Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Tài liệu Đề tài " Các loại bằng chứng kiểm toán và phương pháp kỹ thuật thu thập bng chứng kiểm toán " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.65 KB, 44 trang )

















Luận Văn



Đề Tài: Các loại bằng chứng kiểm toán và
phương pháp kỹ thuật thu thập bng chứng
kiểm toán







1


A. LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc mở cửa
hội nhập về kinh tế - xã hội là điều mà rất nhiều người đang hướng tới. nhưng
ngoài những mặt tích cực rất rõ nét của chúng. Nó còn để lại ở đây những
nguy cơ vô cùng to lớn: Đó là tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế. Nó có
thể ảnh hưởng đến sự tồn vong của cả một quốc gia. Do đó Đảng và Nhà
nước ta đã xác định việc đấu tranh chống tham nhũng và tụt hậu xa hưn về
kinh tế là vấn đề hết sức khó khăn và nó có ảnh hưởng rất lớn đối với việc
phát triển kinh tế đất nước ta.
Với tham nhũng, được nhân dân Việt Nam coi là quốc nạn, là một nguy
cơ làm tàn hại đất nước. Đây là một căn bệnh của xã hội loài người. Nó xảy ra
ở những quốc gia và khu vực rất khác biệt về hệ tư tưởng, lịch sử, văn hoá,
chế độ chính trị, xã hội.
Còn việc tụt hậu xa hơn về kinh tế, đây cũng là vấn đề rất nan giải và là
bài toán khó cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình bắt kịp với
đà phát triển của nền kinh tế thế giới. Từ những năm 1975, nước ta đi theo
con đường kế hoạch hoá tập trung. Nhưng nhìn thấy mặt tiêu cực của nó,
Đảng và Nhà nước ta đã đưa nước ta phát triển theo kinh tế thị trường và có
những thành tựu đáng kể. Nhưng để bắt kịp được với đà phát triển của thế
giới thì đó là cả vấn đề cực kỳ khó khăn.
Vì vậy, việc tìm hiểu và các biện pháp phòng chống về tham nhũng
và vấn đề tụt hậu xa hơn về kinh tế đã trở thành vấn đề trung tâm thu hút sự
chú ý của cộng đồng thế giới hiện nay.
Với đề tài này, em viết để nắm bắt về thực trạng vấn đề của đất nước và
các biện pháp, giải pháp phát triển kinh tế nước ta. Em xin chân thành cảm ơn
thầy.

2
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: THAM NHŨNG VÀ TỤT HẬU XA HƠN VỀ KINH TẾ


1.1. NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI VÀ SỰ GIA TĂNG CỦA NẠN THAM NHŨNG
1.1.1. Tham nhũng
1.1.1.1. Khái niệm về tham nhũng
Tham nhũng là hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với sự hình thành
giai cấp và sự ra dời và phát triển của bộ máy Nhà nước. Tệ nạn tham nhũng
diễn ra ở tất cả các quốc gia không kể giàu nghèo, đang ở trình độ phát triển
như thế nào. Nó xảy ra ở mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá nó tồn tại và
phát triển thường xuyên hàng ngày hàng giờ, nó len lỏi vào mọi mặt đời sống
xã hội và đụng chạm tới lợi ích của hầu hết dân cư. Tham nhũng là một căn
bệnh nguy hiểm, nó gây ra các hậu quả hết sức tai hại về mặt kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội, nó cản trợ sự phát triển đi lên của xã hội. Và có thể dẫn
đến sự sụp đổ của cả một thể chế. Và nhìn từ góc độ pháp luật: Điều 1, pháp
lệnh chống tham nhũng quy định "Tham nhũng là hành vi của người có chức
vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố
làm trái ý với pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản nhà nước
và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức.
1.1.1.2. Nguyên nhân của tham nhũng
Những năm gần đây tình hình tham nhũng ở nước ta diễn biến hết sức
phức tạp. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, chính sách
pháp luật để đấu tranh kiên quyết với hiện tượng này, song tham nhũng cũng
chưa có nhiều thuyên giảm. Để đấu tranh có hiệu quả với tình trạng này, một
trong các vấn đề được quan tâm hàng đầu đó là tìm được các nguyên nhân
làm phát sinh tham nhũng và tìm các biện pháp khắc phục, loại trừ những
nguyên nhân đó. Trước hết phải khẳng định ràng, hệ thống pháp luật và cơ
chế áp dụng nó có ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng tham nhũng. Hay nói cách
khác tình trạng tham nhũng ở một quốc gia tại một thời điểm xác định phản

