Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Du lịch đối với dân tộc thiểu số ở huyện Sapa, tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.79 KB, 49 trang )


du lịch đối với dân tộc thiểu số
ở huyện Sapa, Tỉnh Lào cai:

Tiến sĩ: Phạm Thị Mộng Hoa
Tiến sĩ: Lâm Thị Mai Lan
Trung tâm nghiên cứu địa lý nhân văn
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia
cộng tác với
Annalisa Koeman
IUCN Việt Nam


Hà Nội, Tháng 2 năm 1999


Mục lục
Lời mở đầu
1
Giới thiệu chung 2
I Ph ơng pháp nghiên cứu
5
II Khái quát về kinh tế của huyện
6
III Tiềm năng du lịch Sa Pa
7
IV Phạm vi không gian ảnh h ởng của du lịch trên địa bàn huyện Sapa
10
V Những tác động tích cực hay lợi ích của du lịch
13
A/ Khu vực thị trấn và những ng ời Kinh kinh doanh


13
B/ Vùng nông thôn và các dân tộc thiểu số
14
1) Tạo cơ hội việc làm và tăng thu nhập
14
a. Bán các sản phẩm có sắc thái văn hoá dân tộc
14
b. Dịch vụ leo núi (phanxipan)
20
c. Mở quán bán hàng
21
d. Vào thăm hộ gia đình
21
e. Đa khách đi thăm quan
22
f. Cho khách du lịch chụp ảnh
22
g. Biểu diễn văn nghệ dân tộc
22
h. Giới thiệu, chào mời khách
23
i. Cung cấp lơng thực, thực phẩm
23
k. Cung cấp nhân công lao động
24
2) Sự hoà nhập vào kinh tế thị tr ờng
24
3) Mở rộng sự giao l u, hiểu biết và thế giới quan
26
4) Tăng c ờng đầu t

29
VI Những tác động tiêu cực của du lịch
31
1) Vấn đề những ng ời bán rong
31
2) Trẻ em lang thang ngoài thị trấn
33
a. Giáodục
34
b. Quan hệ gia đình
34
c. Sự cấu kết cộng đồng
35
d. Tệ nạn xã hội
35
3) Nguy cơ "th ơng mại hoá"
36
4) Sự biến mất hay biến đổi các hoạt động văn hoá
36
VII Tác động của du lịch đối với môi tr ờng tự nhiên
39
VIII Thái độ đối với du lịch và vai trò của dân tộc thiểu số đối với du lịch Sa
Pa do các tác nhân khác nhau gây lên
42
1. Các tác nhân du lịch
42
a. Khách du lịch nớc ngoài.
42
b. Khách du lịch trong nớc.
42

c. Những ngời Kinh kinh doanh
42
2. Các quan điểm hay nhìn nhận về du lịch Sa Pa và về vai trò của dân tộc
thiểu số của khách du lịch và ng ời kinh doanh
42
a. Các yếu tốthu hút kháchdu lịch
42
b. Những vấn đề môi trờng, xã hội của Sa Pa nh hậu quả của du lịch
43
c. Vai trò của ngời dân tộc trong thu hút khách du lịch
44
d. Mứcđộ tham gia vào du lịch của ngời dân tộcthiếu số
45
e. Sự bền vữngcủa vai trò của dân tộc thiếu số trong thu hút khách du lịch
46
f. Những yếu tố cản trở sự tham gia của dân tộc thiểu số vào du lịch
47
g. Những tácđộng tiêu cực của du lịch về văn hoá, xã hội, môi trờng
47
h. ứng xử khác nhau đối với ngời dân tộc và môi trờng của khách du lịch nội
địa và nớc ngoài
48
i. Cảm nghĩ về dân tộc thiểu số
48
3. Nhìn nhận của những ng ời bán rong và trẻ lang thang
49
IX Các biện pháp tăng cờng lợi ích cho dân tộc thiểu số, hạn chế tác động
tiêu cực
51
1) Tổ chức làm và bán hàng thổ cẩm

51
2) Tổ chức bán hàng ở chợ cho ng ời dân tộc thiểu số
52
3) Đào tạo ng ời dân tộc thiểu số thành các h ớng dẫn viên du lịch, h ớng
dẫn viên leo núi
53
4) Xây dựng một số nhà nghỉ mang sắc thái dân tộc tại một số làng bản
quanh thị trấn Sa Pa
53
5) Khôi phục và phát triển văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc
thiểu số
54
6) Tăng c ờng sản xuất l ơng thực thực phẩm phục vụ du lịch
56
7) Giải quyết vấn đề trẻ em lang thang
56
8) Hạn chế tác động tiêu cực của sự th ơng mại hoá trong các quan hệ xã
hội và hoạt động văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu số
57
X Một số kiến nghị cho việc phát triển du lịch bền vững ở Sa Pa
58
1. Qui hoạch phát triển
58
2. Cấp giấy phép đi thăm làng bản dân tộc và ngủ lại đêm
58
3. Tổ chức quản lý du lịch
58
4. Tổ chức thêm các khu tham quan, giải trí
59
5.Tuyên truyền giáo dục về du lịch

60
6. Một vài kết luận
60
Bảng
1: Lý do chính đến Sa Pa
8
2: Công nhận có sự khác biệt về lý do đến Sa Pa giữa ngời Việt Nam và
khách nớc ngoài
8
3: Những sản phẩm thờng bán
16
4: Loại mặt hàng bán chạy nhất của những ngời bán rong
17
5: Thu nhập trung bình một tuần của những ngời bán rong
19
6: Những kiểu loại giao tiếp với dân tộc thiểu số
27
7: Lý do thích khách du lịch và du lịch của hộ gia đình
28
8: Các sản phẩm mà các hộ đợc phỏng vấn thờng bán
40
9: Hớng thay đổi của các yếu tố thu hút khách du lịch của Sa Pa
43
10: Những vấn đề môi trờng, xã hội của Sa Pa do hậu quả của du lịch
44
11: Vai trò của ngời dân tộc trong thu hút khách du lịch
45
12: Đánh giá về vai trò thu hút khách du lịch của ngời thiểu số
46
13: Những cản trở ngời dân tộc thiểu số tham gia vào du lịch

47


Lời mở đầu
Bản báo cáo này do PTS. Phạm Thị Mộng Hoa và PTS. Lâm Thị Mai Lan - Trung tâm
nghiên cứu Địa lý Nhân văn thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia
thực hịên với sự cộng tác của Annalisa Koeman và Nguyễn Văn Lâm thuộc Hiệp hội Bảo
tồng Thiên nhiên Quốc tế, dựa trên các kết quả nghiên cứu bằng phơng pháp đánh giá
nhanh nông thôn và đánh giá nông thôn với sự tham gia của ngời dân do các tác giả tiến
hành tại Sa Pa và các nghiên cứu, điều tra thực địa của Mai Kim Oanh (phụ trách) và
Phạm Thị Quỳnh Phơng (trợ giúp) với sự tham gia của cán bộ Hội phụ nữ huyện và ngời
tham gia hớng dẫn khách du lịch tại Sa Pa. Nghiên cứu này nằm trong Dự án du lịch bền
vững của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế tại Việt Nam với mục tiêu tiến hành
nghiên cứu sâu tại Sa Pa - Lào Cai về mức độ tham gia, ảnh hởng và thái độ đối với du
lịch của các cộng đồng dân tộc thiểu số và những ngời kinh doanh du lịch ở thị trấn cũng
nh thái độ của khách du lịch đối với dân tộc thiểu số và nhận thức của họ về các tác động
của du lịch.
Nghiên cứu đợc tiến hành tại 4 "khu vực": 4 xã đợc lựa chọn trong huyện Sa Pa; những
ngời dân tộc thiểu số bán hàng rong và trẻ em lang thang ở thị trấn Sa Pa; những ngời
kinh doanh du lịch ở thị trấn và cuối cùng là khách du lịch trong nớc và nớc ngoài.
Các kết quả nghiên cứu sẽ đợc sử dụng nh một phần quan trọng của Hội thảo về kế hoạch
hoá du lịch cộng đồng theo sáng kiến của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế - Tổ
chức Phi chính phủ Quốc tế nhằm thảo luận về phát triển du lịch bền vững và về kế hoạch
hành động phát triển du lịch bền vững ở Sa Pa (nh đã đợc nói rõ trong Điều khoản tham
chiếu của nghiên cứu này).
Các ý kiến đợc nêu trong báo cáo này chỉ là của các tác giả, không nhất thiết phản ánh
quan điểm của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế tại Việt Nam hay của Dự án Du lịch
Bền vững.



Giới thiệu chung
Du lịch là một trong những ngành "hết sức phụ thuộc vào môi trờng thiên nhiên cũng nh
vào các đặc trng văn hoá và xã hội của c dân bản địa". Việt Nam đang trong quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế và xã hội. Du lịch Việt Nam là một ngành công nghiệp non trẻ,
đầy tiềm năng và hứa hẹn, nhng nó cũng có thể tiềm ẩn những hậu quả tiêu cực trên nhiều
phơng diện mà cần đợc chú ý khắc phục kịp thời vì sự phát triển của nó nói riêng và của
Kinh tế và Xã hội Việt Nam nói chung. Nếu nh tiềm năng thiên nhiên của du lịch cũng
nh tác động của du lịch đối với việc bảo vệ các tài nguyên tự nhiên đã đợc quan tâm và
biết đến khá nhiều, thì các tiềm năng văn hoá, xã hội cũng nh sự quan tâm về những tác
động của du lịch đối với dân c và các tài nguyên văn hoá, đặc biệt, đối với việc bảo tồn
các di sản văn hoá truyền thống, độc đáo của các dân tộc thiểu số vẫn còn là những điều
vô cùng mới mẻ ở Việt Nam.
Dự án "Xây dựng năng lực phục vụ các sáng kiến về du lịch bền vững" tiến hành trong 2
năm (1997-1999) do Tổ Chức Bảo Tồn Thiên Nhiên Quốc Tế (IUCN) thực hiện đã đặt
một trong những nhiệm vụ trọng tâm là xác định và nâng cao nhận thức đối với các tác
động về kinh tế - xã hội, văn hoá và sinh thái của du lịch, đóng góp vào việc phát triển các
mô hình du lịch bền vững dựa vào cộng đồng để có thể tạo thu nhập lâu bền cho một số
các cộng đồng bị thiệt thòi và nghèo nhất của đất nớc, đồng thời giúp duy trì sự đa dạng
cả về sinh học lẫn văn hoá của Việt Nam. Một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự hình
thành dự án chính là sự lo ngại ngày càng gia tăng của nhiều tổ chức phi chính phủ
(NGO) đối với những tác động hữu hình và ngày càng lớn của du lịch đối với các nhóm
dân tộc thiểu số ở Sa Pa.
Trong một số các nghiên cứu gần đây nhất, các nhà nghiên cứu phơng Tây đã đề cập khá
nhiều đến những tác động này, trong đó đặc biệt có thể nhắc tới nghiên cứu "Sự tăng tr-
ởng và ảnh hởng của du lịch ở Sa Pa" của Michael Dirgegorio và những ngời khác, năm
1996, và "Nghiên cứu ban đầu về Du lịch trong và vùng xung quanh thị trấn Sa Pa" của
Mark E.Grindley, thuộc tổ chức Frontier - Việt Nam,1997.
Trong nghiên cứu của mình và đồng sự, Michael Digregorio cho rằng du lịch có thể làm
tổn hại đến dân tộc thiểu số nhiều hơn so với những lợi ích mà nó mang lại; họ thờng
đứng ở mắt xích cuối trong dây chuyền chuyển tải các tài nguyên thiên nhiên của Sa Pa

