Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tác động của đại dịch COVID-19 đến cho vay và nợ xấu của ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.57 KB, 10 trang )

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

41.

TÁC ĐỘNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19
ĐẾN CHO VAY VÀ NỢ XẤU
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
ThS. Dương Văn Bơn*, TS. Châu Đình Linh*
Tóm tắt
Nợ xấu của hệ thống ngân hàng thể hiện chất lượng tăng trưởng nền kinh tế, bởi nó thể hiện
hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM), của các doanh nghiệp, hộ kinh
doanh, hộ gia đình. Cho vay vốn thể hiện sức hấp thụ vốn của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng
GDP. Trước đại dịch COVID-19, ngành Ngân hàng Việt Nam đã tập trung xử lý nợ xấu có kết
quả tích cực theo một số cơ chế chính sách đặc thù, hoạt động cho vay với tốc độ tăng trưởng
dư nợ trên 13% mỗi năm. Trong đại dịch COVID-19, nợ xấu năm 2020 cũng chưa thể hiện đầy
đủ do được che giấu bởi Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 nhưng tăng trưởng tín
dụng rất thấp, đến hết năm 2020 chỉ đạt 10,15%. Đến nay, đại dịch COVID-19 cơ bản đã được
kiểm soát nhưng vẫn đang diễn biến phức tạp trên thế giới, tiếp tục ảnh hưởng lớn đến nền kinh
tế Việt Nam. Tới đây, một số cơ chế, chính sách đặc thù sẽ hết thời hạn, nợ xấu sẽ được thể hiện
đầy đủ và tăng lên, ảnh hưởng lớn đến cung ứng vốn tín dụng cho tăng trưởng GDP.
Từ khóa: Tác động, COVID-19, huy động vốn, cho vay, ngân hàng thương mại
1. GIỚI THIỆU
Cho đến nay, dịch COVID-19 ở Việt Nam đã cơ bản được khống chế sau hàng loạt các biện
pháp nghiêm ngặt và quyết liệt của cả hệ thống chính trị và người dân. Tuy nhiên, đại dịch này
vẫn diễn biến phức tạp trên thế giới. Tính đến đầu tháng 3/2021, tồn thế giới có tổng cộng hơn
115,28 triệu ca mắc COVID-19, trong đó có hơn 2,55 triệu người tử vong và 91,09 triệu bệnh nhân
phục hồi (đạt 79%). Đến nay, 219 quốc gia và vùng lãnh thổ, hai tàu du lịch trên toàn cầu xác nhận
trường hợp mắc COVID-19. Diễn biến đó tiếp tục tác động đến các lĩnh vực kinh tế vừa sâu rộng và
còn kéo dài, ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng tại Việt Nam và gây nên nợ xấu gia tăng. Đây là
các lĩnh vực có ảnh hưởng rất lớn đến cung ứng vốn tín dụng cho tăng trưởng kinh tế giai đoạn hậu
COVID-19. Vì vậy, nghiên cứu về nội dung này, đưa ra đề xuất khuyến nghị liên quan… là những


vấn đề có tính cấp thiết và cấp bách đặt ra trong thực tiễn ở nước ta hiện nay.
* Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh

446


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

Bài viết nghiên cứu về thực tiễn, sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính truyền thống,
tổng quan tư liệu thứ cấp, tập trung phân tích, so sánh và đánh giá tác động của dịch bệnh
COVID-19 đến hoạt động cho vay và diễn biến nợ xấu, xử lý nợ xấu của các NHTM ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
2. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19 ĐẾN CHO VAY VÀ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng và đánh giá về tác động của đại dịch COVID-19 đến hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại
Do ảnh hưởng của dịch COVID-19, thu nhập của doanh nghiệp và người dân giảm sút, thậm
chí là khơng có. Doanh nghiệp vẫn phải trả chi phí để duy trì mặt bằng kinh doanh, nhà xưởng,
trả tiền thuê nhà, thuê xưởng, thuê đất, thuê kho bãi để hàng hóa hay phương tiện vận chuyển,
chi phí bảo vệ, trả lương để giữ chân người lao động. Việc làm và thu nhập của người lao động
bị suy giảm mạnh… Tình trạng đó khiến người dân và doanh nghiệp khơng có tiền gửi NHTM
thậm chí là phải rút tiền gửi, vay tiền, nguồn thu giảm sút, khơng có nguồn tiền trả nợ ngân hàng,
nợ xấu phát sinh. Các lĩnh vực bị ảnh hưởng lớn nhất là du lịch quốc tế, dịch vụ lưu trú; khách
sạn và nhà hàng, vận chuyển khách du lịch quốc tế; các dịch vụ khác có liên quan như: ăn uống,
nhà hàng, vui chơi giải trí, chăn ga, gối đệm cho các khách sạn phục vụ khách quốc tế. Bên cạnh
đó là dịch vụ xuất khẩu lao động, dịch vụ hàng không quốc tế, dịch vụ lưu trú cho chuyên gia
quốc tế, du học,… bị sụt giảm nguồn thu nghiêm trọng.
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến cuối tháng 12/2020, tổng phương