3
ánh mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật cũng như thực trạng áp dụng

pháp luật. Từ đó ta có thể nhìn ra các nguyên nhân sau:
- Thứ nhất: Nguyên nhân đầu tiên có tính sâu xa, bản chất là do chế độ
người bóc lột người sinh ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Tham ô, lãng phí,
quan liêu là những xấu xa của xã hội cũ. Nó do lòng tự tư tự lợi, ích kỷ hại
dân mà ra, nó do chế độ người bóc lột người sinh ra".
- Thứ hai: đó là do bản chất của cơ chế thị trường, của việc tự do hoá
cạnh tranh tạo ra.
- Thứ ba: Sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của bộ phận không nhỏ
cán bộ Đảng viên và sự yếu kém của công tác quản lý, giáo dục đào tạo cán
bộ đảng viên của các tổ chức Nhà nước và Đảng.
Trước đây, trong cơ chế cũ tập trung, quan liêu bao cấp đã có tham
nhũng nhưng ở phạm vi hẹp hơn và mức độ thấp hơn. Từ khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu với bên ngoài, do tác động bởi yếu tố vật
chất của cơ chế đó và do không chịu thường xuyên rèn luyện tu dưỡng nhiều
cán bộ đảng viên, công chức đã sa ngã, thoái hoá, chạy theo lối sống chủ
nghĩa cá nhân, bị lợi ích vật chất cám dỗ, sống đồi truỵ xa hoa, đã trượt vào
cùng bùn tham nhũng, tội lỗi. Trong khi đó công tác quản lý, giáo dục kiểm
tra cán bộ Đảng, cán bộ và công chức bị buông lỏng, yếu kém, không chuyển
kịp trước tình hình mới.
- Thứ tư: Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa đầy đủ, thiếu sự đồng bộ,
chưa thực sự chuyển mạnh sang cơ chế thị trường.
Mặc dù nước ta đã trải qua hàng chục năm đổi mới, nhưng chúng ta
chưa xây dựng được một hệ thống cơ chế, chính sách quản lý kinh tế vĩ mô
đồng bộ và hoàn chỉnh phục vụ cho sự nghiệp đổi mới.
- Thứ năm: Sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng và Nhà nước có lúc, có nơi
còn thiếu sâu sát, chặt chẽ, chưa quyết tâm cao, cơ chế tổ chức và giải pháp
phòng ngừa tham nhũng chưa hiệu quả.

4
Tuy Đảng và Nhà nước có nhiều chỉ thị, nghị quyết về phòng, chống,

tham nhũng nhưng việc triển khai cụ thể chưa bàn kỹ, thiếu những giải pháp
có hiệu quả, tổ chức chỉ đạo chưa chặt chẽ.
Tóm lại, tình trạng tham nhũng phổ biến và nghiêm trọng ở nước ta xét
về mặt chủ quan là hệ quả tổng hợp của 5 nguyên nhân trên, trong đó nguyên
nhân về sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên là nguyên nhân chủ yếu.
1.1.1.3. Sự gia tăng hơn của nạn tham nhũng
Ở vào thời điểm mở đầu của thiên niên kỷ mới, hầu hết tất cả các nước
trên thế giới, không phân biệt giàu nghèo, phát triển hay đang phát triển phải
đối diện một cách gay gắt với căn bệnh nan y nhức nhối, đó là nạn tham
nhũng. Ở nhiều nước, tham nhũng đã trở thành quốc nạn, không chỉ gây
những hiệu quả to lớn về mặt kinh tế mà còn để lại những hậu quả xã hội
nặng nề, làm băng hoại đến nền tảng đạo đức và tinh thần xã hội. Với quy mô
rộng lớn, tính chất phức tạp và nhiều tác dụng tiêu cực mang tính đa chiều của
nó, tham nhũng đang thực sự nổi lên như một đại dịch - một vấn đề mang tính
toàn cầu xuyên thế kỷ. Bởi vậy cuộc chiến chống tham nhũng đòi hỏi những
nỗ lực to lớn và kiên quyết không chỉ trên phạm vi một quốc gia mà cả sự
phối hợp trên quy mô toàn cầu. Theo đánh giá của ngân hàng phát triển châu
Á (ADB), tham nhũng đang có xu hướng gia tăng tại nhiều châu lục, ở nhiều
nước số thiệt hại do tham nhũng gây ra vượt quá tổng số nợ nước ngoài của
họ. Nhiều nước Đông Nam Á vốn đã phải gồng mình vật lộn với cơn bão táp
khủng hoảng tài chính - tiền tệ lại phải đương đầu với sự tàn phá không kém
của tệ nạn tham nhũng, hối lộ và rửa tiền, khiến cho công cuộc phục hưng
kinh tế đang trở ngại lại càng thêm phần gian nan.
Đối với Việt Nam, Đảng và Chính phủ ta luôn khẳng định chống tham
nhũng một cách kiên quyết và triệt để. Nhằm làm trong sạch bộ máy đảng,
chính quyền và đoàn thể. Báo cáo Chính trị Ban chấp hành TW Đảng khoá
VIII, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục nhấn mạnh

