Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.77 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cách đây 87 năm, ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đây là
một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu
một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta. Từ đây cách mạng
nước ta đã có đường lối đúng đắn. Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự trở thành
người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Đây là sự phát
triển tất yếu của lịch sử, là kết quả của sự phát triển phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền
bá vào Việt Nam.
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng lý luận đó vào thực tế cách
mạng nước ta để đề ra đường lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ. Đặc
biệt, trước những diễn biến hết sức phức tạp của tình hình trong nước và thế giới,
khi hệ thống XHCN và các đảng cộng sản đang rơi vào tình trạng khủng hoảng
sâu sắc, tồn diện, việc đề ra đường lối đổi mới là yêu cầu rất bức thiết đối với
cách mạng, quyết định sự sống còn của Đảng, đến thắng lợi cách mạng Việt
Nam. Một trong những vận dụng cơ sở lý luận của triết học Mác - Lênin vào
công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng đã khởi xướng bắt đầu từ Đại hội Đảng lần
thứ VI là nguyên tắc khách quan - một nguyên tắc được rút ra từ mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX đã viết: “Đảng
phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện đảm bảo
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”. Việc tìm hiểu quy luật khách quan trên cơ sở
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức để vận dụng đúng đắn quy luật này vào thực
tiễn là vấn đề hết sức cần thiết đối với Đảng viên, bởi vì trước thời kỳ đổi mới,
Đảng ta đã mắc bệnh chủ quan, duy ý chí trong việc xây dựng mục tiêu và bước
đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh
tế. Đảng ta đã nóng vội muốn xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, muốn
sau khi cải tạo xã hội chủ nghĩa chỉ còn lại hai thành phần kinh tế, đó là kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể; hay có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công
nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ, chúng ta đã duy trì quá
1




lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, cơ chế xin cho, có nhiều
chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ.
Rút kinh nghiệm sâu sắc từ những hạn chế, sai lầm đó, cơng cuộc đổi mới
do Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Ðại hội VI đến nay là một cơng trình sáng
tạo lớn. Trải qua hơn 30 năm phấn đấu bền bỉ, phải vượt qua biết bao khó khăn
thử thách, công cuộc đổi mới đã giành được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa
lịch sử. Bộ mặt đất nước có sự thay đổi cơ bản và toàn diện.
Hơn 30 năm qua kể từ ngày đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Ðời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống
chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị
- xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên
trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã
tăng lên rất nhiều, tạo ra thế mới và lực mới để đất nước tiếp tục đi lên với triển
vọng tốt đẹp. Tất cả những thành cơng đó là nhờ vào sự vận dụng đúng đắn quy
luật khách quan và bài học kinh nghiệm thực tiễn của Đảng.
Từ những vấn đề trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu các cơ sở lý luận
và thực tiễn trong tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng để rút ra bài
học “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, phải xuất phát từ thực tế, tôn
trọng quy luật khách quan” làm đề tài tiểu luận mơn học là rất cần thiết.
Do trình độ và thời gian có hạn, bài viết khó tránh khỏi thiếu sót và hạn
chế. Vậy kính mong nhận được ý kiến nhận xét và đóng góp của q thầy cơ, để
bài viết của bản thân đạt kết quả cao hơn. Xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG

2



CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN ĐẢNG TA RÚT RA BÀI HỌC “MỌI
ĐƯỜNG LỐI, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG PHẢI XUẤT PHÁT TỪ THỰC
TẾ, TÔN TRỌNG QUY LUẬT KHÁCH QUAN”
1. Cơ sở lý luận
Quan điểm của Đảng ta về “Đường lối chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tơn trọng quy luật khách quan…”có cơ sở lý luận từ việc giải
quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Theo đó, việc giải quyết mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức được thể hiện qua các nội dung sau:
1.1. Vật chất luôn luôn quyết định ý thức
Theo quan điểm triết học Mác Lê-nin vật chất là phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác. Ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao của bộ
não người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người.
Quan điểm của triết học Mác-Lênin về ý thức là sự phản ánh mang tính
năng động và sáng tạo của hiện thực khách quan vào óc người. Ý thức tuỳ thuộc
vào năng lực phản ánh của chủ thể, tâm trạng của chủ thể phản ánh và mục đích
phản ánh.
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất: Bộ não người, cơ quan phản ánh
thế giới xung quanh, sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não người, tạo
thành nguồn gốc tự nhiên. Lao động và ngơn ngữ (tiếng nói, chữ viết) trong hoạt
động thực tiễn cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành tồn tại và
phát triển của ý thức. Mặt khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Vật chất là đối tượng khách thể của ý thức, nó quy định nội dung, hình
thức, khả năng và quá trình vận động của ý thức. Các yếu tố tạo thành nguồn gốc
tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức hệ, hoặc là chính bản thân thế giới vật
chất, hoặc là những dạng tồn tại của vật chất. Cho nên vật chất là nguồn gốc của
ý thức.
Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức. Sự quyết định

này được thể hiện ở chỗ: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là
nguồn gốc của ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất. Chúng ta đều biết,
3


ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người nên
chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế
giới vật chất thì con người là kết quả của q trình tiến hóa lâu dài của thế giới
vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Đó là nguyên nhân vật chất có trước,
ý thức có sau.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới
vật chất nên nội dung mà ý thức phản ánh được quyết định bởi vật chất. Sự vận
động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức… đều bị các quy
luật sinh học, các quy luật xã hội, môi trường sống quyết định.
1.2. Ý thức có sự tác động tích cực trở lại vật chất
Sở dĩ có sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất là do sự tồn tại của
ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất. Dù ý thức do vật chất sinh ra và
quy định nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối của nó. Hơn nữa sự phản ánh
của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần, phản ánh sáng tạo và chủ
động chứ không thụ động, máy móc, ngun xi thế giới vật chất vì vậy nó có tác
động trở lại đối với vật chất thơng qua hoạt động thực tiễn của con người. Dựa
trên các tri thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu, phương
hướng, xác định phương pháp, dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy. Vì vậy ý
thức tác động trực tiếp đến vật chất theo hai hướng chủ yếu: Nếu ý thức phản
ánh đúng đắn điều kiện vật chất, hồn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy hoặc tạo
sự thuận lợi cho sự phát triển của đặc trưng vật chất. Ngược lại nếu ý thức phản
ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người khơng phù hợp với
quy luật khách quan do đó sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất. Tuy vậy sự tác
động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó
khơng thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được. Và suy

cho cùng dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật
chất. Biểu hiện của mối quan hệ giữa ý thức và vật chất trong đời sống xã hội là
quan hệ tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn
tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên

4


cứu, xem xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn, khách thể và chủ
thể, vấn đề chân lý...
Từ mối quan hệ này, quan điểm duy vật biện chứng đã chỉ ra nguyên tắc
phương pháp luận cơ bản, chung nhất đối với mọi hoạt động nhận thức và thực
tiễn của con người là: phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách
quan đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
Nguyên tắc khách quan trong xem xét là hệ quả tất yếu của quan điểm duy
vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vật chất quyết định ý
thức là sự phản ánh vật chất cho nên trong nhận thức và hành động phải đảm bảo
tính khách quan , trong hoạt động thực tiễn phải luôn luôn xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan. Nguyên tắc này đòi hỏi
chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân sự vật hiện
tượng, từ thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý thức chủ quan, không
lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, khơng lấy ý chí áp đặt thực tế.
Nắm vững nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ
chủ quan, nóng vội, định kiến, khơng trung thực. Nói như vậy khơng có nghĩa là
quan điểm khách quan coi nhẹ tính năng động của ý thức. Quan điểm khách
quan không những khơng loại trừ mà cịn địi hỏi phát huy tính năng động và
sáng tạo của ý thức trong quá trình phản ánh sự vật.
Bởi vì q trình đạt tới tính khách quan địi hỏi chủ thể phải phát huy tính
năng động chủ quan trong việc tìm ra những con đường, những biện pháp để

từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật. Điều đó phân biệt quan điểm
khách quan với chủ nghĩa khách quan. Nguyên tắc khách quan có ý nghĩa ngăn
ngừa tư duy khỏi những sai lầm do việc chủ thể nhận thức đưa vào sự vật (khách
thể nhận thức) một số yếu tố chủ quan vốn khơng có trong bản thân sự vật. Tn
theo quan điểm khách quan góp phần ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí.
u cầu của ngun tắc khách quan địi hỏi phải tôn trọng quy luật khách quan
và hành động theo quy luật khách quan.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong thực tiễn cách mạng nước ta, Đảng đã mắc phải những sai lầm nhất
định như khơng căn cứ vào tình hình thực tế, không tôn trọng quy luật khách
5


quan, mắc bệnh chủ quan duy ý chí trong quá trình xây dựng CNXH thời kỳ
trước đổi mới. Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm khá phổ biến ở nước ta và
ở nhiều nước XHCN trước đây, gây tác hại nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây
dựng CNXH. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách sáng tạo trên
cơ sở của sự phản ánh. Vì vậy nếu cường điệu tính sáng tạo của ý thức sẽ rơi vào
bệnh chủ quan, duy ý chí. Bệnh chủ quan duy ý chí là khuynh hướng tuyệt đối
hóa vai trị của nhân tố chủ quan, của ý chí xa rời hiện thực khách quan, bất chấp
quy luật khách quan lấy nhiệt tình Cách mạng thay cho sự yếu kém về tri thức
khoa học. Sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động
giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, biểu hiện trong một số chủ
trương và chính sách của Đảng và Nhà nước xa rời hiện thực khách quan.
Bệnh chủ quan duy ý chí có nguồn gốc từ nhận thức, sự yếu kém về tri
thức khoa học, tri thức lý luận khơng đáp ứng được địi hỏi của thực tiễn. Bệnh
chủ quan duy ý chí cịn do nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai cấp, tâm lý của người
sản xuất nhỏ chi phối. Những nguyên nhân khách quan ấy có thể kể như: do xuất
phát điểm của nước ta quá thấp, nền sản xuất nhỏ với trình độ sản xuất lạc hậu;
do hậu quả của chiến tranh kéo dài ảnh hưởng rất lớn đến không chỉ tốc độ phát

triển kinh tế - xã hội mà còn làm cho đội ngũ cán bộ - đảng viên khơng có điều
kiện để học tập nên trình độ khoa học cơng nghệ, tri thức không đáp ứng đầy đủ
những yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, cơ chế quan liêu bao cấp, bệnh quan
liêu ảo tưởng, “kiêu ngạo cộng sản”… cũng tạo điều kiện cho sự ra đời của căn
bệnh chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ.
Thực tế đã cho thấy, do chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ, Đảng đã có
những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo
chiến lược và tổ chức thực hiện trong giai đoạn này, vi phạm các quy luật khách
quan, biểu hiện qua một số lĩnh vực cụ thể được Văn kiện Đại hội Đảng lần VI
đánh giá như sau: “chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta tồn tại trong một thời gian tương đối dài” nên “đã có những biểu hiện
nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa”, “chưa
nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ sản xuất” nên “có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng
6


