Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí để thực hiện sản xuất sạch hơn trong sản xuất ván ghép thanh tại công ty chế biến gỗ alpha thuộc tỉnh bình dương​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

HOÀNG VĨNH QUÝ

NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG CÁC TIÊU CHÍ ĐỂ THỰC
HIỆN SẢN XUẤT SẠCH HƠN TRONG SẢN XUẤT VÁN
GHÉP THANH TẠI CÔNG TY CHẾ BIẾN GỖ ALPHA
THUỘC TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ KỸ THUẬT

Hà nội, 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

HOÀNG VĨNH QUÝ

NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG CÁC TIÊU CHÍ ĐỂ THỰC
HIỆN SẢN XUẤT SẠCH HƠN TRONG SẢN XUẤT VÁN
GHÉP THANH TẠI CÔNG TY CHẾ BIẾN GỖ ALPHA
THUỘC TỈNH BÌNH DƯƠNG


CHUYÊN NGÀNH: KỸ THUẬT MÁY, THIẾT BỊ VÀ CÔNG NGHỆ
GỖ GIẤY
MÃ SỐ: 60.52.24

LUẬN VĂN THẠC SỸ KỸ THUẬT

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN VĂN CHỨ

Hà nội, 2012


1

MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến
tích cực để hội nhập, phát triển và đang trở thành điểm nóng của các nhà đầu
tư từ các nước trên thế giới. Hiện tại cơ cấu kinh tế ngành dầu thô, thủy sản,
dệt may, xuất khẩu gạo…., là những ngành chủ lực và đóng góp một phần vào
kim ngạch xuất khẩu của đất nước, trong đó ngành chế biến gỗ nổi lên như
một điểm sáng với mức tăng trưởng nhanh, đang thu hút nhiều doanh nghiệp
đầu tư và sản xuất vì lợi nhuận cao, thị trường rộng lớn.
Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, hoạt động sản xuất
ngày càng được nâng cao và các doanh nghiệp ngày càng mở rộng quy rộng
nhằm tăng sản lượng, đạt được hiệu quả kinh tế cao và thu nhiều lợi nhuận
nhất. Nhưng trong quá trình chạy theo lợi nhuận các doanh nghiệp lại bỏ quên
một vấn đề quan trọng đó là ơ nhiễm mơi trường và sự tiêu hao, thất thoát một
lượng nguyên - nhiên liệu trong quá trình sản xuất.
Vì vậy sản xuất sạch hơn (SXSH) là một cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp
sản xuất hướng tới mục tiêu kinh doanh bền vững, trong đó chú trọng tới

giảm thiểu sử dụng các hóa chất độc hại ảnh hưởng tới môi trường và tăng lợi
nhuận thơng qua giảm lãng phí trong sản xuất, làm tiền đề thâm nhập vào thị
trường quốc tế.
Sản xuất sạch hơn là quy trình mang tính bao qt mọi khâu của doanh
nghiệp, đòi hỏi phải áp dụng liên tục các giải pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, tiết kiệm nguyên – nhiên liệu và giảm giá thành, tăng sức cạnh
tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong sản xuất chế biến gỗ hiện nay đã và đang tiềm ẩn những nguy cơ
gây hại tới môi trường sống của con người. Nghiên cứu công nghệ xanh, sản
xuất sạch đang dần được khuyến cáo sử dụng rộng rãi vì lợi ích cộng đồng.
Giải pháp SXSH không những giúp doanh nghiệp giảm chất thải độc hại, tiết


2

kiệm kinh phí mà cịn là một trong những biện pháp làm tăng cường chất
lượng cuộc sống. Do đó, việc nghiên cứu xây dựng các tiêu chí để thực hiện
SXSH trong sản xuất ván ghép thanh tại một công ty chế biến gỗ là một việc
có ý nghĩa cả về thực tiễn cũng như xã hội và còn đem lại lợi ích lớn lao cho
cả cộng đồng. Được sự đồng ý của Trường Đại học Lâm nghiệp và Khoa Đào
tạo Sau đại học, tôi tiến hành thực hiện luận văn: “Nghiên cứu xây dựng các
tiêu chí để thực hiện sản xuất sạch hơn trong sản xuất ván ghép thanh tại
công ty chế biến gỗ ALPHA thuộc tỉnh Bình Dương ”.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Hiện nay, sự phân bố cũng như điều kiện về cơng nghệ và trình độ sản
xuất của ngành cơng nghiệp nước ta nói chung và ngành chế biến gỗ nói riêng
vẫn cịn là ngành cơng nghiệp thải ra nhiều chất thải, để kiểm soát hiệu quả
trong quá trình sản xuất nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất, đồng thời giảm
được chất thải phát sinh ra môi trường bên ngồi nhằm bảo vệ mơi trường.
Bên cạnh đó sự thất thoát về nguyên - vật liệu trong ngành chế biến gỗ còn
nhiều vấn đề đáng quan tâm cần phải giải quyết.
Gần đây một tư duy mới đang phát triển đó là phịng ngừa và giảm thiểu
chất thải đầu nguồn và cải thiện hiệu quả sản xuất, giảm tiêu hao nguyên,
nhiên - vật liệu, cách tiếp cận này mang tính chủ động và tính tích cực hơn,
“ Sản xuất sạch hơn” là phương pháp để thể hiện sự tối ưu cho việc giải quyết
vấn đề trên.
Trong ngành sản xuất đồ gỗ, việc thực hiện sản xuất sạch hơn đã giúp
các doanh nghiệp không những giảm được chất thải, mà cịn tiết kiệm kinh
phí thơng qua việc giảm mức tiêu thụ nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng, hoá
chất. SXSH là công cụ quản lý môi trường hữu hiệu phù hợp với các doanh
nghiệp Việt Nam, vì thế cần phải đẩy mạnh áp dụng ở các doanh nghiệp.
Trong những thập niên qua, các nước cơng nghiệp hóa trên thế giới đã
ứng phó với ơ nhiễm và suy thối mơi trường do các khu công nghiệp gây ra.
Giai đoạn hiện nay biện pháp kiểm sốt và xử lý ơ nhiễm là gánh nặng đối với
các doanh nghiệp, làm tăng giá thành sản phẩm vì phải đầu tư xây dựng hệ
thống xử lý chất thải. Mặt khác các doanh nghiệp còn phải gánh chịu các hậu
quả nặng nề về mặt kinh tế như phải đền bù hủy hoại gây ra đối với môi