phục vụ du lịch, có nghĩa là dân tộc thiểu số là ngời trực tiếp thu lợm và cung cấp các sản
phẩm rừng phục vụ du lịch thông qua các khâu trung gian nh nhà hàng, khách sạn, cửa
hàng... của ngời Kinh ở Sa Pa, bởi vậy sẽ chịu tác động đầu tiên khi môi trờng và tài
nguyên rừng bị cạn kiệt, trong khi đó việc tham gia trực tiếp vào các hoạt động du lịch
nh biểu diễn văn hoá truyền thống, cho khách thăm quan làng, thăm nhà hay trú ngụ qua
đêm lại không mang lại lợi ích đáng kể cho họ. Từ đó ông cho rằng khi du lịch ngày càng
chiếm vị trí lớn hơn trong kinh tế Sa Pa thì vấn đề công bằng xã hội (thể hiện trong phân
công lao động cũng nh phân chia lợi ích giữa dân tộc thiểu số và ngời Kinh đa số) càng
trở nên nghiêm trọng hơn và ông đã đề xuất cần phải có cơ chế để điều tiết trở lại các
nguồn lợi thu từ du lịch cho việc cải thiện kinh tế - xã hội và môi trờng, ngời dân tộc thiểu
số phải đợc quyền kiểm soát việc tham gia vào du lịch của họ, kiểm soát việc khách du
lịch vào thăm làng, thăm cuộc sống và các nghi lễ của họ. Michael Digregorio cho rằng
cùng với sự phát triển của du lịch văn hoá thì việc thơng mại hoá một số yếu tố văn hoá
của dân tộc thiểu số là điều không tránh khỏi và điều này sẽ làm giảm tính hấp dẫn đối
với du khách, đặc biệt đối với những khách nớc ngoài trẻ tuổi, thích phiêu lu và a tìm
những điều mới lạ, hiện đang là loại khách nớc ngoài chủ yếu của Sa Pa. Thay vào đó sẽ
là những khách nớc ngoài ít phiêu lu hơn tuy giàu có hơn và loại khách trong nớc ít quan
tâm đến đời sống thực của dân tộc thiểu số hơn. Ông cũng dự báo xu thế phát triển của Sa
Pa sẽ từ một điểm du lịch đợc hấp dẫn bởi những điều độc đáo, đặc biệt trở thành một khu
du lịch nghỉ ngơi giải trí.
Mark E.Grindley cũng báo động về sự khó phục hồi của các tác động tiêu cực của du lịch,
tuy trớc mắt có thể cha nhìn thấy ngay. Ông cho rằng du lịch cha mang lại lợi ích cho dân
tộc thiểu số - những ngời gây áp lực chủ yếu lên tài nguyên rừng, cũng nh cha trực tiếp
đóng góp trở lại cho việc bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng - là yếu tố hấp dẫn khách
du lịch mang tính lâu bền hơn. Mark Grindley đã đề xuất một số biện pháp tổ chức du
lịch ở Sa Pa nhằm mang lại lợi ích nhiều hơn cho dân tộc thiểu số góp phần giảm áp lực
lên tài nguyên rừng, tổ chức các tour tốt hơn từ Sa Pa sao cho du khách có thể ở lại lâu
hơn, đặc biệt chú ý tới việc thăm thắng cảnh, khu bảo tồn thiên nhiên, leo núi...
Nghiên cứu của Dr. Trish Nicholson tháng 11/1997 cũng cho rằng du lịch hiện nay ở Sa
Pa mang lại rất ít lợi ích cho dân tộc thiểu số. ông đặc biệt nhấn mạnh rằng sự không tơng

xứng giữa công lao động bỏ ra để làm các hàng thổ cẩm với giá trị mà chúng đợc bán trên
thị trờng nh các đồ lu niệm đã góp phần làm tăng thêm gánh nặng công việc vốn đã nặng
nề của những ngời phụ nữ dân tộc ở đây.
Nghiên cứu của Dr. Jean Michaud vừa thực hiện tháng 5 năm 1998 đã đa ra bức tranh
sáng sủa hơn về sự tham gia vào du lịch của các dân tộc thiểu số ở Sa Pa, tuy ông cũng
cho rằng dân tộc thiểu số khó có thể cạnh tranh và kiểm soát đợc các hoạt động mang lại
thu nhập từ du lịch, họ chỉ có thể là những ngời buôn bán rất nhỏ và là các chủ nhà khách
rất rẻ tiền. Tuy nhiên, theo Jean Michaud thì các tác động gây xáo trộn hệ thống tái sản
xuất kinh tế và văn hoá của dân tộc thiểu số là không đáng kể, thậm chí ông còn cho rằng
sự lo ngại về việc các trẻ em gái lang thang ở thị trấn bỏ học và có nguy cơ rơi vào cạm
bẫy của nạn mại dâm là không có tính thuyết phục...
Một loạt các phát hiện cũng nh các ý kiến, quan điểm giống và khác nhau về những tác
động của du lịch đối với các dân tộc thiểu số ở Sa Pa trong những nghiên cứu kể trên cho
thấy, cần thiết phải làm sáng tỏ hơn nữa mức độ của các tác động, kể cả tích cực và tiêu
cực, của du lịch đối với các dân tộc thiểu số ở Sa Pa, và, điều quan trọng hơn là tìm hiểu
sự đánh giá và nhìn nhận của chính họ đối với những tác động này. Chúng tôi hy vọng
cách đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu của IUCN trong dự án này sẽ có thể đóng góp
phần nào vào cuộc Hội thảo sắp tới nhằm tập hợp lực lợng và kinh nghiệm để xây dựng
một kế họach hành động phát triển du lịch bền vững ở Sa Pa, có nghĩa là một kế hoạch
phát triển mà ở đó các hoạt động du lịch hiện tại không làm ảnh hởng đến khả năng của
các thế hệ mai sau trong việc đáp ứng các nh cầu của chúng, hay nói cách khác, làm sao
để sự phát triển du lịch không làm tổn hại hay phá huỷ các tài nguyên của chính nó, kể cả
tự nhiên và văn hoá, nhân văn, nhằm làm cho du lịch phát triển đợc dài lâu, không ngừng
hấp dẫn du khách, cũng nh làm cho cuộc sống của cộng đồng các dân tộc sở tại ngày
càng phát triển và phồn vinh hơn.
Nhằm những mục tiêu này, IUCN nói riêng và các tổ chức quốc tế nói chung mong muốn
đóng góp vào sự phát triển của một du lịch bền vững dựa vào cộng đồng, nghĩa là dựa
trên những suy nghĩ và mong muốn của cộng đồng về du lịch và đối với sự tham gia của
họ vào du lịch để từ đó tiến tới việc thực hiện kế hoạch hoá sự phát triển của du lịch Sa
Pa với sự tham gia của chính ngời dân nơi đây, mà trớc hết là các dân tộc thiểu số -

những ngời chiếm tỉ lệ đa số trong tổng số c dân của huyện.

I/ Phơng pháp nghiên cứu
Ngoài thị trấn Sa Pa là nơi tập trung chủ yếu các hoạt động du lịch, 4 xã đã đợc chọn để
nghiên cứu trên cơ sở khoảng cách tới thị trấn Sa Pa, thành phần dân tộc thiểu số và nằm
trong hoặc gần khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Sơn. Các xã đợc chọn ban đầu là Sán
Sả Hồ, Lao Chải, Tả Van và Bản Hồ với khoảng cách xa dần thị trấn Sa Pa. Song một vài
kết quả nghiên cứu sơ bộ cho thấy tuy Bản Hồ có thêm dân tộc Tày là dân tộc không có ở
3 xã trên, nhng ảnh hởng của du lịch tới xã này hầu nh không đáng kể và đại đa số c dân
của nó không có hoạt động gì liên quan tới du lịch. Bởi vậy, Tả Phìn đã đợc chọn thay cho
Bản Hồ. Có thể nói, 4 xã đợc chọn này là các xã có nhiều hoạt động liên quan tới du lịch
nhất cũng nh chịu tác động của du lịch nhiều nhất (trong huyện Sa Pa, không kể thị trấn)
nên hoàn toàn phù hợp với mục tiêu đặt ra
- Phơng pháp đợc dùng chủ yếu là phơng pháp "Đánh giá nhanh nông thôn" (RRA) nhằm
để phát hiện các vấn đề của du lịch và tìm hiểu những suy nghĩ, cảm nhận cũng nh quan
niệm của ngời dân về những vấn đề đó cùng với các giải pháp đề xuất của họ. Các cuộc
phỏng vấn, thảo luận chính thức và không chính thức đã đợc tiến hành với đại diện các
cấp chính quyền (tỉnh, huyện, xã), các ban ngành (Sở Thơng mại - du lịch Lào Cai, Công
ty du lịch Lào Cai, phòng du lịch thuộc Sở Thơng mại-Du lịch Lào Cai, Công an huyện Sa
Pa, huyện Hội phụ nữ Sa Pa), các trởng bản, trởng tộc, già làng cũng nh đại diện các đoàn
thể phụ nữ, thanh niên, hội nông dân... của các xã đợc nghiên cứu. Đặc biệt, các cuộc thảo
luận đã đợc tiến hành với các nhóm xã hội khác nhau nh nhóm các trởng bản, trởng tộc,
già làng; nhóm lãnh đạo địa phơng, nhóm phụ nữ, nhóm thanh niên hay nhóm khách du
lịch trong nớc và nớc ngoài. Các cuộc thảo luận với chính quyền cấp xã thờng có mặt từ 2
- 4 ngời (ví dụ cuộc gặp ở xã Lao Chải đã có 4 ngời tham dự: Ông Phó Chủ Tịch UBND
xã, cán bộ Địa chính xã, Ông Xã Đội Trởng và Ông Chủ Tịch Hội nông dân xã). Nhóm
các trởng tộc, già làng có từ 2 -5 ngời (có 2 Ông Trởng Tộc và 3 Già Làng có mặt trong
cuộc gặp tại xã Tả Van). Nhóm phụ nữ cũng dao động từ 2 tới 16 ngời (tại xã Tả Phìn có
16 và xã San Sả Hồ có 12 phụ nữ đã tham gia thảo luận nhóm tại xã).
- Phơng pháp phỏng vấn và điều tra bằng bảng hỏi đợc sử dụng nhằm lợng hoá các kết

quả sơ bộ hay những phát hiện đã xác định. Đã tiến hành phỏng vấn và điều tra bằng bảng
hỏi 10% số hộ gia đình ở 4 xã đợc nghiên cứu (do ngòi địa phơng biết tiếng dân tộc và
thông thạo địa bàn điều tra) với mẫu điều tra tổng số gồm 110 hộ gia đình, trong đó có 78
hộ ngời Mông, 17 hộ ngời Dao và 15 hộ ngời Giáy, tơng ứng tỉ lệ 10% thành phần từng
dân tộc của mỗi xã. Tơng tự, đã điều tra và phỏng vấn 29 đối tợng tham gia kinh doanh du
lịch ở Sa Pa, 27 ngời bán hàng rong, 26 trẻ em lang thang, 28 khách du lịch nớc ngoài và
26 khách du lịch trong nớc. Việc chọn mẫu hộ và các đối tợng trên để phỏng vấn đợc kết
hợp dựa vào phơng pháp chọn mẫu ngẫu nhiên lẫn việc điều chỉnh sao cho nó đủ thành
phần đại diện nhất.