5

tham nhũng quan liêu là một trong những nguy cơ không thể xem thường.
Với sự gia tăng của tệ nạn tham nhũng hiện nay thì cuộc đấu tranh chống
tham nhũng phải được tiếp cận như là cuộc đấu tranh loại trừ một quốc nạn
nguy hiểm. Và trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay, Đảng cũng
dành sự quan tâm đặc biệt đến việc giải quyết vấn nạn này. Văn kiện Đại hội
IX ĐCSVN nêu rõ: "Hiện nay, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đang hết sức
quan tâm đến cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Nạn tham nhũng diễn ra
nghiêm trọng kéo dài gây bất bình trong nhân dân và là một nguy cơ lớn đe
doạ sự sống còn của chế độ ta. Phải tăng cường về tổ chức và cơ chế, tiếp tục
đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và toàn
bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ TW đến cơ sở?
1.1.2. Tụt hậu xa hơn về kinh tế, mặt yếu kém của sự phát triển
Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang
nền kinh tế thị trường trong bối cảnh kinh tế - chính trị thế giới đang trong
quá trình cơ cấu lại một cách sâu sắc. Hơn nữa, Việt Nam nằm trong khu vực
châu Á với nền văn minh Trung Hoa đặc sắc và có sự phát triển kinh tế năng
động nhất trong thập kỷ qua. Liệu Việt Nam có phát triển vượt lên được theo
con đường phương Đông, con đường Việt Nam riên của mình hay không?
So với nhiều nước trong khu vực, sự phát triển của Việt Nam đang bị
chậm vài thập kỷ, Việt Nam đã bị tụt hậu khá xa về kinh tế, là một trong
những nước nghèo nhất thế giới và có nguy cơ tụt hậu mạnh hơn nữa nếu
không có một đường lối, chiến lược thông minh và có một quyết tâm cao.
Đó là sự nhìn nhận với nền kinh tế Việt Nam. Còn nhìn vào sự tụt hậu
xa hơn về kinh tế giữa các nước trên thế giới. Với xu thế càng ngày càng phát
triển hiện nay thì khoảng cách giữa các nền kinh tế, các nước ngày càng được
gia tăng. Song, có không ít những thăng trầm trong mỗi giai đoạn phát triển
của lịch sử. Với điểm xuất phát rất cao, các cường quốc như Anh, Pháp, Mỹ,
Đức, Nhật Bản (các nước phát triển) rất thuận lợi. Trong quá trình phát triển
kinh tế nhưng với điểm xuất phát thấp như Việt Nam, Lào, Campuchia và một


6
số nước châu Phi, châu Mỹ (các nước chậm và kém phát triển) thì việc phát
triển kinh tế là vấn đề rất nan giải. Trong những năm 90, thế giới đã chứng
kiến sự thay đổi lớn lao chưa từng có kể từ đầu thế kỷ đến nay. Sự kiện nổi
bật nhất là sự sụp đổ của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội Xô viết, kéo
theo đó là sự sụp đổ của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa. Tác động của những sự
kiện đó đối với nền kinh tế thế giới rất to lớn, chúng đã, đang và sẽ diễn ra có
thể cho đến nay chúng ta vẫn chưa lường trước được.
Thực vậy, trong thập kỷ 90 chiều hướng giảm sút nhịp độ tăng kinh tế
toàn cầu có thể tiếp tục. Bảng số liệu mức tăng tổng sản phẩm xã hội (% so
với năm trước) sau đây cho ta rõ chiều hướng giảm sút đó.
Nước 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992
- Các nước XHCN trước đây 2,9 2,0 4,1 1,3 -2,2 -9,7 -16,8
- Các nước phát triển 2,7 3,3 4,4 3,3 2,9 1,6 1,0
- Các nước đang phát triển 2,6 2,9 3,7 4,4 3,3 3,2 3,0

Theo đánh giá của cơ qua dự báo quốc tế, trong những năm tới, mức
tăng tổng thu nhập quốc dân của hầu hết các nước phát triển đều chỉ đạt 0,1%
còn ở một số nước khác là âm còn mức tăng trưởng của các nước đang phát
triển và kém phát triển còn tồi tệ hơn nữa. Từ đó cho thấy, ngay trong những
giai đoạn suy sụp nhất của nền kinh tế thế giới, nhưng các nước phát triển vẫn
giữ được mức tăng trưởng dương dù là nhỏ. Còn các nước khác là âm. Từ đó
cho thấy khoảng cách (hay tụt hậu xa hơn về kinh tế) giữa các nước trên thế
giới là không thể tránh khỏi.
1.2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA
1.2.1. Thực trạng của tham nhũng
Từ trước đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng phòng, chống
tham nhũng. Ngay từ năm 1945 sau khi dành được chính quyền, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chăm lo giáo dục cán bộ, đảng viên nâng cao đạo đức cách
mạng, thực hành "cần kiệm, liêm chính". Người đã chỉ rõ : Tham ô lãng phí,


