Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Điều tra đánh giá tình hình sản xuất chè shan và tình hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trên chè shan tại hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.53 KB, 85 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƠNG LÂM
tt

VÌ THỊ HỒNG
Tên đề tài:

ĐIỀU TRA ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH
SẢN XUẤT CHÈ SHAN VÀ TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC
BẢO VỆ THỰC VẬT TRÊN CHÈ SHAN TẠI HÀ GIANG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo:
Ngành:
Khoa:
Khóa học:

Chính quy
Khoa học cây trồng
Nơng học
2016 - 2020

Thái Nguyên, 2020


ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƠNG LÂM

VÌ THỊ HỒNG
Tên đề tài:



ĐIỀU TRA ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH
SẢN XUẤT CHÈ SHAN VÀ TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC
BẢO VỆ THỰC VẬT TRÊN CHÈ SHAN TẠI HÀ GIANG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo:

Chính quy

Ngành:

Khoa học cây trồng

Khoa:

Nơng học

Lớp:
Khóa học: 2016 - 2020

K48 - Trồng trọt - N01

Giảng viên hướng dẫn: TS. Bùi Lan Anh

Thái Nguyên, 2020


3


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại học, với
đề tài: “Điều tra đánh giá tình hình sản xuất chè Shan và tình hình sử dụng
thuốc BVTV trên chè shan tại Hà Giang”. Ngồi sự cố gắng của bản thân, tơi
cịn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các cá nhân trong và ngồi trường.
Qua đây em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới tồn thể các thầy, cơ giáo
trong khoa Nông Học cùng các thầy, cô giáo trong trường Đại học Nơng Lâm
Thái Ngun đã dìu dắt, dạy dỗ em trong q trình học tập tại trường. Đặc biệt
tơi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới cô giáo TS. Bùi Lan
Anh, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các cơ chú, anh chị phịng
Nơng nghiệp - Cục Thống kê tỉnh Hà Giang, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực
vật tỉnh Hà Giang đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành nội dung đề
tài này.
Tôi cũng xin gửi lời biết ơn tới gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên
tơi trong thời gian hoàn thành báo cáo thực tập tốt nghiệp.
Trong q trình nghiên cứu do thời gian có hạn và trình độ chun mơn
cịn hạn chế nên chun đề khơng tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự
tham gia góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2020
Sinh viên

Vì Thị Hồng


4

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 4.9.
Tình hình
Giang
năm 2018...
62sử dụng hóa chất BVTV cho chè tại Hà


ii i

Chữ viết tắt

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Nội dung

ATVSTP

An toàn vệ sinh thực phẩm

BVTV

Bảo vệ thực vật

FAO

(Food and Agriculture Organization of the United Nations) Tổ
chức lương thực thế giới

GDP


(The Food and Agriculture Organization Corporate Statistical
Database) Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp
Quốc (Tổ chức Nông lương thế giới của Liên Hợp Quốc)
Tổng giá trị quốc dân

HĐND

Hội đồng nhân dân

IPM

(Integrated Pests Management) Quản lý dịch hại tổng hợp

KN

Khuyến nông

FAOSTAT

NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
UBND

Ủy ban nhân dân

VA

Giá trị gia tăng

WTO


(World Trade Organization) Tổ chức thương mại thế giới

XKLĐ

Xuất khẩu lao động


6

DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang


MỤC LỤC


8

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ lâu người ta đã biết đến chè với công dụng là một loại đồ uống có giá
trị dinh dưỡng và giá trị dược liệu cao được nhân dân ta và nhân dân nhiều
nước trên thế giới ưa chuộng. Sản phẩm chè rất đa dạng như chè xanh, chè đen,
chè vàng, chè dược liệu,...
Hà Giang có điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa thuận lợi cho các loại
cây thực vật quý hiếm (chè Shan tuyết, Thảo quả, Hà thủ ô,...) sinh trưởng và
phát triển.
Theo FAO (2020), tổng diện tích chè của Việt Nam năm 2018 là 113.633

ha. Trong đó, Thái Nguyên có diện tích chè lớn nhất (22.027 ha), chiếm
18,89% tổng diện tích chè của cả nước; tiếp đó là Hà Giang có diện tích chè
lớn thứ hai (20.810,30 ha), chiếm 17,84% tổng diện tích chè của cả nước và
Phú Thọ có diện tích chè lớn thứ ba (16.004,2 ha), chiếm 13,72% tổng diện tích
chè cả nước. Tuy nhiên, giống chè của ba vùng chè lớn nhất Việt Nam khơng
hồn tồn giống nhau:
+ Giống chè ở Thái Nguyên: Giống chè LDP1 chiếm 70,2%; Kim
Tuyên, Thúy Ngọc 12,1%; Phúc Vân Tiên 9%; giống TRI777 7%; các giống
chè mới khác 1,7%. Các giống chè LDP1 và các giống chè nhập nội như Kim
Tuyên, Phúc Vân Tiên có năng suất, chất lượng cao để làm nguyên liệu chế
biến chè xanh cao cấp (Theo ông Hồng Văn Dũng, Sở Nơng nghiệp và phát
triển nơng thơn tỉnh Thái Nguyên, 2018).
+ Giống chè ở Phú Thọ: Cơ cấu giống khá đa dạng nhằm xây dựng vùng
nguyên liệu ổn định bền vững cho việc chế biến chè đen và chè xanh cao cấp:
Các giống chè mới (LPD1, LPD2, PH11, Phúc Vân tiên, Bát tiên, Kim tuyên)
chiếm trên 75,3%; còn lại là các giống Trung du.


