Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Xu hướng phát triển số hóa và thanh toán điện tử của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam ứng phó với đại dịch COVID-19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.24 KB, 9 trang )

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

36.

XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN SỐ HĨA
VÀ THANH TỐN ĐIỆN TỬ CỦA HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
ỨNG PHÓ VỚI ĐẠI DỊCH COVID-19
ThS. Nguyễn Quốc Phóng*
Tóm tắt
Từ đầu năm 2020 đến nay, đại dịch COVID-19 lan rộng trên toàn cầu và tác động đến các
ngành kinh tế, trong đó có ngành Tài chính - Ngân hàng. Đại dịch đã làm thay đổi từ mơ hình
hoạt động, kế hoạch kinh doanh cho tới chiến lược tăng trưởng của các định chế tài chính trên
tồn thế giới. Tuy nhiên, trong đại dịch, các hoạt động thương mại điện tử và dịch vụ điện tử cũng
có nhiều cơ hội phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh tốn điện tử, chuyển đổi
cơng nghệ ngân hàng số phát triển. Bài viết khái quát xu hướng phát triển số hóa của thế giới và
liên hệ với Việt Nam.
Từ khóa: Xu hướng, chuyển đổi số, thanh toán điện tử, ngân hàng Việt Nam
1. GIỚI THIỆU
Theo thống kê, thiệt hại do đại dịch COVID-19 gây ra cho ngành Ngân hàng châu Âu đã lên
tới con số hơn 700 triệu Euro. Tại Mỹ, có 3 ngân hàng lớn cho biết đã trích lập tổng cộng gần 25
tỷ USD vào các khoản dự phịng rủi ro tín dụng, chỉ riêng trong quý II/2020. Tại Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nhật Bản và nhiều quốc gia khác ở châu Á, đại dịch COVID-19 cũng làm giảm sút
mạnh doanh thu của các hoạt động hàng không và sân bay quốc tế, các du thuyền du lịch, khách
hàng, nhà hàng, công ty du lịch và lữ hành, các hoạt động vui chơi giải trí, thương mại dịch vụ
khác có liên quan. Cũng trong bối cảnh đó, chiến lược chuyển đổi số dần được xem là lời giải
vẹn toàn cho những thách thức phi truyền thống, giúp ngân hàng nhanh chóng thích ứng với sự
thay đổi, đồng thời tạo ra lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ trên thị trường. Khơng nằm ngồi
xu hướng, ngành Ngân hàng Việt Nam cũng đang chứng kiến “bước nhảy vọt” trong tiến trình
triển khai số hóa dịch vụ và thanh toán điện tử.
*



Khoa Kinh tế, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên

404


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

Do giới hạn của một bài viết nên tác giả khơng có điều kiện sử dụng phương pháp định lượng,
xây dựng tổng quan nghiên cứu, tìm khoảng trống nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý thuyết nghiên
cứu, xây dựng mơ hình nghiên cứu, phát phiếu điều tra, phân tích, giả thiết,… đưa ra giả thiết
và câu hỏi nghiên cứu, xây dựng các hàm, các biến, đo lường các nhân tố ảnh hưởng... Bài viết
dựa trên phương pháp nghiên cứu khoa học định tính truyền thống, tiến hành phân tích, đánh giá,
nhận xét dựa trên nguồn tư liệu và tư liệu thứ cấp của các cơ quan, tổ chức, từ đó, đưa ra khuyến
nghị theo mục tiêu của bài viết.
2. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN SỐ HÓA VÀ THANH TOÁN ĐIỆN TỬ CỦA HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1. Những nhân tố tạo nên xu hướng phát triển bùng nổ 
Trước khi dịch COVID-19 bùng phát, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0)
vẫn đang diễn ra sơi nổi trên phạm vi tồn cầu, làm biến chuyển cách hoạt động của nhiều ngành
nghề, lĩnh vực kinh tế và đặc biệt là ngành Ngân hàng. Sự hình thành của ngân hàng số đã tạo ra
nhiều sản phẩm và dịch vụ tài chính ưu việt hơn so với mơ hình truyền thống, thể hiện qua các
tiện ích thơng minh, đa dạng, được phân phối và cung ứng qua khơng gian số. Cùng với đó, thị
trường thương mại điện tử thăng hoa cũng tạo điều kiện cho ngân hàng số bùng nổ, trở nên thân
thuộc hơn với người tiêu dùng nhờ những lợi ích tồn diện kèm trải nghiệm giao dịch, thanh toán
vượt trội.
Số liệu nghiên cứu của HSBC cho thấy, sau dịch COVID-19, mỗi tuần có khoảng 71% người
tiêu dùng trên toàn cầu sử dụng các kênh ngân hàng kỹ thuật số - tăng 3% so với cùng kỳ năm

