Luận văn
Đề tài“Bàn về cách tính khấu hao và phương
pháp kế toán khấu hao TSCĐ theo chế độ
hiện hành trong các doanh nghiệp ở Việt
Nam hiện nay”
1
Lời mở đầu
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, môi trường
cạnh tranh ở nước ta hiện nay ngày càng trở nên gay gắt. Mặt khác hoà chung vào
sự phát triển của nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang thực hiện chính sách mở cửa,
giao lưu hợp tác kinh tế với các nước, do đó tính cạnh tranh càng trở nên khốc liệt
hơn và vượt ra khỏi phạm vi quốc gia. Để đứng vững và giành ưu thế đòi hỏi các
doanh nghiệp trong nước phải không ngừng đầu tư, đổi mới và cải tiến công nghệ.
Vì đó là yếu tố quan trọng quyết định đến giá thành và chất lượng sản phẩm và ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được. Nhưng trong hoạt động
đầu tư doanh nghiệp không chỉ đối mặt với vấn đề làm thế nào để huy động được
vốn đầu tư mà quan trọng hơn là sự hao mòn của tài sản cố định (TSCĐ). Bởi trong
quá trình đầu tư và sử dụng, dưới tác động của môi trường tự nhiên và điều kiện
làm việc cũng như tiến bộ kỹ thuật tài sản cố định bị giảm dần về mặt giá trị và giá
trị sử dụng. Với vai trò cung cấp thông tin cho nhà quản lý trong việc ra quyết định
kinh doanh nói chung và quyết định đầu tư TSCĐ nói riêng, công tác kế toán trở
nên quan trọng hơn bao giờ hết, đặc biệt là kế toán TSCĐ và kế toán khấu hao
TSCĐ.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, hệ thống chế độ kế toán của Việt Nam
đã có những chuyển biến rất căn bản để công tác kế toán vận hành có hiệu quả hơn,
đảm bảo tính thống nhất chế độ kế toán trong các lĩnh vực, các thành phần kinh tế
tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách với thông lệ kế toán quốc tế. Tuy nhiên, trước
sự biến đổi to lớn trong hoạt động kinh tế, các qui định đã bộc lộ rõ những hạn chế
nhất định. Tiêu biểu nhất là những qui định về kế toán khấu hao TSCĐ.
Mà do vai trò và vị trí quan trọng của công tác kế toán khấu hao TSCĐ trong
doanh nghiệp nên những bất cập trong kế toán khấu hao TSCĐ cần phải có phương
hướng, giải pháp khắc phục kịp thời. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này nên em đã
chọn đề tài “Bàn về cách tính khấu hao và phương pháp kế toán khấu hao TSCĐ
theo chế độ hiện hành trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay” để làm đề
án môn học.
Bố cục đề án ngoài lời mở đầu và kết luận, gồm 3 phần:
Phần I:Cơ sở lý luận về TSCĐ
Phần II: Khấu hao TSCĐ trong các doanh nghiệp
Phần III: Những bất cập và phương hướng hoàn thiện cách tính khấu hao & phương
pháp kế toán khấu hao TSCĐ theo chế độ hiện hành trong các doanh nghiệp hiện
nay.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy Nghiêm Văn Lợi đã hướng dẫn tận tình để
em có thể hoàn thành đề tài này. Tuy nhiên, dù đã rất cố gắng song do trình độ còn
2
hạn chế nên bài viết này không tránh khỏi sai sót và chưa đầy đủ. Em rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn.
Phần nội dung
Phần 1. Lý luận về tài sản cố định trong doanh nghiệp
I.Khái niệm,đặc điểm và vai trò của TSCĐ trong hoạt động kinh
doanh
TSCĐ là những tư liệu lao động có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài. Do
đó đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức tốt công tác quản lý và sử dụng có hiệu quả
những TSCĐ hiện có.Tuy nhiên việc phân biệt TSCĐ với một số công cụ và dụng
cụ có giá trị lớn là rất quan trọng và cần thiết. Theo Quyết định số 166/BTC/2000,
thì tiêu chuẩn để nhận biết TSCĐ là:
*Thời gian sử dụng hoặc thời gian hữu ích là từ 1 năm trở lên
*Giá trị của TSCĐ không nhỏ hơn 5.000.000 đ
Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, TSCĐ bị hao mòn dần và giá
trị của nó được chuyển dịch từng phần vào chi phí kinh doanh. Khác với đối tượng
lao động, TSCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh và giữ nguyên hình thái vật
chất ban đầu cho đến lúc hư hỏng.
