Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Cơ hội và thách thức của thanh toán điện tử trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.82 KB, 9 trang )

KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

45.

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA THANH TOÁN ĐIỆN TỬ
TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19
VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ SỐ Ở VIỆT NAM
TS. Hà Thị Sáu*
Tóm tắt
Dịch COVID-19 xuất hiện đã gây ra nhiều khó khăn cho kinh tế toàn cầu cũng như trong
nước, tuy nhiên, đây cũng là cơ hội cho phát triển thanh toán điện tử và thương mại điện tử. Cụ
thể là trong hơn một năm qua, thanh tốn khơng dùng tiền mặt (TTKDTM) thông qua các giao
dịch ngân hàng điện tử tại Việt Nam tăng đột biến. Ở một góc độ khác, TTKDTM là mối quan
tâm, của Quốc hội, Chính phủ. Việc giảm tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt đang trở thành nhiệm
vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Quốc hội và Chính phủ Việt
Nam thì thanh tốn điện tử là một giải pháp chủ yếu của mục tiêu này.
Theo báo cáo cơng khai, chính thức của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến tháng
8/2020, tỷ lệ tiền mặt lưu thơng trên tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế vẫn cịn ở
mức 11,35%. Đến hết tháng 2/2021, NHNN khơng có số liệu cơng bố chính thức, song tỷ lệ đó
ước tính cịn khoảng dưới 11% nhờ thanh tốn điện tử trong điều kiện đại dịch COVID-19. Đây
là bước tiến quan trọng so với tỷ lệ 13,8% cách đây 5 năm, đặc biệt là thanh toán điện tử tăng
kỷ lục, tuy nhiên vẫn còn cao so với các nước trong khu vực và xu thế phát triển nền kinh tế số.
Thực trạng này có nhiều ngun nhân, địi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của các bên có liên
quan trong nền kinh tế. Bài viết sẽ tập trung làm rõ các nội dung này.
Bài viết nghiên cứu về thực tiễn TTKDTM thông qua giao dịch điện tử ở phạm vi khái quát
chung của toàn bộ nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam. Trong giới hạn của một bài
viết nên tác giả khơng có điều kiện sử dụng phương pháp định lượng xây dựng giả thiết nghiên
cứu, tổng quan nghiên cứu, xây dựng hàm và các biến, xác định mức độ tác động của các nhân
tố, không xây dựng cơ sở lý thuyết. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính truyền


thống, sử dụng tư liệu, số liệu thứ cấp của NHNN, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, các NHTM,
Cơng ty Cổ phần Thanh tốn quốc gia Việt Nam  (NAPAS), tiến hành phân tích, luận giải, đánh
giá, làm rõ chủ đề nghiên cứu và đưa ra khuyến nghị.
Từ khóa: Phát triển, thanh tốn khơng dùng tiền mặt, kinh tế số
* Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng

477


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

1. GIỚI THIỆU
Phát triển TTKDTM là yêu cầu tất yếu khách quan trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của Việt Nam. Tính tất yếu khách quan này được xác định trên 5 yếu tố khác nhau: i) nền kinh tế
Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng với cộng đồng kinh tế quốc tế và khu vực nên phải hội nhập
về thanh toán kỹ thuật số, thanh toán điện tử, đảm bảo các yêu cầu tất yếu khách quan về thanh
tốn nhanh, chính xác, an tồn của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI), người nước ngoài
đến Việt Nam ngắn hạn, thăm quan, du lịch, hội thảo, khảo sát cũng như những người nước ngoài
sinh sống và kinh doanh tại Việt Nam. Bên cạnh đó, cơng dân Việt Nam và các doanh nghiệp
trong nước cũng phải sử dụng các hình thức thanh tốn kỹ thuật số, thanh tốn điện tử theo xu
thế chung của thời đại. ii) khách du lich quốc tế và người nước ngoài đến Việt Nam ngày càng
đơng, họ sử dụng các phương tiện thanh tốn hiện đại theo thông lệ quốc tế, nên hệ thống thanh
toán của Việt Nam cũng phải chuyển động hết sức nhanh chóng. iii) trong cuộc cách mạng cơng
nghệ số đang phát triển mạnh mẽ hiện nay, mọi người dân, tổ chức, doanh nghiệp phải nắm bắt
xu hướng này, tiết kiệm chi phí, tiết kiệm thời gian trong các giao dịch thanh tốn, chuyển tiền;
iv) q trình cải cách hành chính, minh bạch thông tin, chống tham nhũng đang được thực hiện
quyết liệt, nghiêm túc nên đây sẽ là giải pháp tối ưu thực hiện mục tiêu này; v) phát triển Chính
phủ điện tử, phát triển nền kinh tế số, phát triển thương mại điện tử, tất yếu phải gắn liền với phát
triển công nghệ ngân hàng số, phát triển TTKDTM dựa trên nền tảng kỹ thuật số.
2. TẠO MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ ĐỂ TRIỂN KHAI THANH KHỐN KHƠNG DÙNG TIỀN MẶT

Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề trên, những năm qua, Chính phủ đã ban hành một
số chủ trương và chính sách để chỉ đạo, hỗ trợ, tạo môi trường phát lý để triển khai TTKDTM
và giảm tỷ lệ tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh toán tại Việt Nam, cũng như đưa ra
các biện pháp cụ thể để ngành Ngân hàng thực hiện trong toàn hệ thống.
Cách đây hơn 14 năm, khi thị trường thẻ mới phát triển tại Việt Nam, ngày 29/12/2006, Thủ
tướng Chính phủ ban hành văn bản pháp lý đầu tiên đề cập tới hoạt động TTKDTM tại Quyết
định số 291/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án TTKDTM giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến
năm 2020, tập trung triển khai phương thức TTKDTM thông qua việc thúc đẩy phát triển dịch
vụ thẻ ngân hàng (VNBA, 2021).
Đến năm 2012, khi mạng internet bắt đầu phát triển mạnh, số lượng người sử dụng điện
thoại thông minh và các thiết bị di động tăng lên, thương mại điện tử bắt đầu được thị trường
Việt Nam chấp nhận, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012
về TTKDTM. Tiếp theo đó, một số nội dung được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 80/2016 ngày
01/7/2016 và Nghị định 16/2019 ngày 01/02/2019. Những nội dung tại các văn bản đó đã quy
định cụ thể về điều kiện cung ứng dịch vụ trung gian thanh tốn, tạo nền tảng pháp lý cơ bản và
góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hình thức thanh tốn số trong nền kinh tế phù hợp với xu thế khu
vực và quốc tế của những khoảng thời gian đó (VNBA, 2021).
Một mơi trường pháp lý khác đó là Đề án phát triển TTKDTM giai đoạn 2016 - 2020 được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 2545/QĐ-TTg ngày 30/12/2016 và chủ trương đẩy
mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công theo Quyết định số 241/QĐ-TTg ngày
23/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là các văn bản được ban hành kịp thời, đồng bộ,
478


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

sát thực tiễn, góp phần hồn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động TTKDTM tại Việt Nam
trong xu thế của cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 (VNBA, 2021).