ngoái - trong khi mức sử dụng hàng ngày tăng 6% so với cùng thời kỳ. Số người dùng dịch vụ
ngân hàng di động hàng tháng tại Hồng Kông đã thể hiện ​​mức tăng mạnh (9 điểm phần trăm)
trong khoảng thời gian từ nửa đầu năm 2019 đến nửa đầu năm 2020, tăng từ 74% lên 83% số
người được khảo sát. Trên tồn cầu, ngày càng có nhiều giao dịch ngân hàng được thực hiện
thông qua các nền tảng kỹ thuật số.1
Thực tế việc chuyển đổi các hoạt động sang kỹ thuật số là khó có thể tránh khỏi, bao gồm: kiểm
tra số dư, thanh tốn và chuyển khoản, thanh tốn hóa đơn, thậm chí cả đăng ký sở hữu một
chiếc thẻ tín dụng. Nhiều hoạt động trong số này là thói quen và một khi thói quen đã được hình
thành thì khó có thể thay đổi. Trong thời kỳ “hậu COVID-19”, sẽ có nhiều người thực hiện giao
dịch ngân hàng thơng thường thơng qua các tính năng kỹ thuật số.
Khi dịch COVID-19 len lỏi vào Việt Nam và Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 về việc
giãn cách xã hội được ban hành, người dân cũng bắt đầu gia tăng rõ rệt tần suất thực hiện giao
dịch qua các phương thức trực tuyến, sử dụng ví điện tử, app ngân hàng nhiều hơn để gửi tiền,
mua sắm, thanh tốn hóa đơn. Giữa làn sóng COVID-19 lần thứ nhất, lượng giao dịch thanh toán
điện tử tăng trưởng đến 20%, tổng giá trị đạt ngưỡng 15 nghìn tỷ đồng; giao dịch chuyển tiền, rút
tiền, trả lương tăng trưởng 28%; dịch vụ tiết kiệm tăng trưởng đến 60%… Điều này cho thấy xu
hướng hành vi xã hội chắc chắn phải số hóa - các dịch vụ ngân hàng số sẽ tăng trưởng với quy
mô và giá trị giao dịch lớn.2 
1

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2020), truy cập tại: www.vbna.org.vn, các mục thơng tin có liên quan.

2

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2020), truy cập tại: www.vbna.org.vn, các mục thông tin có liên quan.

405


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA


2.2. Thực tiễn triển khai chuyển đổi số trong hệ thống ngân hàng Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, có 94% ngân hàng thương mại (NHTM) đã bước đầu triển khai hoặc
nghiên cứu, xây dựng chiến lược chuyển đổi số. Nhiều ngân hàng đã ứng dụng các công nghệ
tiên tiến, giải pháp mới vào hoạt động thanh toán nhằm tăng tốc độ xử lý giao dịch, tăng tính an
tồn, bảo mật dịch vụ, gia tăng trải nghiệm và sự hài lòng của khách hàng như: xác thực sinh
trắc học (vân tay, khuôn mặt); thanh tốn qua mã QR; thanh tốn an tồn, thuận tiện qua mã hóa
thơng tin thẻ (Tokenization); thanh tốn phi tiếp xúc tốc độ và tiện lợi; giải pháp chấp nhận thanh
toán linh hoạt trên thiết bị di động (mPOS)... Kết quả là trong 6 tháng đầu năm 2020, trong khi
nhiều ngành kinh tế bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 thì giao dịch thanh tốn khơng dùng tiền
mặt qua ngân hàng vẫn tăng trưởng ấn tượng, với mức tăng 48,3% về số lượng và 13,4% về giá
trị so với cùng kỳ năm 2019. Đáng chú ý, nhiều NHTM còn hợp tác với doanh nghiệp Fintech
để triển khai ứng dụng thanh tốn di động, ví điện tử, cổng thanh tốn,… tiêu biểu như cuộc hợp
tác chiến lược giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) Bản Việt (Viet Capital Bank) với
nền tảng ngân hàng số Timo để cho ra mắt phiên bản ngân hàng số mới với tên gọi Timo Plus1.
Ngoài việc đón đầu xu thế chuyển đổi số cũng như tiên phong trong việc áp dụng các giải
pháp công nghệ tiên tiến, việc hợp tác với Ngân hàng TMCP Bản Việt là bước đi khôn ngoan để
Timo Plus tiếp tục mang đến thị trường những cải tiến ấn tượng, đồng thời, nâng cao trải nghiệm
cho người dùng và thúc đẩy thói quen giao dịch ngân hàng trực tuyến. 
Tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh vượng (VPBank), đến hết tháng 9/2020, số lượng
khách hàng số (digital user) tại ngân hàng mẹ đã đạt gần 1,7 triệu, tương đương tăng 33% so với
cuối 2019 - một trong những động lực đến từ định danh điện tử (eKYC) mà VPBank triển khai
từ hồi tháng 7/2020. Sau một tháng triển khai, đến tháng 9/2020, Ngân hàng TMCP Phát triển
Thành phố Hồ Chí Minh (HDBank) có 35 nghìn khách hàng mới đăng ký trên ứng dụng và 15
nghìn tài khoản đã xác thực thơng tin trực tuyến. Đến tháng 9/2020, Ví Việt - nền tảng ngân hàng
số của Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) có 3 triệu người dùng và 50
nghìn đại lý.
Việc triển khai eKYC đã giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian xử lý, giảm sai sót chủ quan
do con người, giảm chi phí nhân sự... Về phía người dùng, eKYC giúp họ tiết kiệm thời gian và
được trải nghiệm tốt hơn những tiện ích mà q trình này mang lại. Trước đây, việc định danh