II.Phân loại TSCĐ
Do TSCĐ trong doanh nghiệp có nhiều loại với nhiều hình thái biểu hiện khác
nhau như , tính chất đầu tư, công dụng và tình hình sử dụng khác nhau nên để thuận
lợi cho việc quản lý và hạch toán TSCĐ, cần sắp xếp TSCĐ vào từng nhóm theo
những đặc trưng nhất định như phân theo quyền sở hữu, phân theo nguồn hình
thành, phân theo hình thái biểu hiện, phân theo hình thái biểu hiện kết hợp tính
chất đầu tư ... Mỗi một cách phân loại có tác dụng khác nhau đối với công tác
hạch toán và quản lý. Chẳng hạn, theo hình thái biểu hiện kết hợp tính chất đầu tư,
toàn bộ TSCĐ trong sản xuất được chia thành :
-TSCĐ hữu hình: Là những tài sản có hình thái vật chất do doanh nghiệp nắm
giữ để sản xuất kinh doanh, phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình. Theo
chuẩn mực kế toán Việt Nam(chuẩn mực 03), các tài sản được ghi nhận là TSCĐ
hữu hình phải thoả mãn đồng thời tất cả 4 tiêu chuẩn sau:
3
* Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản
đó
* Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy
* Thời gian sử dụng ước tính trên 1 năm
* Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo qui định hiện hành
-TSCĐ vô hình: là những tài sản cố định không có hình thái vật chất nhưng
xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với
tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (chuẩn mực
04), các tài sản được ghi nhận là TSCĐ vô hình phải thoả mãn đồng thời tất cả 4
tiêu chuẩn giống như TSCĐ hưũ hình ở trên.
-TSCĐ thuê tài chính: là TSCĐ mà doanh nghiệp đi thuê dài hạn và được bên
cho thuê trao quyền quản lý và sử dụng trong hầu hết thời gian tuổi thọ của TSCĐ.
Tiền thu về cho thuê đủ cho người cho thuê trang trải được chi phí của tài sản cộng
với khoản lợi nhuận từ loại đầu tư đó.
Trong từng loại TSCĐ kể trên, lại được chi tiết thành từng nhóm theo kết cấu,
theo đặc điểm, theo tính chất...
III.Xác định giá trị ghi sổ của TSCĐ
Trong mọi trường hợp, TSCĐ phải được đánh giá theo nguyên giá và giá
trị còn lại. Do vậy, việc ghi sổ phải đảm bảo phản ánh được tất cả 3 chỉ tiêu về giá
trị của TSCĐ là nguyên giá, giá trị hao mòn và giá trị còn lại:
Giá trị còn lại =Nguyên giá - Giá trị hao mòn
Cần lưu ý rằng, đối với các cơ sở thuộc đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng
theo phương pháp khấu trừ, trong chỉ tiêu nguyên giá TSCĐ không bao gồm phần
thuế giá trị gia tăng đầu vào. Ngược lại, đối với các cơ sở thuộc đối tượng nộp thuế
giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp hay trường hợp TSCĐ mua sắm dùng để
sản xuất kinh doanh những mặt hàng không thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia
tăng, trong chỉ tiêu nguyên giá TSCĐ lại bao gồm cả thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Tuỳ theo từng loại TSCĐ cụ thể mà nguyên giá TSCĐ sẽ được xác định khác
nhau. Xem xét cụ thể như sau:
1.Xác định nguyên giá TSCĐ hữu hình
Phân loại TSCĐ hữu hình theo cách thức hình thành, nguyên giá TSCĐ được
xác định cụ thể như sau:
* TSCĐ mua sắm ( bao gồm cả mua mới và cũ):nguyên giá TSCĐ mua sắm
gồm giá mua thực tế phải trả trừ (-) các khoản chiết khấu thương mại được hưởng
4
và cộng (+) các khoản thuế ( không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại) cùng
các khoản phí tổn mới trước khi dùng (phí vận chuyển, bốc dỡ, thuế trước bạ, chi
phí sửa chữa, tân trang trước khi dùng…)
* TSCĐ do bộ phận xây dựng cơ bản tự làm bàn giao: nguyên giá là giá
thành thực tế của công trình xây dựng cùng với các khoản chi phí khác có liên quan
và thuế trước bạ nếu có. Khi tính nguyên giá, cần loại trừ các khoản lãi nội bộ, các
khoản chi phí không hợp lý, các chi phí vượt quá mức bình thường trong quá trình
tự xây dựng hoặc tự chế.