9

+ Giống chè ở Hà Giang: Trên 90% chè Shan tuyết và dưới 10% là chè
Trung du (Thanh Thủy, 2019).
Qua đó ta thấy, các giống chè Thái Nguyên và Phú Thọ gần giống nhau;
chè Shan tuyết Hà Giang là loại đặc biệt chè chỉ trồng được ở vùng núi có độ
cao > 600 m, độ dốc 15 - 25 độ. Hà Giang có diện tích chè Shan tuyết lớn nhất
cả nước và đây cũng là cây công nghiệp mũi nhọn đối với sự phát triển kinh tế
của tỉnh nên những năm qua, người dân trồng chè ở Hà Giang đã nhận được sự
quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền về cơ chế, chính sách hỗ trợ giống,
vốn, khoa học kỹ thuật để phát triển cây chè. Diện tích chè đã không ngừng
được mở rộng, đầu tư thâm canh để tăng năng suất và sản lượng.

Chè Shan Hà Giang có nhiều ưu điểm vượt trội (về điều kiện trồng trọt,
phương thức canh tác) có thể cạnh tranh được với các vùng chè truyền thống
khác trong và ngoài nước: 70% diện tích là giống chè Shan tuyết Hà Giang
được trồng, phát triển trên núi cao, quanh năm mây mù bao phủ, sự chênh lệch
nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn. Mặt khác, tập quán kỹ thuật canh tác chè đơn
giản, thường ít sử dụng bón phân và thuốc bảo vệ thực vật đã tạo nên vùng chè
nguyên liệu sạch và an tồn. Đây cũng chính là cơ sở để hướng tới phát triển
chè Shan hữu cơ nhằm tăng giá trị của chè Hà Giang.
Tuy nhiên, năng suất chè của tỉnh Hà Giang cịn rất thấp so với bình
qn cả nước do nương chè có mật độ thấp,đất chè thiếu dinh dưỡng và một số
khâu trong quy trình chăm sóc và chế biến chưa được cải tiến. Để khắc phục
hạn chế này nhằm nâng cao năng suất, chất lượng chè Hà Giang tăng thu nhập
và cải thiện đời sống của nhân dân địa phương, tôi đã tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Điều tra đánh giá tình hình sản xuất chè Shan và tình hình sử dụng
thuốc BVTV trên chè shan tại Hà Giang”.
1.2. Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng sản xuất chè Shan và tình hình sử dụng thuốc BVTV
trên chè tại tỉnh Hà Giang để xác định những thuận lợi, khó khăn từ đó đề xuất


10

một số giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất chè trong những năm tới nhằm
đưa chè Shan thực sự trở thành cây trồng có thế mạnh trong q trình phát triển
kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo ổn định, bền vững của tỉnh Hà Giang.
1.3. Mục tiêu cụ thể
- Điều tra, đánh giá được tình hình sản xuất chè tại Hà Giang.
- Điều tra, đánh giá được thành phần, diễn biến của sâu hại chè shan.
- Điều tra, đánh giá được tình hình sử dụng thuốc BVTV trên chè shan
tại Hà Giang.

1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1.

Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học

* Ý nghĩa trong học tập:
Qua thực tiễn giúp sinh viên có điều kiện củng cố và vận dụng những
kiến thức đã học vào thực tiễn sản xuất, nghiên cứu, mặt khác thơng qua thời
gian thực tập sinh viên đã có điều kiện học hỏi, tích lũy thêm kinh nghiệm làm
vốn kiến thức cá nhân, cũng như biện pháp tiến hành khóa luận.
* Ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học:
Giúp sinh viên tiếp cận với cơng tác nghiên cứu khoa học, góp phần
nâng cao trình độ chun mơn, đồng thời tạo cho mình có tác phong làm việc
đúng đắn, nghiêm túc, sáng tạo, học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu cho
bản thân mà trong sách vở khơng có được.
1.4.2.

Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất

Kết quả điều tra tình hình sản xuất chè và tình hình sử dụng thuốc BVTV
trên chè tại Hà Giang, làm cơ sở để xây dựng biện pháp kỹ thuật thâm canh chè
bền vững đạt năng suất cao, chất lượng tốt tại Hà Giang.
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài


11

2.1.1.


Nguồn gốc cây chè

Chè là loại cây có lịch sử trồng trọt lâu đời nhất. Cây chè có tên khoa
học là Camellia sinensis, thuộc họ Theacae Cây chè sau trồng 5 năm bắt đầu
cho thu hoạch và thời gian thu hoạch trong vòng 25 năm.
Nguồn gốc cây chè được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm từ
rất sớm. Tuy nhiên, cho đến nay có nhiều quan điểm khác nhau dựa trên những
cơ sở về lịch sử, khảo cổ học và thực vật học. Một số quan điểm được nhiều
người công nhận nhất là:
Theo Carl Von Linnaeus - 1753, nhà thực vật học người Thụy Điển, lần
đầu tiên trên thế giới đã xác nhận Trung Quốc là vùng nguyên sản của cây chè
thế giới và định tên khoa học là Thea Sinensis rồi phân thành 2 loại: Thea
bohea (chè đen) và Thea viridis (chè xanh).
Nhiều cơng trình nghiên cứu và khảo sát trước đây cho rằng: Nguồn gốc
của cây chè là vùng cao nguyên Vân Nam - Trung Quốc, nơi có khí hậu ẩm ướt
và ấm. Theo các tài liệu của Trung Quốc thì cách đây khoảng 4000 năm, người
Trung Quốc đã biết dùng chè làm dược liệu và sau đó mới dùng để uống. Cũng
theo các tài liệu này thì vùng biên giới Tây Bắc nước ta cũng nằm trong vùng
nguyên sản của giống cây chè tự nhiên trên thế giới.
Năm 1823, Robert Bruce, một học giả người Anh,lần đầu tiên phát hiện
một số cây chè hoang dã trong dãy núi Sadiya ở vùng Atxam (Ấn Độ) cao tới
17 đến 20m, thuộc loài thân gỗ lớn, khác hẳn cây chè thân bụi của Linaeus thu
thập ở vùng Trung Quốc nói trên.
Tiếp sau đó các nhà học giả Anh như Samuel Bildon (1878), John
H.Blake (1903), E.A.Brown và Ibbetson (1912) đưa ra thuyết: Ấn Độ là vùng
nguyên sản của cây chè trên thế giới, vì trong kho tàng cổ thụ Trung Quốc
khơng có ghi nhận gì về các cây chè cổ thụ, trong đất nước Trung Quốc chưa
tìm thấy những cây chè cổ thụ lớn như ở Ấn Độ, và giống chè Trung Quốc
cũng như Nhật Bản hiện nay là nhập từ Ấn Độ.