Về phía NHNN cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật có liên quan theo thẩm
quyền, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động nghiệp vụ, chỉ đạo, định hướng, hỗ trợ phát triển
TTKDTM, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các bên có liên quan trong thanh tốn điện
tử, đảm bảo an toàn, bảo vệ quyền lợi người cung ứng dịch vụ, người sử dụng dịch vụ. Mới đây
nhất, NHNN cũng đã yêu cầu ngành Ngân hàng phải đẩy mạnh TTKDTM, đặc biệt là thanh toán
qua ngân hàng đối với các dịch vụ cơng; đảm bảo các hệ thống thanh tốn, hoạt động cung ứng
dịch vụ trung gian thanh toán ổn định, an toàn và hiệu quả.
Ngay từ cuối năm 2015, NHNN đã cấp giấy phép hoạt động cho các công ty Fintech, góp
phần làm phát triển mạnh về cả chất lượng và số lượng đơn vị trung gian thanh toán. Đến hết
tháng 8/2020, NHNN đã cấp phép cho trên 40 tổ chức trung gian thanh tốn, vận hành các ví
điện tử khác nhau, cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử trong nền kinh tế. Các ví điện tử, các tổ
chức trung gian thanh toán hợp tác chặt chẽ với các ngân hàng thương mại đẩy mạnh thu thuế
điện tử, thu tiền các dịch vụ công: điện, nước sạch, viễn thông, bảo hiểm, học phí, viện phí,
lệ phí giao thơng, cũng như phát triển thương mại điện tử, mua sắm online, chi trả trực tuyến
(VNBA, 2021).
3. BƯỚC TIẾN MỚI TRONG VIỆC CHÍNH PHỦ CHO TRIỂN KHAI MOBILE MONEY
Ngày 09/3/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 316/QĐ-TTg phê duyệt triển
khai thí điểm dùng tài khoản viễn thơng thanh tốn cho hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ Mobile
Money trong vịng 2 năm. Đây là dịch vụ thuộc nhóm đầu tiên mà Chính phủ áp dụng cơ chế
Sandbox với sự kết hợp quản lý của nhiều bộ ngành (VNBA, 2021).
Việc triển khai thí điểm dịch vụ Mobile Money đã góp phần phát triển hoạt động TTKDTM,
tăng cường việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính, đặc biệt tại khu vực nông thôn, miền
núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Theo quy định, các doanh nghiệp chỉ được cung
ứng các dịch vụ Mobile Money để chuyển tiền, thanh tốn cho các hàng hóa, dịch vụ hợp pháp
tại Việt Nam theo quy định hiện hành để phục vụ nhu cầu cuộc sống người dân. Dịch vụ Mobile
Money chỉ áp dụng với các giao dịch nội địa. Hạn mức giao dịch tối đa 10 triệu đồng/tháng.
Việt Nam khơng phải nước thuộc nhóm đầu chấp nhận một nền tảng mới do công nghệ tạo
ra. Tuy nhiên, việc đi sau có thuận lợi lớn nhất là có thể học hỏi từ những nước đi trước. Muốn
một dịch vụ nào đó phổ biến đến 100% người dân thì đầu tiên là nền tảng thanh toán phải đến
được 100% người dân. Khơng có phương tiện nào có thể thực hiện việc này tốt hơn là di động,

Mobile Money. Ở Việt Nam, tỷ lệ người dùng thẻ tín dụng cịn thấp, nhưng mật độ thuê bao di
động thì đã trên 100% từ nhiều năm nay. 99% giao dịch dưới 100.000 đồng là bằng tiền mặt.
Mobile Money sẽ là giải pháp mạnh mẽ để thúc đẩy TTKDTM (VNBA, 2021).
Mobile Money là một ví dụ thuyết phục về việc nhà mạng viễn thông chứ không chỉ là hạ
tầng viễn thông như hàng trăm năm nay. Sẽ kỳ vọng nhiều hơn nữa vào các nhà mạng trong việc
tự chuyển mình để trở thành nền tảng của dữ liệu, computing, nội dung số, dịch vụ IT, IoT...