tiện thanh toán M2 tăng 12,83% so với cuối năm 2019 và tăng 14,62% so với cùng kỳ 2019, thấp
hơn mức bình quân nhiều năm gần đây. Tổng nguồn vốn huy động từ dân cư của các TCTD đạt
mức tăng bình quân trên 13%/năm trong giai đoạn 2015 - 2020, nhưng riêng năm 2020 chỉ tăng
khoảng 12%. Dư nợ tín dụng và đầu tư của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) đối với nền
kinh tế cũng đạt bình quân trên 12%/năm của giai đoạn 2015 - 2020. Riêng năm 2020 mặc dù có
rất nhiều khó khăn của nền kinh tế bởi đại dịch COVID-19 nên dư nợ chỉ tăng hơn 10%, thấp hơn
kế hoạch của NHNN đặt ra cho năm 2020 là 13 - 14% và thấp nhất trong hơn 10 năm gần đây.
Hình 1. Diễn biến huy động vốn và dư nợ cho vay của các TCTD
giai đoạn 2014 - 2020

Nguồn: NHNN (2010 - 2020)

447


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Số liệu và diễn biến ở Hình 1 cho thấy, tăng trưởng huy động vốn và dư nợ tín dụng năm 2020
ở mức thấp nhất trong nhiều năm qua.
Tham khảo so sánh diễn biến tăng trưởng dư nợ tín dụng của tồn bộ hệ thống TCTD ở Việt
Nam trong 3 năm gần đây ở Hình 2.
Hình 2. Tăng trưởng tín dụng lũy kế

Nguồn: www.sbv.gov.vn

Tín dụng có tăng trưởng nhưng thấp hơn hẳn so với đường tăng trưởng của 2 năm liền trước,
phản ánh mức độ hấp thụ vốn kém trong bối cảnh dịch COVID-19. Tuy nhiên, vốn tín dụng tập
trung vào những lĩnh vực ưu tiên với nhiều chương trình tín dụng ưu đãi được triển khai tích cực
tạo động lực hỗ trợ trực tiếp cho các ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Đáng chú ý, tín
dụng tập trung chủ yếu vào sản xuất - kinh doanh (chiếm khoảng 80% tổng dư nợ).

Về tăng trưởng tín dụng theo ngành kinh tế, dư nợ ngành thương mại dịch vụ chiếm tỷ
trọng lớn 63%, có mức tăng trưởng tín dụng cao nhất khoảng 6,32%; dư nợ ngành công nghiệp
xây dựng tăng 5,89%, chiếm tỷ trọng 28,75%; tín dụng đối với ngành nơng, lâm nghiệp, thủy
sản chiếm 8,66%, tăng 5,09%. Trong đó, vốn tín dụng của hệ thống TCTD đã hỗ trợ cho một
số ngành là động lực cho tăng trưởng kinh tế của đất nước, cụ thể: tín dụng ngành cơng nghiệp
sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hịa khơng khí tăng 13,31%;
ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,36%; ngành xây
dựng tăng 9,01%, ngành bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ
khác tăng 8,08%1.
Về tín dụng đối với lĩnh vực ưu tiên: vốn cho vay của các TCTD tại Việt Nam vẫn tiếp tục tập
trung vào các lĩnh vực ưu tiên theo chỉ đạo của Chính phủ, đặc biệt là một số lĩnh vực hiện đang
tận dụng được lợi thế trong bối cảnh mới như: tín dụng xuất khẩu tăng khoảng 7%, tín dụng cho
nơng nghiệp, nơng thơn tăng 5%, tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng khoảng 5,5%.
Trong bối cảnh kinh tế cịn nhiều khó khăn nhưng kết quả tín dụng năm 2020 đã góp phần
hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng GDP của cả nước đạt 2,4%, cũng như các ngành là động lực cho
tăng trưởng như ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và
điều hịa khơng khí tăng 3,7%, ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,6%, ngành xây dựng
tăng 5,02%, bán buôn và bán lẻ tăng 4,98%. 
1