người dùng có thể mất đến 24 giờ nếu nhân sự xử lý thủ công. Tuy nhiên, hiện nay, cơng tác này
có thể được xử lý tức thời nhờ giải pháp eKYC ứng dụng công nghệ AI, nhờ đó, lĩnh vực ngân
hàng số (Digital Banking) đã phát triển rất mạnh từ đầu năm 2020 đến nay.
Đến hết tháng 9/2020, ví điện tử MoMo đã đạt quy mô 20 triệu người dùng, gấp đôi con số
10 triệu của năm 2019. Hay như SmartPay, một ví điện tử chỉ mới hoạt động từ tháng 5/2019
cũng đã sở hữu được 1,5 triệu người dùng cá nhân và 300 nghìn tiểu thương, theo số liệu công
bố vào tháng 8/20202.

Ngân hàng thương mại Việt Nam (2020), Báo cáo hoạt động thanh tốn điện tử tháng 10/2020; Báo cáo tài chính
hợp nhất của các NHTM hết quý II/2020, tháng 8/2020 và hết quý III/2020, tháng 11/2020 của một số NHTM được
lựa chọn.

1

2

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2020), truy cập tại: www.vbna.org.vn, các mục thơng tin có liên quan.

406


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

Hiện nay, trên thị trường đang có sự cạnh tranh phát triển khách hàng về cơng nghệ đối với
bộ 3 ví điện tử, Mobile Banking và cả Mobile Money (tiền di động). Khảo sát của VISA ghi nhận
74% người tiêu dùng đồng ý thanh toán bằng cơng cụ khơng tiền mặt vì họ cho rằng, phương tiện
chấp nhận thanh toán đang nhiều lên, đồng nghĩa việc mang tiền mặt sẽ được hạn chế. Khoảng
37% người tiêu dùng đang sử dụng thanh tốn thẻ khơng tiếp xúc tại Việt Nam và 42% trong

