần thể hiện). Dùng đoạn nhôm MH thẳng: 1x 25cm( MH có độ dài bằng điểm cự của ăng ten sử dụng trong mô hình- để có thể sử dụng cho mô hình 3) có lỗ để xâu được qua thanh AB ( sao cho đầu M trượt dễ dàng trên thanh AB) để mô tả khoảng cách từ điểm H đến đường thẳng AB tại mọi vị trí của điểm H thì MH = h là không đổi CD , khi đó đoạn MH = h không đổi. Đồng thời dây cao su được kéo dãn - đó chính là hình ảnh liên tục của các điểm H – Đó chính là hình biểu diễn quỹ tích cần thể hiện. Tương tự ta quay đoạn MH xuống phía dưới và dịch chuyển tương tự như trên ta được hình quý tích cần thể hiện thứ hai. Từ đó HS quan sát và nhận xét dễ dàng hơn ( Hình biểu diễn ở phía dưới)..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> H. H. C. D h. h. M. M M. M. A. B h. E. H. h. H. F. * Áp dụng vào dạy học: Ta có thể sử dụng mô hình này để giới thiệu cho HS quan sát trong mục: “Tập hợp những điểm cách đều một đường thẳng cho trước với một khoảng cách cho trước”. Khi dạy bài hình chữ nhật/ Hình học 8. GV trình bày các thao tác trình diễn như nêu ở trên để giới thiệu bài toán thuận: Những điểm cách đều đường thẳng AB cho trước với một khoảng cách h cho trước là hai đường thẳng CD và EF song song cách đều đường thẳng AB một khoảng h cho trước đó. GV cho một số HS lên cùng tham gia trình diễn và rút ra nhận xét về các điểm H trên mô hình. Qua đó GV hướng dẫn HS tìm hiểu mối qua hệ và rút ra kết luận cuối cùng. Đối với bài toán ngược: Những điểm nằm trên các đường thẳng CD và EF thì cách đều đường thẳng AB một khoảng MH = h. GV bố trí lại mô hình như sau: dùng hai thanh sắt CD và EF biểu diễn quý tích, trượt thanh MH trên thanh AB. Mỗi vị trí của H thì GV cho HS lên bảng thể hiện dùng phấn màu định vị lại các vị trí và nhận xét về độ dài của các đoạn thẳng đó. Từ đó cá em tự rút ra được nhận xét về tính chất của các điểm H trên hai đường thẳng CD và EF đối với đường thẳng AB..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Nhận xét 2: Trong quá trình sử dụng mô hình vào dạy học phần kiến thức trên, Tôi nhận thấy rằng việc trình diễn trên lớp của cả Thầy và Trò được tiến hành dễ dàng, đảm bảo tính sư phạm. HS hầu hết là tập trung và hứng thú tham gia vào tiết học. Sự trừu tượng của một bài toán quĩ tích được khắc phục đáng kể, không khí của tiết học trở nên thân thiện. Hơn thế nữa, các em dễ dàng tiếp thu kiến thức và vận dụng trên lớp là có hiệu quả hơn. Mức độ ghi nhớ và áp dụng kiến thức tăng lên rõ rệt. Ngoài việc sử dụng mô hình trên để trình diễn như đã nêu để áp dụng cho đối tượng là HS khá giỏi thì có thể thay thế dây cao su đó bằng cách gắn đầu bút dạ vào điểm H, để khi dich chuyển điểm H thì đầu bút sẽ định vị một số điểm H để từ đó các em tự suy đoán được hình dạng quý tích cần thể hiện. Ngoài ra ta có thể vận dụng mô hình để giới thiệu các nội dung kiến thức khác: + Giới thiệu về các đường thẳng song song cách đều ở HH8 + Giới thiệu về cặp góc: so le trong, đồng vị, so le ngoài…. ở HH7. …. 