Nhà Tiền Lý
Nhà Tiền Lý (chữ Hán:前李朝 (Tiền Lí Triều), 544-602) là một triều đại
trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền Lý
kéo dài 58 năm, tổng cộng 3 đời vua, trong đó có 2 vua họ Lý và 1 vua họ
Triệu cũng được tính gộp vào nhà Tiền Lý, tương tự như Dương Tam
Kha trong nhà Ngô sau đó.
Lý Nam Đế dựng nước Vạn Xuân
Tiểu sử
Lý Bí (503-548) là người Thái Bình, phủ Long Hưng (Sơn Tây). Ông là
người có công đánh đuổi quân đô hộ nhà Lương (thời Nam Bắc triều),
sáng lập ra nhà Tiền Lý. Ông cũng có một người anh là Lý Thiên Bảo.
Tổ tiên Lý Bí là người Trung Quốc, cuối thời Tây Hán khổ về việc đánh
dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam.
Sử chép Lý Bí vốn con nhà hào trưởng, thiên tư lỗi lạc, làm quan không
được vừa ý nên cáo quan về quê, tập hợp nhân tài lo khởi nghĩa.
Đuổi Tiêu Tư
Bấy giờ Việt Nam nằm dưới sự đô hộ của nhà Lương. Thứ sử Giao Châu
là Vũ Lâm hầu Tiêu Tư (cùng họ với vua Lương), vì hà khắc tàn bạo, mất
lòng người. Các nhân tài Việt Nam lúc đó bị bạc đãi nên không hợp tác
với nhà Lương.
Có người là Tinh Thiều giỏi từ chương từng đến Kiến Khang kinh đô nhà
Lương xin được làm quan. Thượng thư bộ Lại nhà Lương là Sái Tôn cho
rằng họ Tinh trước không có ai hiển đạt, nên chỉ bổ cho chức Quảng
Dương môn lang. Thiều lấy làm nhục, trở về làng, theo Lý Bí mưu việc
dấy binh. Lý Bí bấy giờ làm chức Giám quân ở Đức Châu (Hà Tĩnh),
nhân liên kết với hào kiệt mấy châu, đều hưởng ứng. Có Triệu Túc tù
trưởng ở Chu Diên phục tài đức của Lý Bí, bèn dẫn đầu đem quân theo
về.
Thế lực của Lý Bí ngày càng lớn. Năm 542, thứ sử Tiêu Tư biết việc, đem
của đến hối lộ cho ông để mưu thoát thân, rồi chạy về Quảng Châu. Lý Bí
đem quân ra chiếm giữ thành Long Biên.
Đánh đuổi quân Lương và Lâm Ấp
Tháng 12 năm 542, vua Lương sai Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng sang xâm
chiếm. Quýnh lấy cớ là chướng khí mùa xuân đương bốc, xin đợi đến
mùa thu. Bấy giờ Thứ sử Quảng Châu là Tân Dụ hầu Hoán không cho,
Tiêu Tư cũng thúc giục. Bọn Tử Hùng đi đến Hợp Phố, Lý Bí chủ động
đem quân đón đánh tại đây. Quân Lương thua to, 10 phần chết đến 6, 7
phần, quân tan rã mà về. Tiêu Tư tâu vu với vua Lương rằng Quýnh và
Tử Hùng dùng dằng không chịu đi, đều bị buộc phải tự tử.
Tháng 4 năm 543, vua Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, Lý Bí sai lão tướng
Phạm Tu đánh tan ở Cửu Đức.
Dựng nước Vạn Xuân
Đầu năm Giáp Tý 544, Lý Bí nhân thắng quân địch, tự xưng là Nam Việt
đế, đặt niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân, có ý mong xã
tắc lâu dài đến muôn đời. Ông dựng điện Vạn Xuân
[1]
để làm chỗ triều
hội.
Lý Nam đế đặt ra trăm quan, dùng Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều
làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ.
Đó là lần đầu tiên Việt Nam có hoàng đế và niên hiệu Thiên Đức là niên
hiệu riêng đầu tiên để chứng tỏ giành lại độc lập từ tay Trung Quốc.
Cường địch
Tháng 6 năm 545, vua Lương Vũ đế (Tiêu Diễn) phong Dương Phiếu làm
thứ sử Giao Châu, sai đi đánh Lý Nam đế, cử Trần Bá Tiên làm tư mã;
thứ sử Định Châu là Tiêu Bột cùng họp với Dương Phiến ở Tây Giang.
Tiêu Bột biết ý các tướng sĩ sợ phải đi đánh xa, nên nói dối để Dương
Phiếu ở lại. Dương Phiếu tập họp các tướng lại để hỏi mưu kế. Bá Tiên
nói: "Quan thứ sử Định Châu muốn tạm an nhàn trước mắt, không nghĩ
đến mưu kế lớn, túc hạ vâng mạng vua đi đánh kẻ có tội, dù sống chết thế
nào cũng không quản ngại, lẽ nào dùng dằng không tiến quân để nuôi
cho thế giặc thêm mạnh mà làm cho quân mình nản chí hay sao?". Bá
Tiên liền thúc quân mình đi trước. Dương Phiếu cử Bá Tiên làm tiên
phong.
Quân Lương đến Giao Châu, Lý Nam đế mang quân ra đánh bị thua nặng,
chạy sang thành Gia Ninh. Quân Lương tiến vây thành.
Tháng giêng năm 546, thành Gia Ninh vỡ, tướng Phạm Tu và thái phó
Triệu Túc cùng tử trận, Lý Nam đế chạy đi Tân Xương là vùng của người
Lạo. Tại đây, ông chiêu mộ thêm được nhiều binh lính, uy thế lại tăng
lên.
