Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Tài liệu Mai Hắc Đế pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.6 KB, 6 trang )

Mai Hắc Đế
Mai Hắc Đế (chữ Hán: 梅黑帝; ?–722), tên thật
là Mai Thúc Loan (梅叔鸞) hoặc Mai Huyền
Thành (梅玄成) là vua nước Việt Nam, anh
hùng dân tộc, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa
nông dân chống sự chiếm đóng của nhà Đường ở
Việt Nam vào đầu thế kỉ thứ 8. Ông quê ở Mai
Phụ (Lộc Hà, Hà Tĩnh)
[1]
nhưng sinh ra ở Nam
Đàn, Nghệ An, Việt Nam.
Thời thơ ấu
Mai Thúc Loan sinh vào khoảng cuối thế kỷ 7,
tại thôn Ngọc Trừng, Hoan Châu, nay thuộc
huyện Nam Đàn, Nghệ An. Theo "Việt điện u
linh", Bố Mai Thúc Loan là Mai Sinh, mẹ là
Vương Thị nguyên gốc Lộc Hà - Hà Tĩnh, lưu
lạc sang vùng Nam Đàn - Nghệ An.
[2]
Năm Mai Thúc Loan 10 tuổi, mẹ đi hái củi bị hổ
vồ, ít lâu sau bố cũng mất. Ông được người bạn
của bố là Đinh Thế đem nuôi, sau gả con gái là
Ngọc Tô cho. Sinh thời Mai Thúc Loan vốn rất
khỏe mạnh, giỏi vật, học rất giỏi và có chí lớn.
Ông mở lò vật, lập phường săn, chiêu mộ trai
tráng trong vùng mưu việc lớn. Vợ ông giỏi việc
nông trang, nhờ đó "gia sản ngày một nhiều, môn
hạ ngày một đông".
Nhờ chí du ngoạn lại được vợ hết lòng ủng hộ,
Mai Thúc Loan kết thân với nhiều hào kiệt, sau
này trở thành những tướng tài tụ nghĩa dưới lá cờ


của ông như Phòng Hậu, Thôi Thặng, Đàn Vân
Du, Mao Hoành, Tùng Thụ, Tiết Anh, Hoắc Đan,
Khổng Qua, Cam Hề, Sỹ Lâm, Bộ Tân,...
Khởi nghĩa
Khởi nghĩa Hoan Châu do Mai Thúc Loan lãnh
đạo nổ ra vào năm Khai Nguyên thứ nhất đời vua
Đường Huyền Tông ở Trung Hoa, tức năm Quý
Sửu (713).
[1]
Khởi nghĩa nổ ra tại Rú Đụn, còn
gọi là Hùng Sơn (Nghệ An). Tương truyền lúc đó
ông cùng đoàn phu gánh vải nộp cho nhà Đường,
đã kêu gọi các phu gánh vải nổi dậy chống quân
Đường. Tuy nhiên, hiện nay các nhà nghiên cứu
đều thống nhất: sưu cao, thuế nặng là nguyên
nhân khiến nhân dân nổi dậy chống lại ách đô hộ
nhà Đường, nổi bật là khởi nghĩa Hoan Châu.
Đây là cuộc khởi nghĩa có sự chuẩn bị, biết chọn
thời cơ, không phải một cuộc bạo động. Chuyện
"cống vải" là một chi tiết của truyền thuyết,
không thể và không phải là nguyên nhân chính
nổ ra cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc do
Mai Thúc Loan lãnh đạo.
Tháng 4 năm 713, Mai Thúc Loan lên ngôi vua,
sử gọi ông là Mai Hắc Đế tức "Vua đen" họ Mai
(vì ông có nước da đen, có ý kiến cho rằng do
ông lấy biểu tượng là thủy, trong ngũ hành thủy
ứng với màu đen
[ai nói?]
). Ông cho xây thành lũy,

lập kinh đô Vạn An (thuộc xã Văn Diên và thị
trấn Nam Đàn hiện nay), tích cực rèn tập tướng
sỹ. Cuộc nổi dậy của ông được hưởng ứng rộng
rãi ở trong nước và có thể có cả sự trợ giúp của
Lâm Ấp và Chân Lạp.
[1]
Năm Giáp Dần (714), Mai Hắc Đế tiến binh đánh
thành Tống Bình (Hà Nội ngày nay). Thái thú
nhà Đường là Quách Sở Khách cùng đám thuộc
hạ không chống cự lại được, phải bỏ thành chạy
về nước. Lực lượng Mai Hắc Đế lúc đó lên tới
chục vạn quân
[3]
.
Nhà Đường bèn huy động 10 vạn quân do tướng
Dương Thừa Húc và Quách Sở Khách sang đàn
áp. Quân quan nhà Đường tiến theo đường bờ
biển Đông Bắc và tấn công thành Tống Bình.
[1]

Sau nhiều trận đánh khốc liệt, từ lưu vực sông
Hồng đến lưu vực sông Lam, cuối cùng Mai Hắc
Đế thất trận, thành Vạn An thất thủ, nghĩa quân
tan vỡ. Không đương nổi đội quân xâm lược,
Mai Hắc Đế phải rút vào rừng, sau bị ốm rồi mất.
Từ thời điểm đánh chiếm Hoan Châu, lên ngôi
vua, củng cố lực lượng, Mai Thúc Loan đã giải
phóng toàn bộ đất nước và giữ vững nền độc lập
trong 10 năm (713 - 722), không phải cuộc khởi
nghĩa do ông lãnh đạo nổ ra và bị dập tắt ngay

trong cùng một năm 722 như các tài liệu phổ
biến hiện nay
[4]
.
Tương truyền,con trai thứ ba của ông là Mai
Thúc Huy lên ngôi Hoàng Đế tức Mai Thiếu Đế
và tiếp tục chống trả các cuộc tấn công của nhà
Đường tới năm 723.
Tương truyền từ sau cuộc khởi nghĩa này, nhà
Đường không bắt dân An Nam đô hộ phủ nộp
cống vải quả hằng năm nữa
[5]
.
Tưởng nhớ
Đời sau nhớ ơn Mai Hắc Đế, lập đền thờ ông ở
trên núi Vệ Sơn và trong thung lũng Hùng Sơn.
Ngày nay tại địa phận xã Vân Diên, huyện Nam
Đàn có khu di tích tưởng niệm ông. Một bài thơ
chữ Hán còn ghi trong Tiên chân báo huấn tân
kinh để ở đền thờ, ca tụng công đức ông như sau
(bản dịch):
Hùng cứ châu Hoan đất một vùng,
Vạn An thành lũy khói hương xông,
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức,
Trăm trận Lý Đường phục võ công.
Lam Thủy trăng in, tăm ngạc lặn,

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×