công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ”. Trên thực tế, do
việc đầu tư cơ sở sai và tràn lan, khơng có cơ sở khoa học, không phù hợp với
điều kiện thực tế về tài nguyên, lao động của từng vùng nên việc khai thác nguồn
vốn đầu tư khơng hiệu quả, nhiều cơng trình đầu tư dở dang và thậm chí khơng
đủ ngun liệu để đưa vào hoạt động.
Ngoài ra, cũng do chủ quan duy ý chí trong việc dùng kế hoạch pháp lệnh
để chỉ huy tồn bộ nền kinh tế đất nước, “duy trì q lâu cơ chế quản lý kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp” - một cơ chế "gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên
những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan,
duy ý chí", “có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền
tệ” cùng với “việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là sản xuất và đầu tư thường chỉ
xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, khơng tính đến điều kiện khả năng thực
tế” nên dẫn đến việc sản xuất chậm phát triển, mâu thuẫn giữa cung và cầu ngày

càng gay gắt do việc áp dụng những chính sách, chủ trương trên đã vi phạm
những quy luật khách quan của nền kinh tế sản xuất hàng hóa (quy luật cung cầu
quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, phá sản …).
Trong lịch sử, chủ nghĩa chủ quan và duy ý chí thường gắn liền với "lý luận
bạo lực". Cơ sở của lý luận này là tuyệt đối hóa "phương pháp chiến tranh", sùng
bái bạo lực và vai trò của cá nhân trong lịch sử. C. Mác và F. Engen đã chứng
minh tính vơ căn cứ của lý luận này và khẳng định sự phá sản tất yếu của nó. Khi
vạch ra phép biện chứng của nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan, khắc phục
chủ nghĩa ... trong lịch sử, các ông đã đưa ra luận cứ về khả năng và giới hạn của
bạo lực trong đời sống xã hội. Khi phê phán quan niệm duy ý chí về những tiền đề
của cách mạng xã hội, các ông đã chỉ rõ bạo lực không thể tạo ra một chế độ xã
hội mới, sức mạnh và vai trị của nó thể hiện ở chỗ, "bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang
thai nghén một xã hội mới". Bạo lực là "bà đỡ” chứ không phải là "người mẹ", là
"điều kiện" chứ không phải là "nguyên nhân" sinh ra "đứa trẻ” - xã hội mới. Bởi
vậy, việc sử dụng bạo lực địi hỏi phải có điều kiện nhất định, phải có nghệ thuật
để khơng làm chết "đứa trẻ” mới sinh ra, để xã hội mới ra đời một cách khỏe
mạnh và phát triển một cách bình thường. Khi vận dụng và phát triển lý luận bạo
7


lực XHCN, Lênin cũng đã chỉ rõ bạo lực cần để đập tan Nhà nước tư sản và trấn
áp bọn phản động, ăn bám, bóc lột, nhưng "thật là ngu xuẩn nếu tưởng tượng rằng
chỉ dùng bạo lực cũng có thể giải quyết được vấn đề tổ chức khoa học và kỹ thuật
mới trong công cuộc xây dựng xã hội cộng sản".
Trong cuộc đấu tranh kiên quyết chống lại mưu toan "chỉ huy" nền kinh tế
bằng mệnh lệnh, "kìm kẹp" đời sống chính trị - xã hội, sử dụng biện pháp quân
sự trong quản lý tác động đến quần chúng bằng phương tiện cưỡng bức, Lênin đã
vạch rõ sự phát triển của lực lượng sản xuất - đó là một q trình mang tính
khách quan. Bởi vậy, theo ơng, trong lĩnh vực kinh tế chúng ta "không thể đi
bằng những cơn lốc và bằng những bước nhảy vọt". Đường lối kinh tế không thể

xây dựng trên sự coi thường quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, không
thể tách ra khỏi thực trạng của nền kinh tế. Một đường lối như vậy chỉ có thể dẫn
đến một kết quả duy nhất - sự phá sản hồn tồn cơng cuộc xây dựng kinh tế.
Thực tiễn của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta thời gian qua cũng đã khẳng
định điều đó.
Trong q trình xây dựng CNXH, chúng ta đã phạm phải sai lầm giáo
điều, cứng nhắc và chủ quan duy ý chí khi áp đặt một mơ hình CNXH được thiết
kế không xuất phát từ thực tiễn nước ta. Đó là mơ hình CNXH thuần khiết với
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chỉ hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể
được phép tồn tại với sự thống nhất tuyệt đối về chính trị và tinh thần. Do nhận
thức mang tính chủ quan duy ý chí, xa rời thực tiễn, khơng tơn trọng quy luật
khách quan nên đường lối, chính sách nhằm xây dựng mơ hình đó và các biện
pháp, phương tiện để thực hiện đường lối, chính sách này khơng có tác dụng cải
tạo thực tiễn, làm cho thực tiễn kinh tế - xã hội của nước ta phát triển theo chiều
hướng tiến lên mà ngược lại cịn kìm hãm sự phát triển đó.
Chủ nghĩa chủ quan duy ý chí đã đưa chúng ta tới ảo tưởng có thể đưa
ngay nền kinh tế cịn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH. Do muốn
"tiến thẳng", muốn quá độ trực tiếp lên CNXH, chúng ta đã bỏ qua chỉ dẫn của
Lênin về hình thức quá độ gián tiếp để một nước mà nền kinh tế còn là sản xuất
nhỏ đi lên CNXH. Chúng ta đã quên rằng chính Lênin đã khẳng định: "Nếu phân
tích tình hình chính trị hiện nay, chúng ta có thể nói rằng chúng ta đang ở vào
8