479


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Theo Quyết định số 316/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý về nguyên tắc đối với việc
triển khai Sandbox để thử nghiệm các công nghệ mới, dịch vụ mới. Do vậy, các doanh nghiệp,
đơn vị trong ngành có thể đề xuất thí điểm các sản phẩm dịch vụ mới thông qua Bộ Thơng tin và
Truyền thơng (VNBA, 2021).
Về việc Chính phủ cho phép thí điểm dịch vụ Mobile Money, người dân rất khó tiếp cận với
phương tiện thanh tốn điện tử qua ví điện tử hay tài khoản ngân hàng. Thế nhưng việc Chính
phủ cho phép thí điểm Mobile Money sẽ đem lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế và người dân có
thêm cơng cụ thanh tốn điện tử. Đây sẽ là nền tảng để tiến đến công dân số và xã hội số khi mật
độ điện thoại di động đã phổ cập đến 100% người dân.
Mobile Money là Sandbox thuộc nhóm đầu tiên liên quan đến nhiều bộ, ngành được thí điểm
thực hiện để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Đây cũng là Sandbox được áp dụng cho một lĩnh vực
dịch vụ mới, khó và nhạy cảm, nhưng cũng là hình mẫu để có thể áp dụng cho nhiều dịch vụ mới
sẽ được Chính phủ cho phép thí điểm sau này. Nếu không áp dụng Sandbox mà theo quy trình
thơng thường thì sẽ rất khó có thể bắt kịp được yêu cầu của cuộc sống và thúc đẩy chuyển đổi
số của xã hội.
Khi Chính phủ cho phép sử dụng Mobile Money để thanh toán các loại dịch vụ và hàng hóa có
mệnh giá nhỏ thì số lượng người dùng được thanh tốn điện tử rất lớn vì độ phủ của các nhà mạng
rộng hơn các ngân hàng rất nhiều, đến cả vùng sâu, vùng xa, khi người dân chưa có tài khoản ngân

hàng. Đây sẽ là điểm bùng phát cho việc TTKDTM tại Việt Nam. Nghĩa là qua một đêm thì bất cứ
ai, bất cứ người dân nào cũng có thể sẵn sàng sử dụng điện thoại để chi tiêu TTKDTM (VNBA,
2021). Nói một cách ngắn gọn, Mobile Money là cơ hội để nhà mạng xây dựng hệ sinh thái thúc
đẩy chuyển đổi số. Đây chính là cuộc cách mạng lớn để thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia. 
Cơ chế Sandbox là khung thể chế thử nghiệm có kiểm sốt đối với các cơng nghệ, sản phẩm,
dịch vụ, mơ hình kinh doanh mới. Đây được xem là mơi trường để các công ty công nghệ triển
khai thử nghiệm có giới hạn việc ứng dụng cơng nghệ, mơ hình kinh doanh mới. Sau đó, cơ quan
quản lý sẽ xem xét để từ chối hoặc chấp nhận, thừa nhận cũng như có quy định pháp lý chính thức.
Việc dùng luật để xác lập các quy tắc pháp lý trong việc xử lý các vấn đề mới phát sinh từ việc
ứng dụng các công nghệ mới là một thách thức. Những ứng dụng này có thể đưa tới những tác động
lan tỏa nhanh và mạnh mà hệ thống quản lý hiện hành có thể khơng theo kịp. Hiện có nhiều lĩnh
vực kinh doanh truyền thống phải sử dụng công nghệ để thay đổi phương thức kinh doanh hiệu quả
hơn. Nếu áp dụng quản lý thơng thường với những mơ hình này thì khơng quản lý được bởi chính
sách thường chậm hơn thực tiễn. Bởi vậy, Sandbox là cách lập pháp, lập quy khơn ngoan.
Khơng thể địi hỏi cơ quan quản lý nhà nước đưa ra chính sách cho tương lai vì thực sự đây
là vấn đề khó. Thế nhưng nhiều nước đưa ra chính sách Sandbox để thúc đẩy doanh nghiệp phát
triển những mơ hình mới, nhưng giới hạn khu vực triển khai. Sandbox (khung chính sách riêng)
là chính sách đúng theo tư tưởng doanh nghiệp được làm những gì pháp luật khơng cấm. Để xây
dựng Chính phủ kiến tạo, cần phải loại bỏ tư tưởng “cái gì Nhà nước cho làm mới được làm”.
Trong giao dịch điện tử, có rất nhiều thay đổi nhanh chóng, nhiều loại dịch vụ hiện tại đã
có trên thị trường song chưa được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật. Vì thế, cơ chế
Sandbox rất phù hợp để khuyến khích những dịch vụ mới ra đời, phát triển thị trường theo hướng