II/ Khái quát về kinh tế của huyện
Sa Pa là huyện miền núi với 9 dân tộc cùng sinh sống, trong đó đông nhất là ngời Mông
(53%), Dao (24%) và ngời Kinh (13,7%), sau đó là ngời Tày (5,7%), Giáy (1,5%) và ngời
Xa Phó (1,2%). Sa Pa có nền kinh tế phát triển thấp với cơ cấu ngành nghề khá đơn giản,
chủ yếu dựa vào nông - lâm nghiệp. Đất canh tác chỉ chiếm 4,4% tổng diện tích đất đai
của huyện, trong đó 45% là đất trồng lúa nớc và 39% là đất nơng mà chủ yếu là nơng
ngô. Do khí hậu về mùa đông khắc nghiệt, lạnh, nên lơng thực chủ yếu chỉ trồng đợc 1 vụ,
do vậy lơng thực bình quân chỉ đủ cung cấp từ 6 đến 10 tháng cho các hộ nông dân ở đây.
Những tháng còn lại, họ phải dựa chủ yếu vào các sản phẩm rừng nh gỗ, nấm, măng, các
loại cây dợc liệu, cây cảnh, mật ong, củi, thịt thú rừng... Chính vì vậy, tài nguyên rừng ở
Sa Pa bị giảm sút rất nhanh chóng. Hiện nay, do chính sách đóng cửa rừng của Nhà nớc,
do các sản phẩm rừng đã bị cạn kiệt một cách đáng kể cộng thêm với việc cấm trồng và
buôn bán thuốc phiện, đời sống của ngời nông dân Sa Pa gặp rất nhiều khó khăn.
Nhà nớc và chính quyền địa phơng đã cố gắng tìm nhiều biện pháp giúp dân xoá đói giảm
nghèo, ổn định đời sống và nâng cao thu nhập. Nhiều dự án đầu t của các chơng trình
định canh định c, chơng trình trồng rừng và phát triển lâm nghiệp, chơng trình khuyến
nông của Nhà nớc cũng nh của một số tổ chức phi chính phủ hay các tổ chức quốc tế đã
và đang đợc thực hiện ở nhiều địa phơng trong huyện.
Bên cạnh việc phát triển trồng trọt một số loại cây hàng hóa nh khoai tây, các loại rau
xanh, đào, mận, hồng... và chăn nuôi lợn, gà, dê... việc trồng thảo quả dới tán rừng (mặc

dù có ảnh hởng tới đa dạng sinh học của rừng vì làm mất hết các lớp thực vật nằm thấp
hơn) đang là một trong những nguồn thu nhập bổ sung hết sức quan trọng của nhiều gia
đình, đặc biệt là của ngời Mông (ví dụ xã San Sả Hồ có tới gần 90% số hộ, xã Lao Chải -
30%, ở xã Tả Van rất nhiều gia đình Mông có trồng thảo quả).
Trong số 110 hộ đợc điều tra có tới 86 hộ (chiếm 78,2%) trả lời là bán thảo quả là một
trong những nguồn thu nhập quan trọng mỗi khi gia đình bị thiếu ăn. Tuy nhiên, theo
thống kê của chính quyền các xã đợc nghiên cứu thì trung bình hiện có tới 40 - 60% số hộ
thuộc diện đói nghèo trong đó ngời Mông chiếm tỷ lệ cao nhất. Bởi vậy, việc tạo điều
kiện và giúp ngời dân Sa Pa có thêm các nguồn thu nhập mới là vô cùng quan trọng và
bức xúc, nó không chỉ góp phần xoá đói giảm nghèo mà còn giúp giảm áp lực lên tài
nguyên rừng, nhằm bảo vệ và khôi phục vốn rừng quý hiếm có giá trị tầm cỡ quốc tế ở
đây. Trong bối cảnh đó, việc phát triển du lịch ở Sa Pa trong những năm gần đây có tầm
quan trọng đặc biệt.

III/ Tiềm năng du lịch Sa Pa
Với vị trí nằm trên độ cao 1500 - 1600 m, Sa Pa có điều kiện tự nhiên, đặc biệt là khí hậu,
thu hút du khách tới nghỉ ngơi. Từ những năm đầu của thế kỷ 20, ngời Pháp đã phát hiện
ra mảnh đất nhiều tiềm năng này và đã xây dựng hơn 200 biệt thự để tới nghỉ trong những
ngày hè nóng nực ở đồng bằng. Sau khi Pháp rút đi, Sa Pa đã là nơi nghỉ của một số cán
bộ cao cấp của Đảng và Nhà nớc. Năm 1979, chiến tranh biên giới đã phá huỷ hầu hết các
biệt thự ở Sa Pa, chỉ còn 10 công trình giữ đợc nguyên vẹn. Từ năm 1992 - 1993, khi xuất
hiện các nhà nghỉ của một số Bộ, Ban ngành cùng khách nghỉ, chủ yếu là những cán bộ
của các cơ quan Nhà nớc và sự quay trở lại của một số ngời Pháp (cả các nhà nghiên cứu
lẫn khách tham quan du lịch) và sau đó là khách du lịch từ nhiều nớc khác, Sa Pa mới
thực sự trở thành điểm thu hút khách du lịch. Số lợng khách du lịch đến Sa Pa ngày một
gia tăng nhanh chóng. Theo số liệu của Sở Thơng Mại - Du lịch thì từ năm 1995 tới năm
1997, lợng khách du lịch tới Sa Pa đã tăng gần gấp đôi (từ 15.800 lên 30.800), trong đó
khách nớc ngoài tăng gấp hơn hai lần (từ 4.000 lên 9.000).
Các sản phẩm du lịch là những thứ mà khách du lịch lấy làm mục đích hay lý do cho các
chuyến du lịch của mình. Kết quả điều tra của nghiên cứu này một lần nữa lại khẳng định

về sự đa dạng, phong phú của các tài nguyên du lịch của Sa Pa có thể thoả mãn những nhu
cầu thể chất văn hoá tinh thần rất khác nhau của khách. Không những vậy, Sa Pa còn nh
gợi mở cho khách khám phá thêm nhiều điều mới lạ về sự hấp dẫn kỳ thú của nó, nhiều
hơn so với những gì mà trớc khi tới, ngời khách đã đặt mục đích cho mình hay kỳ vọng
cho chuyến đi.
Kết quả điều tra của nghiên cứu này cho thấy có một số nguyên nhân chính áp đảo, vì
chúng mà khách du lịch đã đến Sa Pa. Khí hậu vùng núi mát mẻ, văn hoá dân tộc thiểu số
và phong cảnh thiên nhiên đẹp là những nguyên nhân quan trọng nhất quyết định hành vi
du lịch của phần lớn khách. Trong tổng số 54 khách (gồm 26 ngời Việt Nam và 28 ngời
nớc ngoài) đợc phỏng vấn thì có 37 ngời (68.5%) chọn lý do tận hởng khí hậu mát mẻ, 35
ngời (64,8%) chọn yếu tố tham quan văn hoá dân tộc thiểu số, 34 (62,9%) đến vì phong
cảnh đẹp của tự nhiên.
Những ngời đến Sa Pa với từ 4 đến 6 lý do khác nhau chiếm đa số lợng khách đợc hỏi
(30/54 ngời, bằng 55,6%).
Bảng 1: Lý do chính đến Sa Pa
Value Label Khách trong nớc Khách nớc ngoài

Frequency Percent Frequency Percent
1. Để hởng khí hậu mát 22 84,6 15 53.6
2. Để tham quan VH DT 16 61,5 19 67.9
3. Để thăm quan chợ tình 13 50,0 3 10.7
4. Để chiêm ngỡng cảnh đẹp 11 42,3 23 82.1
5. Hởng môi trờng trong lành, sạch 10 38,5 6 21.4
6. Để gần gũi với thiên nhiên 9 34,6 8 28.6
7. Để th giãn 6 23,0 10 35.7
8. Trốn cuộc sống đô thị 6 23,0 8 28.6
9. Nghiên cứu đời sống DTTS 5 19,2 14 50.0
10. Mua sản phẩm dân tộc thiểu số 3 11,5 2 7.1
11. Để tập luyện dạo chơi 2 7,7 17 60.7
12. Đi bộ đờng dài và leo núi 1 3,8 5 17.9

13. Mua sản phẩm kỳ lạ 1 3,8 2 7.1
14, Nghiên cứu sinh thái môi trờng 1 3,8 1 3.6
15. Kết bạn

3 10.7
16. Khác

1 3.6
Total 26 100,0 28 100,0
Sự khác biệt về mục đích đến Sa Pa giữa ngời Việt Nam và khách du lịch nớc ngoài đợc
một nửa số khách khẳng định (27/54 hay 50%), trong đó tỷ lệ khách nớc ngoài nhận biết
điều này là 15/28 (53,6%), cao hơn ở ngời Việt Nam (12/26 hay 46.1%). Trong số khách
Việt Nam thì những ngời đến Sa Pa lần đầu ít nhận thấy sự khác biệt này hơn (3/14 hay
21,4% ngời đến lần đầu) so với những ngời đến không phải lần đầu ( 9/12 hay 75% ngời
đến nhiều lần đã nhận thấy điều này). Đa số những ngời kinh doanh du lịch ở Sa Pa
(79,3% số đợc phỏng vấn) đã khẳng định có sự khác biệt về lý do đến Sa Pa giữa 2 loại
khách du lịch trong và ngoài nớc. (Bảng 2)
Bảng 2: Công nhận có sự khác biệt về lý do đến Sapa
giữa ngời Việt Nam và khách nớc ngoài
Đối tợng phỏng vấn Số lợng
phỏng
vấn
Không có sự khác biệt Có sự khác biệt
Số lợng % Số lợng %
Khách Việt nam
Trong đó:
26

14


53,8

12

46,2

- Đến lần thứ 1:
- Đến lần thứ 2 hoặc nhiều
hơn:
14
12
11
3
78,6
25,0
3
9
21,4
75,0
Khách nớc ngoàI 28 13 46,4 15 53,6
Những ngời kinh doanh 29 3 10,3 23 79,3
Nhìn chung những nhận định về sự khác biệt trong lý do đến Sa Pa giữa khách Việt Nam
và ngời nớc ngoài của cả 3 nhóm ngời đợc phỏng vấn là tơng đối đồng nhất. Tất cả họ đều
khẳng định điều khác biệt lớn nhất về lý do giữa 2 nhóm khách này là khách Việt Nam
đến Sa Pa chủ yếu là vì khí hậu mát mẻ của vùng miền núi, trong khi nhiều khách nớc
ngoài đến là vì bản sắc văn hoá của dân tộc thiểu số. Cả khách trong nớc, nớc ngoài và
những ngời kinh doanh ở Sa Pa đều chỉ ra rằng một số ngời nớc ngoài đến Sa Pa vì phong
cảnh, để đi bộ tập luyện hoặc leo núi và thởng thức sự trong lành, sạch của môi trờng tự
nhiên, trong khi đó ngời Việt Nam đến là để nghỉ ngơi, th giãn, tránh cái nóng ở vùng
đồng bằng và cuộc sống ồn ào đô thị, có ngời đến để mua bán sản phẩm dân tộc. Từ

những nhận định này có thể thấy rằng bản chất mục đích đến Sa Pa của ngời Việt Nam và
khách nớc ngoài khác nhau về cơ bản: khách Việt Nam đến Sa Pa có xu hớng thoả mãn
nhu cầu về sinh lý sức khoẻ nhiều hơn, trong khi khách nớc ngoài đặt những mục đích
thoả mãn những nhu cầu về văn hoá tinh thần, muốn tìm hiểu về các dân tộc khác và về
những vùng tự nhiên mới lạ hoặc tiến hành loại hình du lịch thể thao nh đi bộ, leo núi.
Cần phải nói thêm rằng mặc dù mặc dù dân tộc thiểu số là một trong các yếu tố quan
trọng hàng đầu có sức thu hút khách và trên địa bàn huyện Sa Pa có 5 nhóm dân tộc thiểu
số chính sinh sống, song trên thực tế, khách du lịch nớc ngoài quan tâm chủ yếu đến các
nhóm dân tộc Mông, Dao và Xa Phó là những nhóm dân nghèo khổ nhất, đặc biệt là ngời
Mông, vì những nhóm này, do những đặc điểm c trú riêng, cũng nh do các hoạt động kinh
tế, đời sống xã hội của họ gần nh tách biệt với thế giới bên ngoài, mà đến nay vẫn còn giữ
đợc nhiều vẻ hoang sơ cổ xa với bản sắc dân tộc rất độc đáo, đối lập với những gì mà con
ngời của xã hội văn minh thờng gặp. Sa Pa lại là nơi mà những nhóm ngời này sống tập
trung chiếm thành phần đa số trong số dân của toàn huyện. Trong khi đó có khách du lịch
ngời Kinh trớc khi đến Sa Pa đã không dự tính tới đặc điểm dân tộc, song một khi đã tới
nơi lại đánh giá cao yếu tố thu hút khách của các dân tộc thiểu số này.
Từ năm 1993 - 1994, trong Nghị quyết của tỉnh uỷ Lào Cai đã nêu về việc phát triển du
lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của Tỉnh và đã có chủ trơng khuyến khích mọi thành
phần kinh tế đầu t phát triển du lịch ở tỉnh nói chung và Sa Pa nói riêng. Hiện nay, tỉnh
đang tích cực xây dựng các phơng án quy hoạch và phát triển du lịch, trong đó Sa Pa là
một trong những điểm du lịch quan trọng hàng đầu. Chính quyền huyện Sa Pa cũng đang
cố gắng có những phơng án đa du lịch phát triển theo hớng ngày càng đáp ứng các nhu
cầu của khách du lịch hơn, trong đó vai trò của các dân tộc thiểu số cùng truyền thống và
bản sắc dân tộc của họ có một tầm quan trọng đặc biệt.