3/ Ví dụ thứ ba: Mô hình về các tam giác có chung cạnh đáy và độ dài đường cao ứng với cạnh đáy không đổi thì diện tích bằng nhau: Với tam giác ABC có cạnh đáy BC cố định và đường cao AH ứng với cạnh BC không đổi ( AH = h). Khi dịch chuyển đỉnh A của tam giác sao cho AH luôn bằng h thì diện tích của các tam giác ABC ( khi A di động) là bằng nhau. Trên cơ sở đó, Tôi đã tiến hành sáng tạo ra mô hình để thể hiện như sau:.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> + Cách trình bày: Từ mô hình trên, Ta có thể bố trí như sau dể được mô hình các loại tam giác:Dùng thanh ăng ten BC vít cố định làm một cạnh của tam giác.Dùng hai thanh ăng ten AB và AC nối với thanh BC sao cho đỉnh A trượt được trên thanh sắt DE(được sơn cùng màu với bảng đồ dùng) -Dùng để thay đổi vị trí của điểm A và độ dài các cạnh AB, AC để được các tam giác khác nhau. Dùng dây cao su nối khác màu) nối E với A- Để biểu diễn quý tích của điểm A. Dùng thanh nhôm AH vít 1 đầu vào đỉnh A của tam giác sao cho đầu H trượt trên đường BC + Cách sử dụng: GV dựng mô hình ở bàn GV, từ từ dịch chuyển các vị trí của đỉnh A để được các tam giác, khi đỉnh A di chuyển thì dây cao su sẽ biểu diễn quý tích của điểm A, đoạn AH = h là đường cao không đổi. E. A. A. A. F. h h. h. B. H. C. *Áp dụng vào dạy học: Khi sử dụng mô hình vào giới thiệu và mô tả bài toán thuận: “Tập hợp các đỉnh A của tam giác ABC có cạnh đáy BC và đường cao AH ứng với BC không đổi sao cho diện tích tam giác ABC không đổi” GV sử dụng mô hình như đã giới thiệu và trình bày ở trên. Trong khi tiến hành mạnh dạn cho các em cùng tham gia, từ đó yêu cầu các em nhận xét và chứng minh cho kết luận đó. Qua đó định hướng cho các em giải hoàn thiện bài toán trên với đầy đủ hai nghiệm hình..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Nhận xét 3: Ngoài việc sử dụng mô hình để trình diễn trong bài học trên. Ta có thể thay đổi cách trình bày thì có thể sử dụng giới thiệu cho một số bài học khác như: ôn tập về “tam giác” ở hình học 6. 4/ Ví dụ thứ tư: Mô hình về một số hình hình học: Các hình hình học được giới thiệu trong chương I hình học 8 có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhờ vào việc thay đổi vị trí các đỉnh và độ dài các cạnh sẽ được các hình từ đơn giản đến phức tạp. Hơn thế nữa ta còn có thể nhận biết các hình đó nhờ vào tính chất hai đường chéo của chúng. Từ các cơ sở trên vận dụng các tính năng ưu việt của ăng ten và dây cao su để thay đổi độ dài các cạnh của hình và vị trí các đỉnh. Đồng thời bằng cách tính toán trước các vị trí đỉnh của hình trước thì ta có thể bố trí mô hình các hình tứ giác đơn giản như sau:. +Cách làm: Dùng 4 ăng ten AB, BC, CD, DA giống hệt nhau, các chốt A, B, C, D để nối các ăng ten lại với nhau và hai dây cao su co dãn tốt..