số đó thanh tốn khơng tiếp xúc bằng điện thoại di động. Đối với nhóm sử dụng thanh tốn thẻ
khơng tiếp xúc, có 85% người thanh tốn một lần một tuần hoặc nhiều hơn. 
2.3. Khảo sát trường hợp tại ngân hàng thương mại quy mô lớn
Là một trong những NHTM hàng đầu tại Việt Nam, thời gian qua, Ngân hàng TMCP Đầu
tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) liên tục tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ số vào
hoạt động, góp phần thúc đẩy nhanh thanh tốn khơng dùng tiền mặt, đáp ứng sự thay đổi của
thị trường. Năm 2019, BIDV thành lập Trung tâm Ngân hàng số nhằm đẩy nhanh số hóa tồn
diện các mặt của Ngân hàng, tập trung phát triển các sản phẩm/dịch vụ ứng dụng công nghệ cao
với mục tiêu thay đổi thói quen thanh tốn của khách hàng. BIDV cũng liên tục đưa ra các gói
sản phẩm/dịch vụ, chương trình ưu đãi dài hạn dành cho cả khách hàng cá nhân và khách hàng
doanh nghiệp trên hai nền tảng ngân hàng số là Smartbanking (cho khách hàng cá nhân) và iBank
(cho khách hàng doanh nghiệp), khuyến khích sử dụng/thanh tốn qua các kênh online. Trong
10 tháng đầu năm 2020, số lượng khách hàng cá nhân mới tăng 30% so với cùng kỳ năm 2019,
riêng qua nền tảng Smartbanking, số lượng giao dịch chiếm 52% tổng số lượng giao dịch toàn
ngân hàng và tăng gần gấp đôi so với cả năm 2019. Số lượng giao dịch qua nền tảng iBank cũng
tăng đột biến, một phần ảnh hưởng của COVID-19, một phần do các chính sách thúc đẩy và hỗ
trợ của BIDV cho phân đoạn khách hàng này1.
Bên cạnh đó, BIDV đã thúc đẩy và hồn thiện cổng thanh tốn theo hướng Ngân hàng mở
(BIDV Paygate) kết nối với gần 2.000 nhà cung cấp dịch vụ bán lẻ và các trung gian thanh tốn,
cho phép thanh tốn khơng dùng tiền mặt từ các dịch vụ tiện ích cơ bản như điện/nước/truyền
hình/internet/viễn thơng, các dịch vụ thanh tốn học phí, viện phí, nộp thuế và các dịch vụ công,
đến các dịch vụ cao cấp như: đăng ký vé máy bay/xem phim, thanh toán bảo hiểm, trả lãi tín
dụng, hoạt động từ thiện và nhiều tiện ích khác, kết hợp với các chương trình ưu đãi của BIDV
và đối tác khi giao dịch trực tuyến.
Việc mở rộng và kết nối với các đối tác, công ty Fintech, các doanh nghiệp cũng được đẩy
mạnh để xây dựng hệ sinh thái phục vụ các nhu cầu thanh tốn khơng dùng tiền mặt trong mọi
lĩnh vực, ngành nghề… tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa khách hàng, nhà cung cấp dịch vụ và BIDV.
Đặc biệt, BIDV chú trọng việc xây dựng các nền tảng công nghệ hỗ trợ cho các doanh nghiệp
phát triển hệ sinh thái của mình, ví dụ như các dịch vụ tài khoản định danh (virtual account), dịch
vụ ngân hàng trực tiếp trên các nền tảng ứng dụng quản trị doanh nghiệp của khách hàng (firm

banking) trên nền tảng API mở, không giới hạn thanh toán trong nội địa mà mở rộng liên kết với
các quốc gia và các khu vực trên thế giới với lợi thế mạng lưới quan hệ rộng khắp của Ngân hàng.
Ngân hàng thương mại Việt Nam (2020), Báo cáo hoạt động thanh toán điện tử tháng 10/2020; Báo cáo tài chính
hợp nhất của các NHTM hết quý II/2020, tháng 8/2020 và hết quý III/2020, tháng 11/2020 của một số NHTM được
lựa chọn.

1

407


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Nhằm thúc đẩy thanh tốn khơng dùng tiền mặt, một hoạt động khơng thể thiếu đó là đẩy
mạnh các hoạt động truyền thơng, các chương trình và chính sách phí hợp lý để tăng cường nhận
biết của khách hàng đối với các kênh thanh toán số của BIDV. Các nội dung này đều được BIDV
triển khai một cách đồng bộ để định hướng khách hàng chuyển dịch sang các kênh ngân hàng số.
Nhằm góp phần đẩy nhanh thanh tốn khơng dùng tiền mặt, BIDV đang chuẩn bị kỹ càng
về công nghệ và quy trình vận hành để áp dụng xác thực khách hàng điện tử (eKYC) trên điện
thoại thông minh nhằm đem lại trải nghiệm tốt nhất cho khách hàng, đồng thời đảm bảo được các
yêu cầu về an toàn và tuân thủ các quy định pháp lý (sau khi Thông tư 23/2012/TT-NHNN ngày
09/8/2012 của NHNN được chính thức sửa đổi). Bên cạnh đó, BIDV cịn chuẩn bị hạ tầng để sẵn
sàng kết nối với Cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia (do Bộ Cơng an chủ trì thực hiện và đang triển
khai) tự động, an tồn để nhanh chóng xác thực thơng tin khách hàng một cách chính xác nhất.
2.4. Tổng quan chuyển đổi số và phát triển thanh toán điện tử tại hệ thống ngân hàng
Việt Nam
Về cơ bản, CMCN 4.0 hay COVID-19 có thể được coi là “phép thử” cho các định chế tài
chính trong việc triển khai chiến lược chuyển đổi số. Trên thực tế, có rất nhiều tác động trong
ngắn hạn và dài hạn nhưng tựu trung lại, để thành công, các ngân hàng cần tập trung phát triển
hệ sinh thái số của mình để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Vì vậy, các ngân hàng cần