480


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển


khuyến khích các doanh nghiệp trẻ, doanh nghiệp mới làm những gì mà pháp luật khơng cấm.
Nếu cơ chế Sandbox được thực hiện để hỗ trợ các doanh nghiệp thử nghiệm các cơng nghệ mới,
mơ hình kinh doanh mới thì sẽ giúp ích rất nhiều cho sự phát triển các startup công nghệ của
Việt Nam.
4. TỔNG QUAN THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THANH TỐN KHƠNG DÙNG TIỀN MẶT
TẠI VIỆT NAM
Sau gần 14 năm, kể từ khi bắt đầu triển khai thực hiện Quyết định số 291/QĐ-TTg ngày
29/12/2006 về phê duyệt Đề án TTKDTM giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020 tại
Việt Nam đến cuối năm 2020, cả nước có 75 tổ chức triển khai dịch vụ thanh toán qua internet;
45 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động. Tại tất cả các NHTM trên tồn
quốc có tới 95,6 triệu tài khoản cá nhân sử dụng các hình thức thanh toán khác nhau như: ATM,
thanh toán điện tử; tăng 45,5% so với cùng kỳ năm 2016 (VNBA, 2021).
Có thể tham khảo sự phát triển số lượng giao dịch cá nhân qua hệ thống máy ATM, máy POS
và các hình thức thanh toán điện tử qua thiết bị di động, PC, Laptop,… trong 4 năm qua ở Hình
1 dưới đây.
Hình 1. Giao dịch qua ATM, POS/EFTPOS/EDC

Nguồn: NHNN (2019 - 2020)

Trong giai đoạn cao điểm thực hiện giãn cách xã hội bởi đại dịch COVID-19 tại Việt Nam, chí
tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2020, quy mô giao dịch thanh tốn của cá nhân qua POS đạt hơn
218 triệu món (lượt giao dịch thanh toán), với 382.860 tỷ đồng, tăng tương ứng 176,5% và 139,5%
so với cùng kỳ năm 2016. Bên cạnh đó, quy mơ giao dịch thanh tốn qua ATM đạt 660 triệu món,
với hơn 1,818 triệu tỷ đồng, tăng tương ứng 38,7% và 53,8% so với cùng kỳ năm 2016. Cũng trong
2 quý đầu năm 2020, trong cả nước, các giao dịch của cá nhân thanh toán qua kênh internet đạt
282,4 triệu giao dịch, với doanh số 17,4 triệu tỷ đồng, tăng tương ứng 262,5% và 353,1% so với
cùng kỳ năm 2016. Đặc biệt, thanh toán qua kênh điện thoại di động đạt 682,3 triệu giao dịch, với
doanh số đạt gần 7,2 triệu tỷ đồng, tăng trưởng với tốc độ rất cao, tới 981% và 794% so với cùng
kỳ năm 2016, hay gấp tới gần 10 lần và gần 8 lần so với 4 năm trước đây (VNBA, 2021).
Tuy nhiên như đã đề cập, dù không thấy số liệu cơng bố chính thức của NHNN nhưng ước

tính đến hết năm 2020 và đến giữa tháng 3/2021, thanh toán điện tử tiếp tục tăng mạnh so với
cuối năm 2019.