4

trường và sức khỏe cộng đồng, làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị
trường…
Trong ngành chế biến gỗ trên thế giới, việc nhận thức phương pháp sản

xuất sạch hơn và áp dụng các kỹ thuật SXSH còn nhiều hạn chế, các ứng
dụng chưa được phổ biến rộng rãi. Việc thực hiện SXSH trên thế giới là nhằm
tiết kiệm nguyên - vật liệu, tăng sức khỏe cho con người và tác động xấu đến
môi trường, tăng cường hiệu quả sản xuất thông qua cải tiến kỹ thuật.
Các kỹ thuật sản xuất sạch hơn cần phải tập trung giải quyết các vấn đề
sau:
- Lãng phí ngun liệu gỗ
- Ơ nhiễm khơng khí do bụi gỗ, keo
- Lãng phí nước và ơ nhiễm do nước thải
- Tiếng ồn và các chất thải nguy hại khác…
Sản xuất sạch hơn đã được triển khai ở Việt Nam từ những năm đầu của
thập kỷ 90, tuy nhiên đến đầu năm 2010 sản xuất sạch hơn mới bắt đầu triển
khai trong ngành chế biến gỗ tại một số tỉnh phía nam. Trong ngành chế biến
gỗ Việt Nam hiện nay việc nhận thức được về phương pháp sản xuất sạch hơn
và áp dụng các biện pháp sản xuất sạch hơn còn hạn chế, chưa được phổ biến
rộng rãi, do đó việc xây dựng các tiêu chí để thực hiện sản xuất sạch hơn
trong dây chuyền sản xuất đồ gỗ cần phải nghiên cứu để áp dụng có hiệu quả
sản xuất sạch hơn trong ngành chế biến sản xuất gỗ ở Việt Nam.
1.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Từ những năm 1985 - 1990, việc áp dụng SXSH vào các quá trình sản
xuất đã được áp dụng mạnh mẽ ở các nước phát triển như: Đan Mạch, Mỹ,
Canada….Tháng 9/1990, UNEP chính thức phát động chương trình sản xuất
sạch hơn tại hội nghị Canterbury Liên hiệp Anh. Từ năm 1993, SXSH đã áp


5

dụng các nước Đông Âu như: Ba Lan, Tiệp Khắc cũ, các quốc gia thuộc Châu
Á như; Trung Quốc, Ấn Độ mang lại nhiều hiệu quả về kinh tế và mơi trường.

Hơn 1000 dự án trình diễn về SXSH đã được tiến hành tập trung vào một số
ngành công nghiệp chính như: Dự án PRISMA ở Hà Lan, LANDSKRONA ở
Thụy Điển, SPURT ở Đan mạch, DESIRE ở Ấn Độ……(trích tác giả Phùng
Hồng Vân, 2003).
Hiện nay trên thế giới có 25 trung tâm sạch quốc gia đặt tại các khu vực
trên thế giới như: Châu Á - Thái Bình Dương, Bắc Mỹ, Nam Trung Mỹ, Châu
Phi. Tại Châu Á - Thái Bình Dương có 4 nước có trung tâm sản xuất sạch
quốc gia đó là Trung Quốc, Ấn Độ, Srikanca và Việt Nam. Ngoài việc thành
lập các trung tâm sạch quốc gia, nhiều tạp chí, báo ra đời nhằm cung cấp
thơng tin hỗ trợ SXSH. Một số tham gia vào việc hỗ trợ để thực hiện sản xuất
sạch hơn, Các quốc gia có nhiều chương trình hỗ trợ nhất đó là: Mỹ, Đức, Na
Uy, Thụy Sỹ, Đan Mạch.
Division of Technology, Industry and Economics Economics and Trade
Branch, United Nations Environment Programme/NUEP (2002), đã xây dựng
Tài liệu đào tạo về Hướng dẫn đánh giá tác động mơi trường như vai trị, tầm
quan trọng, phân tích đánh giá tác động mơi trường.
JAMES B. WILSON (2005) đã trình bày kết quả nghiên cứu về đổi mới
vật liệu xây dựng trên nền vật liệu gỗ và sợi gỗ, nhấn mạnh yếu tố tác động
của môi trường trong quá trình sản xuất và sử dụng sản phẩm.
Stan Lebow, Paul Cooper, Patricia K. Lebow (2004) trong cơng trình
nghiên cứu “Variability in Evaluating Environmental Impacts of Treated
Wood” đã trình bày quan điểm và phương pháp mới trong đánh giá tác động
mơi trường đối với q trình xử lý gỗ bằng hóa chất bảo quản.


6

Trong ngành chế biến đồ gỗ và nội thất thế giới, việc nhận thức về
phương pháp luận SXSH và áp dụng các kỹ thuật SXSH còn nhiều hạn chế,
các ứng dụng chưa được phổ biến rộng rãi. Do đó, tiềm năng SXSH cũng như

đổi mới sản phẩm bền vững trong ngành còn rất lớn, đặc biệt đối với các nước
đang phát triển.
Việc thực hiện SXSH trên thế giới là nhằm tiết kiệm nguyên – vật liệu,
giảm rủi ro cho con người và tác động xấu đối với môi trường, tăng cường
hiệu quả sản xuất thông qua cải tiến các kỹ thuật đã có và áp dụng các cơng
nghệ tiên tiến hiện đại. Ngoài ra các kỹ thuật SXSH mang lại những cơ hội
giảm chi phí sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Cụ thể trong ngành
chế biến gỗ nói chung và chế biến đồ gỗ nói riêng, các vấn đề chính mà kỹ
thuật SXSH tập trung giải quyết bao gồm:
-

Lãng phí ngun liệu gỗ,

- Ơ nhiễm khơng khí do bụi gỗ, các loại keo, chất phủ bề mặt,
-

Nước thải và lãng phí nước thải,

-

Lãng phí năng lượng điện,

- Chất thải nguy hại.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2010, công nghiệp chế biến gỗ Việt
Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng đáng kể cả về quy mô phát triển, chất
lượng sản phẩm và đặc biệt là giá trị kim ngạch xuất khẩu. Với hơn 1200
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến gỗ năm 2000, đến năm 2009
cả nước đã có trên 2500 doanh nghiệp, trong đó nhiều doanh nghiệp đã phát
triển thành các tập đoàn lớn. Chất lượng sản phẩm gỗ được nâng cao, minh

chứng là giá trị kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam liên tục tăng
trong 10 năm qua: giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 219 triệu USD;
năm 2009 đạt 2.620 triệu USD; tính bình qn giá trị kim ngạch xuất khẩu đồ