* TSCĐ do bên nhận thầu (bên B) bàn giao: nguyên giá là giá phải trả cho
bên B cộng với các khoản phí tổn mới trước khi dùng (chạy thử, thuế trước bạ…)
trừ đi các khoản giảm trừ (nếu có).
* TSCĐ được cấp, được điều chuyển đến:
+ Nếu là đơn vị hạch toán độc lập: nguyên giá bao gồm giá trị còn lại ghi sổ ở
đơn vị cấp (hoặc giá trị đánh giá thực tế của hội đồng giao nhận) cộng với các phí
tổn mới trước khi dùng mà bên nhận phải chi ra (vận chuyển, bốc dỡ …)
+ Nếu điều chuyển giữa các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc: nguyên giá,
giá trị còn lại và số khấu hao luỹ kế được ghi theo sổ của đơn vị cấp. Các phí tổn
mới trước khi dùng được phản ánh trực tiếp vào chi phí kinh doanh mà không tính
vào nguyên giá TSCĐ .
* TSCĐ nhận vốn góp liên doanh, nhận tặng thưởng, viện trợ, nhận lại
vốn góp liên doanh…Nguyên giá tính theo giá trị đánh giá thực tế của hội đồng
giao nhận cùng các phí tổn mới trước khi dùng (nếu có).
2.Nguyên giá TSCĐ thuê dài hạn
Theo chế độ tài chính quy định hiện hành, ở Việt Nam, khi đi thuê dài hạn
TSCĐ, bên thuê căn cứ vào các chứng từ liên quan do bên cho thuê chuyển đến để
xác định nguyên giá TSCĐ đi thuê. Nói cách khác, nguyên giá ghi sổ TSCĐ thuê
dài hạn được căn cứ vào nguyên giá do bên cho thuê chuyển giao.
3.Nguyên giá TSCĐ vô hình
Nguyên giá TSCĐ vô hình là toàn bộ các chi phí thực tế phải bỏ ra để có đựơc
TSCĐ vô hình tính đến thời điểm đưa tài sản đó vào sử dụng theo dự tính. Cụ thể,
theo chuẩn mực số 04 (chuẩn mực kế toán Việt Nam), việc xác định nguyên giá
TSCĐ vô hình trong các trường hợp như sau:
* TSCĐ vô hình mua ngoài: nguyên giá bao gồm giá mua trừ (-) chiết
khấu thương mại hoặc giảm giá, cộng (+) các khoản thuế (không gồm các khoản
thuế được hoàn lại) và các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào sử
5
dụng theo dự tính.Trường hợp quyền sử dụng đất được mua cùng nhà cửa, vật kiến
trúc trên đất thì giá trị quyền sử dụng đất phải được xác định riêng biệt và ghi nhận
là TSCĐ vô hình.
* TSCĐ vô hình được nhà nước cấp hoặc được biếu tặng: nguyên giá
được xác định theo giá trị hợp lý ban đầu cộng (+) các chi phí liên quan trực tiếp
đến việc đưa TSCĐ vào sử dụng theo dự tính.
* TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp:nguyên giá là toàn bộ
chi phí phát sinh trực tiếp hoặc được phân bổ theo tiêu thức hợp lý và nhất quán từ
khâu thiết kế, xây dựng, sản xuất thử nghiệm đến chuẩn bị đưa tài sản đó vào sử
dụng theo dự tính.
4.Thay đổi nguyên giá TSCĐ
Nguyên giá TSCĐ chỉ thay đổi khi doanh nghiệp đánh giá lại TSCĐ, sửa chữa
nâng cấp TSCĐ, tháo gỡ hoặc bổ sung một số bộ phận của TSCĐ. Khi thay đổi
nguyên giá doanh nghiệp phải lập biên bản ghi rõ các căn cứ thay đổi và xác định
lại chỉ tiêu nguyên giá, giá trị còn lại, số khấu hao luỹ kế của TSCĐ và phản ánh
kịp thời vào sổ sách.
6
Phần 2. Khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp :
I. Hao mòn và khấu hao TSCĐ
Trong quá trình đầu tư và sử dụng, dưới tác động của môi trường tự nhiên và
điều kiện làm việc cũng như tiến bộ kỹ thuật, TSCĐ bị hao mòn. Hao mòn này
được thể hiện dưới hai dạng:
Hao mòn hữu hình: là sự hao mòn vật lý trong quá trình sử dụng do bị cọ
sát, bị ăn mòn, bị hư hỏng từng bộ phận.
Hao mòn vô hình: là sự giảm giá trị của TSCĐ do tiến bộ khoa học kỹ
thuật đã sản xuất ra những TSCĐ cùng loại có nhiêù tính năng với năng
suất cao hơn và chi phí ít hơn.
Để thu hồi giá trị hao mòn của TSCĐ, người ta tiến hành trích khấu hao bằng
cách chuyển phần giá trị hao mòn của TSCĐ vào sản phẩm làm ra.
Như vậy, hao mòn là hiện tượng khách quan làm giảm giá trị và giá trị sử
dụng của TSCĐ, còn khấu hao là một biện pháp chủ quan trong quản lý nhằm thu
hồi lại giá trị đã hao mòn của TSCĐ.
Về phương diện kinh tế, khấu hao cho phép doanh nghiệp phản ánh được giá
trị thực của tài sản, đồng thời làm giảm lợi nhuận ròng của doanh nghiệp.
Về phương diện tài chính, khấu hao là một phương tiện tài trợ giúp doanh
nghiệp thu được bộ phận giá trị đã mất của TSCĐ.
Về phương diện thuế khoá, khấu hao là một khoản chi phí được trừ vào lợi
nhuận chịu thuế, tức là được tính vào chi phí kinh doanh hợp lệ.
Về phương diện kế toán, khấu hao là việc ghi nhận sự giảm giá của TSCĐ
II. Ý nghĩa của tính khấu hao:
Như chúng ta đã biết khấu hao là bịên pháp chủ quan trong quản lý nhằm
thu hồi giá trị hao mòn của TSCĐ,tích luỹ lại hình thành nguồn vốn để đầu tư mua
sắm TSCĐ khi nó bị hư hỏng chính vì thế việc tính khấu hao là vô cùng quan trọng
có ý nghĩa to lớn với mọi loại hình doanh nghiệp về những phương diện sau:
Về phương diện kinh tế : Khấu hao cho phép doanh nghiệp phản ánh đuợc giá
trị thực của tài sản đồng thời làm giảm lợi tức dòng của doanh nghiệp
Về phương diện tài chính: Khấu hao sẽ làm giảm giá trị thưc của TSCĐ
nhưng lại làm tăng giá trị củ TSCĐ khác một cách tương ứng (tiền mặt ,tiền ngân
hàng …) điều này cho phép doanh nghiệp có thể mua lại TSCĐ khi đã khấu hao
7
đủ. Như vậy khấu hao là một phương tiện tài trợ của doanh nghiệp giúp doanh
nghiệp hình thành quỹ tái tạo TSCĐ.