481


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

5. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ
5.1. Những mặt tích cực
Một là, hành lang pháp lý cho TTKDTM, thanh toán điện tử, về cơ bản được ban hành đầy
đủ, đồng bộ, an tồn và được đơng đảo các bên có liên quan chấp nhận, tuân thủ.
Hai là, bên cạnh việc ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc, tổ chức hội thảo,
tranh thủ sự trợ giúp kỹ thuật quốc tế, trình Chính phủ và Thủ tướng ban hành các văn bản quan
trọng, NHNN đã hết sức nhạy bén và mạnh dạn cấp phép hoạt động cho các ví điện tử, các tổ
chức trung gian thanh toán, đặc biệt là giám sát, kiểm tra đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả
các hoạt động thanh toán điện tử trong nền kinh tế.
Ba là, sự tăng trưởng tới vượt bậc trong 4 năm gần đây đã cho thấy người Việt Nam nhanh
chóng thích ứng với giao dịch ngân hàng số, thanh toán điện tử, hội nhập với xu thế của thời
đại. Ngày càng nhiều người dân Việt Nam sử dụng điện thoại thơng minh và nhận thấy tiện
ích của việc thanh toán điện tử trên các thiết bị di động nhanh chóng, an tồn, chi phí thấp,
tiết kiệm thời gian.
Bốn là, khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng đông, tất nhiên loại trừ khoảng thời gian do
ảnh hưởng của COVID-19, hệ thống cơ sở hạ tầng thanh toán điện tử, mơi trường thanh tốn kỹ
thuật số, hoạt động thanh tốn hiện đại của Việt Nam đáp ứng kịp thời nhu cầu của người nước
ngoài, hội nhập với khu vực và quốc tế, được người nước ngoài an tâm, chấp nhận. Do đó, khi
COVID-19 được hồn tồn khống chế ở Việt Nam và trên toàn cầu, khách quốc tế trở lại Việt
Nam thì thị trường thanh tốn điện tử của Việt Nam tiếp tục bùng nổ.
Năm là, các ví điện tử, các tổ chức trung gian thanh toán của các doanh nghiệp Việt Nam rất
nhanh nhạy, nắm bắt xu thế công nghệ, xu thế thị trường, xu thế sử dụng của người dân, tin tưởng

vào chỉ đạo của Chính phủ, cạnh tranh, đầu tư, đáp ứng rất nhanh nhu cầu thanh toán điện tử của
khách hàng cá nhân.
Sáu là, các NHTM quyết liệt trong đầu tư nguồn lực, đầu tư tài chính, đầu tư cơng nghệ, hợp
tác chặt chẽ và có hiệu quả với các trung gian thanh toán, các tổ chức cung ứng dịch vụ công,…
mở rộng TTKDTM trong nền kinh tế dựa trên phát triển thanh toán điện tử.
5.2. Khó khăn và thách thức
Thành quả về TTKDTM, đặc biệt là thanh toán điện tử, thanh toán dựa trên nền tảng kỹ thuật
số của nền kinh tế Việt Nam những năm qua là căn bản và quan trọng. Tuy nhiên, vẫn cịn nhiều
khó khăn, thách thức.
Thứ nhất, một trong những lý do tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông vẫn cịn trên 11%, thanh tốn
tiền mặt cịn phổ biến đó là tập quán và thói quen của người dân về chi tiêu ăn sâu trong tiềm
thức mỗi người chưa thể thay đổi “một sớm một chiều”.
Tham khảo diễn biến tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán M2 (đã điều chỉnh theo
yếu tố mùa vụ) từ đầu năm 2015 đến tháng 7/2020 ở Hình 2 dưới đây cho thấy, TTKDTM ở Việt
Nam đã có chuyển biến tích cực dù chưa đạt được mục tiêu đề ra (NHNN, 2020).

482


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

Hình 2. Tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán M2 giai đoạn 2015 - 2020
(Đã điều chỉnh theo yếu tố mùa vụ)
Đơn vị tính: %

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước

Như trên đã đề cập, đến tháng 8/2020, tỷ lệ tiền mặt lưu thông trên tổng phương tiện thanh