Nguồn: www.sbv.gov.vn

448


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

Dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 khoảng trên 2 triệu tỷ đồng, chiếm 23% dư nợ toàn

hệ thống, tiềm ẩn rủi ro với hoạt động ngân hàng. Trong năm 2020, các TCTD đã đồng loạt giảm
lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp với khoản vay hiện hữu và khoản vay mới, mức giảm lãi suất phổ
biến 2% - 2,5%/năm. Các NHTM đang công bố và triển khai nhiều gói tín dụng với lãi suất ưu
đãi với quy mô lớn để sẵn sàng đáp ứng nguồn vốn giải ngân cho khách hàng. Tổng gói tín dụng
mà ngành Ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp, cá nhân hơn 300 nghìn tỷ đồng. Trong đó, các tổ chức
tín dụng bước đầu cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ ngun nhóm nợ cho trên 52 nghìn khách hàng
với số tiền gần 18 nghìn tỷ đồng, miễn, giảm lãi cho gần 6.500 khách hàng với dư nợ gần 126
nghìn tỷ đồng và cho vay mới 65,208 nghìn tỷ đồng với 354,286 nghìn khách hàng.
Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ ngun nhóm nợ, tồn ngành Ngân hàng đã triển khai cho
trên 220 nghìn tỷ đồng.
Từ đầu năm 2020 đến nay, NHNN đã thực hiện tới 3 lần giảm các loại lãi suất điều hành để
tác động đến giảm lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các TCTD đối với nền kinh tế.
Tính bình qn lãi suất cho vay của các TCTD đối với nền kinh tế giảm khoảng 0,65% so với
mức bình quân của năm 2019.
Trước thời điểm quyết định giảm lãi suất lần thứ 3 của NHNN vào ngày 30/9/2020, lãi suất
huy động vốn của các NHTM đã có chung xu hướng giảm trong tháng 9/2020 đối với cả kỳ hạn
6 tháng và kỳ hạn 12 tháng ở tất cả các nhóm ngân hàng. Cụ thể, đối với kỳ hạn 6 tháng, lãi śt
của nhóm NHTM gớc q́c doanh giảm 0,125%; lãi śt của nhóm ngân hàng TMCP có quy mơ
nhỏ vớn dưới 5.000 tỷ đờng giảm 0,163%; lãi śt của nhóm ngân hàng TMCP có quy mơ lớn
vớn trên 5.000 tỷ đờng giảm 0,14%.
Trong khi đó, đới với kỳ hạn 12 tháng, lãi śt của nhóm nNHTM gớc q́c doanh sụt giảm
mạnh nhất khi mất đi 0,225%. Lãi suất của nhóm ngân hàng TMCP có quy mơ nhỏ (vớn dưới
5.000 tỷ đờng và lãi suất của nhóm ngân hàng TMCP có quy mơ lớn vớn trên 5.000 tỷ đờng có
mức giảm lần lượt là 0,08 và 0,19%.
Tham khảo lãi suất tiền gửi nội tệ kỳ hạn 12 tháng của các NHTM tại thời điểm đầu tháng
9/2020, trước khi NHNN quyết định giảm lãi suất lần thứ 3 ở Hình 3 dưới đây.
Hình 3. Lãi suất tiền gửi nội tệ của các NHTM tại thời điểm đầu tháng 9/2020

Nguồn: Tổng hợp từ trang web của các NHTM, tháng 9 và tháng 10/2020


449


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Xu hướng giảm  lãi suất huy động vốn của các NHTM  tiếp tục được tiếp nối trong quý
IV/2020, sau động thái NHNN công bố cắt giảm thêm 50 điểm phần trăm lãi suất điều hành vào
ngày 30/9/2020. Trong đợt giảm lãi suất lần này, một số NHTM còn giảm lãi tiền gửi kỳ hạn 1
tháng đến dưới 6 tháng xuống dưới mức trần cho phép.
Tham khảo lãi suất huy động vốn của một số NHTM tại thời điểm đầu tháng 10/2020 ở
Bảng 1 dưới đây.
Bảng 1. Lãi suất huy động vốn nội tệ các kỳ hạn của một số NHTM trong quý IV/2020