một thời kỳ quá độ trong thời kỳ quá độ. Tồn bộ nền chun chính vơ sản là
một thời kỳ quá độ, nhưng hiện nay có thể nói rằng chúng ta có cả một loạt thời
kỳ quá độ mới". Do chủ quan duy ý chí, do ảo tưởng, chúng ta đã khơng nhận
thức đúng vị trí và vai trị của các bước quá độ gián tiếp và do đó chúng ta đã bỏ
qua các hình thức kinh tế trung gian quá độ của một nước nông nghiệp lạc hậu đi
lên CNXH. Biểu hiện rõ nét nhất của sai lầm đó là đường lối xây dựng CNXH

với bốn mục tiêu chủ yếu mà Đại hội IV đã đề ra, là kế hoạch hồn thành thời kỳ
q độ trong vịng 20 năm, là mong muốn giải quyết mọi vấn đề kinh tế - xã hội
cả bề rộng lẫn chiều sâu trong một khoảng thời gian ngắn, là sự phủ nhận nền
sản xuất hàng hóa và thành kiến với quy luật giá trị, với mối quan hệ hàng - tiền,
với cạnh tranh… "Chúng ta đã có những thành kiến khơng đúng, trên thực tế,
chưa thực sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách
quan, do đó khơng chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương,
chính sách kinh tế.
Một biểu hiện nữa của sai lầm do mắc bệnh chủ quan duy ý chí là đường
lối tiến hành cơng nghiệp hóa và tập thể hóa nông nghiệp. Từ chỗ không đánh
giá đầy đủ những đặc thù của một nước nghèo nàn và kém phát triển, nền kinh tế
vẫn ở tình trạng nơng nghiệp lạc hậu, trang bị kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội thấp kém, chúng ta đã vội vàng tiến hành cơng nghiệp hóa XHCN, hơn
nữa lại tập trung ngay vào công nghiệp nặng với vốn đầu tư lớn song hiệu quả
chẳng thu được là bao. Đặc biệt, khi tiến hành tập thể hóa nơng nghiệp chúng ta
đã cứng nhắc, rập khn theo nước ngồi, khơng tính đến một cách đầy đủ sự lạc
hậu, nặng tính tự cấp, tự túc và phân tán của nền nông nghiệp nước ta. Khi đó
chúng ta đã qn rằng chính F. Engen đã chỉ rõ: "Bất cứ ở đâu, bản thân những
biện pháp quá độ cũng sẽ phải thích ứng với những điều kiện sẽ có trong thời
gian đó, những biện pháp quá độ đó, trong các nước có chế độ chiếm hữu ít
ruộng đất, sẽ căn bản khác với những biện pháp quá độ trong các nước có chế
độ chiếm hữu nhiều ruộng đất". Sai lầm đó đã được lặp lại sau khi giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Khi đó, với khí thế của một dân tộc vừa chiến
thắng lại cộng thêm nhiệt tình mang nặng tính tiểu tư sản, chúng ta chỉ thấy một
9


mầu hồng mà khơng lường hết khó khăn trong q trình cơng nghiệp hóa và tập
thể hóa nơng nghiệp.
Chủ nghĩa chủ quan duy ý chí đã dẫn chúng ta đến chỗ tạo ra chế độ hành
chính mệnh lệnh, tạo ra cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đến lượt mình, chế

độ hành chính mệnh lệnh, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp lại trở thành "mảnh
đất mầu mỡ" để chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí phát triển. Bởi lẽ, ở chúng ln có
cội nguồn kinh tế - xã hội, tâm lý và tư tưởng, có những tiền đề triết học và cơ sở
phương pháp luận làm nảy sinh và nuôi dưỡng chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
Chế độ hành chính mệnh lệnh, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thể hiện dưới
những hình thức hết sức đa dạng, bắt đầu từ thói độc đốn, gia trưởng đến bệnh
hình thức, tệ quan liêu giấy tờ. Nguy cơ của căn bệnh trầm trọng này trong việc
hoạch định đường lối, chính sách, trong hoạt động thực tiễn là ở chỗ:
Thứ nhất, nó dẫn đến chỗ tách đường lối, chính sách ra khỏi đời sống kinh
tế - xã hội. Nó làm cho đường lối, chính sách khơng phản ánh đúng lợi ích sống
cịn và ý chí của quần chúng lao động mà thể hiện lợi ích, ý chí, ý muốn chủ
quan của một nhóm người. Bởi vậy, nguy cơ mà nó dẫn đến khơng chỉ đơn giản
là việc quản lý thiếu hiệu quả, tệ quan liêu giấy tờ, bệnh hình thức, sự thờ ơ... mà
đó cịn là nguy cơ của việc quan liêu hóa đời sống xã hội, là hiểm họa của việc
tách các cơ quan nhà nước ở mọi góc độ ra khỏi lực lượng sáng tạo chân chính quần chúng lao động.
Thứ hai, nó dẫn đến chỗ tuyệt đối hóa biện pháp hành chính, cưỡng bức
trong việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa - xã hội, bất chấp những quy
luật khách quan của đời sống kinh tế - xã hội.
Thứ ba, nó tạo ra thái độ bàng quan, thờ ơ, lãnh đạm ở những người lãnh
đạo trước yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng. Nó dẫn đến hiện tượng lạm
dụng chức quyền để mưu đồ lợi ích cá nhân. Nó khiến cho phê bình và tự phê
bình trở thành khẩu hiệu sng.
Và thứ tư, nó dẫn đến chỗ coi thường ý kiến và khả năng sáng tạo của
quần chúng lao động. Nó hạn chế tính cơng khai, dân chủ, hạn chế quyền tự do
và các quyền công dân khác của quần chúng lao động.
10