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Chỉ cần dùng một chốt A cố định, còn các chốt B, C, D có thể thay đổi vị trí trên bảng nhờ việc khoan định vị các lỗ trên bảng đồ dùng – Bước này GV tính toán kỹ để được các hình theo ý muốn. Các đường chéo thì GV dùng các dây cao su có màu sắc khác nhau để biểu diễn đường chéo các hình . Vì sự thay đổi tính chất của hai đường chéo thì sẽ được các hình khác nhau. Ta bố trí như hình vẽ: A. B O. D. C. * Áp dụng vào bài dạy: Ngoài tính năng sử dụng cho cá bài riêng biệt, dùng mô hình ta có thể phục vụ có hiệu quả cho bài ôn tập chương I hình học 8. Để thực hiện tốt ta có thể bố trí các hình đơn giản như sau: - Xuất phát từ hình thang, bố trí như hình vẽ:. A. B. O. D C.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Với yếu tố nhận biết là hai cạnh đáy AB, CD song song với nhau. GV cho HS quan sát và so sánh về: hai cạnh bên, hai đường chéo và hai góc ở một đáy của hình thang ABCD. Ta có thể chuyển thành hình thang cân bằng cách dịch chuyển vị trí đỉnh C về vị trí đã định vị(khoan lỗ sẵn ở bảng) Sau đó cho HS quan sát các cạnh bên – so sánh độ dài giữa chúng. Đồng thời quan sát tính chất của hai đường chéo: AC và BD và hai góc ở 1 đáy của hình thang mới được tạo thành A. B. O. D. C. Từ việc cho HS quan sát về hai cạnh bên của hình thang cân, GV chuyển đổi vị trí đỉnh C sao cho ABCD trở thành một hình bình hành. Khi đó hai cạnh bên AD và BC song song với nhau. Yêu cầu HS nêu các tính chất của hình bình hành:. A. B. O. D. C.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Từ việc gây sự tập trung chú ý của HS vào ôn tập các kiến thức về hình bình hành. GV dịch chuyển các đỉnh B, C, D sao cho ABCD trở thành một hình chữ nhật. Yêu cầu HS nhận xét về các góc, các cạnh, hai đường chéo của hình mới đó: B. A. O. D. C. Qua mô hình đang giới thiệu, GV yêu cầu HS nhắc lại các tính chất, dấu hiệu nhận biết hình chữ nhật. Chú ý so sánh tính chất về hai đường chéo của hình chữ nhật và hình bình hành. Để bất ngờ, GV bố trí sao cho hai đường chéo AC và BD vừa bằng nhau, vừa vuông góc với nhau tại trung điểm mỗi đường- Từ đó ta được hình vuông:. A. B O. D. C.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Tiếp tục như thế, cho các em nhắc lại các tính chất của hình vuông . đồng thời tay đổi hai đỉnh B và D sao cho hai đường chéo AC và BD vuông góc với nhau tai trung điểm mỗi đường nhưng không bằng nhau. Từ đó để các em phát hiện ra hình thoi với các tính chất và dầu hiệu nhận biết về hình thoi. Trong khi áp dụng trên lớp tôi mạnh dạn cho học sinh cùng tham gia trình diễn theo các yêu cầu của GV. Chính vì vậy, có thể sử dụng mô hình như một trò chơi trí tuệ. Mà đối tượng ở đây đều được tham gia, thậm chí còn tham gia tích cực. làm cho không khí của lớp học sôi nổi, hiệu quả hơn. Nhật xét 4: Thông qua việc sử dụng mô hình để dạy bài ôn tập chương 1 hình học 8. tôi nhận thấy việc biến hình một cách tài tình nhờ tính năng đặc biệt của ăng ten và dây cao su đã xâu chỗi được mạch các kiến thức cơ bản giữa các hình hình học lại với nhau. Qua đó một lần nữa củng cố và khắc sâu các dấu hiệu nhận biết của mỗi hình, nhất là nhận biết hình này qua hình khác nhờ một số tính chất đặc biệt. Ngoài ra, với mỗi bài riêng lẻ khi dạy GV vẫn áp dụng có hiệu quả mô hình trên để phục vụ cho bài học. III/ BẢNG SO SÁNH KẾT QUẢ TRƯỚC VÀ SAU KHI ÁP DỤNG SKKN VÀO DẠY HỌC: 1/ Về mức độ hứng thụ tập trung của học sinh: - Trước khi áp dụng là kết quả khảo sát của GV trong năm học 2008-2009 khi chưa dùng mô hình trình diễn. - Sau khi áp dụng là kết quả khảo sát của GV trong năm học 2009-2010 khi sử dụng mô hình trình diễn và phát phiếu điều tra thăm dò trong các lớp đã áp dụng: Trước khi áp dụng Lớp. Sĩ số. Sau khi áp dụng. Tập trung. Ít tập trung. Tập trung. Ít tập trung. SL. TL%. SL. TL%. SL. TL%. SL. TL%. 