Nguồn: Tổng hợp từ trang web của các NHTM, tháng 9 và tháng 10/2020 và của TCBS

Qua 3 lần giảm các loại lãi suất điều hành của NHNN, đến cuối năm 2020, lãi suất cho vay
trong nền kinh tế của các NHTM cũng giảm từ 0,5% đến 1,5% so với thời điểm cuối tháng
12/2019 tùy theo kỳ hạn cho vay và đối tượng vay vốn. Lãi suất cho vay giảm tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp, khách hàng giảm chi phí vốn vay, giảm một phần khó khăn bởi đại dịch
COVID-19.
Đầu tháng 5/2020, NHNN ban hành Thông tư quy định về việc tái cấp vốn đối với Ngân hàng
Chính sách xã hội (NHCSXH) Việt Nam để cho người sử dụng lao động vay trả lương ngừng
việc theo Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ, quy định
về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Tổng số
tiền tái cấp vốn tối đa 16 nghìn tỷ đồng. Lãi suất tái cấp vốn là 0%/năm. Lãi suất tái cấp vốn quá
hạn là 0%/năm. Thời hạn tái cấp vốn là 364 ngày, kể từ ngày NHNN giải ngân tái cấp vốn đối
với NHCSXH. NHNN tái cấp vốn khơng có tài sản bảo đảm đối với NHCSXH. Trường hợp đến
hết ngày 31/7/2020, NHCS XH không giải ngân hết tiền vay tái cấp vốn theo quy định tại Quyết
định số 15/2020/QĐ-TTg thì chậm nhất ngày 15/8/2020, NHCSXH phải trả NHNN số tiền vay
tái cấp vốn không giải ngân hết. Trường hợp phát sinh tiền trả nợ của người sử dụng lao động vay

vốn theo Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg, trong thời hạn 5 ngày làm việc đầu tháng tiếp theo,
NHCSXH phải sử dụng toàn bộ số tiền trả nợ từ người sử dụng lao động trong tháng để trả trước
hạn nợ vay tái cấp vốn NHNN. NHCSXH giải ngân cho vay người sử dụng lao động từ nguồn
vay tái cấp vốn theo khế ước nhận nợ nào thì trả nợ vay tái cấp vốn theo khế ước nhận nợ đó.
Tuy nhiên, cho đến cuối tháng 10/2020, việc triển khai chủ trương nói trên vẫn cịn rất
chậm, mới chỉ có một doanh nghiệp được phê duyệt vay gói tín dụng trên để trả lương cho

450


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

người lao động, tuy nhiên, sau đó doanh nghiệp này đã tìm được nguồn tài chính khác nên
khơng vay nữa. Ngun nhân chung dẫn đến gói tín dụng trên chưa có kết quả giải ngân vốn
cho vay, đó là các quy định, các điều kiện vay vốn theo chương trình này quá chặt chẽ, doanh
nghiệp rất khó đáp ứng.
Qua thực tiễn triển khai và để tiếp tục tháo gỡ khó khăn, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết
số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020 sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 về các
biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19; Quyết định số 32/2020/QĐ-TTg
ngày 19/10/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 quy
định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Để
kịp thời đưa chính sách đi vào cuộc sống, NHCSXH ban hành văn bản hướng dẫn nghiệp vụ cho
vay người sử dụng lao động để trả lương ngừng việc đối với người lao động. Theo đó, những điều
kiện vay được nới lỏng hơn so với quy định cũ để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận hơn.
Điều kiện vay vốn là người sử dụng lao động có người lao động đang tham gia bảo hiểm xã
hội bắt buộc phải ngừng việc từ 1 tháng liên tục trở lên trong khoảng thời gian từ ngày 01/4/2020
đến hết ngày 31/12/2020.
Doanh nghiệp sử dụng lao động vay vốn phải có doanh thu quý I/2020 giảm 20% trở lên so