7
quan liêu là giặc "nội xâm". Trong thời kỳ xây dựng XNXH ở miền Bắc.
Đảng ta đã tiến hành cuộc vận động "3 xây, 3 chống". Bước vào công cuộc
đổi mới, Đại hội Đảng VI của Đảng đã yêu cầu tiến hành cuộc vận động làm
trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của cán bộ bộ máy nhà nước, đẩy lùi
và xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm lành manh hoá các quan hệ xã hội. Bộ
chính trị đã có Nghị quyết số: 04/NQ/TW (12-9-1987) để chỉ đạo cuộc vận
động này. Sau đó Ban bí thư đã có chỉ thị số: 64-CT và Hội đồng Bộ trưởng
có quyết định số: 240/HĐBT (26-6-1990) về đấu tranh chống tham nhũng:
Đại hội VIII trong Văn kiện Đại hội ghi rõ nội dung của nhiệm vụ đấu tranh
chống tham nhũng. Tháng 2-1998, Uỷ ban thường vụ quốc hội đã thông qua
Pháp lệnh chống tham nhũng. Tháng 2-1999 Hội nghị TW 6 (lần 2) khoá VIII
đã đề ra nghị quyết về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đại hội Đảng IX (tháng
4-2001) đã quyết định thực hiện nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị
quyết TW 6 (lần 2) khoá VIII, tập trung làm tốt công tác giáo dục chính trị,
rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, đẩy mạnh cuộc đấu
tranh chống tham nhũng. Tháng11-2001 Hội nghị trung ương lần thứ 4 (khoá
IX) đã ra kết luận số: 04/KL-TW về tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, lãng phí. Kết
luận của Trung ương đã xác định chống tham nhũng lãng phí là nhiệm vụ
trước mắt, đồng thời cần nhận rõ đây là cuộc đấu tranh khó khăn, quyết liệt
lâu dài, gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong quá trình thực hiện chủ trương chống tham nhũng của Đảng và
Nhà nước, các tổ chức, chính quyền đoàn thể TW - địa phương đã bền bỉ, tích
cực đấu tranh và đạt được một số kết quả như: Đã phát hiện và xử lý được
nhiệm vụ tham nhũng, trừng trị nghiêm khắc những kẻ đục khoét tài sản của
Nhà nước, tập thể và của dân; thu hồi lại cho nhà nước và trả lại cho dân một
giá trị tài sản rất lớn, đã xây dựng và hoàn thiện nhiều cơ chế chính sách quản
lý có tác dụng hạn chế một phần tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng. Những

việc đó đã góp phần vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ

8
máy Nhà nước, đảm bảo an ninh chính trị xã hội đất nước. Mặc dù có những
cố gắng quyết tâm nhưng cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta đạt kết
quả còn thấp, hiệu quả rất hạn chế. Có nhiều lĩnh vực và thậm chí ngày càng
nghiêm trọng hơn trước. Tham nhũng xảy ra rộng khắp trong bộ máy nhà
nước, ở hầu hết các ngành các cấp từ trên xuống dưới với quy mô ngày càng
lớn, thủ đoạn ngày càng tinh vi xảo quyệt hơn. Đã có nhiều doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân thua lỗ, phá sản vì tệ nạn tham nhũng. Tệ nạn
tham ô, ăn cắp của công, cố ý làm trái vì động cơ vụ lợi cá nhân, báo cáo sai
sự thật để thanh quyết toán khống, bòn rút công quỹ trong các lĩnh vực để làm
giàu bất chính, lạm dụng chức quyền để nhũng nhiễu… đã lan rộng khắp các
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, thương binh xã hội. Tham nhũng đã
xâm nhập ngay vào các cơ quan bảo vệ, pháp luật, là những công cụ chủ yếu
trong đấu tranh chống tham nhũng và giữ gìn an ninh trật tự, xã hội.
Một câu hỏi được đặt ra: Vì sao tham nhũng lại diễn ra phổ biến và
nghiêm trọng như vậy? Mặc dù Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều chỉ thị,
Nghị quyết, đã tiến hành nhiều cuộc vận động lớn, đã chỉ đạo xử lý nhiều vụ
rất nghiêm khắc, mặc dù bị cả xã hội lên án, ai ai cũng căm ghét phẫn nộ,
nhưng tệ nạn tham nhũng chưa bị đẩy lùi, ngăn chặn, thậm chí còn phát triển
hơn, nghiêm trọng hơn.
Trước câu hỏi này đặt ra rất nhiều vấn đề như cơ chế chính sách chưa
hoàn thiện, còn sơ hở, về đời sống khó khăn, lương thấp, có người cho rằng vì
phẩm chất đạo đức suy thoái, công tác giáo dục đào tạo cán bộ đảng viên
kém, người thì cho rằng các nhà lãnh đạo không gương mẫu, chưa chống đều
khắp từ trên xuống dưới, công tác điều tra còn bị coi nhẹ, kém hiệu quả, việc
xử lý các vụ tham nhũng chưa nghiệm… Theo báo cáo của Chính phủ tại kỳ
họp thứ 10 khoá IX đã phát hiện và xử lý trên 500 vụ tham nhũng với tổng số
tài sản thiệt hại trên 1,2 tỷ đồng và 34 triệu USD. Đặc biệt năm 1996 ta đã

phát hiện 10 vụ tham nhũng lớn trên 100 tỷ đồng/vụ. Theo báo cáo của Chánh
án Toà án Nhân dân tối cao trước Quốc hội, từ năm 1992 - 1997 toà án xét xử