Khi thực tiễn đã thay đổi, chế độ hành chính mệnh lệnh, cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp trở thành cung cách, phương pháp hoàn toàn xa lạ với bản chất

đích thực của CNXH, của cơng cuộc đổi mới đất nước, của nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu theo định hướng XHCN. Bởi lẽ, như
Lênin đã khẳng định: Tính sáng tạo sinh động của quần chúng, đó là nhân tố cơ
bản của xã hội mới... CNXH không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên
ban xuống. Tính chất máy móc hành chính và quan liêu khơng dung hợp được
với tinh thần của CNXH, CNXH sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân
quần chúng nhân dân.
Chủ nghĩa chủ quan duy ý chí cịn dẫn đến chỗ cường điệu hóa vai trị của
nhân tố chủ quan, của yếu tố chính trị trong việc hoạch định đường lối, chính
sách và trong hoạt động thực tiễn. Biểu hiện cụ thể của nó là ở chỗ chúng ta đã
quá đề cao nhiệt tình của quần chúng. Chúng ta đã ảo tưởng khi cho rằng dựa
vào nhiệt tình của quần chúng, vào ý chí và nguyện vọng chủ quan. Chúng ta sẽ
đạt được tất cả những gì mong muốn, vượt lên trên cả những địi hỏi của thực
tiễn, của những quy luật khách quan đang tác động trong đời sống kinh tế - xã
hội. Đó là thứ ảo tưởng mà V.I. Lênin đã từng phê phán khi ơng chỉ ra rằng nhiệt
tình cách mạng chỉ là một trong những yếu tố chứ không phải là yếu tố duy nhất
quyết định sự ra đời một chế độ xã hội mới, nó chỉ có thể phá vỡ được cái cũ chứ
khơng thể xây dựng cái mới. Cịn khi xem xét mối quan hệ giữa yếu tố chính trị
và yếu tố kinh tế, chúng ta thường dành quyền ưu tiên cho yếu tố chính trị. Chính
việc vi phạm mối quan hệ này, việc tuyệt đối hóa yếu tố chính trị đã dẫn chúng ta
đến chỗ tuyệt đối hóa chun chính vơ sản, coi nó là tất cả, có nó sẽ có tất cả và
khơng thấy rằng nó chỉ là công cụ, là phương tiện cho sự ra đời một chế độ xã
hội mới.
Có thể khẳng định cơng cuộc đổi mới mà chúng ta đang tiến hành sẽ không
thể thành công nếu chúng ta không kiên quyết khắc phục chủ nghĩa chủ quan duy ý
chí. Chúng ta phải làm cho nó khơng cịn là một căn bệnh trầm trọng. Nhưng khi
khắc phục nó, xóa bỏ nó chúng ta phải đề phịng chủ nghĩa chủ quan mới, duy ý chí
mới - sự bảo thủ, trì trệ, đổi mới nửa vời.
11



Đáng tiếc là việc khắc phục để đi đến chỗ xóa bỏ chủ nghĩa chủ quan duy
ý chí trong việc hoạch định đường lối, chính sách, trong hoạt động thực tiễn ln
vấp phải những khó khăn, trở ngại khách quan của quá trình nhận thức và vận
dụng các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội. Khó khăn là ở
chỗ, một mặt, trong hiện thực lịch sử luôn "ẩn giấu” những mầm mống, khả
năng, khuynh hướng khác nhau, mặt khác, lịch sử lại được thực hiện thông qua
hoạt động của con người, mà hoạt động này lại có giới hạn nhất định và do đó
con người không thể hiểu thấu và bao quát được tất cả các khả năng, khuynh
hướng của quá trình phát triển. Bởi vậy việc lựa chọn khả năng khuynh hướng
của sự phát triển, lựa chọn phương án cải tạo xã hội, hoạch định đường lối, chính
sách cho phương án cải tạo đó và đưa nó vào thực tiễn là một cơng việc hết sức
phức tạp, một quá trình lâu dài với sự tham gia của đông đảo quần chúng, nhân
dân lao động. Cơng việc này khơng những địi hỏi "học cách đánh giá khoa học"
các sự kiện của đời sống xã hội, như Lênin đã khẳng định, mà còn phải biết khảo
sát, những lợi ích của con người, nhóm người, tập đồn người, giai cấp trong xã
hội. Bởi lợi ích ln chi phối, điều chỉnh và thúc đẩy hoạt động của con người.
Vì thế mọi đường lối, chính sách được đưa ra phải phản ánh được quy luật khách
quan và lợi ích của quần chúng, phải đúc kết được kinh nghiệm thực tiễn và có
khả năng thực thi trong thực tiễn.
3. Bài học kinh nghiệm và một số kiến nghị
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm, khuyết điểm trên, Đảng ta đã tiến hành
đồng bộ nhiều biện pháp. Trước hết phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng
lực trí tuệ, trình độ lý luận của Đảng, trong hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan. Phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, chống bảo thủ, trì
trệ, quan liêu. Trong quá trình xác định đường lối cách mạng và chỉ đạo thực
tiễn. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức, “Luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan”.