với quý IV/2019 hoặc doanh thu quý liền kề trước thời điểm xét hưởng giảm 20% trở lên so với
cùng kỳ năm 2019. Ngồi ra, doanh nghiệp phải khơng có nợ xấu tại các TCTD tại thời điểm
ngày 31/12/ 2019.
Doanh nghiệp được vay tối đa không quá 3 tháng trong khoảng thời gian từ ngày 01/4/2020
đến hết ngày 31/12/2020. Mức cho vay tối đa một tháng bằng 50% mức lương tối thiểu vùng (x)
số người lao động bị ngừng việc và mỗi khách hàng được vay vốn. Lãi suất cho vay là 0%/năm.
Lãi suất nợ quá hạn là 12%/năm. Thời hạn cho vay do NHCSXH nơi cho vay và khách hàng thỏa
thuận nhưng không quá 12 tháng, kể từ ngày giải ngân món vay đầu tiên1.
Theo số liệu của NHCSXH Việt Nam, đến hết năm 2020, toàn hệ thống NHCSXH đã giải
ngân 31,6 tỷ đồng cho 207 doanh nghiệp để trả lương cho 8.529 người lao động bị ngừng việc.
Như vậy có thể khẳng định, sau khi chỉnh sửa, bổ sung, các chính sách nói trên của Chính phủ
đã thực sự đi vào cuộc sống.
Bên cạnh đó, NHCSXH cũng gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ cho 242,7 nghìn khách hàng;
cho vay bổ sung 122,9 nghìn khách hàng với số tiền 3.112 tỷ đồng; cho vay mới 1.943 khách
hàng với số tiền 71.585 tỷ đồng. Năm 2020, trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp,
NHCSXH đã nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh và thực hiện
phương án đảm bảo hoạt động liên tục của ngân hàng trong suốt giai đoạn dịch bệnh.
2.2. Thực trạng và đánh giá về tác động đến nợ xấu và xử lý nợ xấu của ngân hàng
thương mại giai đoạn hậu COVID-19
Trước khi đại dịch COVID-19 diễn ra, ngành Ngân hàng đã quyết liệt tập trung xử lý nợ
xấu với hai cơ chế có tính đột phá về cơ chế chính sách trong lĩnh vực này, đó là Nghị quyết số
42/2027/QH14 của Quốc hội và Quyết định số 1058/CP-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng
1

Nguồn: />
451


KỶ YẾU HỢI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA


Chính phủ đã triển khai được hơn 3 năm, tạo được những dấu ấn rõ nét và chuyển biến tích cực
trong cơng tác xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các TCTD. Tuy nhiên, sự bùng phát của COVID-19 từ
đầu năm 2020 đến nay đang ảnh hưởng và tác động không nhỏ tới an toàn hoạt động ngân hàng
cũng như kết quả cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu toàn ngành Ngân hàng giai đoạn 2016 - 2020.
Để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, ngành Ngân hàng đã
có nhiều giải pháp hiệu quả hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là các giải pháp cơ cấu lại
thời hạn trả nợ, giữ ngun nhóm nợ để vượt qua khó khăn theo Thơng tư số 01/2020/TT-NHNN.
Song do tác động của dịch bệnh dẫn đến việc doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trả nợ ngân
hàng nên nợ xấu thời gian tới sẽ tăng lên và ngành Ngân hàng cần có giải pháp ứng phó với tình
hình nợ xấu hậu COVID-19. Tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng tăng trước tác động của COVID-19.
Cuối năm 2019, tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức 1,63% và đến 31/8/2020 là 1,96%, đến hết năm
2020 sẽ tăng lên trên 2,0%. Bên cạnh nguyên nhân do tác động của đại dịch COVID-19, còn
nguyên nhân quan trọng khác đó, là Nghị quyết số 42/2027/QH14 và Quyết định số 1058/CP-TTg
khơng cịn tác dụng.
Trước giai đoạn COVID-19, tỷ lệ nợ xấu đã có chiều hướng giảm. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của
các TCTD tại Việt Nam đã giảm dần qua các năm và xuống dưới 2%. Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu nội
bảng cuối năm 2016 là 2,46%, cuối năm 2017 là 1,99%, cuối năm 2018 1,91% và đến cuối năm
2019 giảm xuống còn 1,63%. Số nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42/2027/QH14 tính đến
cuối tháng 7/2020 đạt 6,92 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn 3,94 nghìn tỷ đồng/tháng được xử lý
năm 2012 - 2017.
Nghị quyết số 42/2027/QH14 đã hỗ trợ TCTD xử lý nợ xấu đạt kết quả cao hơn. Kết quả nợ
xấu xác định theo Nghị quyết số 42/2027/QH14 bằng hình thức khách hàng trả nợ tăng mạnh,
phản ánh ý thức trả nợ của khách hàng đã cải thiện. Khách hàng chủ động và hợp tác hơn trong
việc trả nợ TCTD. Theo số liệu của NHNN, số khách hàng trả nợ chiếm 40,8% xử lý nợ xấu
nội bảng, cao hơn nhiều giai đoan 2012 - 2017. Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy Nghị quyết số
42/2027/QH14 đã và đang phát huy hiệu quả, góp phần tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và đẩy
mạnh công tác xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD.
Tuy nhiên, Nghị quyết số 42/2027/QH14 chỉ mang tính chất thí điểm, có hiệu lực 5 năm kể
từ ngày 15/8/2017. Do đó, giai đoạn nền kinh tế hậu COVID-19, sau thời điểm Nghị quyết số
42/2027/QH14 hết hiệu lực, nếu không có văn bản thay thế thì có thể làm q trình xử lý tài sản