Về phương diện thuế khoá : Khấu hao là một khoản chi phí được trừ vào lợi
tức phát sinh để tính ra số lợi tức chịu thuế.
Mặt khác do khấu hao tác động trực tiếp chi phí bỏ ra của doanh nghiệp tức
là mỗi đồng khấu hao phát sinh sẽ làm tăng chi phí đồng thời cũng làm giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp và ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ tiêu thuế phải đóng góp và
còn tác động đến cả báo cáo kết quả kinh doanh cuối kỳ . Chính vì thế có thể nói
việc tính khấu hao có ý nghĩa vô cùng to lớn và quan trọng đối với từng doanh
nghiệp trong tình hình hiện nay
III.Phương pháp tính khấu hao:
A . Kế toán quốc tế về khấu hao TSCĐ
Do điều kiện kinh tế và chế độ xã hội ở mỗi nước khác nhau là khác nhau nên
yêu cầu về quản lý cũng khác nhau. Mà kế toán là công cụ quản lý kinh tế do đó
chế độ kế toán ở từng quốc gia có sự khác biệt. Chế độ kế toán khấu hao là một
điển hình. Sau đây chúng ta sẽ xem xét hai chế độ kế toán khấu hao tiêu biểu của
thế giới, đó là Pháp và Mỹ để thấy sự khác biệt của kế toán khấu hao Việt Nam so
với thế giới.
1.Kế toán khấu hao TSCĐ của Mỹ
ở Mỹ, cơ sở được thiết lập cho việc khấu hao TSCĐ là nguyên gía TSCĐ và
giá trị thu hồi của TSCĐ. Trong đó giá trị thu hồi là phần ước tính có thể thu hồi tại
thời điểm thanh lý hoặc nhượng bán TSCĐ. Và khi thiết lập công thức tính khấu
hao, thì giá trị thu hồi ước tính là yếu tố không thể thiếu bất kể đó là phương pháp
nào. Lấy ví dụ về phương pháp khấu hao đều theo thời gian:
Số khấu hao phải
trích hàng năm
Nguyên giá TSCĐ - Giá trị thu hồi ước tính
Số năm hữu dụng ước tính
sử dụng phổ biến đó là phương pháp khấu hao cố định (phương pháp khấu hao
đềuTheo chế độ qui định các doanh nghiệp có thể sử dụng một trong các phương
pháp tính khấu hao sau:
-Phương pháp khấu hao đều theo thời gian
-Phương pháp khấu hao theo thời gian sử dụng máy thực tế
-Phương pháp khấu hao theo sản lượng sản xuất
8
-Phương pháp khấu hao giảm dần: Có nhiều phương pháp khấu hao giảm dần
có thể áp dụng, tuy nhiên có hai phương pháp được áp dụng phổ biến hiện nay đó
là: khấu hao giảm dần với tỷ suất giảm dần và khấu hao giảm dần với tỷ suất không
đổi.
9
-Ngoài ra còn có các phương pháp khấu hao theo nhóm hoặc đa hợp
Từ trên ta thấy sự khác biệt lớn nhất của kế toán khấu hao TSCĐ ở Mỹ so với
Việt Nam đó là Mỹ sử dụng giá trị thu hồi TSCĐ trong công thức tính khấu hao.
Đó là sự đúng đắn vì như thế mới phản ánh chính xác giá trị hao mòn của TSCĐ,
qua đó xác định chi phí sản xuất kinh doanh hợp lý hơn.
Một sự khác biệt nữa là: ở Mỹ phương pháp khấu hao nhanh được các doanh
nghiệp sử dụng một cách phổ biến. Đây là phương pháp khấu hao ưu việt, nó cho
phép doanh nghiệp thu hối vốn đầu tư nhanh để đầu tư, đổi mới công nghệ...ở Việt
Nam phương pháp này mới đang được thí điểm ở một số doanh nghiệp thuộc ngành
công nghệ cao.