phải xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo chiến lược chuyển đổi số vận hành hài hòa với những thách
thức mới của cuộc khủng hoảng cũng như những thách thức trong tương lai.
Timo Plus là nhân tố mới nhất tham gia vào lĩnh vực tài chính với tư cách là một ngân hàng
số hướng đến giúp đỡ khách hàng trên hành trình đến với tự do tài chính. Hợp tác với Ngân hàng
TMCP Bản Việt, Timo Plus mang đến một trải nghiệm ngân hàng đặc quyền mà khách hàng luôn
mong đợi mà không gặp áp lực với việc phải duy trì số dư tài khoản hay chịu các loại chi phí
giao dịch1.
Với những lợi thế của cơng nghệ cũng như tầm quan trọng của điện thoại thông minh trong
cuộc sống hiện nay, trải nghiệm mà Timo Plus mang lại chính là dịch vụ ngân hàng bất kể địa
điểm nào cũng cho phép khách hàng truy cập vào tài khoản, thực hiện giao dịch, quản lý và gia
tăng giá trị tài sản của họ mọi lúc, mọi nơi.
Đến nay, trên tồn quốc đã có khoảng gần 40 bệnh viện triển khai thanh tốn viện phí điện
tử; 50 NHTM hồn thành kết nối thanh toán thuế điện tử với cơ quan thuế, hải quan trên 63 tỉnh,
thành phố, 95% số thu hải quan thực hiện qua ngân hàng; 99% doanh nghiệp đăng ký nộp thuế
điện tử; 27 NHTM và 10 tổ chức trung gian thanh toán phối hợp thu tiền điện (doanh thu tiền
điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam thanh toán qua ngân hàng lên tới gần 90%). Các ví điện tử
cũng phối hợp với các NHTM thực hiện thu tiền nước sạch, cước phí viễn thơng, bảo hiểm nhân
thọ,… hàng tháng qua ngân hàng2.

1
Ngân hàng thương mại Việt Nam (2020), Báo cáo hoạt động thanh toán điện tử tháng 10/2020; Báo cáo tài
chính hợp nhất của các NHTM hết quý II/2020, tháng 8/2020 và hết quý III/2020, tháng 11/2020 của một số
NHTM được lựa chọn.

2

Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2020), truy cập tại: www.vbna.org.vn, các mục thông tin có liên quan.

408



KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

Khảo sát của Công ty PwC (đối với 27 nước) đã ghi nhận Việt Nam là thị trường tăng trưởng
nhanh nhất về thanh toán di động trong năm 2018. Đến nay, tồn thị trường có 77 tổ chức triển
khai dịch vụ thanh toán qua internet và 45 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán qua điện thoại di
động. Các đơn vị đã nghiên cứu, ứng dụng nhiều công nghệ mới, hiện đại vào hoạt động thanh
toán, với việc áp dụng xác thực vân  tay, nhận diện khuôn mặt, sinh trắc, sử dụng QR Code,
Tokenization, thanh tốn phi tiếp xúc, cơng nghệ mPOS... Đến nay, có khoảng 30 ngân hàng triển
khai dịch vụ thanh toán QR Code, tồn thị trường có hơn 90 nghìn điểm chấp nhận thanh tốn
QR Code (một hình thức thanh tốn mới, hiện đại tại đơn vị chấp nhận thanh toán tương tự như
thanh tốn qua POS).
Đến nay, có 78 tổ chức triển khai dịch vụ thanh toán qua internet, 49 tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán qua điện thoại di động và 34 tổ chức không phải ngân hàng được cấp giấy phép cung
ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Tính đến cuối năm 2020, đã có 75 tổ chức triển khai dịch vụ
thanh toán qua internet và 45 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động. Số tài
khoản cá nhân đạt 95,6 triệu tài khoản, tăng 45,5% so với cùng kỳ năm 2016. Thanh tốn qua POS
đạt hơn 218 triệu món với 382.860 tỷ đồng, tăng tương ứng 176,5% và 139,5% so với cùng kỳ năm
2016; thanh tốn qua ATM đạt 660 triệu món với hơn 1,818 triệu tỷ đồng, tăng tương ứng 38,7%
và 53,8% so với cùng kỳ năm 2016. Số lượng và giá trị thanh toán qua kênh internet đạt 282,4 triệu
giao dịch với 17,4 triệu tỷ đồng, tăng tương ứng 262,5% và 353,1% so với cùng kỳ năm 2016. Đặc
biệt, số lượng và giá trị thanh toán qua kênh điện thoại di động đạt 682,3 triệu giao dịch với gần 7,2
triệu tỷ đồng, tăng trưởng vượt bậc 981% và 794% so với cùng kỳ năm 20161.
Hình 1. Giao dịch của khách hàng (các NHTM) qua các thiết bị thanh toán
giai đoạn 2016 - 2020