12

Năm 1918, Cohen Stuart (Java), một nhà phân loại thực vật Hà Lan đã đi
thu thập mẫu tiêu bản chè tại Vân Nam, Bắc Việt Nam và Bắc Mianma. Kết
quả đã tìm thấy những cây chè thân gỗ lớn ở khu vực miền núi phía Nam và
phía Tây Vân Nam.
Tuy có những quan điểm khác nhau về nguồn gốc cây chè, nhưng vùng
phân bố chè nguyên sản và vùng chè dại nằm đều nằm ở khu vực núi cao, có
điều kiện sinh thái lý tưởng như vùng Vân Nam (Trung Quốc) hay vùng Atxam
(Ấn Độ) đều có độ cao trên 1500m so với mặt nước biển. Còn tại Việt Nam
cũng đã tìm thấy chè dại tại Suối Giàng (Yên Bái), Thông Nguyên, Cao Bồ (Hà
Giang), Tam Đảo (Vĩnh Phúc). Từ những nghiên cứu trên có thể đi đến kết luận
là cây chè có nguồn gốc từ Châu Á.
2.1.2.

Ý nghĩa của việc phát triển sản xuất chè

Cây chè là cây công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao. Nó là một
loại cây trồng có vị trí quan trọng trong đời sống sinh hoạt cũng như phát triển
kinh tế và văn hoá con người, sản xuất chè tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu
cầu giải khát của đông đảo nhân dân ở nhiều quốc gia.
Chè có nhiều Vitamin giúp thanh lọc cơ thể, giải khát, có tác dụng giảm
thiểu một số bệnh thường gặp về máu, do đó chè đã trở thành đồ uống phổ
thông trên thế giới.
Tại một số nước thói quen uống nước chè đã tạo thành một nền văn hóa
truyền thống, một tập quán. Hiện nay khoa học tiến bộ đã đi sâu vào nghiên
cứu tìm ra được một số hoạt chất quý có trong cây chè như: Cafein, Vitamin A,
B1... Đặc biệt trong cây chè còn chứa Vitamin C là loại Vitamin dùng để điều

chế thuốc tân dược vì thế chè khơng những là loại cây giải khát mà chè cịn có
tên trong danh sách cây y dược.
Đối với nước ta, sản phẩm chè không chỉ thoả mãn nhu cầu trong nước,
mà còn là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn,
giúp nuớc ta có thêm một nguồn ngân sách để đầu tư vào phát triển kinh tế của


13

đất nước, cải thiện nâng cao mức sống của nguời dân. Xét ở tầm vĩ mơ thì xuất
khẩu chè cũng như xuất khẩu các mặt hàng khác nó là cơ sở để đẩy mạnh lưu
thông buôn bán giữa các nuớc trong khu vực và trên thế giới, góp phần tạo sự
cân bằng giữa xuất khẩu và nhập khẩu trong tổng thể nền kinh tế, đồng thời nó
tạo nên mối quan hệ bình đẳng, thân thiện, cùng có lợi giữa các nuớc xuất
khẩu, nhập khẩu trên thế giới.
Trực tiếp đối với các hộ sản xuất kinh doanh sản phẩm chè thì cây chè
mang lại thu nhập ổn định, cao hơn nhiều so với nhiều loại cây trồng khác, bởi
cây chè có tuổi thọ cao có thể sinh trưởng, phát triển và cho sản phẩm có giá trị
cao và đều đặn trong khoảng 50 - 60 năm, do vậy nó sẽ tạo ra một nguồn thu
đều đặn lâu dài và có giá trị kinh tế cao, giúp các hộ cải thiện đời sống, nâng
cao mức sống của người dân. Mặt khác, cây chè là loại cây trồng thích hợp với
các vùng đất miền núi và trung du, những vùng đất cao, khô thống. Hơn thế
nữa nó cịn gắn bó keo sơn ngay cả với những vùng đất đồi dốc khô cằn sỏi đá.
Chính vì vậy trồng chè khơng chỉ mang lại giá trị kinh tế cao, mà nó cịn góp
phần bảo vệ môi trường, phủ xanh đất trống đồi trọc, tạo ra cảnh quan đẹp. Kết
hợp trồng chè với trồng rừng sẽ tạo nên những vành đai chống xói mịn, rửa
trơi, giữ lại lớp màu mỡ cho đất, cải tạo đất tăng độ phì cho đất bạc màu, góp
phần bảo vệ mơi trường phát triển một nền nơng nghiệp bền vững.
Ngồi ra trồng chè và sản xuất chè còn cần một lực lượng lao động lớn,
cho nên nó sẽ tạo ta cơng ăn việc làm cho nhiều lao động nhàn rỗi ở nông thôn,

tạo điều kiện cho việc thu hút và sử dụng lao động, điều hoà lao động được hợp
lý hơn. Đồng thời nó cịn tạo ra một lượng của cải vật chất lớn cho xã hội, tăng
thu nhập cho người dân, cải thiện mức sống của khu vực nông thôn, tạo sự thay
đổi lớn cho bộ mặt các vùng nông thôn, nhất là trong giai đoạn đổi mới hiện
nay, việc phát triển sản xuất chè góp phần đẩy nhanh cơng cuộc cơng nghiệp
hố - hiện đại hố nơng thơn, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của khu vực


14

nông thôn, nâng cao mức sống của các vùng nông thôn, thu hẹp khoảng cách
giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn.
2.1.3.