6. 45. 19. 42,2. 26. 57,8. 27. 60,0. 18. 40,0. 7. 56. 21. 37,5. 35. 62,5. 36. 64,3. 20. 35,7. 8. 50. 18. 36,0. 32. 64,0. 35. 70,0. 15. 30,0. Tổng. 151. 58. 38,4. 93. 61,6. 98. 64,9. 53. 35,1.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> 2/ Về mức độ hiệu quả : Qua khảo sát mỗi khối 1 bài kiểm tra cuối chương có vận dụng đề tài cho kết quả như sau: - Phần trước khi áp dụng là kết quả của năm học 2008-2009. - Phần sau khi áp dụng là kết quả của năm học 2009-2010 Trước khi áp dụng Lớp. Sĩ số. TB trở lên. Dưới TB. Sau khi áp dụng TB trở lên. Dưới TB. SL. TL%. SL. TL%. SL. TL%. SL. TL%. 6. 45. 21. 46,7. 24. 53,3. 30. 66,7. 15. 33,3. 7. 56. 22. 39,3. 34. 60,7. 36. 64,3. 20. 35,7. 8. 50. 19. 38,0. 31. 62,0. 35. 70,0. 15. 30,0. Tổng. 151. 62. 41,1. 89. 58,9. 101. 66,9. 50. 33,1. PHẦN III: KẾT LUẬN Từ việc thể hện các bước của đề tài trong năm học vừa qua. Kết hợp khảo sát thực tế từ các lớp đã triển khai của đề tài. Bản thân rút ra được một số bài học kinh nghiệm đó là: Thứ nhất: Việc sáng tạo và sử dụng các mô hình trên là hết sức đơn giản và dễ làm từ những vật liệu có sẵn. Nhưng đòi hỏi mỗi một GV giảng dạy bộ môn toán phải chịu khó học hỏi, tìm tòi và vận dụng thường xuyên. Để từ đó luôn có ý thức và tính sáng tạo trong việc làm và sử dụng hiệu quả các mô hình hình học. Thứ hai: Qua thực tế nghiên cứu và sáng chế ra các mô hình, bản thân luôn trăn trở về vấn đề : “Làm thế nào để thay đổi độ dài các cạnh và vị trí các đỉnh”. Thì vấn đề đó có lời giải là: dùng các “râu” Ăng ten, các dây cao su, các ốc vít có lỗ và các lỗ khoan định vị trước trên bảng của mô hình. Nhìn tưởng chừng rất đơn giản nhưng hết sức hiệu quả khi trình diễn theo yêu cầu của mỗi bài toán. Thứ ba: Qua việc trình diễn các mô hình một cách phù hợp với yêu cầu mỗi bài dạy sẽ gây nên hứng thú và sự tập trung cao độ của học sinh tham gia vào tiết học. Hơn thế nữa, dùng các mô hình trên rất phù hợp với phương pháp dạy học tích cực theo yêu cầu đổi mới. Đặc biệt là các em được tin tưởng giao nhiệm vụ trình diễn lại các thao tác trên mô hình để kiểm chứng. Từ đó làm tăng tính thuyết phục và giảm.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> dần tính trừu tượng của một số kiến thức hay một số bài toán quĩ tích hình học ở chương trình SGK hiện hành. Thứ tư: Tính khả thi của đề tài là rất cao xét về cả hai phương diện: Làm và sử dụng thường xuyên trên lớp với các tiết thích hợp. Việc làm các mô hình thì ai cũng có thể làm được và có thể làm tốt hơn tác giả nhờ việc trình bày tỉ mỉ các bước ở phần trên. Còn sử dụng thì mỗi GV phải có sự chuẩn bị và bố trí