Nguồn: NHTM Việt Nam (2020)


2.5. Một số đánh giá và nhận xét
2.5.1. Một số kết quả đạt được
Một là, khn khổ pháp lý và chính sách trong hoạt động thanh toán tiếp tục được NHNN
phối hợp cùng các bộ, ngành có liên quan hồn thiện, nhằm tạo điều kiện thuận lợi ứng dụng
công nghệ mới, hiện đại. Hạ tầng thanh toán của NHNN như: hệ thống thanh toán điện tử liên
ngân hàng; hệ thống chuyển mạch, bù trừ cũng như của các NHTM và tổ chức trung gian thanh
tốn tiếp tục được nâng cấp và hồn thiện.
1

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2020), truy cập tại: www.sbv.gov.vn; các mục: Tin tức - Sự kiện, Văn bản pháp luật.

409


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Hai là, hệ sinh thái thanh tốn điện tử đã được hình thành với sự kết nối, tích hợp với các
ngành, lĩnh vực khác cho phép khách hàng thực hiện các giao dịch thanh tốn trực tuyến đối với
hóa đơn điện, nước, viễn thông, mua sắm trực tuyến tại các trang thương mại điện tử, nộp thuế
điện tử và một số khoản phí, lệ phí khi thực hiện một số dịch vụ hành chính cơng, góp phần thúc
đẩy phát triển Chính phủ điện tử, chính quyền điện tử và thương mại điện tử.
Ba là, hầu hết các thành tựu của cuộc CMCN 4.0 đã được ứng dụng mạnh mẽ trong lĩnh vực
thanh toán tại Việt Nam, được nhiều đơn vị cung ứng dịch vụ công, nhiều doanh nghiệp chủ động
hợp tác với các NHTM và tổ chức trung gian thanh toán đáp ứng nhu cầu nâng cao hiệu quả hoạt
động của mình. Ví dụ như việc phát triển eKYC từ LiveBank lên nền tảng di động cũng góp phần
hồn thiện hệ sinh thái ngân hàng số của một số NHTM sử dụng ứng dụng này. Đồng thời, khẳng
định vị thế tiên phong trong việc ứng dụng cơng nghệ trong hoạt động tài chính cũng như thể
hiện mục tiêu không ngừng nâng cao trải nghiệm khách hàng, phát triển những sản phẩm, dịch
vụ mang tính ứng dụng với chất lượng ngày càng cao.
Bốn là, vấn đề an ninh, an tồn trong thanh tốn ln được NHNN, các NHTM và tổ chức