Các yếu tố ảnh hưởng, tác động đến việc phát triển chè

Chè là cây công nghiệp lâu năm đã được trồng từ rất lâu, là một trong
những cây chủ lực chính, cây xóa đói giảm nghèo cho bà con nhiều vùng trên
cả nước.
Chất lượng, mùi vị chè phụ thuộc vào điều kiện khí hậu đất đai của từng
vùng. Chất lượng chè mỗi vùng đều mang mùi vị đặc trưng riêng. Sự thay đổi
các yếu tố như nhiệt độ, lượng mưa, đất đai, khơng khí, các biện pháp kỹ thuật
khơng chỉ làm thay đổi hương thơm, mùi vị, các thành phần chất mang lại lợi
ích cho sức khỏe con người mà nó cịn làm ảnh hưởng đến cuộc sống của
những người dân nông thôn sống dựa vào cây trồng này.
2.1.4.1. Điều kiện tự nhiên
* Đất đai
Đất đai quyết định đến sản lượng và chất lượng của sản phẩm chè. Chè
là một cây không yêu cầu khắt khe và đất so với một số cây công nghiệp dài
ngày khác. Tuy nhiên để cây chè sinh trưởng, phát triển tốt, nương chè có

nhiệm kỳ kinh tế dài, khả năng cho năng suất cao, ổn định, chất lượng chè ngon
thì cây chè cũng phải được trồng ở nơi có đất tốt, phù hợp với đặc điểm sinh
vật học của nó. Qua nghiên cứu của các chuyên gia cho thấy đất trồng chè tốt
phải đạt yêu cầu sau: độ pH từ 4,5 - 5,5; hàm lượng mùn 2% - 4%; độ sâu ít
nhất 0,6 - 1m; mực nước ngầm phải dưới 1m; kết cấu của đất tơi xốp sẽ giữ
được nhiều nước, thấm nước nhanh, thốt nước tốt, có địa hình dốc từ 10 - 200.
* Thời tiết khí hậu
Độ ẩm, nhiệt độ và lượng mưa là những yếu tố ảnh hưởng lớn đến cây
chè. Để cây chè phát triển tốt thì nhiệt độ bình quân là 22 - 28 0C, lượng mưa
trung bình là 1500 - 2000mm/năm nhưng phải phân đều cho các tháng, ẩm độ


15

khơng khí từ 80 - 85%, ẩm độ đất từ 70 - 80%, cây chè là cây ưa sáng tán xạ,
thời gian chiếu sáng trung bình 9 giờ/ngày.
Nhiệt độ khơng khí ảnh hưởng trực tiếp đến q trình sinh trưởng và
phát triển của cây chè. Cây chè ngừng sinh trưởng khi nhiệt độ khơng khí dưới
100C hay trên 400C. Mùa đông cây chè tạm ngừng sinh trưởng, mùa xuân bắt
đầu phát triển trở lại. Thời vụ thu hoạch chè dài, ngắn, sớm, muộn tuỳ thuộc
chủ yếu vào điều kiện nhiệt độ. Tuy nhiên các giống chè khác nhau có mức độ
chống chịu khác nhau.
Cây chè vốn là cây thích nghi sinh thái vùng cận nhiệt đới bóng râm, ẩm
ướt. Lúc nhỏ cây cần ít ánh sáng, một đặc điểm cũng cần lưu ý là các giống chè
lá nhỏ ưa sáng hơn các giống chè lá to.
* Ánh sáng.
Các điều kiện ánh sáng khác nhau có ảnh hưởng khác nhau đến cấu tạo
lá và thành phần hóa học trong lá chè. Do cường độ ánh sáng có ảnh hưởng tới
sinh trưởng và chất lượng nên việc điều tiết cường độ ánh sáng có thể làm tăng
năng suất, chất lượng chè rõ rệt. Nếu giảm cường độ ánh sáng 30% thì năng

suất chè đạt 34% và giảm cường độ ánh sáng 50% thì năng suất chè đạt cao
nhất. Tuy nhiên khi giảm cường độ ánh sáng trên 50% thì năng suất chè bắt đầu
giảm.
* Khơng khí
Khơng khí rất cần cho sự sống của thực vật. Hàm lượng CO 2 trong
khơng khí khoảng 0,03%, song chỉ cần có 1 biến động nhỏ cũng ảnh hưởng rất
lớn đến quang hợp. Chè là 1 cây ưa bóng râm, cường độ quang hợp cũng thay
đổi theo hàm lượng CO2 có trong khơng khí.
2.1.4.2. Yếu tố thuộc về kỹ thuật
* Ảnh hưởng của giống chè


16

Giống chè ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, chất lượng, đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh. Mỗi một điều kiện sinh thái, mỗi vùng lại thích hợp cho một
giống chè hay một số giống nhất định. Vì vậy để có nguyên liệu phục vụ chế
biến, tạo ra chè thành phẩm có chất lượng cao và để góp phần đa dạng hoá sản
phẩm ngành chè, tận dụng lợi thế so sánh của các vùng sinh thái địi hỏi phải có
nguồn giống thích hợp.
Ở trong nước ta đã chọn tạo được nhiều giống chè tốt bằng phương pháp
chọn lọc cá thể như: PH1, TRI777, 1A, TH3. Đây là một số giống chè khá tốt,
tập trung được nhiều ưu điểm, cho năng suất và chất lượng búp cao, đã và đang
được sử dụng ngày càng nhiều, trồng trên diện tích rộng, bổ sung cơ cấu giống
vùng và thay thế dần giống cũ trên các nương chè cằn cỗi.
Bên cạnh đặc tính của các giống chè, phương pháp nhân giống cũng ảnh
hưởng trực tiếp tới chè nguyên liệu. Hiện nay có 2 phương pháp được áp dụng
chủ yếu là trồng bằng hạt và trồng bằng giâm cành. Đặc biệt phương pháp
trồng chè cành đến nay đã được phổ biến, áp dụng rộng rãi và dần dần trở
thành biện pháp chủ yếu trên thế giới cũng như ở Việt Nam.