IV/ Phạm vi không gian ảnh hởng của du lịch trên địa bàn
huyện Sapa
Mặc dù tốc độ tăng trởng của du lịch Sa Pa đạt mức cao và rất cao trong vòng 5 năm trở
lại đây, song có thể thấy rằng phạm vi không gian và cờng độ ảnh hởng của du lịch trên
địa bàn huyện là tơng đối hạn chế và tập trung chủ yếu ở khu vực trung tâm thị trấn, nơi

tập trung hầu hết các khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng, cửa hiệu, các cơ sở dịch vụ văn hoá
tinh thần và hoạt động kinh doanh liên quan đến du lịch, và hầu hết chúng nằm trong tay
ngời Kinh. Chính vì vậy mà phần lớn các chi tiêu của khách du lịch đợc chi trả trên địa
bàn thị trấn, cho những ngời Kinh, trong khi nhiều hoạt động du lịch của khách lại chủ
yếu diễn ra ở vùng ngoại vi, tại các làng bản của ngời dân tộc, với những ngời dân tộc,
hay trong thiên nhiên, tại những vùng có cảnh quan danh thắng tự nhiên, văn hoá độc đáo.
ảnh hởng hay tác động của du lịch ra vùng ngoại vi tới địa bàn của các dân tộc thiểu số
chủ yếu diễn ra theo các tuyến du lịch: Sa Pa - Cát Cát - Phanxipan, Sa Pa - Lao Chải - Tả
Van - Bản Hồ, Sa Pa - Tả Phìn, Sa Pa - Thác Bạc... Nhìn chung mức độ tơng tác của du
lịch với lãnh thổ và cộng đồng c dân bản địa có xu hớng giảm từ thị trấn ra ngoại vi.
Khoảng cách tới thị trấn và vị trí địa lý thuận lợi trên các trục giao thông các xã lân cận
thị trấn đã góp phần tạo thêm lợi thế của chúng trong việc cung cấp sản phẩm, thoả mãn
các nhu cầu du lịch đa dạng của khách. San Sả Hồ, Lao Chải và Tả Phìn hầu nh tuần nào
cũng có khách ghé thăm thôn bản. Theo lời của các cán bộ xã và những ngời dân địa ph-
ơng thì vào mùa du lịch (mùa đông đối với khách nớc ngoài và mùa nóng với cả khách
trong nớc lẫn nớc ngoài), ngày nào cũng có khách đến thôn bản và vào thăm các hộ gia
đình, những khách này đã kết hợp du lịch thể thao, thực hiện các cuộc du lịch giao tiếp
với c dân địa phơng, du lịch sinh thái, vãn cảnh thiên nhiên.
Giáp với xã Lao Chải về phía Đông, Đông Nam và Nam, trên tuyến du lịch thiên nhiên -
văn hoá dọc thung lũng sông Hoa Hồ là các xã Tả Van, Hầu Thào, đợc nối tiếp bởi Sử
Pán. ở đây, khách có thể tiếp tục cuộc đi bộ đờng dài của mình và du ngoạn vãn cảnh
thung lũng sông với những cảnh sắc núi rừng thay đổi của thảm thực vật tự nhiên đang đ-
ợc phục hồi, xen lẫn những bản làng dân tộc có vờn, ruộng bậc thang. Khu vc giáp ranh
giữa Tả Van, Hầu Thào của ngời Mông có bãi đá cổ trải dọc sờn núi với những bút tích
mà đến nay các nhà khoa học còn cha xác định đợc niên đại cũng nh chủ nhân của chúng.
Điều này vẫn đang là câu hỏi mở đối với các nhà nghiên cứu và đây cũng là yếu tố kích
thích sự tò mò của khách viễn du. Bổ sung cho danh mục dân tộc thuần nhất Mông của
Lao Chải là xã Tả Van. ở đây có bản ngời Dao với cầu Mây cắt ngang thung lũng sông
Hoa Hồ là điểm du lịch quan trọng trên tuyến, thờng xuyên có khách đến thăm. Nửa Tây
Nam của Tả Van là các thôn ngời Mông nằm trong khu vực rừng bảo tồn Hoàng Liên Sơn

và là một trong những tuyến đờng khách có thể hành trình tới đỉnh Phanxipăng. Tuy vậy,
theo lời của c dân địa phơng, ở thôn này một năm khách chỉ tới và ghé thăm chừng 3 đến
4 lần, ngời dân cũng không có gì để bán và cũng không có dịch vụ gì để có thể thu lợi từ
khách.
Mặc dù thôn của ngời Giáy có vị trí thuận lợi hơn so với các thôn khác trong xã Tả Van
nhng khách nớc ngoài thờng chỉ đi qua bản mà ít ghé vào thăm các hộ ở đây. Nguyên
nhân chính là vì ngời Giáy tuy chiếm một tỷ lệ nhỏ của dân số nhng thực ra họ thuộc
nhóm các dân tộc văn minh có nguồn gốc từ Trung Quốc có trình độ phát triển và dân trí
cao hơn vì thế ít đợc khách nớc ngoài quan tâm. Song họ lại có thể thu hút sự tò mò hiểu
biết của khách du lịch trong nớc.
Cũng tơng tự ngời Giáy, dân tộc Tày, Nùng không thu hút sự chú ý đặc biệt của khách
đến Sa Pa. Vì thế, các xã nằm xa trung tâm nh Thanh Kim, Thanh Phú, Nậm Sài, Bản
Hồ... ít có những gì độc đáo, khác với những xã thợng huyện nói trên để có thể gây sức
hấp dẫn đặc biệt đối với khách. Khoảng cách xa tới trung tâm (trên 15km) đã làm tăng
thêm sự hạn chế của số lợt khách đến thăm. Theo cán bộ chính quyền xã Bản Hồ, hàng
năm chỉ có khoảng 6 -7 đoàn khách đến bản, với số lợng mỗi đoàn từ 2 đến 10 ngời, chủ
yếu là đi qua xã để đến Nậm Cang, nơi có ngời Xa Phó. Những năm trớc, khi cha có chủ
trơng quản lý nghiêm ngặt việc khách ở lại qua đêm thì đôi lúc những đoàn khách này có
thể dừng chân nghỉ đêm trong xã, nhng thờng thì chỉ nghỉ lại ở vài nhà cố định, là những
hộ có những mối quan hệ đã đợc thiết lập với những ngời dẫn đờng. Phần lớn dân c còn
lại trong xã hầu nh ít có ý niệm gì về du lịch cũng nh về ảnh hởng và tác động của chúng.
Do ảnh hởng của du lịch, nguy cơ thơng mại hoá các nét văn hoá truyền thống đang diễn
ra ở các cộng đồng dân tộc của các xã xung quanh khu vực thị trấn đã khiến khách du lịch
nớc ngoài có xu hớng thực hiện những cuộc hành trình xa hơn để tới những nơi mà bản
sắc còn hoang sơ hơn, vì vậy, tác động không gian của du lịch đang đợc lan truyền kiểu
sóng trên bề mặt lãnh thổ của huyện.
Nửa phần phía bắc huyện từ thị trấn Sa Pa, chịu ảnh hởng không đáng kể của hoạt động
du lịch. ở đây, ngoài Tả Phìn là tuyến du lịch quan trọng đã có bề dày lịch sử, chỉ có Thác
Bạc nằm ở cạnh quốc lộ 4D, thuận tiện về giao thông, có sức hấp dẫn đối với khách, mà
chủ yếu là thu hút khách trong nớc. Song tỷ lệ khách đến tham quan so với lợng khách

chung không phải là cao, vả lại ít khi khách dừng chân vào thăm thôn bản và các hộ gia
đình nh ở các tuyến khác.
Sa Pả, Trung Chải và Tả Giàng Phình do không có gì đặc biệt có thể bổ sung cho danh
mục sản phẩm kỳ thú gây sức hút đối với khách, một khi thời gian lu trú của họ tại Sa Pa
là khá ngắn mà việc tham quan trên các tuyến chính, quen thuộc thì lại đã lấp đầy chỗ
trống cho những kỳ vọng của các chuyến viễn du ngắn hạn này. Vả lại, ngoài trục xa Sa
Pa, khoảng cách khá xa tới thị trấn và sự không quen thuộc đối với nhóm hớng dẫn viên
du lịch càng khơi sâu sự cách trở của địa phận phía Bắc nói chung trong hiểu biết và nhận
thức của khách du lịch Sa Pa. Một mặt, do sự tiếp xúc trực tiếp với khách còn là hạn chế
và mặt khác do sự quản lý cộng đồng tốt nên ngoại trừ một số ít ỏi các bà hay có khi các
phụ nữ đi bán hàng rong cho khách du lịch tại thị trấn, thì ở các xã này cha thấy hiện tợng
có trẻ em dân tộc lang thang ngoài thị trấn nh các xã nằm trên các tuyến du lịch chính.
Sự tiếp xúc thờng xuyên với khách ở những vùng lân cận Sa Pa có thể là nguyên nhân
chính giải thích cho việc những xã này là những nơi có số lợng những ngời dân thiểu sổ
Mông và Dao tham gia trực tiếp vào hoạt động du lịch nh bán hàng rong hoặc trẻ lang
thang ngoài thị trấn là lớn nhất, trớc hết là Lao Chải, Tả Phìn, sau đến San Sả hồ rồi Hầu
Thào, Tả Van...
Có thể nói lợi ích lớn nhất mà ngành du lịch đem lại là lợi ích kinh tế. Lợi ích này đã đợc
phân phối một cách rất chênh lệch giữa các khu vực lãnh thổ và cũng nh giữa các nhóm
dân tộc khác nhau. Điều này phù hợp với nhận định chung của chính quyền huyện, xã,
của những ngời đứng đầu các cộng đồng thôn, xã cũng nh của ngời dân thuộc các thành
phần xã hội hay thuộc các nhóm dân tộc khác nhau. Hầu hết họ đều cho rằng thị trấn và
ngời Kinh ở thị trấn là nơi thu đợc lợi nhiều nhất từ du lịch. Số ngời tuyệt đối và tỷ lệ tơng
đối của những ngời thiểu số tham gia trực tiếp và đợc hởng lợi từ du lịch rất nhỏ bé so với
ngời Kinh thị trấn và càng nhỏ nếu đem so với địa bàn chung và tổng số c dân của huyện,
hầu nh chỉ liên quan tới ngời Mông và ngời Dao, phần nào đó là ngời Giáy. Các nhóm dân
tộc khác nh Tày, Xa Phó gần nh cha chịu ảnh hởng gì. Một cách tơng đối, tơng ứng với
những địa bàn diễn ra các hoạt động du lịch, tiêu thụ các sản phẩm du lịch, có thể nói, các
xã nh Lao Chải, Tả Phìn, San Sả Hồ là những xã chịu tác động nhiều nhất nhng cũng đợc
hởng lợi nhiều nhất, có nhiều ngời tham gia vào du lịch nhất. Sau đó là các xã Hầu Thào,

Tả Van, Sử Pán. Tiếp đó nữa là các xã nh Bản Hồ, Bản Khoang, Nậm Sài. Các xã còn lại
rất hãn hữu có khách và hầu nh ảnh hởng của du lịch còn cha chạm tới những nơi này,
ngoại trừ một số ngời đến Sa Pa vào những ngày cuối tuần để bán một số sản phẩm của
mình. (xem bản đồ 1)