trung gian thanh toán quan tâm, đầu tư, đưa ra giải pháp hiệu quả; khách hàng được đặt là vị trí
trung tâm, ưu tiên trong quá trình cung ứng các sản phẩm, dịch vụ; đồng thời, quyền lợi hợp pháp
luôn được đảm bảo. Bên cạnh đó, chuyển đổi số tại các NHTM Việt Nam khơng chỉ giới hạn ở
việc số hóa dữ liệu giao dịch mà thơng qua đó, phải tập trung nâng cao trải nghiệm của khách
hàng. Các NHTM Việt Nam đặt mình vào vị trí của khách hàng để nắm bắt nhu cầu của khách
hàng và cung cấp các trải nghiệm số ưu việt trong hành trình trải nghiệm. Khách hàng phải là
trung tâm của mọi quyết định chuyển đổi số của ngân hàng.
Năm là, hiện đại hóa và tự động hóa các giao dịch nội bộ NHTM đang được triển khai mạnh
mẽ tại nhiều ngân hàng.
2.5.2. Một số hạn chế
Một là, hành lang pháp lý chưa đầy đủ, chưa kịp thời. Mãi đến đầu tháng 12/2020, NHNN
mới ban hành Thông tư số 16/2020/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số
23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 của Thống đốc NHNN Việt Nam hướng dẫn việc mở và sử
dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Đáng chú ý, Thơng tư có bổ
sung Điều 14a quy định về mở tài khoản thanh toán của cá nhân bằng phương thức điện tử (eKYC).
Theo đó, các NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện mở tài khoản thanh toán bằng
phương thức điện tử phải xây dựng, ban hành, cơng khai quy trình, thủ tục mở tài khoản thanh toán
bằng phương thức điện tử phù hợp với quy định tại Điều 14a, Luật Phòng, chống rửa tiền, pháp luật
về giao dịch điện tử, các quy định pháp luật liên quan về đảm bảo an tồn, bảo mật thơng tin khách
hàng và an toàn hoạt động của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngồi. 
Theo chỉ đạo tại Thơng báo số 250/TB-VPCP ngày 24/7/2020, NHNN đã hoàn thiện dự thảo
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn
thơng thanh tốn cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ Mobile Money (NHTM Việt Nam, 2020).
Tuy nhiên, cho đến cuối tháng 2/2021, do một số bộ, ngành còn nhiều ý kiến khác nhau nên
văn bản vẫn chưa được ban hành. Trong khi đó, Mobile Money chính thức được cơng nhận và
đang hoạt động có hiệu quả tại gần 100 quốc gia trên thế giới. Nghị định về cơ chế thử nghiệm

410



KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

có kiểm sốt hoạt động cơng nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng (Sandbox) đến nay cũng
chưa được ban hành. Đến đầu tháng 3/2021, Thủ tướng Chính phủ mới có quyết định về triển
khai thí điểm trong hai năm về Mobile Money, điều này thể hiện rõ sự chậm trễ trong nhận thức
của một số bộ, ngành có liên quan. Nhưng thơng qua đó thể hiện quyết tâm của Thủ tướng Chính
phủ trong chỉ đạo vấn đề này.
Hai là, thói quen sử dụng tiền mặt, tâm lý e ngại khi tiếp cận với công nghệ thanh tốn mới
của người dân. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng thanh toán chưa được phát triển ở khu vực nông thôn,
vùng sâu, vùng xa; đơn vị chấp nhận thanh tốn chưa có đủ kiến thức cũng như lợi ích thiết thực
khi chấp nhận thanh tốn khơng dùng tiền mặt so với tiền mặt, do đó chưa tích cực tham gia.
Ba là, tội phạm trong lĩnh vực công nghệ cao, thanh tốn điện tử gần đây có những diễn
biến phức tạp với những hành vi, thủ đoạn mới, tinh vi hơn, do đó, các biện pháp bảo đảm an
ninh, an tồn cho các dịch vụ thanh tốn dựa trên công nghệ cao cần tiếp tục được quan tâm
và tăng cường.
3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Một là, các cấp, các ngành, các địa phương cần tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức
của người dân, kể cả các nhân viên, cán bộ trong ngành Ngân hàng về những thủ đoạn lừa đảo
cơng nghệ cao; thường xun kiểm tra, kiểm sốt phát hiện các giao dịch đáng ngờ; chủ động
triển khai phương án phịng, chống rủi ro, tấn cơng mạng... Cần tận dụng sự phát triển của các
kênh truyền thông online, mạng xã hội tăng cường truyền thông để mỗi người dân hiểu rõ ưu nhược điểm của các phương thức thanh tốn khơng dùng tiền mặt. Từ đó, thay đổi thói quen và
nhận thức của người dân trong việc nhìn nhận tiền mặt là một công cụ được ưa chuộng trong
thanh tốn, đồng thời tự quyết định chọn lựa hình thức thanh toán phù hợp nhất.
Hai là, NHNN và các NHTM cần tham khảo kinh nghiệm quốc tế trong thúc đẩy thanh tốn
khơng dùng tiền mặt với các mơ hình hiệu quả tại Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan như: tổ chức các
chương trình kích cầu, hồn tiền khi giao dịch điện tử, miễn phí giao dịch nhỏ; xây dựng hệ thống
thuế điện tử tích hợp eTAX; xây dựng hệ thống chuyển tiền PromptPay cho phép không cần dùng
tài khoản ngân hàng mà có thể dùng mã số định danh quốc gia và số điện thoại di động...