* Ảnh hưởng của các biện pháp kỹ thuật
- Nước tưới: Chè là cây ưa nước, trong búp chè có hàm lượng nước lớn,
song chè rất sợ úng và không chịu úng. Chè gặp khô hạn sẽ bị cằn cỗi, hạn chế
việc hút các chất dinh dưỡng từ đất, khô hạn lâu ngày sẽ làm giảm sản lượng
thậm chí cịn chết. Do đó, việc tưới nước cho chè là biện pháp giữ ẩm cho đất
để cây sinh trưởng và phát triển bình thường, cho năng suất và chất lượng cao.
- Bón phân: Bón phân cho chè nhất là chè kinh doanh là một biện pháp
kỹ thuật quan trọng quyết định trực tiếp tới năng suất và chất lượng búp chè,
nhưng biện pháp này cũng có những tác dụng ngược bởi nếu bón phân khơng
hợp lý sẽ làm cho năng suất và chất lượng không tăng lên được, thậm chí cịn
bị giảm xuống. Nếu bón đạm với hàm lượng quá cao hoặc bón các loại phân


17

theo tỷ lệ không hợp lý sẽ làm giảm chất Tanin hoà tan của chè, làm tăng hợp
chất Nitơ dẫn tới giảm chất lượng chè. Vì vậy bón phân cần phải bón đúng
cách, đúng lúc, đúng đối tượng và cần cân đối các yếu tố dinh dưỡng chủ yếu
như: Đạm, lân, kali sao cho phù hợp.
- Che nắng: Theo các chuyên gia về chè, nếu thời tiết khô hạn kéo dài
thì cây bóng mát được trồng 170 - 230 cây/ha che phủ được 20 - 30% diện tích
thì độ ẩm sẽ cao. Qua nghiên cứu về sự tác động của ánh sáng tới cây chè và
quang hợp tốt nhất trong điều kiện ánh sáng tán xạ. Vì vậy mà các nước như
Ấn Độ, Nhật Bản thường áp dụng trồng cây che bóng mát cho cây chè, nên
năng suất và sản lượng chè thường cao.
- Mật độ gieo trồng: Để có năng suất cao cần đảm bảo mật độ trồng chè,
mật độ trồng chè phụ thuộc vào các giống, độ dốc, điều kiện cơ giới hố. Nhìn
chung tuỳ điều kiện giống, đất đai, cơ giới hoá, khả năng đầu tư mà có khoảng
cách mật độ khác nhau. Nhưng xu thế hiện nay là khai thác sản lượng theo
khơng gian do đó có thể tăng cường mật độ một cách hợp lý cho sản lượng

sớm, cao, nhanh khép tán, chống xói mịn và cỏ dại trong nương chè, qua thực
tế cho thấy nếu mật độ vườn đảm bảo từ 18000 đến 20000 cây/ha thì sẽ cho
năng suất và chất lượng tốt, chi phí phải đầu tư tính cho một sản phẩm là đạt
mức thấp nhất.
- Đốn chè: Đốn chè cũng ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng và chất lượng
chè, đốn chè là cắt đi đỉnh ngọn của các cành chè, ức chế ưu thế sinh trưởng
đỉnh và kích thích các trồi ngủ, trồi nách mọc thành lá, cành non mới tạo ra một
bộ khung tán khoẻ mạnh, làm cho cây luôn ở trạng thái sinh trưởng dinh dưỡng
hạn chế sự ra hoa, kết quả có lợi cho việc ra lá, kích thích sinh trưởng búp non,
tăng mật độ búp và trọng lượng búp, tạo bộ khung tán to có nhiều búp, vừa tầm
hái tăng hiệu suất lao động, cắt bỏ những cành già tăm hương, bị sâu bệnh thay


18

bằng những cành non mới sung sức hơn giữ cho cây chè có bộ lá thích hợp để
quang hợp.
+ Các dạng đốn chè:
♦ Đốn phớt: Hai năm sau khi đốn tạo hình, mỗi năm đốn trên vết đốn cũ
5cm sau đó mỗi năm đốn cao thêm 3 - 4cm, khi đốn vết đốn cuối cùng cao
70cm thì hàng năm đốn thêm 1 - 2cm. Sự thay đổi cách đốn sẽ làm tăng sản
lượng và chất lượng chè.
♦ Đốn đau: Những cây chè đã được đốn nhiều năm, cây chè phát triển
kém, năng suất thấp, giảm rõ rệt thì đốn cách mặt đất 40 - 50cm bón phân hữu
cơ và lân theo quy trình một năm trước khi đốn đau. Sau khi đốn đau cần tiến
hành hái chè theo phương pháp ni tán, chỉ hái búp chè cao hơn 65cm cịn
chừa lại nuôi tán. Theo như nghiên cứu ở Inđônêxia cho thấy rằng: Hàm lượng
Caphêin của nguyên liệu chè thu hoạch ở cây chè đốn đau cao hơn ở nguyên
liệu chè chưa đốn, như vậy chè đốn đau và chè đốn liên tục sẽ cho sản lượng và
chất lượng tăng, đốn chè có tác dụng tạo khung tán cho chè để có mật độ búp