2.Kế toán khấu hao TSCĐ của Pháp
Giống như Mỹ và Việt Nam, ở Pháp cũng có nhiều phương pháp tính khấu
hao TSCĐ. Nhưng có hai phương pháp tính khấu hao được ) và phương pháp khấu
hao giảm dần.
Theo qui định của chế độ kế toán Pháp, TSCĐ đưa vào sử dụng ngày nào thì
tính khấu hao từ ngày đó. Nếu TSCĐ đang được sử dụng mà đem nhượng bán
hoặc thanh lý thì sẽ tính khấu hao đến ngày nhượng bán hoặc thanh lý. Do đó, thời
gian sử dụng trong năm có thể tính khấu hao theo năm, theo tháng, hoặc theo ngày
tuỳ theo thời gian sử dụng TSCĐ. Điều này giúp cho việc xác định giá trị hao mòn
của TSCĐ chính xác hơn việc tính khấu hao TSCĐ theo nguyên tắc tròn tháng,
tròn năm ở Việt Nam.
B.Kế Toán Việt Nam.
Việc tính khấu hao có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau. Việc
lựa chọn phương pháp tính khấu hao nào là tuỳ thuộc vào quy định của Nhà nước
về chế độ quản lý tài chính đối với doanh nghiệp và yêu cầu quản lý của doanh
nghiệp.
Phương pháp khấu hao được lựa chọn phải đảm bảo thu hồi vốn nhanh, đầy đủ
và phù hợp với khả năng trang trải chi phí của doanh nghiệp.
Hiện nay, các doanh nghiệp có thể sử dụng một trong các phương pháp tính
khấu hao sau đây:
1.Phương pháp khấu hao đều
Phương pháp này còn được gọi là phương pháp khấu hao tuyến tính hay
phương pháp khấu hao bình quân.Có nghĩa là mỗi kỳ kế toán đều tính theo số tiền
như nhau cho đến khi TSCĐ hết thời gian hữu ích.
10
Cách tính khấu hao theo phương pháp này như sau:
11
Mức khấu hao
phải trích bình
quân năm
=
Nguyên giá
TSCĐ bình
quân
*
Tỉ lệ khấu
hao bình
quân năm
=
Nguyên giá TSCĐ
Số năm sử dụng
Mức khấu hao phải trích
bình quân tháng
Mức khấu hao bình quân năm
12
Ưu điểm của phương pháp này là: phương pháp này cố định theo thời gian nên
có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, tăng số lượng sản
phẩm làm ra để hạ giá thành, tăng lợi nhuận.
Nhược điểm của phương pháp này là: việc thu hồi vốn chậm, không theo kịp
mức hao mòn thực tế, nhất là hao mòn vô hình (do tiến bộ khoa học kỹ thuật) nên
doanh nghiệp không có điều kiện để đâù tư trang bị TSCĐ mới.
Hiện nay, đây là phương pháp được dùng phổ biến trong các doanh nghiệp ở
Việt Nam.
2.Phương pháp khấu hao theo sản lượng
Cách tính này cố định mức khấu hao trên một đơn vị sản lượng nên muốn thu
hồi vốn nhanh khắc phục được hao mòn vô hình đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng ca
kíp, tăng năng suất lao động để làm ra nhiều sản phẩm.
Công thức tính khấu hao theo phương pháp này như sau:
Mức khấu hao
phải trích
trong tháng
=
Sản lượng
hoàn thành
trong tháng
x
Mức khấu hao đơn vị
bình quân trên một đơn
vị sản lượng
Trong đó:
Mức khấu hao bình quân
trên một đơn vị sản lượng
Tống số khấu hao phải trích trong thời gian sử
dụng
Sản lượng tính theo công suất thiết kế
3.Phương pháp khấu hao nhanh
Bên cạnh khấu hao theo thời gian và khấu hao theo sản lượng, các doanh
nghiệp còn có thể tính khấu hao theo giá trị còn lại. Phương pháp này gọi là
phương pháp khấu hao nhanh. Sau đây chúng ta sẽ xem xét hai phương pháp khấu
hao nhanh:
3.1.Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần