Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Giai thoai Trang Nguyen dat Viet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.81 KB, 34 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1./ Trạng Ăn (Lê Như Hổ)</b>



Ở Hưng Yên, huyện Tiên Lữ, làng Tiên Châu xưa có một người tên là Lê
Như Hổ, nhà nghèo mà học giỏi, nhưng ăn khỏe quá, mỗi bữa ăn một nồi
bảy cơm (đáng lẽ mười người ăn mới hết) mà không no. Cha mẹ ông không
kiếm đủ cho con ăn, buồn lắm, phải cho Lê Như Hổ gửi rể một nhà giàu ở
làng Thiên Thiên.


Ở nhà vợ, Lê Như Hổ ăn mỗi bữa một nồi năm, nhưng không dám địi thêm,
sợ cha mẹ vợ buồn. Vì thế, ông không mạnh nên việc học hành có ý hơi lơ
đãng. Bố mẹ vợ phàn nàn với bố mẹ đẻ Lê Như Hổ.


Ông bố đẻ mới hỏi:


- Chớ tôi hỏi thực ông, mỗi bữa ông cho cháu ăn uống ra sao?
- Mỗi bữa, tôi cho cháu ăn một nồi năm.


- Thảo nào! Nhà tôi tuy nghèo mà còn phải cho cháu ăn mỗi bữa một nồi
bảy. Ơng cho cháu ăn ít nên nó biếng nhác là phải lắm. Ông thử cho cháu ăn
thêm coi.


Ông bố vợ nghe lời, về cho con rể ăn mỗi bữa một nồi bảy. Lê Như Hổ học
có ý chăm hơn trước một chút thơi. Mẹ vợ thấy con rể như thế phàn nàn với
chồng:


- Ăn một nồi bảy cơm mỗi bữa mà tối đến chỉ học được dăm ba tiếng. Ông
khéo lựa rể quá. Cái ngữ này chỉ ăn khỏe cho mập thôi, chớ có gượng mà
học cũng chỉ là học lấy lệ, chớ chẳng trơng cậy gì được đâu.


Ơng bố vợ nói:



- Nó ăn khỏe tất có sức hơn người. Trời cho nhà mình đủ ăn thì cứ việc gì
nói ra nói vào lơi thơi.


- Ơng nói tức anh ách. Cứ ăn khỏe thì làm việc khỏe hay sao? Thì đấy, nhà
ta có mấy mẫu ruộng bỏ hoang, cỏ mọc ngập đầu người đấy, ơng nó đi dọn
xem có được khơng nào.


Lê Như Hổ nghe thấy mẹ nói thế, tức q, hơm sau ăn cơm sáng xong vác
con dao phát bờ ra ruộng. Ðến nơi thấy, có cây cao bóng mát, ơng nằm ngủ
một giấc say sưa. Mẹ vợ đi chợ về qua đấy, thấy con rể gối đầu lên gốc cây
ngáy pho pho, lật đật chạy về nhà gắt với chồng:


- Kìa, ơng ra ruộng mà xem con rể ông kia. Tưởng là ăn xong vác dao ra
ruộng làm gì, hóa ra ngủ kho. Ơng cịn bảo tơi thổi thật nhiều cơm cho nó
ăn nữa hay thơi?


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

vũng lầy có cá cũng khơng kịp chạy, chết nổi lều bều cả lên mặt nước.
Ðến lúc ấy, bố mẹ vợ Lê Như Hổ mới biết kỳ tài của con rể. Cũng từ hôm
ấy, bà mẹ vợ bữa nào cũng thổi riêng một nồi mười cho rể ăn cho đủ no thì
quả Lê Như Hổ học hành không biết mệt.


Một hôm, mẹ vợ Lê Như Hổ sai Lê Như Hổ đi kêu thợ về gặt lúa. Lê Như
Hổ bảo:


- Mẹ ở nhà cứ thổi cơm sẵn, con kêu họ về, họ ăn xong là làm việc liền.
- Con kêu thợ gặt, nhưng không ai chịu làm. Thôi, để con ăn xong, làm một
mình cũng được.


Nói xong, Lê Như Hổ ngồi ăn hết cả một nồi hai mươi. Bố mẹ vợ trông thấy
phát sợ, hỏi:



- Con ăn như thế không sợ bể bụng ra?
Lê Như Hổ cười:


- Con ăn một nồi hai mươi cũng như người ta ăn ba bốn chén. Cha mẹ đừng
lo, ăn xong, con đi làm liền. Con xin cam đoan làm một mình đến chiều tối
thế nào cũng xong.


Ăn xong nồi hai mươi, Lê Như Hổ đem liềm hái và gánh đòn càn ra ruộng.
Quá trưa, đến chiều thì xong hết. Lê Như Hổ bó lúa lại làm bốn gánh chất cả
lên địn càn quảy về ln một lúc. Bao nhiêu thợ cấy thấy ơng một mình
gánh nhiều như thế mà cứ đi phăng phăng như khơng, đều phải lắc đầu le
lưỡi.


Từ đó, bố mẹ vợ Lê Như Hổ hết sức quí mến Lê Như Hổ.


Hồi ấy ở một làng gần đấy, nhân tiết xuân có mở hội đánh vật hàng năm.
Năm nào. Lê Như Hổ cũng đến phá giải. Ðô vật nào thấy ơng cũng đều chịu
thua, vì ơng ta mạnh như hổ, khơng ai sánh kịp (vì thế mới có tên Như Hổ).
Võ đã giỏi, văn ơng lại hay. Từ ngày được bố mẹ vợ cho ăn no, Lê như Hổ
học hành tấn tới một cách lạ kỳ. Năm ba mươi tuổi, văn ông đã lừng lẫy hết
cả vùng Hưng Yên, sang đến Thái Bình, Nam Ðịnh. Ơng đỗ tiến sĩ trong
thời Quang Hịa nhà Mạc.


Bấy giờ có một người đỗ đồng khóa với Lê Như Hổ, tên là Nguyễn Thanh,
người huyện Hoàng Hóa, tỉnh thanh Hóa. Một hơm, Nguyễn Thanh nói với
Lê Như Hổ về nhà của mình:


- Nhờ trời, tơi cũng khá, chẳng giàu có gì nhưng ăn cả đời chưa hết.
Lê Như Hổ nói:



- Cả gia tài của bác, may ra chỉ đủ cho tôi ăn vài tháng.


Nguyễn Thanh nghe thấy nói thế, cho là Lê Như Hổ đùa giai, bèn nói:
- Bác khinh tôi quá. Cả gia tài tôi như thế mà bác bảo chỉ đủ cho bác ăn ba
tháng. Bác không sợ mang tiếng nói dóc sao?


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Thấy Lê Như Hổ thách như vậy Nguyễn Thanh mời liền.


Lê Như Hổ một hôm đến nhà Nguyễn Thanh thực nhưng chẳng may hơm ấy
Thanh lại có việc quan vắng nhà.


Như Hổ đi thẳng vào nhà nói với vợ Nguyễn Thanh:


- Tôi với quan Nghè đây là bạn tâm giao, hơn nay có việc qua đây vào thăm
bác và nhờ bữa cơm.


Bà vợ Nguyễn Thanh ân cần tiếp rước, một mặt gọi gia đình đầy tớ làm heo
làm gà, một mặt hỏi Lê Như Hổ có bao nhiêu qn lính để liệu đầu người
mà thổi nấu.


Lê Như Hổ nói:


- Thưa phu nhân, khơng có bao nhiêu, chỉ có độ hơn ba mươi người.


Bà Nguyễn Thanh sai làm ba mươi heo, dọn bảy tám mâm cỗ ra mời Lê Như
Hổ dùng cơm, nhưng đợi mãi cũng chẳng thấy quân lính nào vào ăn cả. Lê
Như Hổ cười mà bảo:


- Ối chao, họ khơng tới thì mặc, để tơi ăn cả cũng được.



Nói rồi ơng ngồi ăn hết cả bảy tám mây cỗ, chỉ một lát thì làm bay hết cả
mấy nồi hai mươi cơm, hai con heo, mấy mâm sơi, cịn gà vịt, rau cải khơng
thèm kể.


Ăn xong, Lê Như Hổ từ tạ ra về.


Ðến chiều tối, ông Nguyễn Thanh trở về, bà vợ kể chuyện lại và lè lưỡi sợ
ông bạn ăn khỏe như thần, Nguyễn Thanh vỗ đùi bảo:


- Thôi, Lê Như Hổ rồi!
Bà vợ nói:


- Ờ, đúng đấy, ông ta ăn như hổ. Tôi ở nhà dưới nhìn lên thấy ông ta sới cơm
ra chén chỉ và một miếng thì hết, cịn sơi thì ơng ta chỉ ăn độ mười miếng thì
hết một mâm.


Một bữa khác, Nguyễn Thanh đi qua làng Lê Như Hổ, bước vào nhà thăm,
nhân thể để tạ lỗi, Lê Như Hổ sai người nhà cũng làm ba con lợn, thổi năm
sáu mâm sôi, ba bốn nồi hai mươi cơm, y như hơm vợ ơng Nguyễn Thanh đã
đãi mình để đãi lại Nguyễn Thanh. Mỗi người ngồi riêng một bàn. Lê Như
Hổ ăn hết bàn mình mà Nguyễn Thanh thì ngắc ngứ ăn chưa hết một phần
sáu. Lê Như Hổ đành lại phải ăn giùm cho Nguyễn Thanh. Ông Thanh hỏi:
- Thế thì gia nhân đầy tớ cịn gì mà ăn nữa?


Lê Như Hổ nói:


- Gia nhân thổi cơm và nấu đồ riêng để ăn rồi. Ông không cần phải lo.
Nguyễn Thanh chắc lưỡi than:



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Hai người cùng cười ầm cả lên. Về sau, Lê Như Hổ làm đến thượng thư,
được vua phong làm Thiếu bảo Lữ Quốc Công, thọ bảy mươi tuổi.


<b>2./ Trạng Bùng (Phùng Khắc Khoan)</b>



Phùng Khắc Khoan là người làng Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn
Tây (Bắc Việt).


Theo sách sử để lại thì ơng Phùng Khắc Khoan là anh em cùng mẹ khác cha
với ông Trạng Trình. Ngun bà mẹ ơng Trạng Trình và Phùng Khắc Khoan
là Từ Thục phu nhân là người họ Nhữ, con gái quan Hộ bộ thượng thư là
Nhữ văn Lang ở làng An Tử, huyện Tiên Minh. Bà là người học giỏi, thơ
hay, lại tinh thông lý số.


Lấy ơng Vân Ðịnh, sinh ra Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, bà Từ Thục
phu nhân nửa đường đứt gánh, lên Sơn Tây lấy chồng khác rồi sinh ra Phùng
Khắc Khoan. Cũng như Trạnh Trình, Phùng Khắc Khoan có tư chất thông
minh từ nhỏ. Lúc lớn lên, bà cho xuống Hải Dương theo học ơng anh là
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.


Ơng Khiêm hết lịng dạy dỗ em nên chẳng mấy lúc Phùng Khắc Khoan nổi
tiếng văn chương tài đức.


Lúc bấy giờ, nhà Lê giữ ở Thanh Hóa. Tính độn, Trạng Trình biết rằng nhà
Lê thế nào cũng có thời trung hưng, ơng bèn sai Phùng Khắc Khoan vào
Thanh Hóa phị nhà Lê. Gặp Phùng Khắc Khoan, vua Lê Trang Tôn mừng
lắm, đãi vào hàng quân sư. Phùng Khắc Khoan lập nhiều mưu kế, có nhiều
kế hoạch để lấy lịng dân, thu dụng người ở các nơi lân cận. Vua Trang Tôn
tin dùng hết sức. Ðến thời vua Thế Tôn khôi phục thành Thăng Long, vua
sai Phùng Khắc Khoan đi sứ nhà Minh để vận động phong tước. Nhà Minh


phong vua Thế Tôn là "An Nam đô hộ sứ".


Khắc Khoan trả lại sắc phong cho vua Minh và tâu:


- Chúa tơi là họ Lê, ngun là dịng dõi nước Nam, khơng có tội tình như họ
Mạc mà thiên triều lại phong tước như họ Mạc, chúa tôi không nhận sắc
mệnh được. Dám mong thiên triều xét lại, chớ quả là không dám nhận.
Thấy Phùng Khắc Khoan trình thế, vua Minh tự nhủ "quan chức của Thế
Tơn, mà ăn nói đàng hồng, lý sự như thế, chắc hẳn Thế Tôn không phải
người vừa".


Bèn đổi sắc lệnh mà phong cho Thế Tôn làm "An Nam Quốc vương".


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

đến như thế. Vua Minh bèn phê cho đỗ Trạng nguyên (Trạng nguyên cả
nước Nam lẫn nước Tàu) vì thế mới có tên là Trạng Bùng (vì ơng Phùng
Khắc Khoan sinh ở làng Phùng xá, tứ là làng Bùng).


Tục truyền khi Trạng Bùng đi sứ về đến Lạng Sơn ông được thấy bà Liễu
Hạnh hiện lên trên đỉnh núi mà ở dưới chân núi thì gỗ để ngổn ngang, lại có
chữ "Liễu Hạnh" và chữ "Bùng". Ơng biết ý Chúa Liễu liền cho lập đền thờ
Chúa Liễu ngay tại đó.


Về sau về đến Hồ Tây, bà Chúa Liễu lại hiện ra lần nữa để tạ ơn ông. Hai
người làm thơ sướng họa với nhau rất nhiều, người sau bình phẩm khơng thể
quyết thơ của người nào hay hơn thơ người nào.


<b>Trạng Hầu (Mạc Ðĩnh Chi) </b>



Ngồi Phùng Khắc Khoan, ơng Mạc đĩnh Chi cũng là trạng nguyên của hai
nước Nam và nước Tàu.



Sách "Nam Hải Dị Nhân" chép rằng Mạc Ðĩnh Chi tự là Tiết Phu, người
làng Lũng Ðổng huyện Chí Linh (Hải Dương, Bắc Việt) nguyên về giòng
giõi quan thái thú Mạc Hiển Tích về triều nhà Lý (Hiển Tích đỗ trạng
nguyên đời vua Trung Tôn nhà Lý, làm đến Lại bộ thượng thư)


Tục truyền làng Lũng Ðổng có một khu rừng rậm, cây cối bùm tum, lắm
giống hầu (con khỉ) ở. Mẹ ông ấy thường khi vào rừng kiếm củi, phải con
hầu đực bắt hiếp. Về nói với chồng, chồng ăn mặc giả làm đàn bà, giắt sẵn
con dao sắc vào rừng, con hầu quen thói lại ra, bị ơng kia chém chết bỏ thây
tại đấy.


Sáng hơm sau ra xem thì mối đã đùn đất lấp hết, thành gò mả.


Bà kia từ đấy thụ thai, đủ tháng sinh ra Mạc Ðĩnh Chi, mặt mũi xấu xí,
người nhỏ loắt choắt tựa như giống hầu.


Mạc Ðĩnh Chi lớn lên bốn năm tuổi, tư chất thơng minh hơn người. Bấy giờ
Hồng tử là Chiêu Quốc Cơng mở trường dạy học trị, Mạc Ðĩnh Chi vào
học. Ðến năm gần hai mươi tuổi là năm Giáp Thìn đời vua Anh Tơn nhà
Trần, Mạc Ðĩnh Chi thi đình văn đáng đỗ đầu cả mọi người nhưng vua trơng
thấy người hình dáng xấu xa, toan không cho đỗ Trạng nguyên, Ðĩnh Chi
làm một bài phú "Ngọ tỉnh liêu" để ví vào mình, vua mới lại cho đỗ Trạng
Nguyên.


Khi Mạc Ðĩnh Chi phụng mênh sang sứ nhà Nguyên bên Tàu, có hẹn trước
với người Tàu ngày mở cửa ải. Bất ngờ hôm ấy trời lại mưa, Mạc Ðĩnh Chi
sai hẹn; hơm sau mới đến thì người Tầu đóng cửa khơng cho vào. Ðĩnh Chi
nói tử tế xin cho mở cửa. Người Tầu ra một câu từ trên ải ném xuống và bảo
hễ đối được thì mở cửa.



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

"Quá quan trì, quan quan bế; nguyện quá khách quá quan".


Nghĩa là: Qua ải chậm, người coi ải đóng cửa ải, mời khách qua đường qua
ải mà đi.


Ðĩnh Chi viết nagay một mảnh giấy, đối lại đưa lên:
"Xuất đối dị, dối đối non, thỉnh tiên sinh tiên đối".
Nghĩa là: Ra đối dễ, đối lại khó, mời tiên sinh đối trước.


Người Tàu khen có tài nhanh nhẩu, mới mở cửa ải cho vào. Khi đến cửa
Yên Kim, người tàu thấy ông xấu xa, có bụng khinh bỉ. Một hơm, viên tể
tướng Tàu mời vào phủ đường ngồi chơi, Ðĩnh Chi trơng thấy trên bức
tường có thêu con chim sẻ vàng đậu trên cành trúc, tưởng là chim thực, đứng
dậy chạy lại bắt. Người Tàu cười ầm cả lên. Ðĩnh Chi xé tan ngay bức


trướng ấy ra.


Chúng ngạc nhiên hỏi cớ làm sao thì thưa rằng:


Tơi có nghe người ta thường vẽ chim sẻ đậu cành mai không ai vẽ đậu cành
trúc. Nay tể tướng sao lại cho vẽ thế. Trúc là giống cây quân tử, chim sẻ là
loài vật tiểu nhân, vẽ thêu như thế là ra cho tiểu nhân ở trên quân tử, tôi e
rằng đạo tiểu nhân mỗi ngày thịnh lên, mà đạo quân tử mỗi ngày suy đi, nên
tôi trừ giúp cho thánh triều đấy thôi:


Chúng chịu là biện bác có lẽ.


Ðến khi vào chầu, nhân có ngoại quốc dâng một đôi quạt quý. Vua Tàu xai
Ðĩnh Chi và một người sứ Cao Ly, mỗi người đề một bài tán vào quạt.


Sứ Cao Ly làm xong trước.


Lời tâu rằng:


"Uẩn lòng trùng trùng, y Dỗn Chu Cơng, Vũ tuyết thê thê, Bá Di Thúc
Tề".


Nghĩa là: Ðang lúc nắng nực, thì như ơng Y Dỗn, ơng Chu Cơn (ý là đắc
dụng với thời). Ðến khi mưa tuyết lạnh ngắt thì như Bá Di, ơng Thúc Tề (ý
nói là xếp xó một chỗ).


Bấy giờ Mạc Ðĩnh Chi chưa nghĩ ra ý tứ làm sao, nhác trông sang quản bút
bên kia, biết là lời lẽ như thế mới suy ra mà đề một bài như sau này:


"Lưu kim thước thạnh thiên địa vi lô nhi ư tư thời hề Y Chu cự nho! Bắc
phong kì lương, vủ tuyết tái đô; nhi ư tư thời hề Di Tề ngã phu. Y! dụng chi
tắc hành xả chi tắc tàng, dụng ngã nhữ hữu thị phù?"


Nghĩa là: Nắng chảy vàng tan đá, trời đất như lò lửa, người về lúc ấy ví như
Y, Chu, hai ơng quan to. Gió bấc lạnh lẽo, mưa tuyết lấp đường, người về
lúc ấy ví như Di Tề, hai người chết đói. Than ôi! Khi dùng đến thì ra khi
không dùng đến thì cất đi, chỉ ta với người đuợc thơi.


Ðề xong dâng lên, vua Tàu cầm bút khuyên chữ "y", phê rằng "Lưỡng quốc
trạng nguyên" nghĩa là trạng nguyên hai nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

kia đọc lên một câu rằng:


"Sú ngã kỵ mã, Ðông di chi nhân dã! Tây di chi nhân dã! Tây di chi nhân
dã".



Nghĩa là: Chạm vào ngựa của ta cưỡi, ấy là người Ðông di hay Tây di?
Mạc đĩnh Chi trả lời liền:


"Át dư thừa lư, nam Phương chi cường dư! Bắc Phương chi cường dư!"
Nghĩa là: Chắn đường lừa ta đi, thử xem người Nam phương mạnh hay
người Bắc phương mạnh.


Lại thường đối đáp người Tàu, Tàu ra rằng:
"An nữ khứ, thi nhập vi gia"


Nghĩa là chữ an, bỏ chữ nữ, chữ vào là chữ gia.
Ðối rằng:


"Tù, nhân xuất; vương lai thánh quốc"


Nghĩa là: Chủ từ bỏ chữ nhân, chũ vương đến thì là chữ quốc.
Người Tàu phê rằng:


- Con cháu về sau tất cả người làm đến đế vương nhưng hiềm về chữ quốc
đơn thì hưởng nước không được tràng cửu mấy nỗi.


Lại ra:


"Nhật hỏa vân yên; bạch chú thiêu tàn ngọc thỏ".


nghĩa là: Lửa mặt trời khói đám mây, ngày trắng đốt tàn con thỏ ngọc.
Ðối:


"Nguyệt cung tinh đạn, hồng hơn xạ lạc kim ô".



Nghĩa là: Cung mặt nguyệt, dạn nhôi sao chiều hôm bắn rụng cái ô vàng.
Người Tàu phê rằng:


- Con cháu về sau tất có người cướp nước. (Mạc Ðặng Dung về sau giết vua
cướp nước).


Một khi bà hoàng hậu ở Tàu mất, vua Tàu sai ông Mạc Ðĩnh Chi vào đọc
văn tế. Ðến lúc quì xuống cầm bản văn đọc thì chỉ thấy một tờ giấy trắng, có
bốn chữ "nhất". Ðĩnh Chi khơng nghĩ ngợi gì, đọc ngay rằng:


"Thanh thiên nhất đóa vân, hồng tơ nhất điểm tuyết, ngọc uyển nhất chi hoa,
giao trì nhất phiến nguyệt. Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết".
Nghĩa là: Một đám mây trên trời xanh, một giọt tuyết trong lò đỏ, một cành
hoa vườn thượng uyển, một vầng trăng ao Giao trì. Than ơi, mây rã, tuyết
tan, hoa tàn, trăng khuyết.


Bài văn này còn chép vào sử Tàu. Người Tàu ai cũng chịu tài ứng biến
nhanh.


Ðĩnh Chi làm quan liêm chính hết sức, vua Minh Tơn thường sai người đem
mười quan tiền, rình lúc tối bỏ vào cửa nhà ông ấy. Sớm mai, ông vào tâu
ngay với vua, xin bỏ tiền ấy vào kho.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

- Tiền ấy khơng có ai nhận thì nhà ngươi cứ việc lấy mà tiêu.


Bấy giờ Mạc Ðĩnh Chi mới lấy. Ðến triều vua Hiền Tôn, làm nên đến chứ
Tả bộc xạ (Tể tướng). Văn chương lưu truyền lại về sau rất nhiều. Con ông
là Khẩn, Trực, cùng làm đến ngoại lang. Cháu là Ðịch, Toại, Viên cùng có
quyền thế, làm quan lúc nhà Minh cai trị. Ðời cháu chắt thiên sang ở làng Cổ


Trai, huyện Nghị dương thì có Ðặng Dung là cháu bẩy đời, làm vua nhà
Mạc.


Trạng Trình (Nguyễn Bỉnh Khiêm)


Tiên sinh húy là Bỉnh Khiêm, hiệu là Bạch vân cư sĩ người làng Trung am,
huyện Vĩnh lại, tỉnh Hải dương. Tiên thế nhà ngài có âm đức, đời ông là Văn
Tỉnh được phong tặng Thiếu bảo Tư quận công, được ngôi dương cơ, hợp
vào kiểu đất của Cao Biền. Ðời thân phụ ngài là Văn Ðịnh được phong tặng
làm Thái bảo Nghiêm quận công. Mẹ ngài là Từ Thục phu nhân họ Nhữ,
nguyên là con gái hộ bộ thượng thư Nhữ văn Lan, ở làng An Tử, huyện Tiên
Minh. Bà ấy thông kinh sử, giỏi văn chương, mà lại tinh nghề tướng số.
Bà ấy kén chồng đến ngồi hai mươi tuổi thấy ơng Văn Ðịnh có tướng sinh
ra q tử mới lấy. Về sau, lại gặp một chàng trẻ tuổi đi qua bến Hà, ngạc
nhiên nói rằng: "Tiếc thay! Khi trước khơng gặp người này! " Hỏi ra thì
chàng ấy là Mạc Ðăng Dung (về sau làm vua nhà Mạc).


Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi đời Hồng Ðức (niên hiệu vua Lê Thánh
Tôn); đẫy đà to lớn, mặt mũi khơi ngơ, chưa đầy tuổi tơi đã biết nói.
Một khi Văn Ðịnh ẵm trên tay, bỗng dưng nói rằng "Mặt trời mọc về
phương Ðông". Văn Ðịnh lấy làm kỳ dị. Ðến năm ngài lên bốn tuổi, phu
nhân dậy ngài học chính văn trong kinh truyện dậy đến đâu thuộc lòng đến
đấy. Bà ấy lại dậy học thuộc lịng vài bài thơ nơm.


Một bữa, phu nhân đi vắng, Văn Ðịnh kéo một cái dây đùa với con, rồi
ngâm đùa một câu rằng: "Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung". Ðương đọc
dở dang thì Bỉnh Khiêm tiếp: "Vén tay tiên hốt hốt rung". Văn Ðịnh thấy
con thông minh, mừng lắm, về khoe tài với phu nhân. Phu nhân nói rằng:
- Mặt trăng là phận bày tôi, sao ông lại dậy con điều ấy?



Văn Ðịnh thẹn thò xin chịu lỗi, nhưng bà ấy vẫn cịn căm tức, xin từ về, nhất
định khơng ở đấy nữa, về sau bà ấy già đòi ở nhà bố mẹ đẻ. Nhưng tục
truyền bà ấy tức ông Văn Ðịnh lên Sơn Tây, lấy chồng khác sinh ra ông
Phùng Khắc Khoan (xem bài Trạng Bùng).


Khi Bỉnh Khiêm còn để hai trái đào, cùng bọn trẻ tắm ở bến Hàn, có người
đi thuyền trơng thấy nói rằng:


- Tiếc thay cho thằng bé này, bộ da dầy lắm chỉ làm được Trạng nguyên, Tể
tướng thôi!


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Lương đắc Bằng vốn ở làng Hội Trào, huyện Hồng Hóa, ngun có một chi
họ lạc sang ở Vân Nam, đời đời làm quan bên Tàu. Khi Ðắc Bằng sang sứ
nhà Minh gặp một người cùng họ là Lương nhữ Hốt cho một quyển "Thái Át
thần Kinh". Ðắc Bằng đem về học tập cho nên tinh nghề lý số, việc gì cũng
tính biết được trước.


Nguyễn Bỉnh Khiêm học hết được phép thuật của ông Lương Ðắc Bằng. Khi
ông Ðắc Bằng mất, dặn lại Nguyễn Bỉnh Khiêm về sau phải trơng nom con
mình là Lương hữu Khánh.


Trong năm Quang Thiêu (Lê Chiêu Tôn) có việc biến loạn, Nguyễn bỉnh
Khiêm ở ẩn một chỗ, không muốn cần tiếng tăm với đời. Bấy giờ Trịnh Tuy,
Mạc Ðăng Dung cũng cố ý muốn tranh quyền, đánh nhau lng mấy năm.
Ngài tính số Thái Ất, biết có nhà Lê lại khơi phục được.


Ngài có làm bài thơ cảm hứng sau này:
Non sông nào phải buổi bình thời
Thú đánh nhau chi khéo nực cười
Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổi?


Núi xương sơng tuyết, thảm đầy vơi
Ngựa phi chắc có hồi quay cổ (1)
Thú dữ nên phòng lúc cắn người (2)
Ngán ngẫm việc đời chi nói nữa
Bên đầm say hát, nhởn nhơ chơi.


Về sau nhà Mạc chiếm giữ kinh thành, bốn phương hơi yên ổn, các bạn bè
nhiều người khuyên ngài ra làm quan. Ngài bất đẵc dĩ phải ra thi đỗ Trạng
Nguyên năm Ðại Chính thứ nhà Mạc. Bấy giờ ngài đã bốn mươi tư tuổi.
Vua nhà Mạc cắt ngài làm Tả thị lang, Ðông Các đại học sĩ. Ngài làm quan
được tám năm, trước sau dâng sớ hạch mười tám người lộng thần, nhân có
chàng rể là Phạm Ðạo cũng kiêu hoạnh, ngài sợ phải vạ lây, mới từ quan cáo
về dưỡng lão.


Khi ngài trí sĩ rồi, làm nhà chơi mát ở mé dưới làng gọi là Bạch Vân Am, lại
bắc hai nhịp cầu gọi là Nghênh phong và cầu Tràng Xuân, thường thường ra
chơi hóng mát. Lại làm một cái quán Trung tân ở bên sông Tuyết Giang,
dựng bia ký sự mình. Khi thì ngài bơi thuyền chơi ở bể Kim Hải và bể Úc
hải, khi thì đi chơi ở các núi An tử, núi Ngọa vân và núi Ðồ sơn. Ði đến đâu
làm thơ ngâm vịnh đến đấy, hoặc gặp chỗ nào có cây cối mát, chim kêu ríu
rít thì lấy làm khối chí lắm, nhởn nhơ cả ngày.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

sự.


Ngài bảo rằng:


- Ngày sau nước có việc, ở xứ Cao Bình tuy nhỏ nhưng cũng có thể hưởng
phúc được vài đời nữa.


Ðến sau nhà Mạc mất nước, chạy lên Cao Bình, quả nhiên cịn giữ được bốn


đời rồi mới tuyệt.


Ngày 28 tháng một năm Ất Dậu, ngài mất, thọ 95 tuổi. Học trò gọi ngài là
"Tuyết giang phu tử".


Ngài học tinh về thuật số, phàm các việc tai, tường họa, phúc cùng là ngày
mưa, ngày nắng, việc gì cũng biết trước.


Có một người học trị tên là Bùi Sinh, ngài bảo người ấy về sau tất phú quí.
Ðến khi Bùi Sinh gần bảy mươi tuổi vẫn còn nghèo hèn, cho là ngài đốn số
mình sai; ngài cười khơng nói gì. Một hơm ngài bảo Bùi Sinh mượn một
chiếc thuyền đánh cá cho bơi ra bến Hồng Ðàm ở bể Vạn Ninh, đợi đến giờ
ấy... hễ gặp cái gì thu lấy dem về, chắc được thưởng to. Bùi Sinh tuân lời,
quả nhiên gặp một bà cụ già, áo mũ chỉnh tề, đi thuyền bị bạt phong đến
đấy.


Bùi Sinh đem về phụng dưỡng tử tế. Ðược vài hơm có ơng tổng đốc Quảng
Ðơng sai người sang nói với vua ta rằng: Thái phu nhân chơi bể bạt phong,
xem thiên văn thì thấy ở phương Nam xin nhà vua vì nghĩa láng giềng cho
kiếm giúp. Ngài sai Bùi Sinh đem bà cụ ấy dâng lên, vì thế được phong tước
là Thao quận Cơng.


Năm Thuận bình thứ 8 nhà Lê (1556) vua Trung tơn mất, khơng có con, bấy
giờ Trịnh Kiểm đang cầm quyền có bụng hồ nghi, khơng nghĩ ra thế nào.
Hỏi Phùng Khắc Khoan cũng không biết thế nào cho phải, mới sai người lén
ra Hải Dương để hỏi ngài, ngài chẳng nói gì chỉ ngoảnh lại bảo người đầy
tớ.


- Năm nay mất mùa, thóc giống khơng tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà
gieo mạ.



Nói rồi, sai tiểu quét dọn đốt hương để ngài ra chơi chùa và bảo tiểu.
- Giữ chùa thờ phật thì ăn oản.


Ðó là có ý khun Trịnh Kiểm tìm lấy dịng dõi nhà Lê mà lập lên, mà phải
cứ giữ đạo làm tôi ăn mày phật thì mới hưởng phúc.


Sứ giả về nói với Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm hiểu ý, mới đón vua Anh Tôn lập
lên, quả nhiên dựng lại được cơ đồ nhà Lê mà họ Trịnh cũng đời đời vinh
hiển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

lại chồng đá làm một rặng núi ngang. Trên núi cây cối rườm rà, có đàn kiến
đang bị trên tảng đá, ngài nhìn xem đàn kiến, rồi tủm tỉm cười nói:


- Một dãy núi Hồnh Sơn (núi ngang) kia, có thể n thân được mn đời.
Người kia thấy nói vậy. Về nói với đức Dụ Tổ. Ðức Dụ Tổ biết ý, mới xin
vào trấn thủ trong xứ Thuận Quảng (trong ấy, có dãy núi Hoành Sơn), quả
nhiên mỗi ngày một thịnh, mở ra cơ nghiệp Nguyễn triều.


Học trò ngài rất nhiều nhưng chỉ có Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khanh,
Nguyễn Dữ, Trương thời Cử làm nên to mà có danh hơn cả. Phùng, Lương
thâm thúy về nghề lý học, cùng làm danh thần lúc nhà Lê trung hưng.
Khi trước ông Phùng Khắc Khoan thuê nhà đến học ngài. Lúc học giỏi rồi,
ngài đang đêm đến chơi ở nhà trọ, gõ cửa mà bảo rằng:


- Gà đã gáy rồi, sao khơng đứng dậy mà thổi cơm ăn, cịn nằm mãi làm gì?
Lời ấy có ý giục ơng Khắc Khoan vào Thanh Hóa giúp nhà Lê. Ơng Khắc
Khoan biết ý thế mới cùng Nguyễn Dữ vào giúp nhà Lê, làm đến công thần.
Ngài làm thơ phú rất nhiều, đến nay vẫn còn một tập thơ đề là "Bạch vân am
thi tập" và một quyển sấm ký bây giờ vẫn gọi là "Sấm Trạng Trình".



<b>TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN HIỀN</b>
<b>(1235 - 1255)</b>


Đền Dương A, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực thờ Trạng nguyên Nguyễn
Hiền (thế kỷ XIII)


Thường gọi là Trạng Hiền, sinh năm 1235 tại làng Dương A, xã Nam Thắng,
huyện Nam Trực. Từ thủa nhỏ đã sớm tiếp xúc với chữ nghĩa và sách vở.
Khi mới lên bốn tuổi đã là người có học thức xuất sắc, năng khiếu kỳ lạ. Trí
thức gần xa đến thử tài đều bái phục và suy tôn là thần đồng xuất chúng.
Đỗ Trạng Nguyên năm 13 tuổi, khoa thi Thái học sinh năm Đinh Mùi niên
hiệu Thiên Ứng Chính bình thứ 16 (1247) đời vua Trần Thái Tông, cùng
khoa với Bảng nhãn Lê Văn Hưu và Thám hoa Đặng Ma La. Ông là vị
Trạng nguyên ít tuổi nhất của nước ta từ trước tới nay. Làm quan đến
Thượng thư bộ Công.


Nguyễn Hiền là người rất thơng minh, có trí nhớ tuyệt vời, thủa nhỏ đã được
gọi là thần đồng, đọc đâu nhớ đấy, học một biết mười... có tài ứng biến trong
mọi tình huống, nhất là đối thoại với các sứ thần nước ngồi. Tương truyền
có nhiều câu đố hiểm hóc của các sứ thần Mơng Cổ, Trung Quốc, cả triều
đình lúng túng, nhưng Nguyễn Hiền đã lập tức giảng giải được hết, làm cho
vua quan ngoại bang phải kinh ngạc, kính nể. Chính ơng đã góp phần tạo
điều kiện kéo dài thời gian hồ hỗn để nhà Trần chuẩn bị kháng chiến. Tiếc
rằng ông mất quá sớm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Một lần trạng nặn con voi đất, rồi lấy bốn con cua để vào bốn chân, lấy đỉa
làm vòi, lấy bướm làm tai thành ra voi đất cũng cử động được, khiến bọn trẻ
vui thích reo hị ầm ĩ. Chợt một ông quan đi qua đứng lại xem và hỏi chuyện
Hiền. Thấy Hiền khéo léo lại láu lĩnh, ông quan liền đọc bỡn một câu;



Ðồng tử ngũ lục nhân, vô như nhĩ xảo!
Nghĩa là:


Bọn trẻ năm sáu đứa, không đứa nào khéo bằng mày.


Trạng thấy vậy, hỏi ông quan rằng: "Trước hết xin ông cho biết ông làm
chức quan gì?". Quan nói: "Ta là quan thái thú ăn lương hai ngàn hộc". Thấy
quan có ý khoe khoang, Hiền liền đọc rằng:


Thái thú nhị thiên thạch, mạc nhược công...
Nghĩa là:


Quan thái thú ăn lương hai ngàn hộc, chẳng ai... bằng ơng.


Quan cười bảo: "Ðối cịn thiếu một chữ!". Hiền nài cho tiền rồi sẽ đối nốt.
Quan cho tiền xong, Hiền liền bổ sung rằng:


Thái thú nhị thiên thạch, mạc nhược công liêm
Nghĩa là;


Thái thú ăn lương hai ngàn hộc, chẳng ai liêm bằng ông.
Quan chịu là giỏi, nhưng vui miệng hỏi thêm:


- Thế nếu ta không cho tiền, thì chú đối chữ gì?
Hiền trả lời:


- Khó gì? Nếu ơng khơng cho tiền thì tơi chỉ việc điền chữ "tham" vào thôi.
Quan biết thằng bé láu cá, đành phải bỏ đi khơng dám trêu chọc gì nữa, kẻo
lại mang tiếng "to đầu mà dại"!.



Lúc mới lên sáu, bảy tuổi, ông đi học nhà sư ở chùa, nhà sư mỗi buổi dạy
mười tờ giấy, Nguyễn Hiền học qua là thuộc làu.


Theo sách “Nam Hải Dị Nhân” của Phan Kế Bính, một hơm nhà sư tụng
kinh vừa xong vào phòng nằm nghỉ, mơ thấy Phật giáng xuống bảo rằng:
“Nhà sư sao không bảo Trạng cứ để cho lên chùa lờn với Phật?” Nhà sư tỉnh
dậy, soi đèn xem các tượng Phật thì thấy sau lưng mỗi tượng có chữ đề
“Phạt 30 trượng” và sau mình hai tượng hộ pháp thì có chữ “Phạt 60 trượng”
Nhận xét chữ thì chính chữ Nguyễn Hiền. Nhà sư quở mắng Nguyễn Hiền,
bắt phải lấy nước tẩy đi.


Nguyễn Hiền học các sách, qua mắt một lượt là nhớ ngay. Thơ từ phú sách,
nói ra tức là văn chương. Năm mười một tuổi đã nổi tiếng thần đồng, bấy
giờ có người học trị ở Kinh Bắc tên là Đặng Tính, tự thị tài mình hơn cả
đời. Nghe tiếng Hà Dương có thần đồng đến chơi tận nhà, thử xem tài học ra
làm sao. Khi đến ra một bài phú:


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Chim phụng hồng làm tổ trên A cát, con Kì lân chơi ở vườn Uyển lựu.
Nguyễn Hiền đọc ngay bốn câu dịch nghĩa như sau:


Không phải con rùa ở sông Lạc Thủy
Không phải con rồng ở sông Mạnh Hà
Ấy kia nước Hữu hùng (hùng là con gấu)
Đóng đơ ở gị Trác lộc (lộc nghĩa là con hươu).


(Bốn câu trên, câu nào cũng có tên càm thú cho nên hay)


Đặng Tính mới nghe được bốn câu, đã lắc đầu lè lưỡi nói rằng:
- Thiên tài xin nhường bậc trẻ tuổi này!



Năm ấy thi đỗ thủ khoa. Năm sau vào thi đình, vua ra bài phúc “ấp từ từ kê
mẫu phi hồ” nghĩa là con vịt từ giã mẹ gà về hồ. Văn Nguyễn Hiền hay nhất,
vua cấy lên đỗ Trạng Nguyên, bấy giờ mới mười hai tuổi.


Trạng vào bái mạng vua trong sân rồng, vua thấy còn bé loắt chắt, lấy làm lạ
hỏi rằng:


- Trạng nguyên học ai ở nhà?
Trạng thưa rằng:


Tâu bệ hạ, tôi sinh ra đã biết ngay, cịn chỗ nào khơng biết thì hỏi nhà sư
một vài chữ mà thôi.


Vua thấy Trạng ứng đối, chưa biết lễ phép, ăn nói khơng được khiêm tốn,
mới cho về học lễ phép, ba năm rồi mới dùng làm quan.


Nguyễn Hiền về nhà ở không được bao lâu có sứ Tầu đem một bài thơ ngụ
ngơn sang thử nhân tài nước Nam. Thơ rằng:


Lưỡng nhật bình đầu nhật,
Tú sơn điên đảo sơn.


Lưỡng vương tranh nhất quốc,
Tứ khẩu tung hoành gian.


Vua hỏi các qn thần thì khơng ai hiểu nghĩa lý ra làm sao. Phải sai hai
quan văn võ đến nhà ông Nguyễn Hiền mời vào triều để hỏi. Hai quan sứ
đến làng Hà dương, gặp một đứa trẻ trong nhà hàng, mặt mũi phương phi.
Sứ giả hỏi gì đứa trẻ ấy không thèm đáp lại. Mới đọc một câu đối nôm rằng:


“Tự là chữ, cất giằng đầu chữ tử là con, con ai con ấy?”


Đứa trẻ đối ứng khẩu ngay:


“Vu là chưng, bỏ ngang lưng chữ đinh là đứa, đứa nào đứa này?”
Sứ giả biết đứa trẻ ấy là Trạng Hiền, mới hỏi thăm đến tận nhà thì thấy
Trạng đang lúi cúi ở dưới bếp, nhân đọc một câu rằng:


“Ngô văn quân từ viễn bảo trù; hà tu nự áo”
Nghĩa là:


Tôi nghe quân tử xa chỗ bếp nước, lọ là phải nịnh vua bếp.
Trạng ứng khẩu đối rằng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Nghĩa là:


Ta cốt có chức làm được Tể tướng, nhưng còn tạm nấu nồi canh. Nấu canh
lạt mặn tại tay cũng như chức làm tướng.


Sứ giả thất ứng đối nhanh nhẩu và có ý cao, chịu là giỏi, mới bầy kế ý vua
xin mời vào Kinh.


Trạng nói rằng:


- Thiên tử trước kia bảo ta chứa biết lễ phép, nhưng chẳng những là Trạng
chưa biết lễ phép, cả đến Thiên tử cũng chưa biết lễ phép.


Nói thế rồi nhất định khơng chịu đi.


Sứ giả về tâu lại với vua, vua phải đem xe ngựa và đồ lễ đến đón, bấy giờ


Trạng mới đi.


Khi đến kinh, vua đưa bài thơ của Tầu ra hỏi. Trạng Hiền cầm bút viết ra
một chữ và giải rằng:


- Câu thơ thứ nhất nghĩa là chữ nhật, ngược suôi bằng đầu nhau; thứ nhì là
bốn chữ san, ngược si cũng là chữ san cả; thứ ba hai chữ vương tranh
nhau ở trong một nước, thứ tư là bốn chữ khẩu ngang dọc đều là khẩu cả.
Tóm lại chỉ là một chữ điền.


<b>TRẠNG NGUYÊN ĐÀO SƯ TÍCH</b>
<b>(1350 - 1396)</b>


Quê quán: làng Cổ Lễ, nay thuộc thị trấn Cổ Lễ, huyện Nam Trực. Đỗ Trạng
Nguyên khoa Giáp Dần 1374 lúc 24 tuổi, đời vua Trần Duệ tông. cả 3 kỳ thi
Hương, thi Hội, thi Đình ơng đều đỗ đầu, nên gọi là Tam nguyên. Làm quan
đến chức Nhập nội hành khiển. Ông từng viết bài đề tựa cho 8 tập sách Bảo
hoà điện dư bút của Thượng hoàng Trần Duệ Tơng, để răn dạy vua.


Do khơng đồng chí hướng, đến đời Hồ Quý Ly ông bị giáng chức. Vì bất
mãn với chính triều suy thối, Hồ Q Ly chuyên quyền, vua quan lục đục.
Ông cáo quan về quê ở ẩn, làm thuốc, chữa bệnh và dạy học. Sau đó ơng lên
Vĩnh Phúc, quy tụ hiền tài nhằm chấn hưng đất nước. Tư tưởng tiến bộ của
ông được thể hiện trong tác phẩm Sách lược phục hưng Đại Việt.


Khi nhà Minh xâm lược nước ta. Vua Trần triệu ông về kinh, giao đi xứ nhà
Minh, với kiến thức uyên bác và tài ngoại giao tuyệt vời, ông đã thuyết phục
vua Minh giảm được nhiều u sách vơ lý, kéo dài thời gian hồ hỗn. Vua
Minh đã tặng ông bốn chữ: Lưỡng quốc Trạng nguyên, suy tôn ông là Trạng
nguyên của cả nước Đại Việt và Trung Quốc. ông viết khá nhiều sách,



nhưng đến nay đã bị thất lạc hầu hết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<b>Phạm Đơn Lễ ( 1454 - ? )</b>



Ơng người làng Hải Triều, huyện Ngự Thiêm, phủ Tân Hưng. Ông thi đỗ
Trạng nguyên khoa thi Tân Sửu, niêu hiệu Hồng Đức năm thứ 12 (1481) làm
quan tới chức Thượng thư. Khi ơng lớn lên, làng Hới đã có nghề dệt chiếu từ
lâu. Nhưng chiếu dệt khung đứng, khơng có ngựa đỡ sợi nên chiếu không
đẹp. Đi sứ sang Trung Quốc, khi qua vùng Ngọc Hà, Châu Quế Lâm, tỉnh
Quảng Tây, Phạm Đơn Lễ đã tìm hiểu và học được bí quyết kỹ thuật dệt
chiếu của người Trung Quốc. Đó là kỹ thuật dệt khung nằm, có ngựa đỡ sợi
dọc, làm cho sợi đay căng, chao cói nhanh hơn và chiếu đẹp hơn. Ơng đã
phổ biến kinh nghiệm và kỹ thuật dệt mới cho nhân dân. Ông cho cải tiến
khung dệt. Nhờ vậy, chiếu Hới đẹp hơn và nổi tiếng từ đó. Dân làng tôn ông
là ông Tổ nghề dệt chiếu, gọi ông là "Trạng Chiếu" và lập đền thờ sau khi
ông mất; đền thờ Phạm Trạng Nguyên.


<b>Vũ Duệ ( ? - 1520 )</b>



Cịn có tên là Vũ Cơng Duệ, tên lúc nhỏ là Nghĩa Chi, người xã Trình Xá,
huyện Sơn Vi, trấn Sơn Tây( nay thuộc huyện Thanh Sơn, tỉnh Vĩnh Phú).
Đỗ Trạng nguyên khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490). Làm
quan đến Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ chầu Kinh diên,
được tặng Thiếu bảo, tước Trịnh Khê Hầu.


Hồi còn nhỏ, cha mẹ đi cày vắng nhà, Duê chơi với bọn trẻ con trong xóm,
nặn đất làm con voi, bắt hai con bướm làm hai tai, cầm con đỉa làm vòi, lấy
bốn con cua làm chân, thành ra voi đất mà vẫy được tai, vòi co lên quắp
xuống và chân đi được, ai trông thấy cũng cho là tinh qi.



Một lần, có người đến địi nợ hỏi: "Bố mày đâu"? Công Duệ đáp: "Bố tôi đi
chém cây sống, trồng cây chết". "Mẹ mày đâu"? "Mẹ tơi đi bán gió, mua
que". Người địi nợ lấy làm lạ, khơng biết cha mẹ nó làm gì mà nó nói thế,
hỏi căn vặn nó mãi thì nó cười mà không đáp. Chủ nợ mới dỗ dành bảo nó:
"Mày cứ nói thật, ta sẽ tha nợ cho mày, khơng địi nữa". Duệ cầm một cục
đất dẻo, bảo chủ nợ in tay vào làm tin, người kia cũng in tay vào xem sao.
Duệ bèn nói: "Cha tơi đang nhổ mạ cấy lúa, cịn mẹ tơi đi bán quạt". Người
kia lấy làm kỳ dị. Hôm khác lại đến địi nợ. Duệ đưa hịn đất có vết tay in
mà nói: "Tay ơng ký vào đây cịn địi gì nữa"? Người kia đứng ngẩn mặt ra,
khơng biết nói làm sao, nhân khuyên cha mẹ Duệ cho đi học và giúp món nợ
ấy để lấy món tiền mua sách.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

20 tuổi. Đến khi làm quan, tính khí cương trực, vua cất lên làm đơ ngự sử,
các quan ai cũng kính nể.


Khi nhà Mạc cướp ngơi vua Lê, đình thần nhiều người a dua về Mạc Đăng
Dung, ai không nghe đều bị giết. Đăng Dung sai người dụ Công Duệ về làm
quan với mình. Cơng Duệ nhất định khơng theo kẻ tiếm vị, nhưng liệu cũng
không yên, bèn đeo cả quả ấn ngự sử đâm đầu xuống cửa bể Thần Phù mà
chết.


Cách 60 năm sau, nhà Lê trung hưng, khôi phục được thành Thăng Long, sai
đúc ấn ngự sử, đúc mãi không thành, mới sai người xuống cửa bể tìm quả ấn
trước. Người lặn xuống đến nơi thấy Cơng Duệ vẫn cịn đội mũ áo chỉnh tề,
cổ đeo túi ấn, ngồi xếp bằng tròn ở dưới đáy bể như còn sống.


Người ấy sợ hãi lên kể lại, chuyện đến tai vua. Vua lấy làm lạ, chắc là khí
tinh anh của Cơng Duệ kết lại, mới sai quan làm lễ cúng bái, rồi sai người
vớt xác Công Duệ lên, dùng lễ khâm liệm trọng thể rồi đưa về làng Trinh Xá


an táng, phong làm Thượng Đẳng Phúc Thần.


<b>Lê Ích Mộc ( ? - ? )</b>



Lê Ích Mộc đỗ Đình Nguyên, Trạng nguyên tại khoa thi năm Nhâm Tuất
(năm 1502), đời vua Lê Hiển Tông, sinh năm 1448, song năm mất thì đến
nay vẫn chưa được xác định chính xác.


Ơng là người làng Thanh Lãng (tên nôm là Ráng), huyện Thủy Đường nay
là thôn Quảng Cư, xã Quảng Thanh, huyện Thuỷ Nguyên( Nay là huyện
Thủy Nguyên , thành phố Hải Phòng ). Xuất thân trong một gia đình nghèo,
thời hàn vi, Lê Ích Mộc ở nhờ chùa Diên Phúc. Vì thế ông thường được nhà
chùa nhờ chép và dịch kinh Phật. Ông làm quan đến chức Tả Thị Lang. Sau
khi về trí sĩ, ơng về q và mở trường dạy học, khai khẩn đất hoang (hiện
còn dấu vết khu ấp ông khai khẩn và khu rừng lim). Sau khi ông mất, dân
Thanh Lãng và Quảng Cư đều thờ làm phúc thần, thường gọi là đền quan
Trạng Ráng.


<b>Lê Nại ( 1528 - ? )</b>



Có sách chép là Lê Đỉnh, người xã Mộ Trạch , huyện Đường Am, phủ
Thượng Hồng( nay là huyện Cẩm Bình, Hải Hưng ). Đỗ Trạng nguyêhn
khoa Ất Sửu, niên hiệu Đoan Khánh thứ nhất (1505), đời Lê Uy Mục. Làm
qua đến Hộ bộ Thị Lang , lúc mất được tặng tước Đạo Trạch Bá.


Ông thuở bé nhà rất nghèo, phải vừa học, vừa dạy thêm con em trong làng
để độ khẩu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

đến gả con gái cho và cho ở gửi rể trong nhà. Nhưng từ khi vào ở gửi rể, Lê
Nại chỉ ngồi thừ suốt ngày, không chịu học hành, mà cũng chẳng buồn mó


đến bất cứ việc gì. Vũ Quỳnh rất lấy làm lạ, đến hỏi người bố Lê Nại. Ông
bố trả lời:


- Con nhà học trò nghèo, được nương thân vào cửa cao quý, lại được đội ơn
nuôi dưỡng dạy dỗ, lẽ nào lại dám sao nhãng học hành hoặc lười biếng với
cơng việc của gia đình ân nhân được?. Nhưng có điều này, tơi hỏi khí không
phải: không rõ mỗi ngày tướng công cho cháu ăn uống như thế nào?


Vũ Quỳnh vẫn chưa hiểu, cười khiêm tốn mà trả lời:


- Nhà nho thanh đạm, nhà có gì ăn thì vẫn tiếp đặt con rể như thế thơi!
Ơng bố mới bảo:


- Con tơi nó ăn khác thường lắm. Có lẽ vì nó ăn chưa được no mà khơng
dám nói ra chăng?


Vũ Quỳnh về, bảo người nhà dọn cơm riêng cho Lê Nại, tăng phần lên gấp
bội. Cho ăn một đấu, học đến tối; cho ăn một đấu năm lẻ học đến trống canh
ba; cho ăn một đấu tám lẻ, học đến trống canh tư. Vũ Quỳnh nói:


- Rể ta tài khí phi thường, nhất định sẽ làm nên sự nghiệp!.


Liền bảo người nhà cứ định mức mỗi bữa ăn là hai đấu. Từ đấy Lê Nại đọc
sách suốt ngày liền đêm không thấy chán. Một hôm muốn thử tài chàng rể,
Vũ Quỳnh thình lình đến thăm Lê Nại trong phịng học, rồi bảo ông tức cảnh
một bài về việc ăn học của mình. Lê Nại khơng nghĩ ngợi gì, đọc ngay bài
tán sau đây:


Mộ Trạch tiên sinh
Dĩ thực vi danh,


Thấp bát bát phạn,
Thập nhị bát canh,
Khôi nguyên cập đệ,
Danh quán quần anh,
Sức chi giã cự,


Phát chi giã hoành...
Nghĩa là:


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Phát triển dồi dào!


Bố vợ và chàng rể đều cả cười. Quả nhiên về sau Lê Nại đỗ Trạng nguyên,
đúng như lời đã nói trong bài tán.


<b>Nguyễn Giản Thanh ( 1482 - ? )</b>



Nguyễn Giản Thanh, người làng Ông Mặc (làng Me), huyện Ðông Ngàn
(nay là Từ Sơn), Bắc Ninh. Sống vào khoảng đầu thế kỷ XVI; sinh năm
1482, mất năm nào khơng rõ. Ơng lúc nhỏ rất thông minh, mới 16 tuổi đã
thông hiểu rất nhiều sách vở, sau đỗ Trạng Nguyên; nên tục gọi là Trạng
Me.


Một hôm đang đi học ở trường, thầy học là Thượng thư Ðàm Thận Huy vừa
giảng bài song thì trời sập mưa, học trị đều phải ngồi lại. Ông Huy nhân
thấy vậy, bèn ra một câu đối để học trị cùng đối cho vui:


Vũ vơ kiềm toả năng lưu khách.
Nghĩa là:


Mưa khơng có then khố mà giữ được khách


Nguyễn Giản Thanh đối ngay rằng:


Sắc bất ba đào dị nịch nhân
Nghĩa là:


Sắc đẹp chẳng phải sóng gió mà làm đắm đuối người ta.


Ơng Huy xem xong khen rằng: "Câu đối này hay lắm, giọng văn này có thể
đỗ Trạng được, nhưng sau tất mê đắm vào vòng sắc dục làm hại lây đến sự
nghiệp!".


Tiếp đó, một người học trị tên là Nguyễn Chiêu Huấn lại đối:
Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân


Nghĩa là:


Mặt trăng giống cái cung mà chẳng bắn ai


Ông Huy phê: "Câu này kém sắc sảo, không hay bằng câu kia, nhưng tỏ ra
khí chất hiền hồ, sau này sẽ làm nên, cuộc sống sẽ chu tồn!"


Sau đó, lại có một người học trò khác đối rằng:
Phân bất uy quyền dị sử nhân


Nghĩa là:


Phân cứt chẳng uy quyền gì mà dễ sai khiến người
Ông Huy phê: "Sau giàu sang nhưng là hạng bỉ lậu!"


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

cũng chê là hạng thô lỗ, bỉ ổi.