tốn vẫn cịn ở mức 11,35%. Trong khi đó, tại Quyết định 2545/QĐ/TTg về phê duyệt Đề án
phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 nêu rất rõ mục tiêu cụ thể đến cuối năm
2020, tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán ở mức thấp hơn 10%. Con số chênh lệch
1,35% (giữa kết quả 11,35% và mục tiêu 10%) còn là rất lớn. Hay nói cách khác, với nhiều khó
khăn cịn ở phía trước và tỷ lệ tiền mặt vẫn cịn cao nên mục tiêu giảm tỷ lệ tiền mặt xuống dưới
10% trong năm 2020 chắc chắn không thể đạt được. Hay có thể nói, đây là nhiệm vụ bất khả thi
(NHNN, 2020).
Thứ hai, văn hóa bán hàng đúng như quảng cáo chưa được thương nhân thực hiện tốt. Các
thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có nhưng chưa thuận tiện cho người mua hàng khi có
khiếu nại cũng là lý do cản trở TTKDTM.
Thứ ba, thanh toán điện tử online sẽ khó phát triển khi mà ở đâu đó, thơng tin giữa các trung
gian tài chính và người tiêu dùng bị kẻ gian đánh cắp, dẫn đến mất tiền trong tài khoản, ảnh
hưởng đến niềm tin người tiêu dùng. Bên cạnh yếu tố lòng tin của người tiêu dùng với các đối
tác cung ứng dịch vụ hàng hóa chưa thể nâng cao thì lịng tin giữa các đối tác mua bán với nhau
còn thấp.
Thứ tư, các cửa hàng, siêu thị, thương nhân… khi áp dụng thanh toán thẻ đều phải trả phí cho
cơng ty phát hành thẻ (ít nhất khoảng 2% giá bán) và khoản phí này được tính vào giá bán, làm
ảnh hưởng đến doanh thu của họ. Nhiều đơn vị cung ứng dịch vụ công như: trạm đăng kiểm xe
cơ giới, cửa hàng bán lẻ săng dầu của Petrolimex, các doanh nghiệp đã cổ phần hóa về xăng dầu
và dịch vụ cơng, trạm thu phí giao thông... rất chậm trễ trong áp dụng TTKDTM.
Thứ năm, thanh toán thẻ phải đầu tư hệ thống đọc thẻ (POS) khá tốn kém và phải duy trì kết
nối với ngân hàng, và các cửa hàng, nhà hàng, thương nhân... không thích các khoản phí này.

483


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Thứ sáu, các doanh nghiệp, người kinh doanh né tránh TTKDTM để giấu doanh thu, trốn
thuế. Bản thân các công ty đầu tư đường cao tốc cũng trì hỗn triển khai thu phí tự động khơng

dừng, khơng dùng tiền mặt cũng vì giấu doanh thu phí.
Thứ bảy, nhiều đơn vị cung ứng dịch vụ cơng cũng chậm triển khai thanh tốn tiền mặt vì
lợi ích cục bộ. Một số cơ quan, tổ chức chưa tiên phong, gương mẫu trong TTKDTM như thu
bảo hiểm và thu phí tại các trạm đăng kiểm phương tiện xe cơ giới (như đề cập ở trên), bán vé
phương tiện giao thơng, thu phí dịch vụ hành chính tại các điểm giao dịch một cửa, thu phí đăng
ký phương tiện giao thơng, mua sắm hành chính tại nhiều cơ quan,...
Thứ tám, mức phí thanh tốn của nhiều NHTM cũng là lực cản cho phát triển TTKDTM. Phí
được thu dựa trên số tiền thanh tốn. Do đó, thay vì chuyển khoản qua ngân hàng mất số phí lớn,
người dân rút tiền mặt sang nộp NHTM khác, rút tiền tiết kiệm từ NHTM A sang gửi NHTM B
có lãi suất cao hơn là một ví dụ điển hình.
6. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
Một là, các NHTM Việt Nam cần tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng trong
khu vực, các ngân hàng và trung gian thanh toán của Trung Quốc, tranh thủ sự trợ giúp của các
tổ chức quốc tế, của các ngân hàng là cổ đông chiến lược để đáp ứng ngày càng tốt nhất yêu cầu
đảm bảo an tồn trong giao dịch thẻ, thanh tốn điện tử của khách hàng, giảm thiểu rủi ro.
Hai là, các NHTM cần tích cực hơn nữa, chủ động làm việc quyết liệt hơn nữa với các trường
học, bệnh viện, trạm thu phí giao thơng, trạm đăng kiểm xe cơ giới, công ty du lịch, công ty xăng
dầu, công ty viễn thông, công ty điện lực, công ty nước sạch, bến xe, siêu thị, truyền hình cáp,...
để phát triển màng lưới POS, chấp nhận thanh toán điện tử; nhưng cũng kịp thời phát hiện những
hành vi thu phí thanh tốn thẻ, cố tình chây ỳ khơng chịu chấp nhận dịch vụ thanh tốn thẻ, thanh
tốn điện tử... để thơng tin cơ quan quản lý nhà nước có biện pháp xử lý kiên quyết trong việc
không thực hiện chủ trương phát triển TTKDTM của Chính phủ.
Ba là, các NHTM cần chủ động hơn nữa trong nắm bắt những sản phẩm và dịch vụ ngân hàng
tiện ích mới xuất hiện trên thế giới, đầu tư ứng dụng vào ngân hàng của mình; tăng cường đầu tư
nguồn lực tài chính, đầu tư cho công tác đào tạo lại nguồn nhân lực cho ứng dụng công nghệ số,
hoạt động Fintech,… trong ngân hàng; cần đẩy mạnh tuyên truyền, khuyến mại, hướng dẫn việc
ứng dụng mã QR thanh toán trên các thiết bị di động.
Bốn là, về phía các bộ, ngành chức năng như: Bộ Tài chính, Bộ Cơng Thương, Bộ Giao thơng
vận tải, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Thông tin và Truyền thơng..., cần ban hành quy
định khuyến khích hoạt động thanh toán thẻ, thanh toán điện tử như: chính sách bắt buộc chấp