cao, tạo chiều cao hợp lý thuận lợi cho việc chăm sóc và thu hoạch.
- Ảnh huởng của công nghệ thu hoạch và chế biến chè
+ Hái chè: Thời điểm, thời gian và phương thức thu hái có ảnh hưởng
đến chất lượng nguyên liệu chè, hái chè gồm 1 tơm 2 lá đó là ngun liệu tốt
nhất cho chè chế biến chè vì trong đó có hàm lượng polyphenol và cafein cao.
Nếu hái chè quá già thì khơng những chất lượng chè giảm mà cịn ảnh hưởng
tới sinh trưởng và sự phát triển của cây chè. Thường vào tháng 6,7,8 nguyên
liệu chè thu hái có hàm lượng tanin cao nhất. Khoảng cách thu hái mỗi lần là
khoảng 1 tháng .
+ Vận chuyển và bảo quản nguyên liệu
Nguyên liệu chè sau khi thu hái có thể được đưa thẳng vào chế biến, có
thể để một thời gian mới đưa vào chế biến, khi thu hoạch không để dập nát búp


19

chè, dụng cụ đựng phải thơng thống và kích thước vừa phải, sau khi hái không
để quá 10 tiếng.
+ Công nghệ chế biến
Tuỳ thuộc vào mục đích của phương án sản phẩm mà ta có các quy trình
cơng nghệ chế biến phù hợp với từng nguyên liệu đầu vào, nhìn chung quá
trình chế biến gồm hai giai đoạn: sơ chế và tinh chế nguyên thành phẩm.
Hiện nay trong điều kiện cơng nghệ sinh học điện khí hố và tự động
hố một yêu cầu được đặt ra cho công nghệ chế biến chè là ngày càng giảm tỷ
trọng chi phí chế biến trong sản phẩm và nâng cao chất lượng chế biến. Như
vậy sản phẩm chè của ta mới đủ điều kiện để đầu tư trở lại phát triển ngành
chè.
2.1.4.3. Điều kiện xã hội
Sản xuất chè chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện kinh tế xã hội, cụ thể là
cơ sở hạ tầng, hệ thống đường giao thông đi lại, hệ thống điện, hệ thống tưới

tiêu, khâu tiêu thụ sản phẩm và đặc biệt là xây dựng các nhà máy, các cơ sở
hiện đại chế biến chè.
Các vấn đề nhân công lao động, các chính sách đầu tư khuyến khích phát
triển, các chính sách vĩ mơ của Nhà nước cho cây chè đều có tác động đến sự
phát triển của cây chè. Ngoài ra kinh nghiệm và truyền thống sản xuất còn ảnh
hưởng rất lớn tới chất lượng của sản phẩm chè. Nếu các vấn đề trên được giải
quyết triệt để sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất chè phát triển.
* Thị trường
Thị trường là yếu tố quan trọng và có tính quyết định đến sự tồn tại của
cơ sở sản xuất kinh doanh chè, của các đơn vị sản xuất trong nền kinh tế thị
trường: mỗi nhà sản xuất, mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh và mỗi cá nhân đều
phải trả lời 3 câu hỏi của kinh tế học đó là: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào
và sản xuất cho ai. Câu hỏi sản xuất cái gì được đặt lên hàng đầu, mang tính
định hướng. Để trả lời được câu hỏi này người sản xuất phải tìm kiếm thị


20

trường, tức là xác định nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường đối với
hàng hoá mà họ sẽ sản xuất ra. Thị trường đóng vai trị là khâu trung gian nối
giữa sản xuất và tiêu dùng.
Khi tìm kiếm được thị trường, người sản xuất phải lựa chọn phương thức
tổ chức sản xuất như thế nào cho phù hợp, sao cho lợi nhuận thu được là tối đa.
còn việc giải quyết vấn đề sản xuất cho ai, đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ được thị
trường, xác định rõ được khách hàng, giá cả và phương thức tiêu thụ.
Muốn vậy phải xem xét quy luật cung cầu trên thị trường. Ngành chè có
ưu thế hơn một số ngành khác, bởi sản phẩm của nó được sử dụng khá phổ
thơng ở trong nước cũng như quốc tế. Nhu cầu về mặt hàng này khá lớn và
tương đối ổn định. Hơn nữa chè không phải là sản phẩm tươi sống, sau khi chế
biến có thể bảo quản lâu dài, chè mang tính thời vụ cũng ít gắt gao hơn các loại

cây ăn quả. Chính nhờ những ưu điểm trên dễ tạo ra thị trường khá ổn định và
khá vững chắc, là điều kiện, là nền tảng để kích thích, thúc đẩy sự phát triển
của ngành chè.
* Giá cả
Đối với người sản xuất nơng nghiệp nói chung, của người trồng chè nói
riêng thì sự quan tâm hàng đầu là giá chè (giá chè búp tươi và chè búp khô)
trên thị trường; giá cả không ổn định ảnh hưởng tới tâm lý người trồng chè.
Có thể nói sự biến động của thị trường ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống
của người sản xuất nói chung, cũng như người làm chè, ngành chè nói riêng.
Do đó việc ổn định giá cả, mở rộng thị trường tiêu thụ chè là hết sức cần thiết
cho sự phát triển lâu dài của ngành chè.
* Yếu tố lao động
Nhân tố lao động luôn là yếu tố quyết định trong việc sản xuất, trong sản
xuất chè cũng vậy, yếu tố con người mang lại năng suất, sản lượng, chất lượng
cho chè. Để sản phẩm chè sản xuất ra có năng suất cao, chất lượng tốt ngoài
việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật ra, cần phải có lao động có