12


Đại hội Đảng lần VI (1986) đã chỉ rõ bài học kinh nghiệm trong thực tiễn
cách mạng ở nước ta là “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng”. Đây là sự vận
dụng đúng đắn nguyên tắc khách quan, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất
và các quy luật khách quan vốn có của nó trong việc đề ra các chế định, chủ
trương, chính sách vào thực tế của cơng cuộc xây dựng đất nước ta.
Đại hội Đảng lần VI cũng đã xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã
hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian
ngắn, khơng thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác định: "Nay
phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những
hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất, ln có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất". Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý luận, hồn
tồn mới mẻ: "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm
không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất
phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ". Trong cơ cấu sản xuất và cơ
cấu đầu tư, Đảng và Nhà nước đã điều chỉnh lại theo hướng "khơng bố trí xây
dựng cơng nghiệp nặng vượt q điều kiện và khả năng thực tế"; tập trung sức
người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thựcthực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những
chương trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà
còn là điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thơng hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản
phẩm hàng hóa.
Về cơ chế quản lý kinh tế, lần đầu tiên khái niệm về hàng hóa, thị trường
được đưa vào Nghị quyết một cách rõ ràng "Phát triển nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước”.
13


Trong thời kì đổi mới của nước ta khi chuyển từ nền kinh tế từ tập trung,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Với chủ trương này
chúng ta đã giành được một số thắng lợi to lớn tuy nhiên vẫn còn một số thiếu
sót, đặc biệt ở khâu hành động. Đề ra chủ trương là vấn đề quan trọng nhưng
thực hiện nó mới là một vấn đề thực sự khó khăn.
Để xây dựng xã hội chủ nghĩa phải nhận thấy nguyên lý vật chất quyết
định ý thức là phải xuất phát từ thực tế khách quan và hành động theo nó.
Trước thời kì đổi mới, khi cơ sở vật chất cịn chưa có, chúng ta nơn nóng
muốn đốt cháy giai đoạn nên đã phải trả giá. Ở thời kì này chúng ta phát triển
quan hệ sản xuất đi trước lực lượng sản xuất mà khơng nhìn thấy vai trị quyết
định của lực lượng sản xuất. Sau giải phóng đất nước ta là một đất nước nông
nghiệp với số dân tham gia vào ngành này tới hơn 90%. Nhưng chúng ta vẫn xây
dựng các nhà máy cơng nghiệp trong khi để nhanh chóng trở thành nước cơng
nghiệp hố, khi mà lực lượng sản xuất chưa phát triển, thêm vào đó là sự phân
cơng khơng hợp lý về quản lý nhà nước và của xã hội, quyền lực quá tập trung
vào Đảng, và Nhà nước quản lý quá nhiều các mặt của đời sống xã hội, thực hiện
quá cứng nhắc làm cho toàn xã hội thiếu sức sống, thiếu năng động và sáng tạo,.
Các giám đốc thời kì này chỉ đến ngồi chơi xơi nước và cuối tháng lĩnh lương,
các nông dân và công nhân làm đúng giờ quy định nhưng hiệu quả không cao...
Ở đây chúng ta đã xem nhẹ thực tế phức tạp khách quan của thời kì quá độ, chưa
nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa là quá trình lịch sử lâu
dài và phải trải qua nhiều chặng đường.
Từ đây, chúng ta phải có cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa và cơ sở vật

chất phát triển. Chúng ta phải xây dựng lực lượng sản xuất phù hợp quan hệ sản
xuất. Chúng ta có thể bỏ qua tư bản chủ nghĩa nhưng khơng thể bỏ qua những
tính quy luật chung của q trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Chúng ta cũng
phải biết kế thừa và phát triển tích cực những kết quả của công nghiệp tư bản
như thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ - môi trường, là cơ chế thị trường
với nhiều hình thức cụ thể tác động vào quá trình phát triển kinh tế. Để vực nền
14


kinh tế lạc hậu của nước nhà, Đảng xác định là phải phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần để tăng sức sống và năng động cho nền kinh tế, phát triển lực lượng
sản xuất. Phát triển các quan hệ hàng hố và tiền tệ và tự do bn bán, các thành
phần kinh tế tự do kinh doanh và phát triển theo khn khổ của pháp luật, được
bình đẳng trước pháp luật. Mục tiêu là làm cho thành phần kinh tế quốc doanh và
tập thể đóng vai trị chủ đạo. Song song quá trình phát triển nền kinh tế hàng hố
nhiều thành phần thì chúng ta cũng cần phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nền kinh tế thị trường ở nước ta cịn đang
ở trình độ kém phát triển. Biểu hiện ở số lượng hàng hoá và chủng loại hàng hoá
quá nghèo nàn, khối lượng hàng hố lưu thơng trên thị trường và kim ngạch xuất
nhập khẩu còn quá nhỏ, chi phí sản xuất lại quá cao dẫn đến giá thành cao,
nhưng chất lượng mặt hàng là kém. Nhiều loại thị trường quan trọng cịn ở trình
độ sơ khai hoặc mới đang trong quá trình hình thành như: thị trường vốn, thị
trường chứng khoán, thị trường sức lao động...
Chúng ta cũng cần mở rộng giao lưu kinh tế nước ngoài, nhanh chóng hội
nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, AFTA và các hiệp định song
phương đồng thời phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Muốn vậy, ta phải
đa phương hố và đa dạng hố hình thức và đối tác, phải quán triệt trên nguyên
tắc đôi bên cùng có lợi, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau và khơng
phân biệt chế độ chính trị - xã hội phải triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất
nước trong quan hệ kinh tế quốc dân nhằm khai thác tiềm năng lao động, tài