Tháng 8, Lý Nam đế lại đem quân từ trong xứ người Lạo ra, đóng đồn ở
hồ Điển Triệt
[2]
. Quân Lương lo sợ, cứ đóng ở cửa hồ, không dám tiến.
Trần Bá Tiên bảo các tướng: "Quân ta ở đây đã lâu, mà lại không có
quân tiếp viện. Bây giờ đã đi sâu vào trong nước người ta, nếu một trận
đánh nào bất lợi, còn mong gì sống mà về được nữa? Chi bằng bây giờ
nhân dịp quân địch đang thua luôn mấy trận, lòng người chưa cố kết, ta
nên liều chết gắng sức quyết đánh bằng được. Nếu vô cớ cứ đóng ở đây
thì việc hỏng mất!". Các tướng nhà Lương không ai trả lời. Đêm hôm ấy,
nước sông bỗng lên to đến bảy thước, chảy rót vào trong hồ. Bá Tiên đốc
thúc quân bản bộ mình theo dòng nước tiến đi trước. Quân Lương đánh
trống, reo hò, kéo tràn vào. Quân Lý Nam đế mới tập hợp bị đánh úp nên
tan vỡ.
Lý Nam đế lại rút lui về giữ trong động Khuất Lạo, điều chỉnh tinh lính,
mưu tính chiến đấu về sau. Ông giao lại binh quyền cho tả tướng quân
Triệu Quang Phục.
Triệu Việt Vương đánh đuổi quân Lương
Dạ Trạch vương
Triệu Quang Phục cầm cự với Trần Bá Tiên, chưa phân thắng bại. Nhưng
quân của Bá Tiên rất đông, Bá Tiên lại là mãnh tướng của nhà Lương.
Triệu Quang Phục liệu thế không thể dùng sức thắng được địch bèn lui về
giữ đầm Dạ Trạch
[3]
ở huyện Chu Diên, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở
giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi,
chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới
có thể đến được. Nhưng nếu không quen biết đường lối thì lạc không biết
là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết.
Triệu Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào
đóng ở nền đất trong đầm. Ban ngày, ông ra lệnh tuyệt không để khói lửa
và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại
của quân Bá Tiên, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm
kế cầm cự lâu dài. Bá Tiên đuổi theo hút mà đánh, nhưng không thể tiến
sâu vào trong đầm lầy được, nên đành rút quân. Người trong nước gọi
ông là Dạ Trạch Vương.
Anh Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo cùng với tướng người họ là Lý Phật Tử
đem 3 vạn người vào Cửu Chân. Trần Bá Tiên đuổi theo đánh, Thiên Bảo
bị thua, bèn thu nhặt quân còn sót được vạn người chạy sang đất người Di
Lạo ở Ai Lao.
Triệu Việt vương, Đào Lang vương
Tháng 3 năm 548, nghe tin Lý Nam Đế mất trong động Khuất Lão, Triệu
Quang Phục tự xưng là Triệu Việt Vương. Trần Bá Tiên vây đánh nhiều
lần không được.
Lý Thiên Bảo thấy động Dã Năng ở đầu nguồn Đào Giang, đất phẳng
rộng màu mỡ có thể ở được, Lý Thiên Bảo mới đắp thành để ở, nhân tên
đất ấy mà đặt quốc hiệu. Đến bây giờ quân chúng tôn làm chúa, xưng là
Đào Lang vương.
Tháng 1 năm 550, nhà Lương cho Trần Bá Tiên làm Uy minh tướng quân
Giao Châu thứ sử. Bá Tiên lại mưu tính cầm cự lâu ngày khiến cho Triệu
Việt Vương lương hết quân mỏi thì có thể phá được. Gặp lúc bên nước
Lương xảy ra loạn Hầu Cảnh, nhà Lương, gọi Bá Tiên về
[4]
, ủy quyền cho
tì tướng là Dương Sàn cầm quân.
Triệu Việt Vương nhân lúc quân Lương không còn tướng giỏi, tung quân
ra đánh. Sàn mang quân chống cự, bị thua chết. Quân Lương tan vỡ chạy
về Bắc. Triệu Việt Vương lấy lại được nước Vạn Xuân, đóng đô ở thành
Long Biên.
Truyền thuyết kể rằng:
Triệu Quang Phục ở trong đầm thấy quân Lương không lui, mới đốt
hương cầu đảo, khẩn thiết kinh cáo với trời đất thần kỳ. Thần nhân
trong đầm là Chử Đồng Tử bấy giờ cưỡi rồng vàng từ trên trời rơi
xuống, rút móng rồng trao cho ông, bảo gài lên mũ đâu mâu mà
đánh giặc. Từ đó quân thanh lừng lẫy, đến đâu không ai địch nổi.
Xét ra truyền thuyết trên cũng như những truyền thuyết khác, có thể do
chính Triệu Quang Phục nghĩ ra để tăng thêm lòng tin tưởng của quân sĩ
vào chiến thắng, như truyện Điền Đan sắp phá Yên cử người giả làm
quân sư giỏi để dân chúng tin tưởng cố sức đánh giặc.
Lý Phật Tử giành nước rồi mất nước
Chia đôi bờ cõi
Triệu Việt Vương làm vua ở thành Long Biên. Lý Thiên Bảo làm Đào
Lang Vương ở nước Dã Năng. Năm 555, Thiên Bảo chết không có con
nối, quân chúng suy tôn người cháu trong họ là Lý Phật Tử lên nối ngôi.