đảm bảo (TSBĐ) tiền vay của các khoản nợ xấu bị kéo dài, các nhà đầu tư mua, bán nợ xấu nghi
ngại về khả năng xử lý các khoản nợ đã mua để thu hồi vốn.
Nghị quyết 42/2017/QH14 là văn bản có giá trị pháp lý rất quan trọng trong giai đoạn trước
COVID-19 và hiện nay, khi lần đầu tiên các vấn đề vướng mắc về pháp lý của ngành Ngân hàng
liên quan đến xử lý nợ xấu và xử lý TSĐB đã kéo dài nhiều năm qua được giải quyết trong một
văn bản của Quốc hội. Nghị quyết này tạo cơ chế đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, khả thi nhằm
đảm bảo quyền của chủ nợ trong xử lý nợ xấu, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD phát
huy tốt vai trò là kênh dẫn vốn chủ đạo, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh
của nền kinh tế.
Cùng với đó, Quyết định số 1058/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ tiếp tục phát huy những
kết quả đã đạt được và những bài học kinh nghiệm từ thực tế triển khai tái cơ cấu hệ thống các
452


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

TCTD và xử lý nợ xấu, tập trung vào việc hồn thiện khn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách về
tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm đổi mới mạnh mẽ và toàn diện các TCTD, trong đó đặc biệt
chú trọng đổi mới mơ hình quản trị, điều hành; nâng cao năng lực tài chính, tăng cường năng lực
đánh giá, kiểm soát rủi ro; chuyển đổi mơ hình kinh doanh theo hướng đa dạng và hiện đại hóa
các sản phẩm dịch vụ; tăng cường đổi mới công tác thanh tra, giám sát ngân hàng; cơ cấu lại các
TCTD theo từng nhóm.
Riêng giải pháp xử lý nợ xấu qua Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản các TCTD Việt Nam
(VAMC), có thể thấy:
Tính riêng năm 2020, VAMC đã triển khai mua 281 khoản nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt với
15.218 tỷ đồng dư nợ gốc nội bảng, đạt gần 100% kế hoạch được NHNN giao. Đồng thời, VAMC
cũng xử lý và phối hợp với các TVTD xử lý thu hồi nợ xấu được 47.515 tỷ đồng dư nợ gốc (tạm
tính), đạt 95% kế hoạch năm 2020. Lũy kế từ khi thành lập đến hết ngày 31/12/2020, VAMC đã

thực hiện mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt đạt 374.622 tỷ đồng dư nợ gốc nội bảng, xử lý thu
hồi nợ đạt 167.019 tỷ đồng. Từ khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 có hiệu lực, kết quả thu hồi nợ
của VAMC chiếm 63% tổng số thu hồi nợ lũy kế. Mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt sau khi Nghị
quyết số 42/2017/QH14 có hiệu lực đạt 67.612 tỷ đồng; mua nợ theo giá trị thị trường từ 2017
đến hết năm 2020 đạt 8.341 tỷ đồng1.
Từ khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực đến hết năm 2020, VAMC thu hồi nợ ước đạt khoảng
95.000 tỷ đồng, gấp 1,5 lần tổng thu hồi nợ giai đoạn trước đó (từ năm 2013 đến ngày 14/8/2017).
VAMC cũng thu giữ thành công một số tài sản bảo đảm (TSBĐ) có giá trị lớn, góp phần đẩy
nhanh tiến độ thu hồi nợ. Thu hồi từ biện pháp bán nợ tăng gấp hơn 4 lần so với giai đoạn trước
đó, cịn thu hồi nợ từ biện pháp xử lý TSBĐ tăng gấp 1,5 lần so với giai đoạn trước đó. Đặc biệt,
ý thức trả nợ của khách hàng tăng cao rõ rệt, việc thu hồi nợ thông qua các biện pháp khác như
tố tụng cũng tác động tích cực đến kết quả thu hồi xử lý nợ.
2.3. Một số đánh giá về khó khăn trong xử lý nợ xấu khơi thơng dịng vốn cho vay
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế giai đoạn hiện nay
Mặc dù công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu trong thời gian qua trước
và trong đại dịch COVID-19 đã đạt được kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên vẫn cịn tồn tại những
khó khăn, vướng mắc trong quá trình cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu của TCTD. Những khó
khăn này đã ảnh hưởng đến mở rộng tín dụng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo mục
tiêu của năm 2021 cũng như các năm sau. Các khó khăn trong xử lý nợ xấu của các TCTD được
khái quát ở những điểm chính như sau:
(i) Việc nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn điều lệ nhằm đáp ứng yêu cầu tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu theo Basel II của một số TCTD, nhất là các NHTM Nhà nước cịn khó khăn, đến
nay chưa có quyết định chính thức về tăng vón chủ sở hữu. Nếu khơng tăng được vốn điều lệ, một
số NHTM Nhà nước, ví dụ như VietinBank, BIDV sẽ phải giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, tác
động trực tiếp đến khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng tín
dụng tồn ngành và theo đó tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế. Đây là
các NHTM có quy mơ và thị phần tín dụng lớn, số lượng khách hàng là doanh nghiệp đông.
1