7

mộc tăng bình quân 500 triệu USD/năm. Sản phẩm gỗ của Việt Nam đã có
mặt trên 120 quốc gia và vùng lãnh thổ; trong đó các thị trường xuất khẩu chủ
yếu là Hoa Kỳ (chiếm 38% - 41% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu), các nước
thuộc khối EU (chiếm 28 - 44% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu) và Nhật
Bản (chiếm 12 - 15% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu).
Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng và thuận lợi của ngành, hiện nay
công nghiệp chế biến gỗ của nước ta cũng đang gặp rất nhiều khó khăn và bộc
lộ những điểm yếu kém từ khi chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung mệnh
lệnh sang cơ chế thị trường. Những năm gần đây, ngành công nghiệp chế biến
gỗ phát triển có bước phát triển vượt bậc song chưa vững chắc, thiếu quy
hoạch và tầm nhìn chiến lược, tính cạnh tranh chưa cao, sự liên kết và phân
cơng sản xuất chưa tốt (chưa có sự chun mơn hố, chưa có phân cơng sản
xuất theo vùng, tiểu vùng…), chưa xây dựng được thương hiệu trên thị trường
thế giới, thiếu vốn đầu tư cho phát triển và hiện đại hố cơng nghệ.
Mặc dù giá trị kim ngạch xuất khẩu đồ mộc của Việt Nam có bước tăng
trưởng nhưng đánh giá tổng thể, giá trị kinh tế mang lại cho đất nước còn hạn
chế do lượng vật tư nguyên liệu nhập khẩu chiếm tỉ trọng q lớn, trong đó
chỉ tính riêng nguyên liệu gỗ nhập khẩu hàng năm tương đương 40% - 45%
giá trị kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó tiềm năng nguyên liệu gỗ rừng
trồng của Việt Nam rất lớn lại sử dụng chủ yếu cho băm dăm xuất khẩu, một
hình thức sơ chế khơng mang lại hiệu quả kinh tế cao và không thể nâng cao
giá thu mua nguyên liệu, cơ hội nâng cao thu nhập cho người trồng rừng.
Ngày 08/12/2003 sở Khoa học và Công nghệ Bình Định kết hợp với

Viện khoa học và Cơng nghệ môi trường (Đại học Bách khoa Hà Nội) tổ chức
hội nghị “Nâng cao hiệu quả quản lý môi trường thông qua áp dụng sản xuất
sạch hơn” do PGS.TS Trần Văn Nhân chủ nhiệm đề tài.


8

Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020 được
Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 1419/QĐ-TTG phê duyệt
vào ngày 07/09/2009. Theo đó, Sản xuất sạch hơn được áp dụng rộng rãi tại
các cơ sở sản xuất cơng nghiệp:
- Năm 2011, xí nghiệp Chế biến lâm sản Hịa Nhơn (Cơng ty Cổ phần
Lâm đặc sản xuất khẩu Quảng Nam) đã tiến hành thành lập Đội Sản xuất sạch
hơn (SXSH) nhằm triển khai đánh giá nhanh hiện trạng môi trường và đề ra
các các giải pháp cho những năm tiếp theo.
- Năm 2011, công ty TNHH gỗ - giấy Tân Bình (thuộc tỉnh Bình Định)
tiến hành áp dụng SXSH, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên
nhiên, nguyên - nhiên - vật liệu, giảm thiểu phát thải và hạn chế mức độ gia
tăng ô nhiễm, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, sức khỏe con người
và bảo đảm phát triển bền vững.
Nguồn nhân lực cho cơng nghiệp chế biến gỗ cịn yếu, hiện chưa có
chính sách thu hút lao động đúng mức để ổn định sản xuất. Đội ngũ chuyên
gia và cơng nhân kỹ thuật chưa đáp ứng được địi hỏi ngày càng cao của
ngành.
Mặc dù chúng ta sản xuất đồ gỗ xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn song hiểu
biết và ý thức về thương hiệu, các tiêu chuẩn đối với sản phẩm gỗ chưa cao,
đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp thiếu những kiến
thức về luật thương mại, đặc biệt là luật thương mại quốc tế. Năng lực cạnh
tranh thị trường kém, thiếu thông tin dẫn đến dễ bị thua thiệt khi xảy ra tranh
chấp quốc tế, bị chèn ép trong các khâu mua, bán…

Trong cuộc cạnh tranh mạnh mẽ của ngành chế biến gỗ Việt Nam trên
thị trường chế biến gỗ thế giới hiện nay, sau hội nhập WTO ngành chế biến


9

gỗ Việt Nam đã bộc lộ nhiều yếu kém và hạn chế về mẫu mã, chất lượng,
thương hiệu, pháp luật thương mại quốc tế, tiêu chuẩn, chứng chỉ quốc tế,
thương mại điện tử... Đó là chưa kể đến những cạnh tranh (kể cả cạnh tranh
không lành mạnh) trong nội bộ các doanh nghiệp trong nước, cũng là một
trong số các nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp Việt Nam chỉ gia công
sản phẩm gỗ xuất khẩu mà không mang thương hiệu của mình trên thị trường
quốc tế.
Một vấn đề khác phát sinh đối với mặt hàng đồ gỗ khi chúng ta hội
nhập sâu vào nền kinh tế thế giới đó là các chứng chỉ về nguyên liệu. Mỹ có
đạo luật LACEY, hay luật lâm nghiệp và quản trị rừng (FLEGT) đang được
triển khai ở tất cả các quốc gia, đây là rào cản rất lớn. Nhu cầu về đồ gỗ có
chứng chỉ đang gia tăng, nhưng Việt Nam vẫn chưa có hệ thống chứng chỉ
thích hợp. Các khách hàng chủ yếu là EU ngày càng đòi hỏi các sản phẩm
được làm từ nguồn gỗ nguyên liệu có chứng chỉ của một tổ chức như hội
đồng các nhà quản lý rừng FSC. Đến cuối tháng 5 năm 2011 ở nước ta mới
chỉ có 5 Lâm Trường được cấp chứng chỉ rừng với tổng diện tích là 10.500 ha.
Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu rất lớn về gỗ để sản xuất đồ gỗ xuất khẩu, các
nước sản xuất phải nhập khẩu gỗ có chứng chỉ FSC, giá thành sản phẩm đội
lên cao nên khó khăn cạnh tranh và giá trị gia tăng của ngành gỗ bị giảm quá
nhiều so với những quốc gia có hệ thống chứng chỉ, đồ gỗ bị giảm sụt quá
nhiều so với những quốc gia có hệ thống chứng chỉ, cho dù đồ gỗ Việt Nam
đang được ưa chuộng tại nhiều nước. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 200
doanh nghiệp có chứng chỉ FSC và COC, đây là 2 loại chứng chỉ thiết yếu cho
việc xuất khẩu đồ gỗ ra quốc tế.

Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp chế biến gỗ của ta chỉ làm gia
công, khơng có thị trường tiêu thụ chủ động mà phụ thuộc nhiều vào khách
hàng nước ngoài. Trong số 3.000 cơ sở hoạt động trong ngành gỗ thì có tới


10

hơn 50% là cơ sở chế biến quy mô nhỏ, trang thiết bị vừa cũ kỹ, vừa lạc hậu.
Số lượng và chất lượng của đội ngũ công nhân trong ngành chưa đáp ứng yêu
cầu, thiếu kỹ năng, nguồn gỗ nguyên liệu thì bị động. Hiện Việt Nam phải
nhập khẩu đến 70 - 80% nguyên liệu, sự phát triển các nhà máy băm dăm
mảnh gỗ xuất khẩu đã vượt quá khả năng cung cấp nguyên liệu gỗ rừng trồng
trong nước. Những hạn chế trên đã trì kéo mức tăng trưởng của ngành chế
biến gỗ nước ta.
1.2.3. Tình hình phát triển ngành chế biến gỗ ở tỉnh Bình Dương
Ngành chế biến gỗ, sản xuất đồ gỗ xuất khẩu từ lâu nay đã là một trong
những thế mạnh của tỉnh Bình Dương. Ngành này cũng là một trong những
ngành có tỷ trọng xuất khẩu tương đối lớn trong cơ cấu ngành nghề của tỉnh,
chiếm khoảng 14,6%. Tuy nhiên thời gian gần đây ngành chế biến, sản xuất
đồ gỗ ở Bình Dương đang đứng trước những khó khăn, thách thức về nguồn
nguyên liệu và nhân cơng lao động.
Được biết nguồn ngun liệu chính của ngành chế biến gỗ tại tỉnh Bình
Dương được cung cấp được bởi nhiều nguồn, song chủ yếu vẫn nhập khẩu gỗ
từ nước ngoài và một số địa phương trong nước như: Lâm Đồng, Bình Phước,
Đắc Lắc… Nguồn gỗ nhập từ nước ngoài chủ yếu là những loại chất lượng
cao, giá cao, còn nguồn gỗ trong nước chủ yếu là gỗ cao su, tràm, điều…
Thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ của tỉnh Bình Dương khá ổn định,
hàng hóa từ gỗ của tỉnh đến được 65 quốc gia và vùng lãnh thổ. Từ năm 2006
đến nay sản lượng và giá đều tăng, chỉ tính riêng 9 tháng đầu năm 2010 kim
ngạch xuất khẩu mặt hàng này đã đạt 932 triệu USD, tăng 9,9% so với cùng

kỳ năm ngoái, riêng tháng 9 năm 2010 đạt hơn 113 triệu USD. Những thị
trường lớn vẫn là những quốc gia, vùng lãnh thổ Châu Á chiếm 53%, Bắc mỹ
22% và phần còn lại là Châu Âu.


11

Mặc dù tiềm năng xuất khẩu đồ gỗ của tỉnh là như vậy nhưng ngành
chế biến gỗ ở Bình Dương đang đứng trước nhiều thách thức rất lớn, đó là
nguồn nguyên liệu và nhân công lao động ngành gỗ. Để khắc phục tình trạng
thiếu nguyên liệu, nhiều doanh nghiệp chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh đã phải
khai thác tối đa tiềm năng từ nguồn nguyên liệu trong nước, đồng thời những
doanh nghiệp nhỏ không đủ khả năng nhập khẩu gỗ từ nước ngồi cũng phải
chủ động tìm nguồn hàng trong nước.
Tuy nhiên, do đặc thù địa hình và thời tiết của Việt Nam ảnh hưởng rất
lớn đến việc cung cấp nguyên liệu gỗ cho các doanh nghiệp, vào mùa mưa
gần như không thể khai thác gỗ từ rừng tự nhiên. Đồng thời, hiện nay rừng
trong nước cũng khơng cịn khả năng cung cấp được nhiều nữa bởi chúng
đang phải bảo tồn và khơi phục những diện tích đã bị mất. Với nguồn gỗ rừng
trồng như: cao su, điều, tràm,… với công nghệ ngày càng tiên tiến, sản lượng
các loại gỗ này được trồng khá nhiều trong những năm trước đây, cùng với
việc khai thác và dễ chế biến nên các doanh nghiệp đã tạo ra thành công nhiều
sản phẩm phong phú, đa dạng bán ra thị trường. Với diện tích cao su, điều,
tràm tương đối lớn ở Bình Dương và các tỉnh trong khu vực có thể coi là
nguồn cung ứng nguyên liệu khả quan cho ngành chế biến gỗ ở Bình Dương.
Để giải quyết nguồn nguyên liệu, nhiều doanh nghiệp lớn ở Bình
Dương đã có chiến lược dài hạn như thuê đất trồng rừng nguyên liệu phục vụ
cho sản xuất sau này, tuy nhiên chí phí ban đầu của trồng rừng là rất lớn nên
nằm ngoài khả năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên rất cần sự quan
tâm hổ trợ từ phía Nhà nước.