9
3621 vụ tham nhũng với 6315 bị cáo, trong đó có 64,5% số bị cáo bị tù, 10
tên bị tuyên phạt tử hình. Và đến nay vẫn liên tiếp xảy ra các vụ án lớn
nghiêm trọng gây thiệt hại lớn đến tiền của của Nhà nước và nhân dân, gây
mất ổn định về kinh tế xã hội. Tiêu biểu như việc phát hiện thu hồi về cho
Nhà nước hàng nghìn tỉ đồng, hàng chục ngàn héc ta đất, cùng nhiều tài sản
có giá trị khác, xử lý hàng chục nghìn cán bộ sai phạm, công chức sai phạm
như EPCO - Minh Phụng; Tân Trường Sanh; Nhà máy dệt Nam Định. Gần
đây tiếp tục làm rõ các vụ án lớn như: Công ty thương mại Đồng Tháp; Công
ty lương thực an Giang; Công ty dược xuất nhập khẩu Cà Mau, vụ Năm
Cam… cũng đã có tác dụng phòng ngừa, răn đe giáo dục mọi người trong
cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
1.2.2. Những vấn đề tồn tại
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định, quan liêu tham nhũng là những hiện
tượng xã hội gắn liền với sự hình thành xã hội có giai cáp và sự ra đời và phát
triển của bộ máy Nhà nước… Chúng là những căn bệnh đồng hành đặc trưng
của mọi nhà nước, là khuyết tật bẩm sinh của quyền lực, là biểu hiện của sự
tha hoá "quyền lực nhà nước", tệ nạn tham nhũng, quan liêu diễn ra ở tất cả
các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị xã hội, không kể quốc gia đó
giàu nghèo, ở trình độ phát triển thấp hay cao. Chúng len lỏi vào mọi mặt của
đời sống xã hội, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, làm xói
mòn đạo đức, phẩm chất con người, gây ra sự cản trở đi lên và phát triển của
xã hội. Tuy nhiên, hình thức, tính chất và mức độ quan liêu, tham nhũng
không mang tính cố định, bất biến mà thay đổi tuỳ thuộc vào bối cảnh kinh tế
chính trị xã hội và trình độ dân trí, khả năng quản lý xã hội của Nhà nước.
Với việc tham nhũng ngày càng gia tăng, và có quy mô ngày càng lớn
như hiện nay. Và với các biện pháp phòng ngừa đang dần dần có hiệu quả.

Nếu như những yếu tố của các chiến dịch chống tham nhũng thành công cho
đến nay đã được hiểu tương đối đầy đủ, thì việc thực hiện và duy trì chúng lại
cực kỳ khó khăn. Bất kỳ yếu tố nào cũng đều có thể góp phần đưa chúng đến

10
chỗ thất bại. Hơn nữa, những nơi mà tham nhũng hoành hành và ăn sâu vào
toàn bộ bộ máy chính phủ, thì các cơ hội để bắt đầu cải cách sẽ rất hiếm hoi
và hàng loạt cản trở sẽ xuất hiện.
Thêm vào đó, áp lực cải cách bắt nguồn từ những đẳng cấp thấp hơn
trong bộ máy quan liêu có thể bị cản trở do sự thiếu vắng ý chí hay sự quan
tâm chính trị trong những công chức ở cấp cao hơn và các quan chức chính
trị. Tại bất cứ trong tiến trình này, sự thiếu vắng một cam kết từ cấp cao nhất
hay tầng thấp nhất đều có thể thực sự phá hỏng những nỗ lực cải cách. Hơn
nữa, cải cách có thể bị đe doạ nếu như, một nhân vật có thế lực không tuân
thủ hay một công chức làm chậm tiến độ của nó.
Cũng như những nỗ lực cải cách phải được sự hỗ trợ rộng rãi, chúng
phải được hướng vào tất cả những người liên quan và hưởng lợi từ tham
nhũng. Những chiến dịch nhằm vào những người vi phạm lặt vặt, hay xử lý
chẳng hạn, một vài thành viên trong những phần tử có thế lực, mà không xử
lý tham nhũng một cách có hệ thống thì sẽ mau chóng làm mất hết hợp pháp
và tạo ra những tấm gương có sức khuyến khích những hành động sai trái tiếp
diễn trong toàn thể các thành viên của xã hội. Cải cách cũng có thể kém hiệu
quả nếu được tiến hành một cách vô tổ chức, phối hợp kém, có tính đột xuất,
hoặc nếu việc dựa quá nhiều vào luật pháp và cưỡng chế sẽ dẫn đến tình trạng
nguy cơ tham nhũng lớn nhất. Cán bộ luật cần giữ một vai trò quan trọng
trong việc xử phạt những kẻ vi phạm, song chúng cần được bổ sung bằng
những cuộc vận động nâng cao nhận thức của dân chúng bằng giáo dục và cải
cách trên diện rộng.
1.2.3. Tác hại của tham nhũng với phát triển kinh tế
Tham nhũng sinh ra hàng loạt tác hại cho xã hội. Tham nhũng gây tổn

hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội, kéo lùi sự phát triển theo
quy mô và mức độ gây hại của nó. Chỉ riêng tổng thóng Môbutu của nước
Công gô với số tiền tham nhũng trong các năm cầm quyền lên tới 9 - 10 tỷ
USD đã bằng70% số nợ nước ngoài của nước này.
Nó làm giảm lòng tin của công dân đối với bộ máy và công chức, viên
chức của bộ máy nhà nước, triệt tiêu động lực cơ bản nhất của sự phát triển.

11
Điều này đã được V.I. Lênin khuyến cáo. Nếu có cái gì đó có thể tiêu diệt
được chủ nghĩa xã hội thì đó là tham nhũng quan liêu. Đây cũng là bài học
hàng đầu mà Đảng ta rút ra tại Đại hội lần thứ VI của Đảng, đó là bài học lấy
dân làm gốc, dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra.
Tham nhũng sẽ làm "tầm thường hoá" hệ thống pháp luật của nhà nước,
kỷ cương xã hội không thể giữ vững và là cơ hội cho kẻ thù phá hoại xâm
lược. Nếu các nhà hàng pháp mà tự mình phá bỏ luật pháp thì làm sao có thể
duy trì được phép nước. Những kẻ tham nhũng chính là những tên đầu trò
trong việc làm tê liệt hệ thống hành pháp: làm cho nhà nước trở thành đối lập
và là gánh nặng cho công dân. Tham nhũng tất yếu sẽ dẫn đến phá hoại đội
ngũ cán bộ nhà nước bởi vì những kẻ tham nhũng sẽ lừa dói và hủ hoá cấp
trên, làm cho bộ máy nhà nước trở thành quan liêu, chúng sẽ tăng cường đưa
thêm kẻ xấu vào guồng máy và triệt hại đội ngũ viên chức tốt. Những kẻ tham
nhũng chính là những tên phá hoại từ bên trong của hệ thống hành chính quốc
gia. Tham nhũng là căn bệnh mãn tính của nhiều quốc gia, khi các viên chức
xấu đã mất lương tri và đạo đức của mình. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng ta
cũng một lần nữa khẳng định: Nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp
quan hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị. Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta đã có các biện pháp khắc phục song hiệu quả còn thấp. Phải tién hành đấu
tranh kiên quyết, thường xuyên và hiệu quả chống tham nhũng trong bộ máy
nhà nước, những biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược
nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác

quản lý, khắc phục sơ hở, vừa xử lý nghiêm kịp thời mọi vi phạm, tội phạm,
huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh. Làm ngăn chặn, đẩy
lùi và loại trừ tham nhũng. Thủ trưởng các cơ quan đơn vị chủ chốt các cấp
phải gương mẫu đi đầu trong đấu tranh chống tham nhũng, trước hết là đối
với bản thân. Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền với đấu tranh chống
buôn lậu, lãng phí, quan liêu, tập trung vào các hành vi tham ô, chiếm đoạt
làm thất thoát tài sản nhà nước, đòi hối lộ, đưa và nhận hối lộ.

12

Tham nhũng
Tài nguyên
Chức quyền Tài sản khác
Trong
nước
Ký kết móc
ngoặt với nước
ngoài
Đất
đai
Phá hoại công
trình di tích
Tiền
Thông
tin
Phương
tiện làm
việc

13

CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ TỤT HẬU XA HƠN VỀ KINH TẾ Ở NƯỚC TA