V/ Những tác động tích cực hay lợi ích của du lịch
A. Khu vực thị trấn và những ngời Kinh kinh doanh:
Những lợi ích mà du lịch đem lại cho thị trấn Sa Pa và những c dân của nó ít có gì khác
biệt so với những gì ta đã biết và quá quen thuộc với công nghiệp du lịch. Sự phát triển
của ngành du lịch ở Sa Pa, mà yếu tố then chốt là sự tăng nhanh số lợng khách du lịch
đến, đã thúc đẩy đầu t, kéo theo sự bùng nổ của các khách sạn, nhà hàng, các cơ sở dịch
vụ, hạ tầng kỹ thuật, xã hội. Kết quả là bộ mặt của thị trấn, chỉ trong vòng vài năm, đã
thay đổi một cách mau chóng. Đôi lúc, đôi nơi còn khó có thể nhận ra những cảnh quan
đô thị cũ đã tồn tại ở đây hàng chục năm. Sự tập trung lợi nhuận thu đợc trên địa bàn thị
trấn và sự gia tăng nhanh chóng của lợng khách tới Sa Pa dờng nh đã tạo nên cảm giác về
viễn cảnh đầy hứa hẹn đối với các nhà đầu t. Không chỉ những ngời địa phơng mà cả
những nhà kinh doanh t nhân cùng các cơ quan từ các vùng khác đã đổ xô tới Sa Pa đầu t
xây dựng và tiến hành các hoạt động kinh doanh buôn bán hay dịch vụ khác nhau phục vụ
du lịch. Cuộc sống của Sa Pa trở nên sôi động, hoà nhập chung vào quá trình phát triển và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội của đất nớc. Hàng hoá ở đây trở nên phong phú hơn.
Do điều kiện cung cầu đợc cải thiện mà các hàng hoá từ nơi khác tới Sa Pa trở nên rẻ hơn,
dễ mua hơn. Phần lớn những ngời dân cũ của thị trấn không muốn bỏ lỡ cơ hội khai thác
lợi ích từ du lịch. Bằng cách này hay cách khác, họ đã nỗ lực để tham gia trực tiếp hay
gián tiếp vào ngành công nghiệp đầy béo bở này. Theo số liệu thống kê của tỉnh, thì số l-
ợng t thơng và dịch vụ t nhân của cả huyện Sa Pa đã tăng từ 102 hộ trong năm 1991 lên
346 hộ trong năm 1995 hay gần 3,4 lần trong vòng 4 năm

. Có thể nói hầu hết sự thay đổi
này đã xảy ra trên địa bàn thị trấn.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành du lịch và cũng để tạo khả năng khai thác nguồn

lợi từ du lịch, chính quyền địa phơng đã có những nỗ lực trong định hớng qui hoạch, đầu
t phát triển các cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật, hệ thống đờng xá giao thông cho thị trấn
và các tuyến du lịch chính, xây dựng một số dự án đầu t phát triển các điểm du lịch. Việc
cấp điện, dịch vụ thông tin bu điện đã đợc cải thiện cơ bản. Các vấn đề cấp thoát nớc và
thu gom rác thải đang trong giai đoạn tiến hành đầu t. Một số cơ sở dịch vụ văn hoá và
kinh tế đã và đang đợc thực hiện: chợ đợc xây xong, nhà văn hoá huyện đã đợc khánh
thành, sân vận động đang đợc dự kiến cải tạo. Các vờn cảnh, khu du lịch sinh thái, đào hồ,
xây dựng công viên đều trong quá trình đầu t. Chính quyền địa phơng cũng đang nỗ lực
tìm các biện pháp quản lý vì sự phát triển lành mạnh của du lịch.

B. Vùng nông thôn và các dân tộc thiểu số:
Mặc dầu phần lớn các nguồn lợi thu đợc từ du lịch đã tập trung trên địa bàn hạn hẹp của
thị trấn, vào tay ngời Kinh và theo dự đoán rất có thể một phần đáng kể của nó đã đợc
chuyển tải ra khỏi phạm vi địa bàn huyện, vì số lợng đáng kể các khách du lịch đi theo tổ
chức từ Hà Nội (theo kết quả điều tra thì trong số khách nớc ngoài có sử dụng hớng dẫn
viên, trên 20% hớng dẫn viên là từ Hà Nội) song một cách tơng đối, có thể nói du lịch đã
có những tác động tích cực nhất định đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số và lãnh thổ
của họ.
1. Tạo cơ hội việc làm và tăng thu nhập:
Theo kết quả điều tra, 77,8% (42/54) tổng số khách du lịch trong (23/26) và ngoài nớc
(19/28) cho rằng ngời dân tộc thiểu số đợc hởng lợi tài chính từ du lịch, 44,4% hay 24/54
ngời (8 nớc ngoài và 16 trong nớc) cho rằng họ đợc lợi về công ăn việc làm. ý kiến của
những ngời kinh doanh trong thị trấn cũng tơng tự: 93,1% (27/29) ngời cho rằng du lịch
đem lại lợi ích tài chính và 69,0% (20/29) ngời cho rằng nó đem lại công ăn việc làm cho
những ngời dân thiểu số.
Sự phát triển của du lịch đã tạo nên nhu cầu tiêu thụ gia tăng của khách đối với các sản
phẩm cả vật chất lẫn văn hoá, tinh thần của địa phơng và trên địa bàn địa phơng. Chính
quá trình tham gia đáp ứng những nhu cầu của khách đã tạo nên những nguồn thu nhập
quí giá cho c dân bản địa. Có thể phân biệt ở Sa Pa nhiều loại hình thu nhập từ khách du
lịch của các nhóm dân tộc thiểu số mà chủ yếu là của hai dân tộc Mông và Dao.

a) Bán các sản phẩm có sắc thái văn hoá dân tộc:
Trực tiếp và gián tiếp, cho khách là loại hình hoạt động thu đợc nhiều lợi ích kinh tế nhất
từ khách du lịch. Lực lợng tham gia vào loại hình này chủ yếu là những ngời bán rong mà
đa số họ là ngời Mông và Dao, gồm các bà già, phụ nữ, rất ít nam giới, và những đứa trẻ
lang thang trên phố.
Nh một vài nhà nghiên cứu đã viết, khách du lịch không phải là hiện tợng mới đối với các
dân tộc thiểu số ở Sa Pa, vì từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XX đã có ngời Pháp và một
số ngời Châu Âu tới Sa Pa. Họ cũng thờng đi dạo hoặc cỡi ngựa vào thăm các bản và mua
các hàng tiểu thủ công nghiệp của ngời dân tộc. Tuy nhiên, các quan hệ giao tiếp giữa
khách du lịch với dân bản xứ là rất ít và ảnh hởng của khách tới dân địa phơng là không
đáng kể.
Chỉ từ vài năm gần đây, khi lợng khách xuất hiện ngày càng đông ở Sa Pa và đặc biệt, khi
có nhiều khách du lịch mà chủ yếu là khách du lịch nớc ngoài quan tâm tìm hiểu đời sống
các dân tộc thiểu số và tỏ ý thích mua các hàng thổ cẩm, đồ trang sức của họ để làm kỷ
niệm thì việc tham gia vào các hoạt động du lịch và phục vụ du lịch của các dân tộc thiểu
số mới thực sự bắt đầu đợc phát triển và mở rộng.
Đầu tiên chỉ là bán bất kỳ cái gì họ đang có, đang dùng mà khách lại muốn mua khi tình
cờ gặp hoặc nhìn thấy, sau đó một số ngời dân tộc đã ý thức đợc và chủ động mang những
quần áo, đồ trang sức do mình tự sản xuất hoặc đi mua của những ngời xung quanh để
mang lên chợ bán cho khách du lịch.
Do các hàng thổ cẩm đều là những sản phẩm đòi hỏi nhiều công sức và thời gian nên lợng
hàng thổ cẩm có sẵn ngày càng cạn, những ngời bán hàng rong đã nhanh chóng chuyển
sang việc đi mua lại các sản phẩm thổ cẩm của những ngời hoặc ở xa hơn không có điều
kiện thờng xuyên lên chợ bán hàng, hoặc không có thời gian và điều kiện (kể cả vốn và
thói quen bán hàng) để làm và bán hàng cho khách du lịch, về "chế biến" lại thành các áo,
mũ, túi... hợp với thị hiếu của khách. Mặt khác, do nhu cầu về hàng thổ cẩm tăng, đồng
bào các dân tộc đã không giữ những hoa văn truyền thống đòi hỏi nhiều công sức và thời
gian nữa, mà cố gắng tạo các sản phẩm đơn giản hơn để làm đợc nhanh hơn. Bên cạnh đó,
ngời Kinh đã nhanh chóng thu mua và tạo các sản phẩm thổ cẩm để kinh doanh ở thị trấn
và đây cũng là một nguồn hàng quan trọng để ngời dân tộc mua và đem bán lại cho khách

du lịch.
Nh vậy, chỉ trong vòng 3 đến 4 năm, việc làm và bán các sản phẩm thổ cẩm cũng nh đồ
trang sức cho khách du lịch ở Sa Pa đã trở nên phổ biến và có ảnh hởng trực tiếp hoặc
gián tiếp không chỉ tới các xã ở Sa Pa mà còn tới cả ngời dân tộc thiểu số ở một số huyện
lân cận nh Bát Xát, Mờng Khơng, Bắc Hà, Mù Căng Chải, thậm chí thu hút của cả một
vài huyện thuộc tỉnh Lai Châu. Một số ngời dân tộc ở các huyện này đã đi thu mua quần
áo thổ cẩm cũ và thờng về Sa Pa vào những ngày cuối tuần để cung cấp một phần "đầu
vào" cho những ngời bán hàng rong ở Sa Pa.
Theo kết quả quan sát của nghiên cứu này, kết hợp với những thông tin nhiều chiều do các
cán bộ chính quyền cũng nh của các nhóm xã hội khác nhau của dân c các thôn bản đợc
điều tra cung cấp, hiện tại ở Sa Pa thờng xuyên có khoảng trên dới 40 ngời bán rong và
khoảng 20-30 trẻ em lang thang trong độ tuổi từ 7 đến 15 ngoài thị trấn.
Trong tổng số 27 ngời bán hàng rong đợc phỏng vấn thì 19 (70,4%) là ngời Mông, phần
lớn ở độ tuổi từ 40 đến 70, và 7 (25,9%) là ngời Dao, raỉ rác ở độ tuổi từ 26 đến 60,
1(3,7%) là ngời Giáy.
Theo số liệu điều tra, ở 4 xã quanh thị trấn Sa Pa, là những xã có nhiều ngời đi bán hàng
rong, đặc biệt là Tả Phìn và Lao Chải, đa số những ngời Mông đi bán hàng rong quanh
năm là các bà già từ 50 tuổi trở lên. Theo ý kiến của cán bộ xã và của ngời dân thì gia
đình các bà thờng đã có nhiều con, cháu có thể đảm nhận hết công việc ruộng đồng và nội
trợ. Vì đi nhiều thành quen và cũng vì đã già nên các bà không còn e ngại, xấu hổ nh các
chị phụ nữ trẻ đối với việc cố bám theo khách và nài nỉ khách mua hàng cho mình. Các
chị phụ nữ ít tuổi hơn thờng chỉ đi chợ vào những ngày cuối tuần hoặc những ngày rảnh
rỗi. Vì các chị đi bán hàng kiếm đợc nhiều tiền hơn nên đa số các ông chồng sẵn sàng làm
các việc trong gia đình, giúp đỡ vợ, để vợ có thời gian đi bán hàng mà không ảnh hởng gì
tới ruộng nơng và công việc nội trợ. So với phụ nữ Mông thì phụ nữ Dao rảnh rang hơn do
không phải se lanh, dệt và nhuộm vải. Họ mua vải dệt sẵn về thêu.
Hơn nữa, cũng theo ý kiến của các chị phụ nữ Tả Phìn, một mặt, hoa văn của ngời Dao
đơn giản hơn của ngời Mông, mặt khác, phụ nữ Dao thêu bằng mặt trái nên thêu nhanh
hơn phụ nữ Mông. Theo chúng tôi, rất có thể đây cũng là một trong những lý do giải thích
vì sao tỷ lệ phụ nữ Dao bán hàng rong ở xã Tả Phìn lại cao hơn từ 4 đến 5 lần so với tỷ lệ

ngời Mông.
Theo kết quả điều tra, những loại hàng mà những ngời bán rong thờng bán là hàng thổ
cẩm bao gồm quần áo, dây thắt lng, viền cổ áo, túi và mũ thổ cẩm, sau đó đến các sản
phẩm dân tộc khác nh đồ trang sức, khèn, sáo. Có những ngời bán quần áo thổ cẩm cũ,
phẩm nhuộm với các dây vải viền công nghiệp làm phụ liệu để sản xuất hàng thổ cẩm để
bán cho khách. Số khác bán các sản phẩm rừng nh phong lan và cây cảnh, cây thuốc
bệnh. Cũng có ngời bán rong một số mặt hàng phục vụ cho nhu cầu thiết yếu về thuốc
bệnh nh dầu cao, thuốc bệnh khác, hay phẩm nhuộm, yếm khăn đội đầu, khăn cô dâu...
(Xem bảng 3).
Khác với những ngời bán rong, trẻ em lang thang ngoài thị trấn có số mặt hàng hạn chế
hơn. Đồ trang sức (chủ yếu là vòng tay) và nhạc cụ dân tộc (sáo và khèn môi) là 2 loại th-
ờng đợc chúng bán nhất: trong số 26 em đợc phỏng vấn có 25 em (96,1%) bán đồ trang
sức (trong đó 20 em, hay 76,9%, bán vòng tay) và 24 em (92,3%) bán nhạc cụ (trong đó
22 em, hay 84.6%, bán khèn môi). Chỉ có 5 em (19,2%) bán mũ và 4 em (15,4%) bán túi
thổ cẩm, 3 em (11,5%) bán dây len buộc cổ tay, 1 em bán quần áo thổ cẩm. (Xem bảng 3)
Bảng 3: Những sản phẩm thờng bán