Truyện kể thêm rằng: Ðời Vua Minh Huệ, Trần Hố Chiêu ở huyện Tế
Hàng, tỉnh Sơn Ðơng, Trung quốc, có người vợ là Lương Tiểu Nga rất đẹp.
Ở cùng huyện có nhà phú hộ tên là Trát Háo Sắc. Háo Sắc thấy Tiểu Nga
đẹp, tìm cách kết bạn với Hoá Chiêu. Lập tâm chiếm cho được vợ bạn, Háo
Sắc bỏ ra rất nhiều tiền để giúp bạn trong việc làm ăn hoặc lúc nguy khốn.
Qua hai năm, sau khi chiếm được cảm tình của nhà bạn, Háo Sắc rủ Hoá
Chiêu ngồi thuyền đi bn, mọi vốn liếng đều do mình chịu cả. Thuyền đi
một tháng đến Hàng Châu, Háo Sắc phục rượu cho Hố Chiêu say rồi xơ
xuống biển. Mấy lần Hoá Chiêu trồi lên đều bị tên phản bạn nhấn xuống cho
chìm, cuối cùng chàng phải vùi thây dưới đáy biển. Chừng ấy, Háo Sắc mới
tri hô lên cho bè bạn hay và mượn thuyền đến vớt thây bạn nhưng không
được. Háo Sắc cho thuyền trở về, khóc lóc báo tin dữ cho mẹ và vợ Hố
Chiêu, bỏ tiền cúng bái và cùng Tiểu Nga để tang. Từ đó, Háo Sắc càng tỏ ra
hết lịng lo lắng mọi việc nhà cho vợ bạn khiến mẹ Hoá Chiêu cảm động và
ép dâu là Tiểu Nga ưng Háo Sắc làm chồng đền công ơn giúp đỡ. Hai người
ăn ở với nhau ít lâu, nhân vơ ý, Háo Sắc để lộ việc mình âm mưu hại bạn.
Tiểu Nga đến huyện đường đầu cáo và trả được thù cho chồng cũ. Nhưng
nàng nhận thấy vì nhan sắc của mình mà cả hai người chồng đều bị chết,
Tiểu Nga thắt cổ tự tử.


Như vậy là nguồn gốc và hồn cảnh ra đời của câu "Vũ vơ kiềm toả năng
lưu khách" đã có một đáp số, là "vế ra" của "vế đối": "Sắc bất ba đào dị nịch
nhân" (Mưa gió chẳng có kiềm khố mà vẫn giữ được khách. Nhan sắc đàn
bà dù không thấy sóng nổi vẫn đánh đắm được người). Cũng xin nói thêm vế
trên của tài liệu ghi là "Vũ vơ kiềm toả năng lưu khách". Phải chăng "thiết
toả" và "ba đào" đối với nhau chỉnh hơn.


<b>NGUYỄN THIẾN (1495-1557)</b>




</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Bảo, thành phố Hải Phòng. 45 tuổi đỗ Trạng nguyên năm 1535 (theo Liệt
huyện đăng khoa bị khảo (LHDK), Tam khôi bị lục; Bạch Vân Am cư sĩ
Nguyễn Công Văn Đạt phả ký; Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục;
Đại Việt lịch đại Tiến sĩ khoa thực lục (TSTL): đỗ năm 50 tuổi), sau Nguyễn
Thiến một khoa. Cả 5 trường thi (tức bài thi Hội và bài thi Đình) đều đỗ đầu.
Làm quan đến chức Thượng thư, Thái phó, tước Trình Quốc cơng. 52 tuổi
(1542), ơng xin về trí sĩ. Nhưng vua Mạc Phúc Nguyên (1546-1561) vẫn
thường sai sứ đến hỏi quốc sự. Ông mất năm Mạc Diên Thành 8 (1585) đời
Mạc Mậu Hợp (1562-1592). Thọ 95 tuổi theo LHĐK, TSTL: thọ 90 tuổi.
Nguyễn Bỉnh Khiêm tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân Am. Tác phẩm hiện còn 2
tập thơ: Bạch Vân Am thi tập (chữ Hán) và Bạch Am quốc ngữ thi (chữ
Nôm). (CNKBVN 1075-1919, tr. 375). Năm 1551, Mạc Phúc Nguyên nghe
lời gièm pha của kẻ nịnh thần, nghi ngờ đại tướng Thái tể Phụng Quốc công
Lê Bá Ly 77 tuổi (1476-1557), em rể vua Mạc Đăng Dung (1527-1529), và
con là Thái phó Lê Khắc Thận có ý làm phản, nên sai quân vây bắt hai cha
con Lê Bá Ly và thông gia Nguyễn Thiến. Sau khi thoát được sự vây bắt của
vua quan nhà Mạc, trong thế bất đắc dĩ, Nguyễn Thiến phải cùng hai con là
võ tướng Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn (3) và gia đình theo Lê Bá Ly dẫn
quân trốn vào Thanh Hóa quy thuận triều Lê đã trung hưng ở đây (4). Vua
Lê Trung Tông (1548-1556) ban thưởng cho Nguyễn Thiến, cho giữ nguyên
chức tước cũ, đảm trách việc tuyển bổ quan lại cho nhà Lê khoảng 7 năm.
Ông bị bệnh mất năm Thiên Hựu (1557) đời Lê Anh Tông (1556-1573), thọ
63 tuổi. Tác phẩm của ơng cịn để lại có 5 bài thơ trong Tồn Việt thi lục.
Tương truyền khi ơng cùng với hai người con sắp bỏ nhà Mạc theo nhà Lê,
Nguyễn Bỉnh Khiêm có gửi ơng một bài thơ có nhiều câu cảm khái. Nhưng
sau đó ơng vẫn quyết định vào Thanh Hóa giúp vua Lê. Trong Bạch Vân
Am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm còn ghi lại nhiều bài thơ của ông. (Từ
điển nhân vật lịch sử Việt Nam - TĐNVLSVN), tr. 636).


Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC), Tập I, Nhân Vật chí, trang 266,


vinh danh ơng là một trong 39 Người Phị tá có cơng lao tài đức thời sau Lê
trung hưng: "Lại xét lúc bấy giờ có những người làm tơi nhà Mạc rồi mới
qui thuận, mà làm đến Tể tướng (dịch chữ Thai phụ) thì trước sau có ba
người là Nguyễn Thiến, Nguyễn Phương Đĩnh, Đỗ Uông, tiếng tăm sự
nghiệp của họ đều có tiếng ở đời...".


<b>Phạm Trấn ( ? - ? )</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

hiệu Quang Bảo thứ 3 (1556), đời Mạc Tuyên Tông . làm quan cho nhà
Mạc , khi nhà Mạc mất, cự tuyệt không ra làm quan cho nhà Lê nên bị ám
hạị


Khoảng đời nhà Mạc, ở miền Hải Dương có hai người bạn ở gần làng nhau:
Phạm Trấn ở làng Lâm Kiều và Ðỗ ng ở làng Ðồn Lâm.


Vào năm Quang Bảo đời Mạc Phúc Nguyên (1554- 1561), hai người cùng
trạc ba mươi tuổi và cùng đỗ khoa thi hội. Ðến kỳ thi đình, Phạm Trấn đỗ
Trạng ngun, cịn Ðỗ ng thì đỗ Bảng nhãn. Trấn, sức học vốn kém
ng, nên hí hửng lắm, bảo: "Gìờ ta mới đè được thằng ng đây!"
ng nghe nói tức lắm. Lúc vinh quy, Trạng Bảng cùng về một đường.
Bảng không chịu nhường Trạng đi trước, cứ dóng ngựa đi ngang hàng.
Ðến làng Hoạch Trạch, dân chúng kéo nhau ra xem và xin thơ để đề vào
chiếc cầu ở đầu làng. Ðó là chiếc cầu ngói hơn mười gian. Bảng, Trạng liền
thách nhau qua bảy gian phải vịnh xong bài thơ; ai xong trước đi trước,
không được tranh nhau.


Lần ấy Trấn thắng, ai cũng chịu tài, chỉ Uông không phục, cho là thơ đã làm
sẵn từ bao giờ. Rồi, lại dóng ngựa đi ngang hàng. Ðến làng Minh Luận, có
người mới làm xong nhà, ra đón đường xin một bài thơ mừng nhà mới. Trấn
đọc luôn:



Năm năm thêm phú quý
Ngày ngày hưởng vinh hoa
Xưa có câu như thế


Nay mừng mới làm nhà.


Lần này, ng đã có vẻ hơi chịu tài nhanh nhẹn của Trấn. Ðến cầu làng
Ðoàn Lâm, tục gọi là Cầu Cốc, trong cầu có cơ bán hàng là cô Loan; hai
người lại thách nhau làm bài thơ Nôm lấy đề là "Cô Loan bán hàng cầu
Cốc". Hạn mỗi câu phải có hai giống chim, qua cầu phải xong, ai xong trước
đi trước, nhất thiết không được tranh nhau nữa. Trấn ngồi trên lưng ngựa,
đọc ngay rằng:


Quai vạc đôi bên cánh phượng phong
Dở giang bán chác lựa đồ công


Xanh le mở khép nem hồng mới
Bạc ác phô phang rượu vịt nồng...


Bảng bấy giờ mới thực sự chịu phục Trạng là nhanh trí và nhường cho Trạng
đi trước, khơng tranh dành gì nữa.


<b>Nguyễn Quốc Trinh ( 1624 - 1674 )</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Thượng ( nay là xã Đại Áng, huyện Thanh Trì , Hà Nội ). Đỗ Trạng nguyên
khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 (1659), đời Lê Thần Tông . Làm
quan đến Bồi tụng. Đi sứ Thanh ,bị giết hại, sau được truy tặng Binh bộ
Thượng thư, Trì Quận Cơng. Vua cho tên thụy là Cường Trung và phong
cho làm Thượng đẳng Phúc thần.



Sách Đăng khoa lục của Trần Tiến do Đạm Ngun dịch có ghi: "Ơng nội
của Trạng nguyên một lần đi chơi trong làng nhặt được túi vàng của một
thầy địa lý người Tàu đánh rơi. Ông đem trả lại, thầy Tàu cảm ơn và muốn
chia cho người nhặt được một nửa. Ông lắc đầu cười cất tiếng: "Tơi đâu có
tham tiền mà chỉ tham cái chữ thôi. Nhưng chữ nghĩa chẳng ai đánh rơi bao
giờ!...". Thầy Tàu ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: "Nếu ơng khơng thích vàng
bạc thì để tôi đền ơn bằng chữ nghĩa vậy. Tôi cam đoan rằng con cháu ông
sẽ học hành tấn tới, đỗ đạt cao". Nói rồi thầy Tàu tìm một mảnh đất gần đó
bảo ơng nội đem hài cốt của tổ tiên táng vào đó, và trồng bên cạnh mộ một
cây hoa. Bao giờ thấy bên mộ cây hoa đơm hoa thì thắp hương khấn cầu
khắc được".


Nghe lời thầy Tàu, ông bố Trạng nguyên làm y như lời thầy dặn. Vài năm
sau vợ ông sinh được hai con trai, rồi ông qua đời. Hai anh em phải làm thuê
làm mướn để lấy tiền đi học một thầy đồ nổi tiếng trong tổng. Một hôm
người chị gái lấy chồng xã bên mang gạo tiền chu cấp thêm cho hai em thấy
cả hai đứa đang mải mê gọt sáo diều bèn mách với thầy. Thầy đồ tức giận
gọi vào cất tiếng;


- Hai trò học bài xong chưa mà đã đi chơi vậy?
Nguyễn Quốc Trinh thưa:


- Dạ, thưa thầy... anh em đâu có chơi mà ngồi ngẫm cho chữ nó chui xuống
bụng ạ.


Thầy giận dữ:


- Ngươi chỉ giỏi biến báo, học mà tay không cầm sách...? Ta ra câu đối, nếu
anh em ngươi khơng đối được thì ta sẽ phạt roi.