Một khó khăn nữa trong ngành chế biến gỗ ở Bình Dương là hiện nay
lao động trong ngành này đang thiếu hụt rất nhiều, hầu như các lao động
không được đào tạo qua ngành chế biến gỗ, hầu hết lao động là những người
tự đi học nghề và xin đi làm việc tại các doanh nghiệp. Những khó khăn cho


12

những doanh nghiệp là công nhân không được đào tạo cơ bản qua trường lớp
nên ý thức lao động, cũng như kỹ luật trong cơng việc cịn hạn chế, nhiều lao
động tự bỏ việc hoặc không tâm huyết với nghề nên gây khơng ít những khó
khăn cho chủ doanh nghiệp, nhất là khi doanh nghiệp ký hợp đồng chế biến
sản xuất hàng xuất khẩu.
Qua đó có thể thấy rằng các doanh nghiệp chế biến gỗ ở Bình Dương
đều thiếu nguồn lao động, vì thế tỉnh Bình Dương cần có cơ chế, chính sách
đào tạo nghề cho ngành chế biến gỗ cho người lao động. Hiện nay, trong các
trường dạy nghề của tỉnh hầu như khơng có ngành đào tạo nghề cho cơng
nhân ngành chế biến gỗ, chính vì thế các doanh nghiệp, cơ sở chế biến gỗ
không biết tuyển công nhân có tay nghề ở đâu. Đây là một vấn đề cần phải
giải quyết kịp thời, bởi vì Việt Nam đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới
thì các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và xuất khẩu đồ gỗ nói riêng phải
hiểu biết luật pháp để tránh mọi rắc rối không cần thiết cho hoạt động sản
xuất, nhất là khi xuất khẩu vào thị trường khó tính như Mỹ, EU,…
1.3. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH CHẾ BIẾN GỖ XUẤT KHẨU VIỆT
NAM
1.3.1. Quá trình hình thành và phát triển của ngành chế biến gỗ xuất
khẩu Việt Nam
Lâu nay, khi nhắc đến các mặt hàng xuất khẩu (XK) chủ lực trong nơng
nghiệp người ta thường nói đến XK gạo, cà phê, điều, thủy sản…ít khi nhắc
đến XK đồ gỗ. Thế nhưng, từ năm 2010 đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam đã phục

hồi và tăng trưởng sau thời kỳ suy thoái tài chính - kinh tế tồn cầu. Có thể
thấy, năm 2010 là một năm thành công đối với ngành xuất khẩu sản phẩm gỗ
của Việt Nam: Mặc dầu nền kinh tế thế giới vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro và sản
xuất đồ gỗ - nội thất thế giới ước tính tăng trưởng 5%, nhưng xuất khẩu gỗ


13

Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng cao, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 3,5 tỉ
USD, tăng 35% so với cùng kỳ 2009.
Hiện nay cả nước có trên 3.000 cơ sở chế biến đồ gỗ, trong đó khoảng
50% là cơ sở chế biến gỗ quy mô nhỏ với những sản phẩm tiêu thụ nội địa
hoặc gia cơng; trong đó, có 970 doanh nghiệp chuyên chế biến đồ gỗ xuất
khẩu, hơn 400 doanh nghiệp FDI... Thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ của
Việt Nam không ngừng được mở rộng, nếu như năm 2000 chỉ có mặt tại 50
quốc gia thì đến nay sản phẩm gỗ Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 120
quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó thị trường Mỹ chiếm 38% tổng giá trị xuất
khẩu; các nước thuộc khối EU chiếm 44%; Nhật Bản chiếm 12%. Theo dự
báo của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Vifores), năm 2011 nhu cầu của
thị trường đối với sản phẩm gỗ của Việt Nam là rất lớn. Vì vậy, kim ngạch
xuất khẩu gỗ của nước ta có thể đạt trên 4 tỷ USD, tăng khoảng 30% so với
năm 2010 và đang đặt ra kỳ vọng tăng đến con số 8 - 9 tỷ USD vào năm 2015.
1.3.2. Sản phẩm và thị trường tiêu thụ đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam
Các sản phẩm gỗ xuất khẩu Việt Nam bao gồm các mặt hàng: Nội thất
phòng khách, ghế, nội thất văn phòng, ván sàn… Được xuất khẩu sang các thị
trường Mỹ, Canada, Nhật Bản,… Sản phẩm và thị trường tiêu thụ đồ gỗ xuất
khẩu của Việt Nam được thể hiện qua bảng 1.1
Bảng 1.1: Sản phẩm và thị trường tiêu thụ đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam
Stt
1

2

Tên sản phẩm

Thị trường
tiêu thụ

- Nội thất phòng Mỹ
khách

Nhật Bản

Doanh thu

Tăng %

Năm 2008

Năm 2009

1.063.990

1.100.184

103,40

378.839

355.366


98,80


14

3

- Bàn

Trung Quốc

145.633

197.904

135,89

4

- Gỗ

Anh

197.651

162.784

82,34

5


- Ván

Đức

152.002

106.047

69,77

6

- Ván sàn

Hàn Quốc

101.521

95.130

93,70

7

- Nội thất văn Pháp

101.316

70.357


69,44

Australia

75.427

67.492

89,48

Hà Lan

95.466

56.736

59,43

Canada

67.900

54.579

80,38

449.538

331.106


73,65

8
9
10

phòng
- Nội thất
- Đồ dùng nhà
bếp

11

- Nội thất phịng Khác
ngủ

Nguồn: Bộ Nơng nghiệp và Phát triển Nơng thơn (2009)
 Thiết bị máy móc sử dụng trong ngành sản xuất đồ gỗ xuất khẩu
Để phục vụ cho hoạt động sản xuất, các nhà máy sản xuất đồ gỗ Việt
Nam sử dụng các thiết bị, máy móc hiện đại được nhập từ các nước Nhật, Đài
Loan và các nước Châu Âu. Thiết bị máy móc sử dụng trong ngành chế biến
đồ gỗ được thể hiện trong bảng 1.2
Bảng 1.2: Máy móc, thiết bị sử dụng trong ngành sản xuất đồ gỗ
Stt