Tổng hợp từ trang web của các NHTM, tháng 12/2020 và tháng 1/2021; thời gian truy cập, từ ngày 19 - 29/1/2021.


453


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

(ii) Tiến độ xử lý cơ cấu lại đối với một số TCTD phi ngân hàng có chủ sở hữu, hay cổ đơng
lớn là các tập đồn kinh tế, tổng cơng ty nhà nước còn chậm, phụ thuộc vào nội dung phương án
cơ cấu lại tổng thể của tập đồn, tổng cơng ty nhà nước.
(iii) Việc xử lý, thu hồi nợ và TSBĐ của một số TCTD cịn khó khăn trong trường hợp TSBĐ
cho các khoản nợ bị kê biên, liên quan đến các vụ án, hồ sơ pháp lý chưa hoàn chỉnh, thiếu sự
phối hợp đồng bộ, có trách nhiệm của các cơ quan chức năng ở các địa phương với các NHTM
có tài sản phải xử lý.
iv) Nhiều TCTD vẫn gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ
xấu theo quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội khóa 14; thực hiện quyền áp
dụng thứ tự ưu tiên thanh toán nghĩa vụ về thuế khi xử lý TSBĐ và nộp án phí theo bản án, quyết
định của Tịa án các cấp chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể.
v) Bên cạnh những vướng mắc liên quan đến quy định pháp luật về xử lý nợ xấu nói chung và
xử lý TSBĐ của các khoản nợ xấu tại các NHTM nói riêng cịn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa tạo
hành lang pháp lý thơng thống cho các ngân hàng xử lý nợ xấu, xử lý TSBĐ của các khoản nợ xấu.
vi) Ngồi những khó khăn thách thức trên, sự bùng phát của dại dịch COVID-19 từ đầu năm
2020 đến nay đã và đang ảnh hưởng, tác động khơng nhỏ đến an tồn hoạt động ngân hàng cũng
như kết quả cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu toàn ngành Ngân hàng trong giai đoạn 2016 - 2020.
Để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, ngành Ngân hàng đã có
nhiều giải pháp tích cực hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là các giải pháp cơ cấu lại
thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ để vượt qua khó khăn theo Thơng tư số 01/2020/TT-NHNN
quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm
lãi, phí, giữ ngun nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19. Song
đến hết năm 2020, Thông tư số 01/2020/TT-NHNN hết hiệu lực thi hành, các khoản nợ được cơ
cấu lại đang phản ánh thực chất khoản nợ đó, tỷ lệ nợ xấu gia tăng.

2.4. Khuyến nghị và hàm ý chính sách
Đến nay, dịch COVID-19 trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, tác động xấu đến tăng trưởng
kinh tế, làm đình trệ sản xuất - kinh doanh của nhiều lĩnh vực: hàng không quốc tế, du lịch quốc
tế…, rủi ro tín dụng sẽ có xu hướng gia tăng và áp lực nợ xấu sẽ là rất lớn. Do vậy, việc thực hiện
mục tiêu về kiểm soát nợ xấu cũng như các mục tiêu khác tại Quyết định 1058/QĐ-TTg đến cuối
năm 2021, các năm tiếp theo và giai đoạn hậu COVID-19 là thách thức rất lớn đối với ngành
Ngân hàng.
Để Nghị quyết số 42/2017/QH14 được triển khai có hiệu quả trên thực tế, đặc biệt trong bối
cảnh diễn biến phức tạp của dịch COVID-19 như hiện nay, Bộ Tư pháp cần tiếp tục chỉ đạo Tổng
cục Thi hành án dân sự rà soát các vụ việc thi hành án có điều kiện thi hành án tồn đọng để ưu
tiên xử lý, thu hồi dứt điểm cho ngân hàng; Bộ Cơng an có biện pháp kiên quyết xử lý các tổ
chức, cá nhân có hành vi chống đối, cản trở, đe dọa tính mạng, tinh thần của cán bộ ngân hàng
tham gia thu giữ TSBĐ, đảm bảo cho việc thu giữ TSBĐ được diễn ra thuận lợi, phù hợp với quy
định pháp luật.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cần phối hợp với NHNN đề xuất cơ chế, chính sách tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc cho ngân hàng về các khoản thuế, phí cịn nợ của bên bảo đảm trong việc
454