21

trình độ kỹ thuật, tay nghề cao. Trong hai khâu: sản xuất - chế biến, nhân tố con
người đều quyết định đến sản lượng và chất lượng của chè. Trong khâu sản
xuất, từ việc chọn giống, gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch tất cả đều phụ
thuộc vào nhân tố lao động. Lao động có tay nghề sẽ tạo ra năng suất và chất
lượng cao.
* Hệ thống cơ sở chế biến chè
Sau khi hái được chè nguyên liệu (chè búp tươi) người dân sẽ tiến hành
chế biến, từ chè búp tươi tạo ra chè thành phẩm, sau đó mới đem đi tiêu thụ
trên thị trường.
Ngoài yêu cầu về chất lượng chè ngun liệu, thì cơng tác tổ chức, chế

biến, quy trình chế biến cũng ảnh hưởng tới chất lượng chè thành phẩm. Hạch
tốn được giá thành từ đó quyết định được mức giá bán trên thị trường sao cho
phù hợp. Hiện nay ngành chè Việt Nam đang có những bước tiến đáng kể trong
khâu chế biến, nhiều công ty, doanh nghiệp được thành lập, hay chuyển đổi
thành các công ty cổ phần tham gia liên kết với nước ngoài đưa vào sử dụng
những dây chuyền hiện đại, công suất lớn đã đáp ứng được phần nào yêu cầu
của quá trình sản xuất chè.
* Hệ thống chính sách vĩ mơ của Nhà nước
Thành tựu về kinh tế của Việt Nam hơn 20 năm qua là do nhiều nhân tố
tác động, trong đó phải kể đến sự đóng góp tích cực của đổi mới quản lý kinh tế
vĩ mô. Sự đổi mới này được diễn ra trong tất cả các ngành, các lĩnh vực sản
xuất. Ngành chè cũng như các ngành sản xuất khác, muốn mở rộng quy mô và
chất lượng trong sản xuất kinh doanh, nhất thiết phải có hệ thống chính sách
kinh tế thích hợp nhằm tạo dựng mối quan hệ hữu cơ giữa các nhân tố với nhau
để tạo hiệu quả kinh doanh cao nhất. Kết quả sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào
chính sách kinh tế, một chính sách kinh tế khơng phù hợp sẽ kìm hãm phát
triển của ngành, ngược lại một chính sách thích hợp sẽ kích thích sản xuất phát
triển.


22

2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1.

Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới

2.2.1.1. Tình hình sản xuất:
Hiện nay trên thế giới có khoảng 40 nước trồng chè. Trong đó, chè được
trồng nhiều nhất ở châu Á, tiếp đó đến châu Phi.

Tình hình sản xuất chè trên thế giới khơng ngừng phát triển cả về diện
tích và sản lượng thể hiện qua bảng 2.1.
Bảng 2.1. Tình hình sản xuất chè trên thế giới qua các năm
Năm
Diện tích (ha)
Năng suất (kg/ha)
Sản lượng (tấn)
2013
3.618.570
1.472,6
5.328.737
2014
3.788.889
1.454,2
5.509.943
2015
3.885.686
1.490,2
5.790.315
3.906.540
1.500,0
5.859.841
2016
2017
4.047.270
1.494,4
6.048.081
4.193.176
1.511,5
6.337.968

2018
Nguồn: FAOSTAT, 2019
- Về diện tích: Từ năm 2013 - 2018, diện tích trồng chè trên thế giới
biến động từ 3.618.570 - 4.193.176 ha. Trong đó, diện tích trồng chè trung bình
trong giai đoạn từ 2016 - 2018 đạt 4.048.995 ha, tăng hơn so với diện tích chè
trung bình trong giai đoạn từ 2013 - 2015 (đạt 3.764.381 ha) tăng 7,5%.
- Về năng suất: Từ năm 2013 - 2018, năng suất chè trên thế giới dao
động từ 1.454,2 - 1.511,5 kg/ha và năng suất chè không ổn định qua các năm
(tăng giảm thất thường). Trong đó, năng suất chè năm 2016 và 2018 là cao nhất
(đạt 1.500 - 1.511,5 kg/ha) ; tiếp đó đến năng suất chè năm 2017 đạt ( 1.494,4
kg/ha) và năng suất chè trung bình trên thế giới thấp nhất vào năm 2014 và
2013 (đạt 1.454,2 - 1.472,6 kg/ha).
- Về sản lượng: Từ năm 2013 - 2018, sản lượng chè trên thế giới dao
động từ 5.328.737 - 6.337.968 tấn. Trong đó, sản lượng chè trung bình trên thế


23

giới giai đoạn năm 2016 - 2018 đạt 6.081.963 tấn cao hơn so với sản lượng chè
trung bình giai đoạn 2013 - 2015 (đạt 5.542.998 tấn), tăng (9,72%).
2.2.1.2. Tình hình tiêu thụ
Theo số liệu thống kê hằng năm có 155 nước thường phải nhập khẩu
chè; trong đó, có 34 nước châu Phi, 29 nước châu Á, 28 nước châu Âu, 19 nước
châu Mỹ, 5 nước châu Đại Dương.
Theo đánh giá của các chuyên gia, trong nhóm các nước sản xuất kinh
doanh chè thuộc tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thế giới, đến những năm
cuối thế kỷ XX đã có trên một nửa dân số thế giới uống chè. Hầu hết các nước
đều có người uống chè trong đó có khoảng 160 nước có nhiều người uống chè.
Mức tiêu thụ chè bình qn đầu người một năm trên tồn thế giới là 0,5kg/
người/ năm. Những nước có mức tiêu dùng cao bình quân đầu người là Anh