Tên máy

Công dụng


1

Máy cắt trượt

Cắt ngắn các thanh phôi theo quy cách chi tiết

2

Máy bào 2 mặt

3

Máy bào 4 mặt

Bào sạch 4 mặt cùng 1 lúc trên thanh gỗ

4

Máy ripsaw

Rong cạch các chi tiết thật phẳng trước khi đưa

Bào 2 mặt của thanh phôi nhằm giảm độ mấp
mô trên bề mặt


15

vào máy cảo ghép ngang
5


Máy đánh mộng
finger

Đánh đầu các thanh gỗ hình răng lược
Nối đầu các thanh gỗ hình răng lược lại với

6

Máy ghép finger

7

Máy cảo ghép ngang

8

Máy cưa lọng

Lọng những chi tiết cong

9

Máy cắt phay 2 đầu

Cắt các chi tiết theo tiêu chuẩn yêu cầu

10 Máy phay tupi 1 trục

nhau

Ghép các thanh gỗ lại với nhau theo chiều
ngang

Đánh những chi tiết cong hoặc cạnh của sản
phẩm

11 Máy phay tupi 2 trục Đánh răng chi tiết gỗ
12 Máy router

Chạy rãnh chi tiết gỗ

13 Nhám thùng 1.3 m

Chà nhẵn mịn chi tiết gỗ

14 Mộng âm 18 đầu

Đục mộng âm sâu theo kích thước định vị

15 Đánh mộng âm

Làm mọng âm các chi tiết gỗ

16

Đánh mộng âm
dương 1 đầu

17 Máy rong
18 Bào 4 mặt và 6 trục


Đánh mộng Oval chi tiết gỗ
Rong chi tiết chuẩn để làm chi tiết gỗ
Bào sạch 4 cạnh cho 1 chi tiết cùng một lúc sau
khi gia công qua bào

19 Nhám băng

Dùng chà nhẵn các chi tiết gỗ

20 Nhám thùng 0.9m

Chà nhẵn mịn chi tiết gỗ

21 Bào 2 mặt 0.6m

Bào sạch 2 cạnh của chi tiết gỗ trước và sau khi


16

ghép tấm
22 Cưa lọng

23 Nhám bo

24 Nhám chổi

25


26

27

Máy khoan đứng 1
đầu
Máy khoan nằm 1
đầu
Máy khoan dàn đa
đầu

Cắt tấm ván và chi tiết theo tiêu chuẩn, một lần
cắt một đầu
Xử lý các chi tiết nhẵn mịn và máy nhám thùng
chà bị lỗi
Chà nhám bất cứ loại mặt phẳng, mặt cong lồi
lõm của gỗ
Khoan những chi tiết đơn giản
Khoan những chi tiết có độ nghiêng
Khoan những chi tiết có nhiều vị trí lỗ khoan

1.4. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG XUẤT KHẨU ĐỒ GỖ
1.4.1. Thuận lợi
Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị trường nước ngoài
trong giai đoạn 2009 - 2010 dự kiến sẽ có một số thế mạnh và thuận lợi sau:
Khả năng cạnh tranh và chất lượng sản phẩm gỗ của Việt nam đáp ứng
được yêu cầu của nhà nhập khẩu nước ngoài. Người tiêu dùng các nước đang
rất ưa chuộng các sản phẩm gỗ Việt Nam.
Năng lực chế biến gỗ của việt Nam tăng thêm không chỉ số lượng nhà
máy, quy mô sản xuất mà còn đầu tư thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng

sản phẩm, trình độ quản lý, tay nghề của công nhân. Theo thống kê đến tháng


17

10/2008, cả nước có trên 2000 doanh nghiệp chế biến gỗ, trong đó có 300
doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ trực tiếp, sử dụng 170.000 lao động
trực tiếp và có năng lực sản xuất tăng gấp 4 lần so với năm 2003, thời điểm
mà công nghiệp gỗ Việt Nam bắt đầu bứt phá tạo ấn tượng mạnh mẽ với các
nhà nhập khẩu nước ngồi.
Trình độ sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua
đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tương đối khắt
khe về kiểu dáng, mẫu mã, nguồn gốc gỗ không tác hại đến môi trường thị
trường các nước. Tại thành phố Hồ Chí Minh (Tp.HCM) và các tỉnh lân cận,
nơi quy tụ tới gần 50% doanh nghiệp xuất khẩu gỗ các nước và có kim ngạch
xuất khẩu gỗ chiếm 70% cả nước, trước đây các doanh nghiệp hay sơn đồ gỗ
bằng tay nên chất lượng không đạt, dễ trầy xước thì nay hầu hết các nhà máy
chế biến gỗ ở Bình Dương, Tp.HCM, Đồng Nai đã đầu tư các dây chuyền
phun sơn hiện đại của Đức, Italia theo đúng các tiêu chuẩn của Mỹ, EU.
Song song với đầu tư máy móc, tăng năng lực sản xuất, các doanh
nghiệp gỗ trong nước còn đẩy mạnh đầu tư sản xuất các sản phẩm tinh xảo, có
giá trị tăng cao như sản xuất đồ gỗ trong nhà, các bộ sản phẩm nội thất phòng
ngủ, phòng khách, đầu tư nhiều cho các bộ phận thiết kế mẫu mã.
Ngoài nhập khẩu gỗ nguyên liệu của nước ngoài, doanh nghiệp tham
gia đầu tư trồng rừng quy mô lớn ở trong nước, đầu tư các nhà máy sản xuất
gỗ nguyên liệu như: ván ép, ván MDF nhằm tiến tới chủ động nguyên liệu ổn
định cho xuất khẩu lâu dài. Đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam vào EU nói chung hiện
đang hưởng thuế GSP với mức thuế suất chủ yếu là 0% (một số mã hàng chịu
thuế 2,1%) đã giúp Việt Nam có một lợi thế nhất định khi chen chân vào thị
trường các nước so với Trung Quốc, Indonesia, Braxin, Malaysia,….do các

nước này không được hưởng GSP.


18

1.4.2. Khó khăn
Bên cạnh những thế mạnh và thuận lợi đã nêu trên, xuất khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ của Việt Nam sang thị trường các nước tồn tại nhiều điểm yếu, trong
giai đoạn 2009 - 2010 dự kiến sẽ có những khó khăn và thách thức sau:
Hầu hết các doanh nghiệp (DN) trong ngành chế biến gỗ đang gặp rất
nhiều khó khăn và trong tình trạng sản xuất thua lỗ. Thế nhưng, dù lỗ DN vẫn
phải sản xuất. Bởi đơn giản, nếu không sản xuất DN vẫn phải trả các chi phí
khấu hao máy móc, tiền th nhà xưởng, phí duy trì hoạt động cho bộ phận
hành chính. Thêm đó, DN phải sản xuất để giữ chân cơng nhân và nhất là để
giữ thị trường, giữ khách hàng truyền thống.
Tám tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ đạt
khoảng 2,4 tỷ USD. Dù tăng 13% so cùng kỳ, nhưng khó đạt được chỉ tiêu
trong năm 2011 là 4 tỷ USD. Theo các DN, từ đầu năm đến nay các thị trường
xuất khẩu lớn như Mỹ (chiếm 44% kim ngạch xuất khẩu của ngành trong năm
2010), EU (chiếm 29%) Nhật do trì trệ của nền kinh tế nên sức mua đều giảm.
Với thị trường nội địa, DN cũng khó khăn trong sản xuất các đơn hàng
nhỏ lẻ. Hầu hết DN chỉ giỏi sản xuất, không giỏi về thị trường, về xúc tiến
thương mại (XTTM) nên dẫn tới hạn chế trong việc nắm bắt thị hiếu, xu
hướng tiêu dùng, nhất là không thể xây dựng được mạng lưới phân phối.
Cũng có vài DN lớn đang tiến hành hoạt động XTTM trong nước khá thành
cơng như Trường Thành, Hồng Anh Gia Lai… song chưa phủ rộng được
mạng lưới và cũng chỉ mới ở những bước khởi đầu.
Bên cạnh đó, thời gian qua tỷ giá và các chi phí đầu vào biến động
cũng ảnh hưởng tới năng lực sản xuất cũng như khả năng cạnh tranh của DN.
Ông Đặng Quốc Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Mỹ nghệ - chế biến gỗ