nhận thanh tốn thẻ, thanh tốn điện tử, chuyển khoản đối với các đơn vị kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ ở một số lĩnh vực, đặc biệt là lệ phí giao thơng đường bộ và đăng kiểm; xăng dầu, học
phi, viện phí, cước phí viễn thơng, điện lực... Đồng thời, cần có cơ chế ưu đãi như hỗ trợ miễn,
giảm, hoàn thuế cho đơn vị chấp nhận thẻ và chủ thẻ. Bộ Giao thông vận tải cần quyết liệt, rút
ngắn thời gian thực hiện dự án thu phí tự động khơng dừng (ETC) đã được phê duyệt. Bên cạnh
đó, quyết liệt mở rộng thanh tốn thẻ qua thu phí đăng kiểm ơ tơ, phí giao thơng đường bộ đối
với vé tháng, các loại phí giao thơng khác.

484


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

Năm là, NHNN Việt Nam và các cơ quan chức năng ở Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm
của Trung Quốc trong quản lý QR, xây dựng một khuôn khổ pháp lý đầy đủ và đồng bộ cho hoạt
động Fintech tại Việt Nam. NHNN cần thúc đầy sớm ban hành các văn bản pháp lý về Mobile
Money theo Chỉ đạo của Chính phủ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BIDV (2015 - 2020), Báo cáo phân tích kinh tế vĩ mơ và thị trường tài chính của Viện Đào
tạo và Nghiên cứu BIDV, hàng tháng, các năm 2015 - 2020.
2. NAPAS (2015 - 2021), Các thông tin hoạt động thanh toán của các ngân hàng thành viên;
truy cập tại cổng thông tin điện tử của Công ty Cổ phần Thanh toán quốc gia Việt Nam
NAPAS: www.napas.com.vn, thời gian truy cập từ ngày 010/2/2021 đến ngày 10/3/2021.
3. NHNN (2020), Báo cáo của NHNN Việt Nam gửi Quốc hội, tháng 10/2020, bản cứng.
4. NHTM Việt Nam (2018 - 2020), Báo cáo tài chính hợp nhất của các NHTM hàng quý; Báo
cáo tài chính hàng năm; Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh hàng năm, các năm 2018 2020; Thông tin về lãi suất, tín dụng, thanh tốn; cơng bố trên trang web của một số NHTM
Việt Nam các năm 2018 - 2020, truy cập từ ngày 25/12/2020 đến 24/01/2021, Hà Nội, 2020.
5. SBV (2020), NHNN Việt Nam, truy cập tại www.sbv.gov.vn, các mục có liên quan, từ ngày

11/3/2021 đến ngày 13/3/2021.
6. VNBA (2021), Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, truy cập tại www.vnba.org.vn, các mục có liên
quan, thời gian tuy cập từ 11-13/3/2021

485



×