2.1. CÁC VẤN ĐỀ CỦA TỤT HẬU KINH TẾ
Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang
nền kinh tế thị trường trong bố cảnh kinh tế - chính trị thế giới đang trong quá
trình cơ cấu lại một cách sâu sắc. Hơn nữa, Việt Nam nằm trong khu vực châu
Á với nền văn minh Trung Hoa đặc sắc và có sự phát triển kinh tế năng động
nhất trong mấy thập kỷ qua. Liệu Việt Nam có phát triển vượt lên theo con
đường phương Đông, con đường Việt Nam riêng có của mình hay không?
So với nhiều nước trong khu vực, sự nghiệp phát triển của Việt Nam bị
chậm vài thập kỷ. Việt Nam đã bị tụt hậu khá xa về kinh tế, là một trong
những nước nghèo nhất thế giới và có nguy cơ sẽ còn tụt hậu mạnh hơn nữa
nếu không có đường lối, chiến lược thông minh và một quyết tâm cao.
Nước và lãnh
thổ
Năm xuất phát
cất cánh
Dân số (Triệu
người)
GN1* (tỷ
USD)
GDP/người
USD
Đài Loan 1960 11 11 1000
Hàn Quốc 1960 25 18 700
Thái Lan 1960 26 8 300
Inđônêxia 1967 111 17 150
Việt Nam 1990 66 10-14 150-200

Bảng I: So sánh xuất phát điểm kinh tế của Việt Nam và một số nước

và lãnh thổ trong khu vực
Để tránh tụt hậu, chắc chắn Việt Nam phải hội nhập vào cộng đồng thế
giới, nhưng hội nhập thế nào, theo hướng nào, theo phương thức nào, tiếp thu
cái gì là một vấn đề lựa chọn mang tính quyết định. Trong khi đang tiếp tục
tiến hành mới và phát triển kinh tế Việt Nam phải đối mặt với chính mình với
quá khứ và di sản của mình.

14
Khi đất nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa thực chất là một cuộc giải phóng xã hội lần thứ 2, theo đó mỗi
tiềm năng của môi cá nhân, mỗi tổ chức kinh tế, xã hội, mỗi địa phương và
vùng lãnh thổ được "giải phóng". Sự kết nối, tác động tương hỗ giữa chúng sẽ
được thực hiện thông qua một cơ chế mới là cơ chế thị trường kết hợp với các
chuẩn mực đạo đức, văn hoá và xã hội mang bản sắc Việt Nam.
Trên một thập kỷ qua, công cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
đa đưa đất nước ta thoát khỏi sự khủng hoảng kinh tế xã hội, đạt được sự tăng
trưởng cao và liên tục từ năm 1991, đời sống nhân dân đã ngày được cải
thiện, nhiều mặt của đời sống xã hội đã được thay đổi tích cực; nền kinh tế đã
được mở cửa với thế giới gúp Việt Nam sử dụng được các lợi thế so sánh của
mình có được nguồn tăng trưởng quan trọng bên ngoài… Tuy nhiên, cũng đã
xuất hiện nhiều vấn đề mới khiến chúng ta phải suy ngẫm. Các quan hệ kinh
tế thị trường một mặt phá vỡ những cơ cấu và cơ chế kìm hãm phát triển,
nhưng mặt khác cũng gây ra những vấn đề mới, mặt tiêu cực, mặt trái cần
phải được xem xét và xử lý.
2.2. NGUYÊN NHÂN CỦA TỤT HẬU XA HƠN VỀ KINH TẾ
Kể từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) đã lãnh đạo nhân dân
ta vượt qua hết các khó khăn này tới khó khăn khác. Nhân dân ta đã đánh bại
tên thực dân Pháp, đế quốc Mỹ… để xây dựng lên nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Và kể từ khi đất nước được hoàn toàn giải phóng Đảng lại lãnh đạo
nhân dân ta trong công cuộc phát triển kinh tế. Song, ngoài những thành tựu

rất đáng kể, chúng ta còn có những khó khăn riêng. Đó là sự tụt hậu hơn so
với đà phát triển của thế giới. Mà sự tụt hậu này ngoài những nguyên nhân
chủ quan, còn có những nguyên nhân khách quan của nó.
Thứ nhất, do hậu quả của 2 cuộc chiến tranh kéo dài đã tàn phá những
thành tựu của dân tộc ta. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã phải chống đỡ với
rất nhiều khó khăn: khó khăn về đất nước mất chủ quyền, và nền kinh tế bị
lạm phát và Đảng và nhân dân ta đã phải gồng mình chống đỡ. Năm 1954 thì