19

TP.HCM (Hawa) cho biết, hiện nếu xuất khẩu được 1 USD, DN sẽ lỗ 1 ngàn
đồng từ chệnh lệch tỷ giá, trong khi các chi phí điện, nước, giá cơng nhân, giá
nguyên liệu… đều tăng. Riêng giá nguyên liệu từ đầu năm đã tăng 10 - 30%
và ngành phải nhập tới 80% nguyên liệu để sản xuất…
Nhìn chung các DN hiện chưa dám ký tiếp hợp đồng mới bởi nếu ký
mà đưa ra giá thành cao để hòa vốn hay giảm lỗ thì sợ khách hàng sẽ chuyển
sang các nhà cung cấp khác. Bởi đơn giản, khách hàng cũng là người kinh
doanh, thu mua giá cao họ sẽ không bán được hàng và để giữ thị trường, lợi
nhuận, họ sẽ chuyển sang nhà các cung cấp khác hiện có rất nhiều trong khu
vực…
Nhằm ứng phó với những khó khăn trên, theo Hawa DN nên liên kết lại
để thực hiện nhanh những đơn hàng lớn, giá trị cao, nhằm tránh biến động giá
cả, hoặc khi nhận được đơn hàng nên chia ra từng giai đoạn giá cả trong thực
hiện hợp đồng, tránh đồng ý giá cố định ở khoảng thời gian dài. Đối với các
thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật nên tăng các sản phẩm có giá thành trung
bình và thấp, các sản phẩm nội thất ngoài trời…
Trong XTTM, các DN khơng có điều kiện tham gia vào Hội chợ Triển
lãm XTTM cấp quốc tế chuyên ngành tổ chức trong nước như Expo Vietnam
2011, thì nên tham dự vào kênh hội chợ trực tuyến (online expo). Đây đang
được xem là kênh tìm kiếm khách hàng phổ biến của các nhà thu mua đồ gỗ,
hàng thủ công mỹ nghệ quốc tế.
Ở thị trường trong nước, DN nên liên kết lại để xây dựng chuỗi phân
phối, hoặc hình thành các cơng ty thương mại lớn có năng lực nắm bắt được
thị hiếu, thị trường, sức tiêu thụ rồi đặt hàng lại các DN sản xuất với số lượng
lớn. Đây được xem là hướng phát triển ổn định cho ngành chế biến gỗ và
hàng thủ công mỹ nghệ ở cả thị trường trong nước lẫn xuất khẩu.



20

Cũng với đó DN phải tập trung chú trọng tăng năng suất, giảm tối đa
chi phí, tham dự các khóa tập huấn phương thức sản xuất tiết kiệm nguyên
nhiên liệu do Hawa kết hợp với chuyên gia trong nước và quốc tế tổ chức.
Sản phẩm gỗ Việt Nam còn mắc một số nhược điểm như; quy mô sản
xuất nhỏ, thiếu đầu tư cho sản xuất mẫu mã đến chất lượng, cơng tác xúc tiến
thương mại, nghiên cứu thị trường cịn thấp, kém hiệu quả, nguồn cung
nguyên liệu và phân phối còn chưa đồng bộ ….
Các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ vẫn đang phụ thuộc rất nhiều vào
nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Mặc dù xuất khẩu các sản phẩm gỗ Việt Nam
có thể mang lại hơn 2 tỷ USD trong năm 2008, nhưng chi phí cho nhập khẩu
đã chiếm 1/3. Hiện 80% nguyên liệu cho sản xuất, chế biến gỗ dựa vào nguồn
nhập khẩu. Thị trường cung ứng gỗ nguyên liệu lớn nhất cho Việt Nam vẫn là
Malaysia, Lào, Trung Quốc, Mỹ, Thái Lan,… Nhưng nguồn gỗ nhập khẩu
cũng đang gặp nhiều khó khăn khi các doanh nghiệp Việt Nam nhỏ bé, thiếu
vốn, chỉ các công ty lớn liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư nước ngồi, mới có
đủ tiền lớn để mua gỗ. Các nước Malaysia, Indonesia cần xuất khẩu gỗ tròn từ
lâu, và mới đây mới tuyên bố cấm xuất khẩu gỗ xẻ. Lào cũng chỉ cho xuất
khẩu gỗ một ít ngun liệu.
Tình hình kinh tế tồn cầu suy thối trong đó kinh tế các nước cũng
chịu ảnh hưởng nhất định đã làm giảm nhu cầu tiêu thụ sản phẩm gỗ khiến
lượng đặt hàng của khách hàng nước ngồi hiện khơng cịn giữ mức tăng 20%
mỗi năm như trước và chỉ có khoảng 10%.
Những yêu cầu sử dụng nguồn gỗ và nguyên vật liệu phục vụ cho chế
biến cũng đang đặt ra khơng ít thách thức cho doanh nghiệp xuất khẩu sản
phẩm của Việt Nam bởi những quy định và xu hướng tiêu dùng mới của các
thị trường quốc tế. Tới đây người tiêu dùng ngày càng có ý thức bảo vệ môi