nguyên thiên nhiên đất nước, tăng xuất nhập khẩu, thu hút vốn kỹ thuật, công
nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài và phát triển cơ sở hạ tầng cũng là một
trong chủ trương quan trọng của Đảng. Để làm điều này thì chúng ta cần giữ
vững ổn định chính trị, hồn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới các chính sách tài
chính và tiền tệ, giá cả, phát triển các thị trường quan trọng như thị trường chứng
khoán, thị trường lao động… Nhà nước cũng cần hạn chế việc can thiệp trực tiếp
vào sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mà nên tập trung tốt các chức
năng tạo môi trường, hướng dẫn, hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp nước
ngoài. Xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ nhưng thơng thoáng
15


lành mạnh để tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư của nước ngồi. Tránh tình
trạng giấy tờ phức tạp rắc rối, trên bảo dưới không nghe làm cho q trình giải
toả mặt bằng gặp nhiều khó khăn.
Với các chủ trương trên ta nhận thấy vai trò quyết định của vật chất đối
với ý thức, đó cũng là bài học quan trọng của Đảng là: "Mọi đường lối chủ
trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.
Để xây dựng XHCN cũng cần phải hiểu sâu sắc vai trò của ý thức tác
động trở lại vật chất
Một trong những chủ trương quan trọng là phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí
Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác - Lênin là sự thống nhất giữa chủ nghĩa Mác Lênin và thực tiễn của đất nước Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã bảo vệ và
quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin đúng đắn và hiệu quả nhất. Như vậy muốn hiểu
sâu sắc và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm vững chủ nghĩa Mác Lênin, nhất là phép biện chứng duy vật và phải nghiên cứu, nắm vững thực tiễn.
Chúng ta phải tập trung suy nghĩ về hai mặt:
Một là, về mục tiêu, lý tưởng và đạo đức lối sống. Đây là yếu tố cơ bản
nhất chi phối mọi suy nghĩ, hành động của chúng ta quyết định phẩm chất của
người cán bộ, đảng viên trong điều kiện chuyển biến của thế giới và tình hình

trong nước. Tư tưởng của Bác khẳng định mỗi người chúng ta hãy nâng cao đạo
đức cách mạng, đạo đức công dân và đạo đức của người cộng sản. Cụ thể, chúng
ta phải "cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư", ln vì sự nghiệp dân giàu nước
mạnh vì lợi ích của cá nhân và cả lợi ích của cộng đồng. Kiên quyết và nghiêm
khắc chống chủ nghĩa thực dụng với các biểu hiện tính đa dạng trong nền kinh tế
thị trường mở cửa, thực sự góp phần đẩy lùi nạn tham nhũng và tệ nạn xã hội,
ngăn chặn sự thoái hoá biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Hai là, về yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc, mỗi người
trên cương vị trách nhiệm của mình, phải hồn thành nhiệm vụ với hiệu quả, chất
lượng cao. Vì vậy, chúng ta phải đề cao ý chí phấn đấu, phấn đấu khơng mệt
mỏi, khơng sợ hy sinh, gian khổ, đồng thời phải ra sức trau dồi tri thức. Cần
nâng cao tri thức khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là nâng cao trình độ lý
16


luận về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao tri thức về
khoa học tự nhiên, đặc biệt là mũi nhọn về khoa học công nghệ hiện đại. Phải
nắm vững phương pháp nhận thức và hành động của Bác, bám sát thực tiễn, bám
sát cơ sở, thâm nhập dân chúng, đánh giá đúng khó khăn thuận lợi, thực trạng và
triển vọng. Tự nội lực, vì dân và thực sự dựa vào dân, thực hiện dân chủ lắng
nghe và tâm trạng ý kiến của dân mà tìm ra phương sách, biện pháp, nguồn vốn
sức mạnh vật chất và tinh thần, trí tuệ để vượt qua khó khăn và thách thức.
Phấn đấu tốt hai mặt trên là chúng ta đã thực sự quán triệt tư tưởng Hồ Chí
Minh và làm theo di chúc của Người, đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng mà Người
đã chỉ đường để xây dựng một đất nước Việt Nam hồ bình thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh.
Vai trò ý thức tác động lại vật chất cũng phải được hiện rõ ở khía cạnh
phát huy tính năng động và tích cực và vai trò trung tâm của con người, một số
giải pháp cho vấn đề này:
Một là, đổi mới hệ thống chính trị dân chủ hoá đời sống xã hội nhằm phát