Mặt hàng
Ngời bán rong Trẻ em
Số ngời
bán (? =
27)
Tỷ lệ so với số
đợc phỏng vấn
(%)
Số ngời
bán (? =
26)
Tỷ lệ so với số đ-
ợc phỏng vấn (%)

- Quần áo thổ cẩm
- Mũ thổ cẩm
- Làn, túi thổ cẩm
- Dây len buộc cổ tay
- Đồ trang sức
- Sáo, khèn dân tộc
- Cây thuốc nam chữa bệnh
16
17
17

11
8
1
59.2
63.0
63.0

40.7
29.7
3.7
1
5
4
3
25
24
3.8
19.2
15.4

11.5
96.1
92.3
- Quần áo cũ
- Dây viền phụ liệu
- Phẩm nhuộm
1
5
2
3.7
18.5
7.4
Đa số trẻ em bán kết hợp 2 loại sản phẩm, chủ yếu là khèn và vòng (16/26 hay 61.5%).
Chỉ 2 em bán 1 loại, 7 em bán 3 loại và 1 em bán 4 loại hàng. Trong khi đó số ngời bán từ
3 đến 5 sản phẩm chiếm đa số những ngời bán rong (17/ 27, hay 63.0%), 5 ngời (18.5%)
bán 2 loại hoặc chỉ 1 loại (xem phụ lục E-Q8.1 và D-Q4.1.).
Những loại hàng bán chạy nhất của những ngời bán rong là quần áo thổ cẩm, rồi đến mũ,
sau đó là túi xách: Trong số 20 ngời trả lời 10 ngời (50%) cho quần áo thổ cẩm là loại
hàng bán chạy nhất, 8 ngời (40%) nói tới mũ, 6 ngời (30%) chọn túi xách, 3 ngời (15%)
nhắc tới khèn. Còn đối với trẻ em lang thang thì đồ trang sức (chủ yếu là vòng tay) và
nhạc cụ (chủ yếu là khèn môi) là những thứ bán chạy nhất: 14 trong số 20 em trả lời
(70%) cho rằng đồ trang sức (trong đó 9 em, 45%, nói vòng tay) và 13 (65%) cho rằng
khèn, sáo (trong đó 10 em, 50%, chỉ khèn môi) là mặt hàng bán chạy nhất.
Bảng 4: Loại mặt hàng bán chạy nhất của những ngời bán rong
Mặt hàng Của những ngời bán rong Của những trẻ em lang thang

số ngời
(trên tổng số
20)
% so với có

trả lời
số ngời
(trên tổng số
20)
% so với có trả lời
Quần áo thổ cẩm 10 50% 1 5%
Quần áo cũ 1 5% -

Mũ 8 40% 2 10%
Túi 6 30% 1 5%
Đồ trang sức 4 20% 14 70%
Khèn, sáo 3 15% 13 65%
Trong tổng 26 em thì 24 em (92,3%) có khách hàng là ngời nớc ngoài, và 16 em (61.5%)
có khách Việt Nam. Ngoài ra, phần lớn các em còn nhấn mạnh rằng không chỉ về số lợng
mà mức mua của khách nớc ngoài cũng nhiều hơn hẳn so với khách Việt Nam. Tơng tự,
24/27 (88.9%) ngời bán rong bán đợc cho ngời nớc ngoài, trong khi chỉ 13/27 (48.1%)
bán đợc cho khách trong nớc. Trong số những ngời bán rong có 4 ngời thực hiện bán buôn
là chính, mặc dù cũng kết hợp với bán lẻ: đó là 2 ngời Mông đến từ Pha Long, huyện M-
ờng Khơng, chủ yếu buôn các loại hàng từ Trung Quốc: các loại vải, dây viền công
nghiệp, phụ liệu cho hàng thổ cẩm, thuốc bệnh, khèn môi, 1 ngời từ Bát Xát uôn bán quần
áo thổ cẩm cũ và 1 ngời Giáy là ngời xã Tả Van cũ, mới chuyển ra ngoài thị trấn mua và
bán buôn các loại hàng trang sức nh vòng tay, vòng cổ, nhẫn theo mẫu mã dân tộc nhng
do những ngời Kinh dới xuôi sản xuất. Bởi vậy, khách hàng của họ đa dạng hơn: có thể là
khách Việt Nam hay những ngời dân tộc thiểu số nhng cũng có thể là những ngời ở thị
trấn.
Trả lời câu hỏi: có sản phẩm nào bán đợc nhiều hơn trớc kia không? Chỉ có 9 ngời bán
rong (33.3%) cho là có, 14 ngời (51.8%) cho là không và 4 (14.8%) còn lại không trả lời,
trong tổng số 27 ngời đợc hỏi. Trong số 9 ngời (100%) trả lời là có thì 4 ngời (44.4%) cho
rằng họ bán đợc nhiều quần áo thổ cẩm hơn (chủ yếu là áo), 2 ngời (22.2%) bán đợc
nhiều mũ và khèn, chỉ 1 ngời bán đợc túi hoặc vòng nhiều hơn so với trớc kia. Ngời bán

đợc nhiều vòng hơn trớc kia là chị ngời Giáy, theo chị, bán chủ yếu cho những ngời bán
rong và thiểu số khác.
Cho đến nay, bán hàng mà chủ yếu bán các sản phẩm độc đáo hoặc mang sắc thái dân tộc
phục vụ khách là loại hình đem lại thu nhập từ du lịch phổ biến nhất, thu hút sự tham gia
của những ngời dân thiểu số đông nhất và ngày càng tăng vào du lịch.
Khi đợc hỏi chợ có ý nghĩa quan trọng thế nào đối với tổng thu nhập của gia đình, ngoại
trừ 2 trờng hợp không trả lời, tất cả 25 (92.6%) ngời bán rong còn lại đều cho rằng nó có
ý nghĩa quan trọng, trong đó đại bộ phận (18/25 hay 72%) cho rằng rất quan trọng, 3/25
ngời (12%) cho là quan trọng vừa, và chỉ 4/25 hay 16%) cho rằng quan trọng ít. Bản thân
các trẻ em lang thang cũng nhận thức đợc điều này, tuy nhiên, phần lớn chúng đánh giá
có thấp hơn: 15 (68.2%) trong số 22 em (100%) có trả lời cho rằng số tiền mà chúng kiếm
đợc có ý nghĩa quan trọng vừa phải đối với thu nhập của gia đình chúng, 6 em (27.3%)
cho rằng nó đóng góp vô cùng nhỏ và chỉ 1 em (4.5%) cho rằng rất quan trọng.
Thu nhập trung bình một tuần riêng của mỗi ngời bán rong từ nguồn này dao động mạnh
từ khoảng 10.000đ tới 200.000đ/tuần, tơng đơng từ 50.000 đến 800.000 đ/tháng. Theo lời
của họ, khả năng bán đợc hàng cho khách rất không ổn định, có những ngày hoặc những
tuần họ chỉ bán đợc 1 - 2 sản phẩm thậm chí là không, nhng cũng có khi may mắn gặp
khách, họ thu đợc lãi tới vài trăm nghìn đồng một tuần. Một phụ nữ Dao của xã Tả Phìn
cho biết, chị có thu nhập trung bình khoảng 30 nghìn đồng 1 tuần, nhng có những tuần có
thể lãi tới 300.000 đồng. Một phụ nữ Dao khác cũng của Tả Phìn nói, mùa hè chị bán đồ
trang sức, túi, mũ, lãi trung bình từ 30.000 đến 50.000 đ/1tuần, nhng cũng có khi chị bán
đợc nhiều hàng khác nh khăn cô dâu, khăn đội đầu, quần áo thổ cẩm, chị có thể thu đợc
tới 500.000đồng, song hiếm khi đợc nh vậy. Trong số 26 ngời trả lời (100%) về mức thu
nhập trung bình trong một tuần của họ từ bán hàng rong, 10 ngời (38,56%) có mức thu từ
10.000 đến 25.000đ/tuần 8 ngời (30.8%) từ 35.000 đến 55.000 đồng, 8 ngời (30,8%) có
mức thu trên 100.000 đồng,. Mức thu nhập trung bình chung một tuần của ngời Dao có
cao hơn một chút so với ngời Mông: tơng ứng là 72.800đồng/tuần so với 67.200đồng/tuần
(xem bảng 5).
Bảng 5: Thu nhập trung bình một tuần của những ngời bán rong
Đồng/tuần/ngời Mông Dao Giáy Tổng số %

10,000 - 25,000 9 1

10 38.5
35,000 - 55,000 5 3

8 30.8
100,000 - 150,000 2 2 1 5 19.2
=> 175,000 3

3 11.5
Thu nhập trung bình
(Đồng/tuần/ngời)
67,200 72,800 150,000 71,5000 100
Trong số những ngời bán rong thì những ngời bán buôn có thu nhập khá ổn định, cao và
rất cao so với mức trung bình chung, thờng thì họ lãi từ 200.000 - 600.000đồng/1 chuyến
đi, trung bình có thể thu nhập từ 150.000 - 250.000đồng/tuần hoặc hơn. Có sự khác biệt
rõ rệt giữa thu nhập của nam và nữ. Trong khi mức thu nhập trung bình tính cho tất cả các
trờng hợp điều tra là 71.500 đ /ngời,tuần thì trung bình cho số nam giới đợc điều tra (3) là
khoảng 150.000đ/ng. Điều này, phần nào có lẽ đợc giải thích bởi 2 trong số họ, bên cạnh
việc bán sản phẩm nhạc cụ - khèn dân tộc, còn biểu diễn thổi khèn và nhảy múa dân tộc
phục vụ khách lấy tiền, là dịch vụ ít bị cạnh tranh hơn và luôn có khách hàng. Ngời còn
lại là một thanh niên buôn hàng từ biên giới Trung Quốc có tỷ lệ lợi nhuận cao.
Số tiền thu đợc từ bán hàng đợc sử dụng trớc hết cho những nhu cầu thiết yếu của cuộc
sống hàng ngày của hộ. Thực vậy, 26/27 (96.3%) ngời bán rong nói rằng họ dùng tiền để
mua các đồ thiết yếu hàng ngày (gạo, dầu, mắm, muối) và phần lớn trong số này đã chi
cho mua lơng thực, trớc hết là gạo; 17 ngời (63.0%) dành một phần khoản thu nhập này
để mua quà cho con, 10 ngời (37.0%) dành để tiết kiệm và 5 ngời (18.5%) dùng để mua
phân bón ruộng, 1 ngời (3.7%) nói rằng dùng để thuê ngời làm ruộng thay mình. Cũng do
ý nghĩa quan trọng của khoản thu nhập từ du lịch đối với kinh tế hộ mà 23 trong số 26 trẻ
lang thang (88.5%) trả lời rằng chúng đa cho bố mẹ số tiền mà chúng kiếm đợc ở thị trấn,

17 em (65.4%) chi tiền để mua những thứ cần thiết hàng ngày của chúng, 14 em (53.8%)
dùng để tiết kiệm, chỉ một số ít dành để mua bánh kẹo (6 em, 23.1%) hay quần áo và các
thứ đẹp (3 em, 11.5%).
Thực tế, nếu so sánh với các nguồn thu nhập truyền thống khác của hộ gia đình thì mức
thu từ bán hàng rong thờng cao hơn và rất cao trong khi công việc lại ít nặng nhọc, vất vả
hơn. Theo lời của chính quyền xã Tả Phìn, mức sống của tất cả các hộ có ngời đi bán rong
đều đợc cải thiện. Trong xã có 7 bà già ngời Mông đi bán rong thờng xuyên ngoài thị trấn
thì cả 7 gia đình này từ thiếu ăn và thiếu ăn trầm trọng nay tất cả đã đủ ăn, bữa ăn đợc cải
thiện, làm đợc nhà ngói phibrô-xi măng, mua đợc phân bón ruộng, thuê ngời làm ruộng,
tiện nghi gia đình cũng đợc sắm sửa, có giờng, bàn, ghế, tủ... Trong số họ có ngời ít ruộng
mà vẫn đủ ăn và sống sung sớng hơn, không còn nh trớc kia. Cũng vì thế mà ngày càng có
nhiều ngời trong thôn bản của xã muốn tham gia vào hoạt động bán hàng này.
Hiện tại, theo ớc tính của Hội Phụ nữ xã, cả xã Tả Phìn có khoảng 40 - 45 phụ nữ Dao và
7 - 10 phụ nữ Mông (chiếm trên 20% tổng số hộ của xã) tham gia bán hàng rong ngoài thị
trấn, nhng chỉ một số ít (dới 10 ngời), tất cả là ngời Mông, thờng xuyên ở lại thị trấn.
Cũng theo ớc tính của chính quyền và hội phụ nữ Lao Chải. Xã này có trên 10% số hộ
hoặc có ngời tham gia bán rong hoặc có trẻ lang thang ngoài thị trấn. Đến nay, khoảng
1/2 số hộ này đã khá lên rõ rệt nhờ bán hàng cho khách du lịch. Những hộ có ngời đi bán
hàng không thờng xuyên thì thu nhập từ du lịch có thể chỉ chiếm 5 đến 10% tổng thu
nhập gia đình, các hộ đi nhiều thì du lịch đóng góp tới 40 - 50% tổng thu nhập của hộ.
Nếu tính trung bình cho tất cả các hộ tham gia bán hàng rong của xã thì nó đóng góp
khoảng 25 - 30% thu nhập hộ gia đình. Một số bà già thờng xuyên ở lại chợ còn đem lại
thu nhập cao hơn của cả gia đình họ làm ra trong một năm.
Theo lời một số cán bộ xã, do kiếm đợc khá nhiều tiền so với mức thu nhập chung ở địa
phơng mà vai trò, vị trí của các bà, các chị trong gia đình đợc nâng lên khá rõ rệt. Mặt
khác, nh đã nói, do họ bận việc làm hoặc bán hàng mà sự phân công lao động trong gia
đình đã có những sự thay đổi nhất định, cụ thể nam giới đã gánh vác thay vợ một số công
việc đồng áng và nội trợ.
b. Dịch vụ leo núi (phanxipan):
Đây là loại hình thứ hai tham gia tạo thu nhập từ du lịch, ít phổ biến hơn, nhng đem lại

thu nhập cao cho những ngời dân thiểu số tham gia.
Nh đã nhắc tới ở phần trên, trong số khách du lịch tới Sa Pa, có những ngời dự tính tới đây
nhằm leo núi, chinh phục đỉnh Phanxipăng, phần lớn họ là ngời nớc ngoài. Những ngời
dân tộc mà trớc hết là ngời Mông, là những ngời thổ dân nắm chắc địa bàn, có kinh
nghiệm leo núi dày dặn, trong khi đó những ngời dẫn đờng cho khách hoặc từ thị trấn
hoặc từ nơi khác đến toàn là ngời Kinh, không thể độc lập đáp ứng nhu cầu về loại hình
du lịch này của khách, họ bắt buộc phải nhờ vào sự giúp đỡ của những ngời dân tộc.
Số ngời thiểu số tham gia dịch vụ này không nhiều và có lẽ chỉ có ở một vài xã nh San Sả
Hồ, Lao Chải hoặc Tả Van, với số lợng thờng chỉ vài ba ngời trong một xã. Họ đợc thuê
trực tiếp hoặc gián tiếp bởi các chủ khách sạn, những ngời kinh doanh nhà hàng hay hớng
dẫn viên du lịch làm các công việc dẫn đờng và khuân vác đồ dùng cho khách. Đây là
công việc nặng nhọc và vất vả nhng đem lại mức thu nhập cao nếu so sánh với mức sống
chung của địa phơng.
Theo chính quyền xã, trung bình thu nhập của những ngời Mông dẫn đờng này khoảng
100.000 đồng/ngày hoặc hơn nữa. Nh vậy, mỗi chuyến đi khoảng 3 đến 5 ngày, họ thu đ-
ợc tối thiểu từ 300.000 - 500.000 đồng. Thông thờng mỗi hớng dẫn viên Sa Pa hay mỗi
chủ khách sạn, nhà hàng thờng thiết lập quan hệ chặt chẽ với những ngời dân tộc nhất
định nào đó làm việc này. Bởi vậy, số lợng tuyệt đối ngời Mông tham gia loại hình này rất
hạn chế, và theo chúng tôi, nguyên nhân cơ bản nhất là vì số khách có nhu cầu leo núi
không nhiều. Do mức thu nhập từ dịch vụ này cao nên những gia đình có ngời dẫn khách
đi núi đều khá giả lên nhanh chóng và, theo đánh giá của chính quyền xã và các nhóm đ-
ợc phỏng vấn, họ có phần nổi bật lên trong xã.
Thí dụ, thôn Cát cát của xã San Sả Hồ có 2 ngời đa khách đi leo núi từ năm 1995. Trớc
kia, cả hai gia đình họ đều nghèo, thiếu ăn, nhà cửa lụp xụp, đến nay đời sống của họ đã
cải thiện lên nhiều, không những đủ ăn mà cả hai đều đã xây đợc nhà đẹp, lợp ngói, cùng
mua sắm nhiều tiện nghi trong gia đình, ngoài ra còn giúp đợc ngời thân của mình nữa.
c. Mở quán bán hàng:
Ngời thiểu số có thể thu lợi đợc từ du lịch bằng việc mở quán bán hàng phục vụ khách tại
các thôn bản trên các tuyến du lịch. Trong nhóm c dân thiểu số, hoạt động này mới phát
triển, xuất phát từ nhu cầu của khách đối với một số sản phẩm tiêu dùng, chủ yếu là đồ

giải khát, bánh kẹo hoặc một vài vật phẩm hàng ngày khác. Tuy nhiên, số lợng hộ tham
gia vào dịch vụ này còn hạn chế, phần lớn gồm những hộ có lợi thế nằm trên các tuyến
tham quan. Hơn nữa, mức thu nhập từ loại hình này cũng không phải là cao vì mức tiêu
thụ của khách không nhiều. Theo lời của nhiều ngời dân, thờng thì khách du lịch hay đem
theo những đồ ăn, thức uống trong mỗi chuyến đi, và chỉ mua thêm trong những trờng
hợp phát sinh hay có sự cố nào đó.
d. Vào thăm hộ gia đình:
Ngời thiểu số có thể hởng lợi đợc từ du lịch do có khách ghé thăm hộ và cho quà, đôi lúc,
khách có thể trả một khoản tiền phí cho hộ. Có 21 trong số 28 (75%) ngời nớc ngoài và
13/27 (48,1%) khách Việt Nam nói rằng họ có vào thăm hộ gia đình ngời dân tộc thiểu
số. Tuy nhiên, thu nhập nàymặc dầu là quý song lại không đáng kể nếu tính đến giá trị
kinh tế của chúng và số lợng ngời khách có hành vi này. Chỉ có 2/27 (7.4%) khách Việt
Nam và 4/28 (14.3%) khách nớc ngoài nói rằng họ có cho quà hoặc tiền cho hộ gia đình
khi vào thăm hộ. Phần lớn khách đến thăm hộ, nếu có, chỉ cho những thứ quà nhỏ nh giấy
bút học sinh hoặc dăm ba cái kẹo bánh, giá trị nhỏ chừng từ một đến vài nghìn đồng, hãn
hữu mới có trờng hợp cho tiền. Bởi vậy, những thứ này ít giúp cho việc cải thiện cuộc
sống hàng ngày của ngời dân.
Chỉ có những nhà có khách ở lại qua đêm mới có thể có thu nhập khá hơn một chút: để bù
đắp phần nào sự khuấy động cuộc sống gia đình, khách du lịch hoặc hớng dẫn viên thờng
trả cho chủ nhà một khoản phí từ 10.000 đến 20.000 đồng/một khách/một đêm. Một số
khách có thể yêu cầu chủ nấu ăn và trả tiền cho họ, trong những trờng hợp này, chủ có thể
bán một vài loại lơng thực, thực phẩm thờng là do gia đình sản xuất để phục vụ khách. Số
hộ trong các thôn bản có khách nghỉ lại qua đêm rất hạn chế. Chỉ vài ba hộ (dới 5 hộ)
trong thôn hay xã nằm trên các tuyến tham quan là có khách nghỉ lại qua đêm. Đó thờng
là những hộ cố định nào đó có mối quan hệ đặc biệt với những ngời dẫn đờng hoặc chủ
kinh doanh ngoài thị trấn. Tuy vậy, cũng có tới 55% số hộ gia đình đợc phỏng vấn cho
rằng việc thu hút khách ở lại qua đêm cũng là một trong những biện pháp tăng lợi ích cho
đồng bào.
e. Đa khách đi thăm quan:
Do mục đích chính đến Sa Pa giữa khách trong nớc và nớc ngoài là khác biệt mà tỉ lệ sử

dụng hớng dẫn viên du lịch trong thời gian họ ở Sa Pa rất khác biệt giữa họ: chỉ 2/27
(7.4%) khách Việt Nam nói rằng họ đã sử dụng, trong khi hơn nửa số khách nớc ngoài
(15/28 hay 53.6%) sử dụng dịch vụ này. Tuy vậy phần lớn số họ (8/15) đã sử dụng hớng
dẫn viên ngời kinh hoặc từ Hà Nội, nếu họ đi theo Tour, hoặc từ các khách sạn hay nhà
hàng của thị trấn. Chỉ có 3/15 ngời là đi tham quan với sự giúp đỡ của ngời dân tộc, trong
đó 2 ngời đi với trẻ em ngời Mông, 1 ngời nhờ ngời dân tộc dẫn đờng khi ở ngoài thị trấn
Sa Pa. Điều này phần nào nói lên rằng sự tham gia vào loại hình dịch vụ du lịch này của
những ngời dân thiểu số hiện còn rất hạn chế, chỉ gồm một số lợng rất ít ỏi thanh niên hay
trẻ em, chủ yếu từ các xã thờng xuyên có khách đến thăm. Nó cũng phù hợp với nhận
định chung của cán bộ và những ngời dân của các xã. Việc này đã tạo khoản thu nhập
nhất định cho ngời dân tộc thiểu số, tuy quy mô không đáng kể, chủ yếu là đối với trẻ em
gái ngời Mông lang thang ngoài thị trấn và dới các hình thức thu nhập khác nhau.
f) Cho khách du lịch chụp ảnh:
Ngời dân tộc là đối tợng mà đa số khách đến Sa Pa muốn tham quan, tìm hiểu. Hầu hết
mọi khách đều muốn có những hiện vật kỷ niệm về họ bằng cách mua các sản phẩm dân
tộc hay chụp ảnh với họ. Nắm bắt đợc thị hiếu của khách, một số ngời dân tộc đã tìm cách
kiếm tiền từ việc yêu cầu khách phải trả tiền khi chụp ảnh họ hoặc chụp chung với họ.
Điều này đang trở nên một tiền lệ đợc chấp nhận trong đa số những ngời dân thiểu số.
Không ít cán bộ xã Lao Chải đã ủng hộ quan điểm này. Trong số những ngời bán rong đã
trả lời rằng thích khách du lịch trong (21) và ngoài nớc (22) thì tơng ứng là 47.6% và
45.4% thích vì đợc chụp ảnh có trả tiền. Ngợc lại, cũng tơng ứng, 3/7 và 4/11 ngời không
thích khách đã trả lời vì bị chụp ảnh mà không đợc trả tiền. Việc đòi khách trả tiền chụp
ảnh trong điều kiện nhu cầu của khách là phổ biến đã đem lại khoản thu nhập đáng kể
nhất định một cách dễ dàng, cũng vì vậy mà nhiều cô gái ngời Dao đã chủ động mặc
những bộ trang phục dân tộc sặc sỡ của mình đến thị trấn để trông đợi sẽ thu tiền đợc từ
hoạt động này của khách.
g) Biểu diễn văn nghệ dân tộc:
Nhu cầu của khách về hiểu biết văn hoá của dân tộc thiểu số còn gồm cả ý muốn biết về
loại hình sinh hoạt văn nghệ dân tộc. Nhà nghỉ Green Bamboo ở Sa Pa đã tập hợp một số
ngời thiểu số, trong đó có cả trẻ em gái ngời Mông đến biểu diễn ca nhạc và văn nghệ dân