21

trường rất cao. Họ đòi hỏi những sản phẩm gỗ sử dụng phải đến từ những
nguồn hợp pháp.
Hiện nay xuất hiện ngày càng nhiều hành vi bảo hộ thương mại tinh vi,
tại các nước có sản phẩm xuất khẩu sang EU nói chung và thị trường các
nước nói riêng có sự kiểm soát chất lượng, nguồn gỗ với các luật lệ mới được
ban hành như: “Hiệp định tăng cường thực thi luật Lâm nghiệp, quản trị rừng
và buôn bán gỗ”. Theo hiệp định này tất cả các chuyến hàng xuất khẩu vào thị
trường này sẽ được các cơ quan có thẩm quyền cấp phép ngay sau khi kiểm
tra tính hợp pháp của các lô hàng thông qua các bằng chứng gốc. Sức cạnh
tranh mua nguyên liệu của Việt Nam yếu hơn Trung Quốc, Malaysia,…..
1.5. CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG XUẤT KHẨU ĐỒ
GỖ
Công tác Bảo vệ môi trường trong ngành chế biến gỗ thực hiện khá chặt
chẽ, các công ty doanh nghiệp hoạt động trong ngành chế biến gỗ đều nhận
được sự hợp tác, hỗ trợ từ Cục Chế biến Nông lâm sản. Các doanh nghiệp
hoạt động trong ngành này thường xuyên nhận được sự giúp đỡ về định
hướng phát triển kinh tế, công tác bảo vệ môi trường và sự giám sát từ Cục
Chế biến Nông lâm sản. Ngồi ra cịn nhận được sự hỗ trợ, phối hợp của Sở
Tài nguyên và Môi trường nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi
trường.
Trong ngành chế biến gỗ có nhiều tác nhân gây ơ nhiễm mơi trường như
nước thải, chất thải rắn, đặc biệt là bụi và khí thải. Hiện nay, các công ty đã
áp dụng nhiều phương pháp để xử lý chúng.
Đối với bụi và khí thải, tùy theo đặc tính của chúng lựa chọn các phương
pháp xử lý khác nhau:



22

 Tháp hấp thị khí thải: Nguyên tắc cơ bản của việc hấp thụ khí là tạo ra
một sự tiếp xúc giữa khí và lỏng.
 Buồng lắng bụi: Là khoang kín trong đó lưu tốc dịng khí mang hạt bụi
giảm tới một giá trị nào đó, đủ để cho các hạt bụi lắng tách ra khỏi dịng khí
ngừng trọng lực.
 Cyclon: Là thiết bị dùng phổ biến trong xử lý bụi công nghiệp.
 Hệ thống lọc túi vải: Hệ thống này bao gồm những túi vải hoặc túi sợi
đan lại, dịng khí có lẫn bụi được hút vào ống nhờ một lực hút.
 Phương pháp lọc bụi ướt: Nguyên tắc là người ta cho dịng khí có chứa
bụi tiếp xúc trực tiếp vào dung mơi.
 Ngồi ra cịn có phương pháp lọc bụi bằng tĩnh điện: Đối với nước thải,
sinh ra chủ yếu là nước thải sinh hoạt và một lượng nước thải sản xuất thì có
các phương pháp xử lý sau:
 Phương pháp cơ học: Dùng để tách các chất khơng hịa tan và một phần
chất ở dạng keo ra khỏi nước thải. Những cơng trình xử lý cơ học bao gồm:
song chắn rác, bể lắng cát, bể vớt dầu mỡ, bể lắng, bể tự hoại, bể lọc…Quá
trình xử lý hóa lý: phương pháp xử lý hóa lý là đưa vào nước thải phản ứng
nào đó để gây ra tác động với các tạp chất bẩn, biến đổi hóa học, tạo thành
chất khác dưới dạng cặn hoặc chất hòa tan nhưng không độc hại, không gây ô
nhiễm môi trường.
 Phương pháp xử lý sinh học: Quá trình xử lý thực hiện trong điều kiện
tự nhiên. Hồ sinh học, cánh đồng tưới, hồ chứa….Quá trình xử lý diễn ra
trong điều kiện nhân tạo: bể lọc sinh học, bể làm thoáng sinh học….
 Trong ngành chế biến gỗ, hầu hết các chất thải rắn được đem đi chôn
lấp. Tỷ lệ thu hồi chất có khả năng tái chế và tái sử dụng như nilon, giấy vụn,



23

thùng sơn, giẻ lau, nhựa, thủy tinh…Tỷ lệ thu hồi chất từ nguồn phát sinh đến
chôn lấp tương đối cao, tuy nhiên hoạt động thu gom hoàn toàn tự phát và
khơng có tổ chức, quản lý. Ngồi ra các chất nguy hại sinh ra trong quá trình
sản xuất được xử lý theo phương pháp sau: xử lý cơ học, xử lý hóa học, xử lý
nhiệt….
1.6. KHÁI NIỆM SẢN XUẤT SẠCH HƠN (SXSH)
1.6.1. Khái niệm sản xuất sạch hơn
Sản xuất sạch hơn là quy trình mang tính bao qt mọi khâu của các
nhà máy sản xuất, đòi hỏi phải áp dụng liên tục các giải pháp nhằm giảm
thiểu ô nhiễm môi trường, tiết kiệm nguyên - vật liệu và giảm giá thành sản
phẩm, tăng sự cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Sản xuất sạch hơn là quá trình áp dụng liên tục một chiến lược phịng
ngừa mơi trường tổng hợp trong các quá trình sản xuất, các sản phẩm và các
dịch vụ nhằm nâng cao hiệu suất kinh tế, giảm các rủi ro đối với con người và
môi trường.
1.6.2. Sản xuất sạch hơn là gì?
Mục tiêu của SXSH là tránh ơ nhiễm môi trường bằng cách sử dụng tài
nguyên, nguyên vật liệu và năng lượng một cách có hiệu quả nhất. Điều này
có nghĩa là thay vì ngun liệu bị thải bỏ thì chúng ta có thể tái tạo lại thành
phẩm. Để đạt được điều này cần phải phân tích một cách chi tiết và hệ thống
trình tự vận hành cũng như thiết bị sản xuất hay yêu cầu đánh giá về SXSH.
Mục đích cuối cùng là giảm thiểu chất thải, phịng ngừa ô nhiễm và năng suất
xanh.
Các giải pháp về SXSH:
- Tránh các rị rỉ, rơi vải trong q trình vận chuyển và sản xuất
- Đảm bảo các điều kiện sản xuất tối ưu từ quan điểm chất lượng sản
phẩm, sản lượng, tiêu thụ tài nguyên và lượng chất thải tạo ra



×