huy đầy đủ tính tích cực và quyền làm chủ của nhân dân.
Hai là, đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội phù
hợp có ý nghĩa then chốt trong việc phát huy tính tích cực của người lao động
như: cơ chế quản lý mới phải thể hiện rõ bản chất của một cơ chế dân chủ, và cơ
chế này phải lấy con người làm trung tâm, vì con người, hướng tới con người là
phát huy mọi nguồn lực. Cơ chế quản lý mới phải xây dựng đội ngũ quản lý có
năng lực và phẩm chất thành thạo về nghiệp vụ.
Ba là, đảm bảo lợi ích của người lao động là động lực mạnh mẽ của q
trình nâng cao tính tích cực của con người: cần quan tâm đúng mức đến lợi ích
vật chất, lợi ích kinh tế của người lao động đảm bảo nhu cầu thiết yếu của họ
hoạt động sáng tạo như ăn, ở, mặc, đi lại, học hành, khám chữa bệnh, nghỉ ngơi.
Cũng cần có chính sách đảm bảo và kích thích phát triển về mặt tinh thần, thể
chất cho nhân dân, tăng cường xây dựng hệ thống cơ chế chính sách phù hợp để
giải quyết tốt vấn đề ba lợi ích tập thể, và lợi ích xã hội nhằm đảm bảo lợi ích
trước mắt cũng như lâu dài của người lao động.
Đảng và Nhà nước cũng cần khắc phục thái độ trông chờ và ỷ lại vào hồn
cảnh bằng cách nhanh chóng cổ phần hố các cơng ty nhà nước để tạo sự năng
17


động, sáng tạo trong hoạt động cũng như cạnh tranh, nhất là trong thời kỳ hội
nhập hiện nay. Đảng cũng phải cương quyết giải thể các công ty làm ăn thua lỗ
như: Tổng công ty sành sứ Việt Nam, Tổng công ty nhựa, Tổng công ty rau quả
Việt Nam… để tránh việc nhà nước bỏ vốn vào nhưng lại luôn phải bù lỗ cho các
cơng ty này.
Ngồi ra chúng ta cũng cần nâng cao trình độ nhận thức tri thức khoa học
cho nhân dân nói chung và đặc biệt đầu tư cho ngành giáo dục. Chúng ta cần xây
dựng chiến lược giáo dục, đào tạo, với những giải pháp mạnh mẽ phù hợp để mở
rộng quy mô chất lượng ngành đào tạo, đối với nội dung và phương pháp giáo
dục, đào tạo, cải tiến nội dung chương trình giáo dục, đào tạo phù hợp với từng

đối tượng, trường lớp ngành nghề. Kết hợp giữa việc nâng cao dân trí, phổ cập
giáo dục với việc bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
người lao động để đáp ứng nhu cầu cao của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố. Thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp trên sẽ kích thích tính năng
động và tài năng sáng tạo của người lao động ở nước ta. Sự nghiệp đất nước
càng phát triển thì tính tích cực và năng động của con người càng tăng lên một
cách hòa hợp với quy luật.
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức thì: vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức,
quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người; vì vậy trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan, biết
tạo điều kiện và phương tiện vật chất tổ chức lực lượng thực hiện biến khả năng
thành hiện thực đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.
Tơn trọng khách quan là tơn trọng tính khách quan của vật chất, của các
quy luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách
quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. V.I. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh
khơng được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, khơng được lấy tình
18


cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất
phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho
hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ kinh nghiệm thành công, thất
bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài
học quan trọng là “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực
tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh

CNH - HĐH, Đảng chủ trương: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả
trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất
nước”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Mặt khác, cần nhận rõ vai trị tích cực của nhân tố ý thức, tinh thần trong
việc sử dụng một cách có hiệu quả nhất những điều kiện phương tiện vật chất
hiện có. Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố con người
để cải tạo thế giới khách quan, phải tạo ra động lực hoạt động cho con người
bằng cách quan tâm tới đời sống kinh tế, lợi ích thiết thực của quần chúng, phát
huy dân chủ rộng rãi...
Nói tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trị quyết định đối với ý thức,
nó là cái có trước ý thức, nhưng ý thức có tính lực năng động tác động trở lại vật
chất. Mối tác động qua lại này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Chúng ta nâng cao vai trị của ý thức với vật chất chính là ở chỗ
nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng các quy luật
khách quan trong hoạt động thực tiễn của con người.
Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 87 năm qua đã
chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng
đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Ở Việt Nam khơng có một
lực lượng chính trị nào khác, ngồi Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh, trí
tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn,
thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang.
19


Và cũng chính trong q trình đó, Đảng ta đã tích luỹ và đúc rút được
nhiều bài học quý báu, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang mà hôm nay
chúng ta có trách nhiệm phải ra sức giữ gìn và phát huy.

Đó là truyền thống trung thành vơ hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp,
kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên
cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm của
quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ
cách mạng.
Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy
việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu.
Là truyền thống đồn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ
sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương u đồng
chí.
Là truyền thống đồn kết quốc tế thuỷ chung, trong sáng dựa trên những
nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và
thực hiện thành cơng đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến
đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt
Nam liên tục phát triển.
Nhìn lại chặng đường đấu tranh oanh liệt của Đảng ta trong 87 năm qua,
chúng ta càng trân trọng quá khứ, nâng niu giữ gìn những thành quả của cách
mạng, càng thấm thía và biết ơn vơ hạn cơng lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí
Minh mn vàn kính yêu; càng thấu hiểu, tin yêu và tự hào thêm về dân tộc ta một dân tộc anh hùng, thông minh và sáng tạo; tự hào về Đảng ta - Đảng Cộng
sản Việt Nam quang vinh một lòng một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do
của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình triết học Mác – Lênin (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội)

2. Giáo trình triết học (NXB Đại học Sư phạm)
3. Triết học Mác – Lênin (NXB Giáo dục)
4. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (NXB
Sự thật)
5. Chủ nghĩa Lênin và công cuộc đổi mới trong xây dựng CNXH ở nước
ta (NXB Thông tin lý luận).

___________________

21



×