Ngẫm nghĩ một lúc, thầy chỉ vào người chị gái của Nguyễn Quốc Trinh vuốt
râu cất tiếng:


- Bất học hiếu du, vi tỉ giáo. (Khơng học thích chơi, trái lời chị)
Nguyễn Quốc Trinh nhoẻn cười rồi lễ phép đối lại:


- Đăng khoa cấp đệ, trọng sư danh. (Đỗ khoa cấp đệ nổi danh thầy)
Thầy đồ trịn mắt nhìn Nguyễn Quốc Trinh:


- Xưa nay ta vẫn nghĩ con nhà nông phu đi học chỉ may ra lấy được cái bằng
Tú tài cho oai với làng xóm nào ngờ người lại hay chữ như vậy. Nếu hai trò
chăm chỉ ta tin rằng cả hai anh em đều sẽ đỗ cao. Thôi từ nay ta nuôi cho cả
hai anh em ăn học và không phải đi làm thuê làm mướn nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

1659 hai anh em cùng lên Kinh đô dự thi. Nguyễn Quốc Trinh đậu Trạng
nguyên, còn em là Nguyễn Đình Trụ đậu tiến sĩ. Nguyễn Quốc Trinh là
người rất có cơng với Chúa Trịnh Tạc.


Chuyện xưa khơng biết thực hư thế nào. Nhưng chuyện câu đối của Nguyễn
Quốc Trinh là có thật. Học trị mà biết kính thầy được thầy yêu cũng là lẽ
đương nhiên. Mong rằng, tình thầy trị như vậy sẽ được tái hiện lại trong
cuộc sống hôm nay.


<b>Trạng nguyên Nguyễn Hiền</b>



Nguyễn Hiền vốn quê làng Hà Dương (tỉnh Nam Định).


Cậu bé Hiền mồ côi cha, phải cùng mẹ sống trong một túp lều thuộc khuôn
viên chùa làng. Nương nhờ cửa Phật, nhà sư dạy cho cậu bé chữ thánh hiền,


mỗi buổi phải học xong mười tờ giấy.


Khi đọc sách, chỉ cần liếc qua, Nguyễn Hiền đã thuộc làu. Ban đêm, khơng
có tiền mua dầu thắp, chú tiểu Nguyễn Hiền bắt đom đóm, bỏ vào vỏ trứng
làm đèn, nấu sử sôi kinh. Năm 11 tuổi, Nguyễn Hiền đã đọc hết pho sách
của nhà chùa.


Nguyễn Hiền thi đình, đỗ trạng nguyên (tiến sĩ thứ nhất) lúc mới 13 tuổi. Tại
lễ triều kiến các vị tân khoa, nhà vua Trần Thái Tông (1225-1258) thấy trạng
quá nhỏ tuổi, bèn hỏi:


- Trạng nguyên học với ai?


- Thưa, tự học, chỗ nào khơng biết thì hỏi sư ông.


Thấy trạng chưa biết cách xưng hô, nhà vua lệnh cho trạng về quê quán, hẹn
ba năm sau sẽ cho vào triều và được phong quan.


Cậu "trạng non" - dân làng quen gọi một cách thân mật - về quê, vẫn ở chùa
và làm ruộng. Được ít lâu, sứ thần Tàu sang tấu trình nhà vua một bài thơ,
thách nhân tài nước Nam giải.


Bài thơ 4 câu, 5 chữ, như sau:
Lưỡng nhật bình đầu nhật
Tứ sơn điên đảo sơn


Lưỡng vương tranh nhất quốc
Tứ khẩu tung hoành giang.


Vua và cả triều đình khơng ai giải nổi nghĩa. Vua phải sai quân quan đưa


kiệu lọng cờ quạt vời Trạng Hiền vào triều. Vừa đến Thăng Long, Trạng
Hiền vào chầu ngay. Chỉ liếc qua bài thơ, cậu trạng non liền nói:


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

cạnh dính liền nhau tượng trưng biên giới của một nước. Câu thứ tư là bốn
chữ khẩu (miệng), đọc ngang, đọc dọc cũng giống nhau. Bốn chữ khẩu dính
vào nhau.


Tóm lại cả bốn câu thơ chỉ tả một chữ điền (ruộng).


Lời giải của ơng trạng non làm cho cả triều đình mát mặt, cịn sứ thần chỉ
đành bái phục sự thơng minh của người dân đất Việt.


<b>Giai thoại về Lê Văn Thịnh </b>


<b>Trạng Hóa Cọp </b>



Từ cuối thế kỷ XI, nhà Lý đã chú ý đến nho học, cho mở khoa thi đầu tiên
(Ất Mão 1075) và chọn được vì TN khai khoa ở nước ta. Đó là TN Lê Văn
Thịnh (LVT), người vùng kinh Bắc (nay thuộc huyện Gia Lương tỉnh Hà
Bắc ).


Trạng nguyên Lê Văn Thịnh nổi tiếng thông minh, đỗ đại khoa xong là có
chỉ triều đình vời ra làm quan ngay. Ông đưỢc vào cung dạy Lý Nhân Tông
- từ thuở b e, rồi tiếp đó đãm nhiệm các chức trách ở triều đình, dần dần lên
đến địa vị Thái sư.


Năm 1084, sau cuộc chiến thắng quân Tống, vua Lý va nguyên soái Lý
Thường Kiệt thực hiện chính sách ngoại giao khơng khéo, xin cùng với
Tống giảng hịa sai sứ thơng thượng Những việc đầu tiên thảo luận là vấn đề
trao trả tù binh, phân chia địa giới, đòi lại những vùng đất mà quân Tống đã
lấn chiếm trước đây. Lê Văn Thịnh - lúc này còn giữ chức lang trung binh


bộ, được cử làm trưởng đoàn sang Tống đàm phán. Hội nghị đã họp vào
tháng 7 năm Giáp Tý (1081). Phía nhà Tống cử viên sứ giả Thành Trạc đứng
đầu. Nội dung cuộc tranh luận là bàn về chương giới thuộc hai châu Quy
Hóa và Tuận An, cụ thể là đất Vật dương, Vật ác.


Chính tại cuộc hội nghị này, Lê Văn Thịnh đã nổi bật lên là một nhà ngoại
giao kiên quyết lý lẽ vững vàng, thái độ cứng rắn. Lê Văn Thịnh nói rõ hai
vùng đất ấy là của nước ta đã bị bọn tù trưởng ở biên giới nhân lúc lộn xộn
đem nộp cho nhà Tô"ng để mong tránh nạn binh hỏa nay xin nhà Tống trả
lại. Phái địn Thành Trạch khơng chịu lận luận rằng :


- Những đất khi giao tranh đã bị chiếm bay giờ đem trả lại thì đúng . Còn
những đất mà người địa phương coi giữ đã xin quy phụ về thiên triều, thí
khơng có lý gi phải trả lại .


Lê Văn Thịnh trả lời :


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Kẻ ăn trộm và kẻ tàng trữ vật trộm cắp đều sai, huống chi bọn chúng lại
mang đất trộm đến dâng là làm bẩn sổ sách của thiên triều!


Lời nói khéo léo mà nghiêm khắc của Lê Văn Thịnh đã làm cho bọn sứ thần
nhà Tống phải hổ thẹn nhưng chúng vẫn cứ lằng nhằng . Chuộc tranh chấp
đất đai này còn kéo dài nhiều năm về sau, có đến sáu lần thảo luận nữa mà
không ngã ngũ . Nhưng Lê Văn Thịnh đã được triều đình rất kính phục .
Ngay năm sau (1085) ông được thăng vượt cấp cử giữ chức Thái sư, quan
đầu triều.


Nhưng có điều lạ là kết cục hành trạng của vị Thái sư Trạng nguyên này lại
là những trang bi kịch. Một việc kỳ quặn đã xảy ra cho đến nay vẫn chưa ai
giải thích được rõ ràng. Vào một ngày nào đó (1) Vua Lý Nhân Tơng cùng


các triều thần dong thuyền dạo chơi trên Hồ Tây, để hưởng lạc thú cảnh thái
bình , sau những ngày chiến tranh chấm dứt. Thuyền ra đến giữa hồ thì
sương mù tỏa xuống che cả đội thuyền ngự, ảo ảo mờ mờ. Đó là hiện tượng
thiên nhiên quen thuộc ở hồ Tây. Bỗng ngay giữa thuyền ngự, một con cọp ở
đâu xuất hiện, nhảy vào đám đông, các quan và bọn lính ngự lâm thị vệ
hoảng hốt dạt ra, cọp lao vào vua Lý Nhân Tông như sắp sửa vồ ăn thịt.
Người lái thuyền, một ông chài can đảm và linh hoạt, vội vàng ném vào đầu
cọp một cái lưới - tình cờ ơng vớ được bên cạnh mình. Lưới lùng nhùng bổ
vây lấy cọp, làm cho nó lúng túng khơng thể thốt ra. Nhà vua và các tùy
tùng được hồn hồn, thì vưa lúc sương mù cũng giảm bớt, trông rõ mặt
người. Bọn lính xơng vào bắt cọp. Nhưng...khơng phải cọp ! Mà lại là...thái
sư Lê Văn Thịnh đang loay hoay trong tấm lưới. Lập tức, Lê Văn Thịnh bị
trói điều về để triều đình luận tội. Kết luận khơng ai nói cũng rõ: Lê Văn
Thịnh đã bị buộc là dùng phù phép để hóa thành cọp, toan giết vua cướp
ngôi. Lẽ ra phải tru di tam tộc, nhưng Lý Nhân Tông nghĩ thương một vị đại
thần đã có nhiều cơng lao trong các việc nội trị ngoại giao, lại là người có
học hành uyên bác nên không bắt tội chết. Lê Văn Thịnh bị cách hết chức
tước, đẩy vào Thanh Hóa. Ơng trú ngụ tại đây và lập cơ ngơi mới ở vùng
này. Có tài liệu cho rằng tiến sĩ Lê Quát (đời nhà Trần) là dịng dõi của ơng.
Việc Thái sự Trạng nguyên Lê Văn Thịnh hóa hổ đến nay vẫn chưa ai giải
thích được cho chính sác. Các nhà nho, các sử thần phong kiến ngày xưa đều
kết luận là Lê Văn Thịnh đã có tham vọng cướp ngội tội rất nặng. Nhưng
người ta vẫn không hiểu sao mà vua Lý lại xử phạt một cách khoan hồng.
Một số nhà nghiên cứu đời sau không tin vào chuyện phi phép đã giải thích
hiện tượng này một cách khác nhưng tên tuổi và giai thoại Trạng hóa cọp
hay Thái sư hóa cọp thì vẫn tồn tại, lưu truyền cho tới bây giờ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Lê Văn Thịnh đỗ Trạng Nguyên khoa thi năm Ất Mão, niên hiệu Thái Ninh
thứ 2 (1075) đời vua Lý Nhân Tơng. Ơng có lịng tự tơn dân tộc rất cao nên
cả đời làm quan chỉ muốn sáng tỏ cái Đạo của người Đại Việt. “Trên thuận


với trời, dưới hịa với đất, con người cung kính u thương nhau như anh
em, ấy là cái Đạo của người Đại Việt’’.


Trí tuệ ơng minh bạch rõ ràng lại có lòng thương dân nên đã xử nhiều vụ kỳ
án rất được lịng người.


Ơng là người có cơng chấn hưng việc học, rồi đòi lại những mảnh đất vùng
biên giới do người phương bắc chiếm giữ, nhưng ông vẫn bị mang tiếng oan
là có ý định giết vua nên bị đày đi xa.