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

chuyển nhượng TSBĐ; có hướng dẫn về tiêu chuẩn định giá khoản nợ để làm cơ sở cho các cơ
quan thẩm định giá thực hiện thẩm định giá khoản nợ cho các ngân hàng.
Vì Nghị quyết số 42/2017/QH14 có tính chất thí điểm, thời điểm, do đó, sau khi Nghị quyết
này hết hiệu lực vào năm 2022, NHNN cần có tổng kết, đánh giá kết quả đạt được của Nghị
quyết số 42/2017/QH14 để từ đó, đề xuất Quốc hội ban hành Luật Xử lý nợ xấu của các TCTD
cho giai đoạn hậu COVID-19.
Để đảm bảo công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 và công tác cơ cấu lại

theo Quyết định 1058/QĐ-TTg được triển khai có hiệu quả trên thực tế, đồng thời, các TCTD
tiếp tục phát huy tốt vai trò là kênh dẫn vốn chủ đạo và đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế, đặc biệt, trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch bệnh
COVID-19, NHNN cần tiếp tục phối hợp với các bộ, ban, ngành có liên quan đề xuất Chính
phủ các giải pháp để giải quyết dứt điểm những khó khăn, vướng mắc về cơ chế cũng như trong
thực tế áp dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14. Đồng thời, xem xét, nghiên cứu việc luật hóa xử lý
nợ xấu nhằm quy định cụ thể về việc xử lý nợ xấu, xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu của toàn hệ thống
ngân hàng, nâng cao vai trò, năng lực của VAMC và tạo động lực cho các TCTD xử lý nợ xấu đạt hiệu
quả. NHNN cần khẩn trương nghiên cứu xây dựng Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn
hậu COVID-19 (2021 - 2025), báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt nhằm tiếp tục nâng cao năng lực
cạnh tranh, năng lực tài chính và quản trị điều hành của các TCTD, hỗ trợ các TCTD trong việc xử lý
hiệu quả nợ xấu của nền kinh tế.
3. KẾT LUẬN
Để triển khai thành công các giải pháp cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu giai
đoạn hậu COVID-19 đạt được các mục tiêu đề ra, tạo chuyển biến tích cực trong hoạt động của
các TCTD cũng như hoạt động tiền tệ, ngân hàng, đóng vai trị hàng đầu cung ứng vốn tín dụng
cho phục hồi tăng trưởng GDP, thì sự nỗ lực của NHNN và các TCTD, VAMC là chưa đủ, mà cần
có sự phối hợp tích cực, đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả của các bộ, ngành, chính quyền địa phương,
sự chung tay của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội nhằm tăng cường hơn nữa vai trị và sự đóng
góp của ngành Ngân hàng đối với phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2020), truy cập tại: />tintuc/chitiet.aspx?tintucID=223229; thời gian truy cập ngày 29/01/2021.
2. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, truy cập tại www.vnba.org.vn; thời gian truy cập, từ ngày
19 - 29/1/2021.
3. NHNN, Thông tin và tư liệu được truy cập tại mục: Tin tức - Sự kiện, trang www.sbv.gov.vn,
thời gian truy cập, từ ngày 19 - 29/01/2021.
4. NHTM Việt Nam (2020), Tổng hợp từ trang web của các NHTM, tháng 12/2020 và tháng
1/2021; thời gian truy cập, từ ngày 19 - 29/1/2021.
5. NHTM Việt Nam (2020), Báo cáo tài chính hết quý II và quý III/2020 của các NHTM, tháng
12/2020, công bố trên trang web của các NHTM; thời gian truy cập, từ ngày 19 - 29/01/2021.

455



×