2,78 kg; Thổ Nhỹ Kỳ 1,72 kg; Irac 2,51 kg; Coet 2,23 kg; Ai Cập 1,44 kg;
Srilanca 1,41 kg; Arập Xêut 1,4 kg; Xyry 1,26 kg; Úc 1,22 kg; Nhật Bản 0,99
kg; Pakistan 0,86 kg; Nga 0,85 kg; Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ có mức tiêu dùng
chè bình quân trên đầu người thấp, dao động từ 0,3 - 0,55 kg/người; nhưng dân
số của những nước này đông nên lượng tiêu thụ chè hàng năm rất lớn.
Việt Nam là nước có mức tiêu dùng chè trên đầu người còn thấp (0,3
kg/người) và tổng lượng chè tiêu thụ hằng năm trên 20 nghìn tấn.
Qua đó ta thấy, chè vẫn là một trong những đồ uống phổ biến ở nhiều
quốc gia vì: uống chè khơng chỉ đơn thuần để giải khát mà nó cịn là một loại
nước uống tốt hỗ trợ và phòng ngừa nhiều loại bệnh hiệu quả. Mặt khác, chè
không chỉ sử dụng là đồ uống mà còn là nguyên liệu để sản xuất ra các loại sản
phẩm chăm sóc sức khỏe và làm đẹp,... Cho nên diện tích, năng suất và sản
lượng chè sẽ không ngừng tăng lên trong tương lai.


24

2.2.2.

Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè ở Việt Nam

2.2.2.1. Tình hình sản xuất
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thuận lợi cho cây
chè sinh trưởng và phát triển. Tuy nhiên, cây chè chỉ thực sự được quan tâm và
đầu tư sản xuất bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ XX trở lại đây.
Ngành chè Việt Nam hiện đang có vị trí quan trọng trong nền kinh tế.
Việt Nam hiện nay đang là nước sản xuất chè lớn đứng thứ 7 thế giới và đang
đứng thứ 5 về xuất khẩu chè trên toàn cầu. Về sản lượng chè Việt Nam đứng
thứ 2 thế giới (sau Trung Quốc).
Nước ta hiện đang có trên 130.000 ha diện tích trồng chè và hiện có hơn

500 cơ sở đang chế biến, sản xuất và phân phối các sản phẩm từ chè với công
suất lên đến hơn nửa triệu tấn chè khơ mỗi năm.
Bảng 2.2. Tình hình sản xuất chè ở Việt Nam qua các năm
Năm

Diện tích (ha)

Năng suất (kg/ha)

Sản lượng (tấn)

2013

114.827

1.895,9

217.700

2014

115.436

1.978,2

228.360

2015

117.822


2.003,0

236.000

2016

118.824

2.019,8

240.000

2017

123.188

2.110,6

260.000

2018

116.633

2.314,9

270.000

Nguồn: FAOSTAT, 2019

- Về diện tích: Từ năm 2013 - 2017 diện tích chè tăng nhanh. Trong
đó,năm 2017 diện tích chè đạt 123.188 ha, tăng 8361 ha (tương ứng 7,2%) so


25

với năm 2013. Đến năm 2018 diện tích chè nước ta giảm nhẹ, chỉ còn 116.633
ha giảm 6555 ha (tương ứng 5,62%) so với năm 2017 (bảng 2.2).
- Về năng suất: Từ năm 2013 - 2018 năng suất chè nước ta dao động từ
1.895,9 - 2.314,9 kg/ha. Năm 2018 không phải là năm có diện tích trồng chè
lớn nhất, nhưng lại là năm có năng suất cao nhất đạt 2.314,9 kg/ha tăng 22,1%
so với năm 2013; tiếp đó đến là năm 2017 (năng suất đạt 2.110,6 kg/ha) và năm
có năng suất chè thấp nhất là năm 2013 (đạt 1.895,9kg/ha) (bảng 2.2).
- Về sản lượng: Từ năm 2013 - 2018 sản lượng chè nước ta dao động từ
217.700 - 270.000 tấn. Trong đó, năm 2018 tuy khơng phải là năm có diện tích
lớn nhất nhưng lại đạt sản lượng cao nhất đạt 270.000 tấn (tăng 24%) so với
năm 2013 vì năng suất chè năm 2018 cao nhất; tiếp đó là năm 2017 (đạt
260.000 kg/ha) tăng 19,43% so với năm 2013 và năm có sản lượng chè thấp
nhất là năm 2013 chỉ đạt 217.700 tấn (bảng 2.2).
2.2.2.2. Tình hình tiêu thụ
Phần lớn chè tiêu thụ ở thị trường trong nước là mặt hàng chè xanh. Chè
Ô long ở thị trường Việt Nam có giá cao hơn nhiều so với giá xuất khẩu trung
bình. Các mức giá thơng thường cho sản phẩm chè cao cấp dao động từ
100.000đ/kg đến 1.000.000đ/kg. Các loại chè đặc sản có thể có giá
2.000.000đ/kg hoặc cao hơn.
Việt Nam được coi là “cái nôi” của ngành chè thế giới với chất lượng
thơm ngon nổi tiêng thế giới. Theo Hiệp hội chè Việt Nam (VITAS), Việt Nam
có nền văn hóa uống chè lâu đời, tuy nhiên mức tiêu thụ chè trong nước vẫn
còn thấp (chỉ đạt 30.000 tấn chè/năm): tương ứng bình quân đầu người chỉ đạt
300 gr chè/người/năm. So với tiềm năng của thị trường chè trong nước thì con

số này cịn thấp. Trong khi đó, mức tiêu thụ chè bình quân đầu người tại Trung
Quốc đạt hơn 1kg chè/người/năm; ở Nhật Bản đạt 2,0 kg/người/năm; ở các


×