Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu GIỚI THIỆU VỀ TƯ DUY KINH TẾ (Phần 2) pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.35 KB, 6 trang )

GIỚI THIỆU VỀ TƯ DUY
KINH TẾ
(Phần 2)


SỬ DỤNG CHỈ SỐ GIÁ
Qua thời gian, mức giá có thể lên hoặc xuống. Điều thường hay xảy ra nhất
là LẠM PHÁT, được định nghĩa là sự tăng mức giá. Tuy nhiên, có những giai
đoạn mà mặt bằng giá chung giảm xuống. Hiện tượng này được gọi là GIẢM
PHÁT. Đôi khi ta gọi sự sụt giảm tỷ lệ lạm phát là GIẢM LẠM PHÁT.
Để đo lường đúng tỷ lệ lạm phát hay giảm phát, ta cần lập một năm gốc để
từ đó so sánh. Một khi đã lập năm gốc, những thay đổi mức giá tương lai (hoặc
quá khứ) có thể được so sánh với năm gốc này.
Cách dễ nhất để hiểu điều này là xem chỉ số giá tiêu dùng CPI được tính
bằng cách nào.
Công thức tính CPI là:
P0 là giá món hàng tại thời điểm 0.
Q0 là số lượng món hàng tại thời điểm 0.
P1 là giá món hàng tại thời điểm 1.
Ở dạng chung, để tính CPI ở bất cứ năm nào, ngoài năm gốc luôn bằng 100,
ta dùng công thức sau:
CPI = Chi phí của Rổ hàng hoá vào năm xem xét X 100.
Chi phí của Rổ hàng hoá vào năm gốc
SỰ KHAN HIẾM VÀ NHỮNG KHẢ NĂNG LỰA CHỌN

Những lựa chọn kinh tế là cần thiết bởi vì nguồn lực là khan hiếm: chúng
không tự nhiên có sẵn với số lượng vô hạn.

Ta có thể xây dựng đường giới hạn khả năng sản xuất cho bất cứ thực thể
sản xuất nào, kể cả toàn bộ nền công nghiệp hay kinh tế quốc gia.


Hãy tham khảo các đồ thị

Nhớ rằng chi phí cơ hội của món hàng X mà ta có là số lượng những đơn vị
Y phải bỏ đi để có được một đơn vị X:
Chi phí cơ hội của X: DY/D X = (YB - YA) / (XB - XA).
TỶ LỆ CHUYỂN ĐỔI BIÊN (của x và y)
- Số đơn vị một loại hàng phải mất đi để tăng một đơn vị của một loại hàng
khác.
Về hình học – được thể hiện bởi độ dốc của đường PPF
Về kinh tế – đó là chi phí cơ hội của món hàng X
Quy luật chi phí tương đối tăng lên – Chi phí cơ hội của những đơn vị tăng
thêm của một loại hàng sẽ tăng lên khi xã hội sản xuất loại hàng đó nhiều thêm
nữa. Vì sao điều này xảy ra? Quy luật chi phí tăng lên dựa trên thực tế là các
nguồn lực có khuynh hướng chuyên môn hóa, vì vậy một phần năng suất sẽ bị mất
đi khi các nguồn lực được chuyển từ những hoạt động mà họ làm tương đối tốt
sang những hoạt động mà họ có thể làm không tốt bằng.

MÔ HÌNH LƯU CHUYỂN CỦA NỀN KINH TẾ
Nền kinh tế ở trạng thái động hay luôn luôn chuyển động. Các yếu tố sản
xuất lưu chuyển từ khu vực người tiêu dùng sang khu vực kinh doanh. Rồi khu
vực kinh doanh sử dụng những yếu tố này để sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Đổi
lấy việc cung cấp yếu tố sản xuất, người tiêu dùng nhận được thu nhập dưới dạng
lương, tiền cho thuê, lãi và lợi nhuận. Thu nhập này sau đó được dùng để mua
hàng hóa và dịch vụ do khu vực kinh doanh sản xuất ra.

Một mộ hình lưu chuyển đơn giản của nền kinh tế được minh họa bên dưới
bằng các đường vạch.
Để thực tập anh chị có thể thêm khu vực quốc tế.
Tuy nhiên, người tiêu dùng thường không tiêu hết thu nhập của mình, và
khu vực kinh doanh hay công ty thường tiêu hơn số tiền kiếm được. Người tiêu

dùng là KHU VỰC THẶNG DƯ –không phải tất cả thu nhập của họ đều được tiêu
hết, trong khi công ty là khu vực THÂM HỤT – chi tiêu nhiều hơn thu nhập.
Lượng thu nhập không được người tiêu dùng chi tiêu được đưa vào tiết kiệm.
Những nguồn vốn này được khu vực kinh doanh vay để chi cho đầu tư, xây nhà
xưởng hoặc mua máy móc.

Rất tiếc là nền kinh tế thực tại phức tạp hơn nhiều so với những gì được mô
tả cho đến lúc này. Tất cả chúng ta đều quá biết rằng không phải tất cả thu nhập có
được đều có thể tiêu vào hàng hóa, dịch vụ hay tiết kiệm. Một phần thu nhập phải
được dùng để trả thuế. Thuế được dùng để trả cho chi tiêu chính phủ. Thoạt đầu
việc trả thuế làm giảm dòng thu nhập bằng cách giảm bớt số tiền mà người tiêu
dùng có, nhưng về sau lại xuất hiện trở lại trong dòng thu nhập thông qua chi tiêu
của khu vực chính phủ.
Những thành tố thêm vào mô hình lưu chuyển là nhập khẩu và xuất khẩu.
NHẬP KHẨU là những khoản chi tiêu của người tiêu dùng (và công ty) vào
những sản phẩm sản xuất ở thị trường nước ngoài. Những khoản chi tiêu này sẽ
làm giảm dòng thu nhập. Tuy nhiên, XUẤT KHẨU, tức những khoản chi tiêu của
các thực thể nước ngoài vào hàng hóa và dịch vụ sản xuất ở nền kinh tế trong nước
sẽ làm tăng dòng thu nhập.
Cuối cùng, ta có thể thêm vai trò của các trung gian tài chính như ngân
hàng hay thị trường chứng khoán. Những định chế này tập hợp vốn của khu vực
thặng dư (Tiết kiệm) và cho khu vực thâm hụt vay để đầu tư.
Hai thước đo thường được dùng để biểu diễn giá trị sản lượng trong một
nền kinh tế. Đó là Tổng Sản phẩm Quốc dân (GNP) và Tổng Sản phẩm Quốc nội
(GDP).

×