trước các mô hình, vì từ một mô hình thì ta có thể chuyển thành được nhiều mô hình khác nhau phù hợp với bài dạy. Điều này đã làm tăng tính năng sử dụng của mô hình – Không phải bao giờ cũng làm được. Thứ năm: Giá thành của các mô hình là rất thấp, GV có thể tận dụng những vật liêu, phế liệu dễ tìm và rẻ tiền mà lại dùng để phục vụ được cho nhiều tiết dạy trên lớp. Đây là một ưu điểm, một thế mạnh của tác giả. Khi mà chúng ta chịu khó tìm tòi, liên hệ giữa thực tế và toán học chắc chắn sẽ tạo ra được nhiều các ý tưởng khả thi để vừa tăng tính thuyết phục và từng bước nâng cao chất lượng các tiết học trên lớp. Chính điều này càng làm cho học sinh yêu thích bộ môn. Cho nên bản thân mỗi GV cần phải tiếp tục tìm tòi và sáng tạo nhiều hơn. Góp phần thúc đẩy và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Từ đó đáp ứng được mục tiêu của giáo dục hiện nay. Thứ sáu: Trong quá trình sử dụng mô hình giáo viên mạnh dạn cho học sinh cùng tham gia trình diễn. Tạo được sự thân thiện giữa Thầy và Trò, qua đó càng làm cho HS được sự tin tưởng, tích cực tham gia vào các hoạt động học trên lớp. Đây chính là một trong các khâu quyết định tính hiệu quả của tiết dạy. Cuối cùng: Việc thực hiện công tác làm và sử dụng hiệu quả các ĐDDH là việc làm thường xuyên. các cấp quản lý cần phải hết sức quan tâm, tránh tình trạng làm chỉ đối phó, qua chuyện dẫn đến phản tác dụng. Cần phải khuyến khích và nhân rộng những cách làm hay, các đồ dùng có chất lượng và tổ chức các hội thi, giao lưu học hỏi kinh nghiệm để từng bước nâng cao chất lượng các hoạt động làm ĐDDH ở các đơn vị trường học. Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân đã thực hiện trong thời gian vừa qua tại đơn vị trường THCS. Với tinh thần trao đổi và học hỏi kinh nghiệm từ các động nghiệp. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của quí đồng nghiệp để bản thân ngày một hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Con Cuông, ngày 15 tháng 4 năm 2010 Chủ đề tài. Trần Viết Nam.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN CON CUÔNG. Trường THCS Cam Lâm. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:. “MỘT VÀI KINH NGHIỆM LÀM ĐỒ DÙNG DẠY HỌC MÔN TOÁN BẬC THCS”. Bộ môn: Toán. Tác giả: Trần Viết Nam Tổ KH Tự nhiên Năm học thực hiện : 2009-2010 Điện thoại : 01692 677 383. PHỤ LỤC.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Sáng kiến kinh nghiệm: ”Một vài kinh nghiệm làm đồ đùng dạy học môn toán bậc THCS” I/ TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1/ Sách giáo khoa toán lớp 6,7,8,9. 2/ Sách giáo viên toán lớp 6,7,8,9. 3/ Tài liệu phục vụ cho đổi mới phương pháp dạy học môn toán theo chương trình sách giáo khoa hiện hành. 4/ Một số mô hình dạy học cũ của cá GV có kinh nghiệm đã làm. II/ MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI: 1/ Giáo viên – GV. 2/ Học sinh - HS. 3/ Đồ dùng dạy học – ĐDDH 4/ Hình học 6 – HH6 5/ Hình học 7 – HH7 6/ Hình học 8 – HH8.

<span class='text_page_counter'>(21)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×