tộc phục vụ khách nớc ngoài vào các tối thứ sáu hàng tuần. Ví dụ, 3/26 (11%) trẻ em đợc
phỏng vấn đã tham gia biểu diễn phục vụ khách. Thù lao cho mỗi buổi biểu diễn kéo dài
khoảng 2 đến 3 tiếng nh vậy là 20.000 đến 30.000 đồng cho một ngời biểu diễn, ngoài ra
họ còn đợc thoải mái tiêu dùng đồ uống ở quán Bar và có thể đợc khách trực tiếp cho tiền
thởng. Ngoài hình thức biểu diễn có tổ chức nh của Green Bamboo, một số nam giới ngời
Mông cũng đến Sa Pa vào các kỳ cuối tuần là những ngày có nhiều khách du lịch, sẵn
sàng tham gia biểu diễn phục vụ khách để thu tiền khi khách yêu cầu. Mức phí thu đối với
mỗi khán giả chỉ khoảng từ 1.000 đến 2.000 đồng, song nó cũng đem lại thu nhập đáng
kể cho ngời biểu diễn. Theo lời của những ngời Mông làm dịch vụ này, thờng thì họ thu
riêng từ hoạt động này trung bình cũng khoảng từ 30.000 đến 50.000 đồng/1 tuần, rất có
thể hơn.
h) Giới thiệu, chào mời khách:
Những đứa trẻ lang thang ngoài phố ngoài việc bán hàng cho khách, đa dẫn khách đi tham
quan theo các tuyến, một số biểu diễn văn nghệ, trò chuyện với khách, chúng có thể còn
làm marketing cho các nhà hàng, khách sạn: giới thiệu với khách về các cơ sở và dịch vụ
của họ, chào mời dẫn khách tới đó. Thù lao mà chúng nhận đợc đợc tính theo số khách
mà chúng dẫn tới. ở Green Bamboo chúng còn đợc thoải mái dùng những đồ giải khát phổ
biến của các đô thị. Trong số 26 đứa trẻ lang thang đợc phỏng vấn, có 24 em (92.3%) trả
lời thờng đi chơi với khách, 6 em (23.1%) tham gia làm marketing cho các nhà hàng,
khách sạn.
i) Cung cấp lơng thực, thực phẩm:
Số lợng khách du lịch tăng không ngừng đã làm tăng mạnh nhu cầu về lơng thực, thực
phẩm đối với địa phơng. Mặc dù ngời Kinh có khả năng thích ứng nhanh chóng hơn, song
ngay cả ngời dân thiểu số mà trớc hết là các vùng lân cận thị trấn cũng chịu sự tác động
mạnh và đang có những dấu hiệu của sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất để cung cấp lơng
thực, mà trớc hết là thực phẩm cho khách.
Ví dụ nh nhu cầu của những ngời khách du lịch Việt Nam về loại ngô bắp ăn tơi, non,
hiện đang kích thích các hộ dân tộc trong thôn bản (ví dụ ở San Sả Hồ) chuyển hớng một
phần đất canh tác sang sản xuất các loại sản phẩm này để đáp ứng nhu cầu thị trờng. Có
thể nói xu h ớng tơng tự đối với việc trồng khoai tây ở một số xã trong huyện. Qúa trình

này trên thực tế không diễn ra độc lập mà cùng với sự hỗ trợ vốn và kỹ thuật từ các chơng
trình dự án đầu t khác, trong đó trớc hết có thể nhắc tới các dự án của chơng trình định
canh định c, chơng trình khuyến nông, chơng trình phát triển lâm nghiệp... Mặt khác, nhờ
nhu cầu gia tăng về hàng nông sản, mà chủ yếu là lơng thực, thực phẩm, nên giá bán các
hàng nông sản, thực phẩm của địa phơng cũng tăng lên, dễ tiêu thụ hơn.
j. Cung cấp nhân công lao động:
Sự phát triển xây dựng nhà cửa và các cơ sở hạ tầng trớc sự gia tăng của lợng khách du
lịch cùng với việc tiến hành các dự án đầu t cho du lịch đã làm tăng nhu cầu sử dụng nhân
công ở địa phơng, tạo thêm và mở rộng cơ hội việc làm cho cả những ngời thiểu số. Phần
lớn họ là những ngời không có kỹ thuật trong nghề này nhng lại có sức khoẻ khá tốt và
dẻo dai. Bởi vậy, họ thờng đợc thuê làm các công việc giản đơn nhng nặng nhọc, tuy giá
trị ngày công lao động còn thấp.

2) Sự hoà nhập vào kinh tế thị trờng
Sự gia tăng ồ ạt của lợng khách tới Sa Pa trong một khoảng thời gian rất ngắn, kéo theo sự
phát triển ồ ạt của các nhà hàng, khách sạn và các dịch vụ kèm theo, sự mở rộng các cơ
hội tiếp xúc với những con ngời mới, sự tăng các nguồn và lợng thông tin trao đổi mới đã
nh thổi một luồng sinh khí cho những c dân bản địa, làm cho họ nh bừng tỉnh và phải thừa
nhận về sự tồn tại của thế giới bên ngoài hoàn toàn khác biệt với những gì mà họ quen
sống. Họ nhận thức đợc rằng còn có những cơ hội việc làm và những nguồn thu nhập
khác có thể bù đắp cho sự thiếu hụt lơng thực dai dẳng đang chờ đón họ. Trong bối cảnh
này, bằng những cách thức khác nhau, những ngời dân tộc thiểu số đã và đang hoà nhập
vào sự phát triển của du lịch nói riêng và quá trình phát triển kinh tế xã hội của Sa Pa nói
chung. Chính trong quá trình này, những nhận thức và quan niệm về hiện tợng, sự việc và
xã hội của ngời dân địa phơng cũng đang có những biến đổi sâu sắc mà trong chừng mực
nào đó những ngời bên ngoài cho rằng họ và văn hoá của họ đang bị thơng mại hoá.
Trên thực tế, chính sự thơng mại hoá này là nhân tố thúc đẩy ngời dân địa phơng vợt ra
khỏi bức rào chắn của nền kinh tế tự cấp tự túc, kích thích và khích lệ họ nắm bắt và tận
dụng các cơ hội làm ăn mới, hiệu quả hơn, hình thành nên những nhận thức và phơng
pháp t duy kinh tế mới để thoả mãn những nhu cầu vật chất, tinh thần hiện tại của họ, mà

những nhu cầu này sẽ biến đổi trong tơng lai, và để thích nghi, hoà nhập vào cuộc sống
chung của một xã hội rộng lớn hơn rất nhiều so với cái xã hội hiện nay của họ.
Trong quá trình này, nhiều sản phẩm đợc sản xuất hay thu lợm đợc, nếu nh trớc đây chỉ
chủ yếu nhằm thoả mãn những nhu cầu tiêu thụ trực tiếp của hộ gia đình, thì nay họ đã
tìm thấy đợc giá trị hàng hoá của sản phẩm mà họ làm ra trên thị trờng Sa Pa đang rộng
mở. Nhờ trao đổi thông qua thị trờng mà ngời dân có thể có khả năng đáp ứng đợc nhiều
hơn cho những nhu cầu cá nhân của mình. Họ đã bắt đầu chú ý đến nhu cầu thay đổi của
thị trờng để từ đó định hớng hay điều chỉnh hệ thống sản xuất của mình, nhằm tạo ra
những sản phẩm hàng hoá cung cấp cho thị trờng, tham gia vào quá trình phân công lao
động xã hội chung.
Trớc nhu cầu của khách du lịch, ngời dân nhận thấy rằng họ có thể sản xuất nhiều loại sản
phẩm dân tộc truyền thống để bán cho khách trên thị trờng. Điều này, theo chúng tôi, đã
kích thích nghề sản xuất thủ công của ngời dân tộc: 23/27 (85%) bà bán rong và 7/26
(26,9%) em gái Mông nói rằng họ bán sản phẩm mà họ hay gia đình họ tự làm lấy, và
11/27 (40.7%) bà và 1/26 (3,8%) em mua trực tiếp trong bản từ những ngời sản xuất.
Song nhiều trong số các sản phẩm đó, đợc sản xuất bằng phơng pháp thủ công truyền
thống, mặc dù có rất nhiều phẩm chất, chất lợng tốt và độc đáo, song đòi hỏi rất nhiều
thời gian lao động. Trong điều kiện này, ngời dân tộc đã tìm đợc một phơng án thích ứng
là tận dụng các sản phẩm cũ, hết giá trị sử dụng của mình để gia công lại thành các sản
phẩm có giá trị hàng hoá trên thị trờng, bán cho khách với mức giá mà cả hai đều có thể
chấp nhận. Quần áo cũ cái rách ít thì họ đem cắt ra may lại hoặc đem nhuộm rồi may
quần áo cho phù hợp thị hiếu của khách, cái rách nhiều thì họ tận dụng những mảnh nhỏ
còn lại để may mũ, túi, dây lng, túi địu trẻ hoặc để làm các dây viền trang trí.
Nh trên đã nói, nhu cầu tiêu thụ về rau quả, sản phẩm chăn nuôi của khách du lịch đã
khuyến khích một số hộ thay đổi phần nào cơ cấu sản xuất của hộ.
Không những chỉ đổi mới t duy trong sản xuất trực tiếp, tham gia trao đổi trên thị trờng
những sản phẩm mình làm ra đợc mà ngời dân thiểu số ở Sa Pa nay còn đã nhận biết đợc
rằng việc buôn bán thuần tuý trên thị trờng cũng là một lĩnh vực thu nhập và cơ hội việc
làm đầy hứa hẹn, ít vất vả hơn các công việc truyền thống nhng lại cho thu lợi nhanh hơn
và thờng là thu nhập cao hơn. Chính vì thế, ngày càng nhiều ngời dân thiểu số của Sa Pa

tham gia buôn bán ở thị trấn, mua đi bán lại hoặc bán uỷ thác các sản phẩm hàng hoá -
một công việc mà trớc kia chỉ có các dân tộc đa số mới làm: Ngoài mua trực tiếp từ ngời
sản xuất, có 9/27 (33,3%) bà bán rong và 17/26 (65,4%) em mua từ những ngời bán buôn
trong bản hoặc tại ngoài thị trấn, 1 (3,7%) bà và 6/26 (23.1%) em mua từ cửa hiệu bán
buôn và 1 (3,7%) bán uỷ thác cho cửa hiệu ở thị trấn Sa Pa. Ngời dân thiểu số đã bớc đầu
biết tính đợc lỗ lãi, hạch toán đợc các hoạt động kinh tế của mình, thích nghi dần với điều
kiện của kinh tế thị trờng.
Chính nhờ sự thơng mại hoá trong t duy này mà ngời dân thiểu số của Sa Pa đang cố gắng
tìm cho mình những cơ hội việc làm mới, nguồn thu nhập mới, mở ra những nghề kinh
doanh mới, đa dạng hoá các hoạt động kinh tế của mình, trong đó có cả việc mở một số
quán bán hàng dịch vụ giải khát phục vụ khách du lịch trên các tuyến tham quan. Theo ý
kiến của các chị hội phụ nữ xã San Sả Hồ, cả xã hiện có 13 hộ đang bán quán, nhiều gia
đình khác trong thôn cũng muốn mở quán bán hàng, tạo thu nhập để cải thiện kinh tế gia
đình song cha có điều kiện kinh tế để làm việc này. Cán bộ chính quyền xã Lao Chải nói
địa phơng đã bàn tới việc cho con em mình đi học tiếng Anh để phát triển các hoạt động
du lịch vì tiếng Anh hợp với ngời dân tộc H'mông. Ngoài ra, họ sẵn sàng phát triển bò sữa

×