Ba là, Chính phủ chỉ đạo NHNN phối hợp với các bộ, ngành có liên quan khẩn trương tiếp tục
hoàn thiện hành lang pháp lý, xây dựng bộ tiêu chí đo lường tỷ lệ sử dụng các phương tiện thanh
tốn khơng dùng tiền mặt; ban hành quy định quản lý công ty công nghệ tài chính (Fintech), ví
điện tử; phối hợp triển khai có hiệu quả tiền di động (Mobile Money); hoàn thiện, cập nhật Đề án
quốc gia về thanh tốn khơng dùng tiền mặt (có cơ chế giải pháp khuyến khích, cưỡng chế thanh
tốn khơng dùng tiền mặt...). Thêm nữa, NHNN cần sớm có quy định về chia sẻ thông tin, dữ
liệu; cơ chế công nhận kết quả thẩm định, xác thực lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng, xây dựng
cơ sở dữ liệu định danh cá nhân quốc gia. Việc nghiên cứu cấp phép ngân hàng số; nghiên cứu
cách tiếp cận, quản lý tiền kỹ thuật số cũng là những điều cần được quan tâm.
NHNN cần phải tiếp tục rà sốt, hồn thiện khung khổ pháp lý, ban hành các cơ chế đột phá
mới. Đồng thời, tiếp tục các biện pháp để nâng cao vai trò giám sát của cơ quan quản lý, kiểm
soát tốt rủi ro hoạt động của hệ thống ngân hàng và đảm bảo an toàn cho các giao dịch của khách
hàng. Bên cạnh đó, NHNN cần nghiên cứu, xem xét đưa ra Dự luật Thanh tốn trình cấp có thẩm
411


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

quyền cho triển khai xây dựng và sớm được ban hành. Hiện nay, trên thế giới đã có 84 quốc gia
có Luật Thanh tốn, trong đó có Lào và Campuchia. Hiện nay tại Việt Nam, tham gia lĩnh vực
thanh tốn có rất nhiều chủ thể (Fintech, Big tech…) chứ khơng chỉ có tổ chức tín dụng. Ngồi
ra, thực tiễn trong nền kinh tế cũng xuất hiện nhiều hình thức thanh tốn mới như: QR, Mobile
Money,... do đó, cần có Luật Thanh tốn để điều chỉnh.
Bốn là, bản thân các NHTM cần đầu tư mạnh mẽ hơn nữa về công nghệ, chủ động xây dựng
các kênh phân phối, tăng năng lực kết nối với địa phương, tăng cường đầu tư về hạ tầng công
nghệ để tạo ra nhiều sản phẩm, tiện ích, tăng trải nghiệm người dùng… Đồng thời, các NHTM
cũng cần phối hợp để tạo sự xuyên suốt giữa các trung tâm dữ liệu, ngân hàng, đơn vị trung gian
thanh toán, cổng thanh tốn.
Năm là, cần tăng cường vai trị của các cơng ty Fintech. Hệ thống ngân hàng phải xác định rõ
lộ trình hợp tác, tích hợp, tận dụng nhiều nhất các lợi thế của các cơng ty này. Từ đó, mỗi NHTM

cần phải nhanh chóng thay đổi cách thức hoạt động cho phù hợp, thay đổi tư duy xây dựng sản
phẩm, dịch vụ, các tiện ích phải đa dạng, an tồn và có sự phối kết hợp, hỗ trợ lẫn nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2020), truy cập tại: www.vbna.org.vn, các mục thơng tin có
liên quan.
2. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2015 - 2020), truy cập tại www.vnba.org.vn: các mục: Thông
tin hoạt động các NHTM hội viên hàng, tháng, các năm 2015 - 2020.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2020), truy cập tại: www.sbv.gov.vn; các mục: Tin tức - Sự
kiện, Văn bản pháp luật.
4. Ngân hàng thương mại Việt Nam (2020), Báo cáo hoạt động thanh tốn điện tử tháng
10/2020; Báo cáo tài chính hợp nhất của các NHTM hết quý II/2020, tháng 8/2020 và hết
quý III/2020, tháng 11/2020 của một số NHTM được lựa chọn.
5. Vietcombank (2015 - 2020), Thông tin hoạt động của Vietcombank tại Báo báo thường niên,
báo cáo tổng kết hoạt động hàng năm, thông tin công bố trên www.vcb.com.vn, các năm
2015 - 2020.
6. Vietsttock (2017-2021), truy cập tại: .
7. VNDIRECT (2018 - 2020), Báo cáo nghiên cứu thị trường tài chính hàng tháng, các tháng
trong các năm 2018 - 2020 của Cơng ty Chứng khốn VNDIRECT gửi các nhà đầu tư chứng
khốn mở tài khoản tại Cơng ty.

412



×