15
miền Bắc mới hoàn toàn giải phóng để đi lên phát triển kinh tế, nhưng miền
Nam vẫn bị đô hộ của đế quốc Mỹ. Do đó lúc bấy giờ việc quan trọng nhất là
giải phóng miền Nam. Và khi đó miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
với các khẩu hiệu: "Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "tất cả vì miền Nam
thân yêu". Nhưng không chỉ đơn thuần phát triển kinh tế, miền Bắc cũng phải
chịu những cuộc rải thảm bằng bom rất ác liệt, nó được ví như "Điện Biên
Phủ trên không", đế quốc Mỹ đã ném xuống miền Bắc hàng triệu tấn bom để
ngăn cản miền Bắc đi lên và sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Khi đó
hàng trăm ngàn tấn bom đạn của Mỹ đã tàn phá rất nhiều những thành tựu của
miền Bắc, nhưng không vì thế mà miền Bắc không phát triển, không viện trợ
cho miền Nam ruột thịt. Miền Bắc vẫn phát triển và ngày càng viện trợ nhiều
về người và tài sản cho miền Nam. Và đến năm 1975 đã chứng kiến cuộc một
nước thuộc địa nhỏ đã đánh bại một tên trùm đế quốc xâm lược lớn. Kể từ đó
nước ta hoàn toàn thống nhất, và nhân dân ta bây giờ chỉ còn việc bắt tay vào
phát triển kinh tế. Nhưng nhìn vào toàn cảnh đất nước ta năm đó, thì Việt
Nam bị tàn phá hết sức nặng nề mà để xây dựng lên các cơ sở hạ tầng như vậy
để phục vụ cho phát triển thì ta cần rất nhiều thời gian, tiền của và công sức.
Thứ hai, ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công, đặc biệt là ngay
sau khi miền Bắc đi vào xây dựng xã hội mới. Khi đang tìm tòi con đường nối
tiếp hợp lý với lịch sử và bứt ra khỏi quá khứ thì do hoàn cảnh của lịch sử lúc
đó, chúng ta đã thu nhập mô hình kế hoạch hoá tập trung của Liên Xô và

Trung Quốc cùng với việc nhận thức và vận dụng chưa sáng tạo tư tưởng Mác
- Lênin trong mô hình xây dựng kinh tế phù hợp với điều kiện ở nước ta. Khi
đang còn mò mẫm với mô hình kinh tế du nhập nói trên và đang bắt đầu trăn
trở với các vấn đề nảy sinh trong cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước làm
gián đoạn con đường tìm tòi, sáng tạo mô hình kinh tế mới, mô hình tổ chức
xã hội mới. Như vậy, ở Việt Nam có một sự kết hợp giữa tư tưởng Nho giáo,
tư tưởng Mác - Lênin đã có phần bị giáo điều hoá và được nhận thức, được
nuôi dưỡng trong môi trường chiến tranh lâu dài. Vì vậy mô hình kinh tế Việt

16
Nam là một mô hình rất đặc trưng, pha trộn nhiều màu sắc, phản ánh nhiều xu
thế và rất phức tạp.
Lý luận Mác - Lênin là học thuyết khoa học có vị trí đặc biệt quan trọng
trong sự phát triển xã hội, trong đời sống chính trị thế giới và phong trào công
nhân quốc tế. Nó là nền tảng cho sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới, thể hiện sự khát vọng cao cả của nhân loại, hướng tới một chế độ xã hội
tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn theo nghĩa đầy đủ nhất của từ này. Việc sụp đổ của
hệ thống XHCN vừa qua không có nghĩa đơn giản là sự sụp đổ của tư tưởng
Mác - Lênin. Với tư cách là một học thuyết khoa học. Tuy nhiên cần ý thứuc
rằng một học thuyết khoa học thì không thể coi nó như kinh thánh và cũng
không thể giáo điều; nó có sự sáng tạo và có những hạn chế tất yếu mang tính
lịch sử. Do vậy, một nhà yêu nước chân chính phải là người có trách nhiệm,
và sứ mệnh làu giàu học thuyết đó về khoa học và thực tiễn để nó tiếp tục có
sức sống như một tinh hoa của nhân loại.
Nhưng đáng tiếc trong quá trình vận dụng tư tưởng Mác - Lênin đã có
sự nhầm lãn giữa mục tiêu và phương tiện, có một sự trái ngược giữa lời nói
và việc làm, có sự xa rời giữa triết lý nền tảng và phương pháp luận khoa học
của nó. Đảng và Nhà nước ta sở dĩ lãnh đạo được cách mạng dân tộc dân chủ
và giải phóng đất nước thành công và được nhân dân tin yêu, ủng hộ chính là
nhờ trước hết vào việc Đảng ta đã đề ra được các mục tiêu phù hợp với lợi ích

thiết tha của dân tộc, của nhân dân. Nhưng sau khi cách mạng thành công và
trong công cuộc xây dựng kinh tế đã có sự nhầm lẫn trong cách xử lý mối
quan hẹ giữa mục tiêu và phương tiện, coi trọng xử lý các vấn đề cơ chế, vì
quan hệ sản xuất, coi đó mục tiêu, trong khi đó lại sao nhãng, coi nhẹ các vấn
đề giải phóng lực lượng sản xuất để tạo ra của cải và dịch vụ cho xã hội. Bên
cạnh đó còn rất nhiều thói quen, nhiều tập quán, nhiều di sản tác động không
có lợi rất nhiều cho sự phát triển. Nếu không ý thức được đầy đủ về ảnh
hưởng về di sản quá khứ, ta sẽ không xác định được điểm xuất phát; không
biết cái gì là thuận lợi, tích cực cần được tạo điều kiện để tận dụng và phát

×