Do cuộc sống của người dân bấy giờ phụ thuộc hồn tồn vào cơng việc trên
cánh đồng nên con trâu, con bò là những con vật quan trọng nhất. Để bảo vệ
những con vật giúp dân cày ruộng, triều đình cịn ra cả một điều luật cấm
giết thịt trâu bò, ai vi phạm sẽ bị phạt rất nặng, thậm chí cịn bị đi đầy ra
vùng biên ải. Tội ăn trộm trâu bò cũng bị xử nặng như tội giết hại trâu bị.
Ngồi điều luật dành cho tội giết trâu hay trộm trâu, triều đình cũng có
những điều luật rất nghiêm khắc để trừng phạt những kẻ ăn trộm. Tuy nhiên,
trải qua những thế kỷ bắc thuộc dài dằng dặc, chiến tranh rồi thiên tai tàn
phá ở khắp nơi, người dân nhiều vùng khi đó lại khơng coi trộm cắp là một
tội. Thậm chí người ta cịn cho rằng kẻ ăn cắp là người phải tinh ranh và giỏi
giang lắm mới chiếm đoạt được tài sản của người khác.


Cạnh nhà Thịnh có một người hàng xóm sống bằng nghề ăn cắp. Ơng ta
sống một mình, khơng bao giờ lấy trộm của người trong làng mà thường đi
tới các vùng xung quanh để ăn cắp.


Ban ngày ông ta ngủ, còn buổi tối lại thức dậy lẻn đi. Trong làng ai cũng biết
điều đó và họ cấm con cái mình khơng được chào ơng ta mỗi khi gặp. Cha
mẹ Thịnh thì cấm con cái khơng được bước chân sang nhà hàng xóm ấy.
Một lần cậu học trị vừa đi vừa lẩm nhẩm học bài vơ tình đâm sầm vào một


người nào đó. Thịnh đứng lại, ngẩng lên định xin lỗi. Cậu nhận thấy trước
mặt mình là người hàng xóm làm nghề ăn cắp. Ơng ta nhìn cậu bé, cố chờ
đợi một lời xin lỗi vì cả làng, khơng có ai thèm nói chuyện với ơng ta.
- Cháu xin lỗi.


Cậu học trị nói rồi định tiếp tục đi. Người hàng xóm vơ cùng vui vẻ. Rốt
cuộc cũng có một người nói chuyện với ơng ta. Ơng ta ngăn Thịnh lại:
- Bác có quyển sách này hay lắm. Nếu cháu vào nhà bác, bác sẽ cho cháu
mượn.


Nghe đến có quyển sách hay, cậu bé quên bẵng mất lời dặn của cha mẹ.
Thịnh theo ông ta về nhà. Ông ta mời cậu ngồi và lúng túng đi đi lại lại xung
quanh. Rõ ràng là ông ta chẳng có quyển sách nào cả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Thịnh đứng dậy định đi. Ông ta ngăn lại:


- Cháu ngồi uống trà với bác. Lâu lắm cháu không sang nhà bác chơi mà.
Cậu bé thành thật:


- Cha mẹ cháu không muốn cho cháu sang đây chơi.


- Thế à - Người hàng xóm lúng túng. Ơng ta biết lý do vì sao nhưng vẫn hỏi
cậu bé - Làm sao bố mẹ cháu lại không muốn cho cháu sang đây chơi.


- Vì bác là một người ăn cắp.
Cậu bé thành thật.


- Ăn cắp thì có gì là khơng tốt? - Ông ta la lên cố thuyết phục cậu bé - Cháu
biết khơng. Để ăn cắp được một vật gì đó bác cũng phải rất vất vả, thức đêm
thức hơm, nằm ở ngồi bờ rào bị muỗi cắn đầy người, rồi có những khi bị


chó cắn chảy máu ở chân ấy chứ. Cháu nhìn này.


Ơng ta kéo quần giơ bắp chân đầy vết sẹo chó cắn ra.


- Bác cũng làm lụng vất vả đấy chứ. Đó cũng là công việc cháu ạ.


- Bác cũng làm lụng vất vả? - Cậu bé ngạc nhiên - Bác ăn trộm của người
khác chứ đâu phải làm lụng gì. Như thế không phải là lao động bác ạ.


- Không. Vất vả thế thì chẳng phải là làm lụng cịn là gì. Bác cũng lao động
như mọi người mà.


Cậu bé đứng lên, quay lại lớp học. Ngay khi nhìn thấy cậu học trò bước vào
lớp, thầy đồ đã nhận thấy có điều gì khác lạ. Sau khi nghe kể lại, thầy giáo
cũng thốt lên:


- Đúng, đó khơng phải là làm lụng.


- Nhưng ơng ta nói... - Cậu học trị nhắc lại - Ông ta cũng thức đêm, cũng vất
vả như mọi người khác ạ.


- Con người có nhiều cách làm lụng khác nhau - Thầy đồ nói - Những cách
làm lụng đó đều khiến con người mất sức lực. Nhưng không phải cách làm
lụng nào cũng hướng đến điều tốt. Chính thế cho nên chúng ta phải học để
hiểu được cách làm nào là tốt cách làm nào là không tốt.


- Nhưng thế nào là một cách làm lụng tốt. Có phải cách làm lụng nào mang
lại lợi ích cho chúng ta thì là tốt không hở thầy?


Thầy đồ im lặng ngẫm nghĩ hồi lâu rồi mới nói:



- Khơng hẳn thế. Nếu mang lại lợi ích mà là tốt thì việc đi ăn trộm cũng là
tốt. Vì việc đó mang lại lợi ích cho kẻ ăn trộm. Trò thử nghĩ tiếp đi. Thế nào
là một cách làm lụng tốt?


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

- Bác khơng có tội. Khơng có tội.


- Đi ăn trộm của người khác mà khơng có tội à.
Một người lính qt.


- Ăn trộm cũng là làm việc. Bác cũng làm việc như mọi người.


Ông ta gào lên cho Thịnh nghe thấy. Cậu học trò đang đứng ở hàng rào bỗng
chạy đến gần người bị bắt. Cậu nói rất to cho ơng ta nghe được:


- Đấy không phải là làm việc. Ăn trộm khơng phải là làm việc bác ạ.
- Vì sao lại khơng phải là làm việc?


- Vì... vì... - Cậu bé hổn hển vì chạy mệt - Vì làm việc thực sự là những việc
làm ra lợi ích cho bản thân, cho gia đình mình mà cơng việc ấy khơng ảnh
hưởng đến lợi ích của người khác. Thế mới là làm việc thực sự. Còn đi ăn
trộm, bác đã cướp đi lợi ích của người khác. Đó không phải là lao động.
Kẻ ăn cắp im lặng cúi mặt để cho qn lính dẫn đi. Khơng ai biết ở phía
ngồi, thầy đồ đang đứng đó ứa nước mắt vì cảm động bởi những lời nói của
cậu học trị u.


<b>Giai Thoại về Mạc Đĩnh Chi</b>



<b>MỢT CON NGƯỜI LIÊM KHIẾT</b>




Mạc Đĩnh Chi (MĐC) thông minh từ nhỏ, lại rất chăm chỉ học hành, có tài
ứng đối mau lẹ. Năm 1304, vua Trần Anh Tông mở khoa thi để kén người
tài trong bốn cõi. Năm ấy, ông thi đỗ Trạng nguyên với điểm loại ưu. Hôm
nhà vua ban cho mũ áo , rất ngạc nhiên thấy MĐC chỉ là một chàng trai có
vóc người nhỏ, thấp , tướng mạo xấu xí. Vua Anh Tơng có ý khơng muốn
dùng ơng. M-ĐC bực lắm, khơng nói gì cả, về nhà viết bài phú "Ngọc tỉnh
liên " (Cây sen trong giếng, ngọc), ơng tự ví mình như một thứ sen thần mọc
trong giếng ngọc .


Bài phú được dâng lên vua Anh Tông. Từng câu, từng chữ trong bài phú đã
làm cho vua Anh Tông bừng tỉnh và thốt lên : "Mạc Trạng nguyên quả là
bậc thiên tài, có tiết tháo ".


- MĐC là người rất liêm khiết, thẳng thắn, được tiện không lấy làm của
riêng, giàu sang phú quý đối với ông khơng có ý nghĩa gì, cho nên được
người đời ca tụng.


Một lần, vào năm 1323, vua Trần Minh Tơng cho gọi viên quan nội thị đến
nói nhỏ :


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

Nói đoạn , vua Minh Tơng lấy 10 quan tiền đặt vào tay viên quan nội thị, rồi
nghe sát tai thì thầm to nhỏ. Viên quan nội thị tâu :


- Thần sẽ làm đúng như ý bệ hạ sai bảo.


Sáng ấy, Mạc dậy sớm hơn thường lệ. Trời còn chưa sáng rõ , ông đã tập
xong hai bài quyền. Ông vươn người hít thở khơng khí trong lành của buổi
sớm ban mai. Xong công việc thường lệ , ông lững thững vào nhà. Vừa bước
lên bậc cửa, bỗng ông kêu lên kinh ngạc :



- Ơ kìa ! tiền của ai đánh rơi mà nhiều thế kia?


Ông nhặt lên đếm, vừa trịn 10 quan. Ơng thầm nghĩ : "Qi ! Đêm qua
khơng có ai lại chơi, sao có tiền rơi? ". Ông vội vã khăn áo chỉnh tề, vào yết
kiến nhà vua :


- Tâu bệ hạ, thần sáng nay có bắt được 10 quan tiền ở trước cửa nhà, hỏi
khắp cả mà không ai nhận, thần xin trao lại để bệ hạ trả lại kẻ mất của.
Vua Minh Tông mỉm cười gật đầu :


-Không ai nhận tiền ấy thì người cứ lấy mà dùng...


-Thưa bệ hạ , tiền này khơng ít, người mất của chắc xót xa lắm, nên tìm
người trả lại thì hơn.


- Nhà ngươi yêu tâm, cứ giữ lấy mà dùng. Tiền thưởng lịng chính trực , liêm
khiết của nhà ngươi đấy.


Mạc Đỉnh Chi bấy giờ mới vỡ lẽ ra là nhà vua đã thử lịng ơng. Ơng chào tạ
ơn trở về.


CÂU ĐỐI Ở QUAN ẢI


Năm 1308, MĐC nhận chiếu chỉ của vua Anh Tông đi sứ nhà Nguyên. Dạo
ấy vào đầu mùa hạ, tuy trời ít mưa, nhưng đã mưa thì mưa như đổ nước từ
trên trời xuống; đường sá, đồng ruộng, nước trắng băng một màu, việc đi lại
gặp trở ngại lớn. Chính vì vậy mà đồn sứ bộ đến qua ải chậm mất hai ngày.
Quan coi ải một mức không cho qua. M ĐC bực lắm, toan quay trở về


nhưng nghĩ đến mệnh vua mà mình gánh vác chưa trọn nên nán lại xin đi.


Ngẫm nghĩ hồi lâu , viên quan coi ải nói :


- Nghe nói ngài là người có tài văn chương, tài ấy sao không sử dụng lúc
này? Bây giờ tôi ra một vế câu đối, nếu đối thông suốt, sẽ mở cửa ải; bằng
không,xin mời ngài quay lại .


Yên lặng giây lát, viên quan nọ hí hửng ra đối :
- Quá quan trì , quan quan bế, át quá khách quá quan.


(Đến cửa ải chậm, người coi cửa đóng cửa khơng cho khách qua )
Khơng cần suy nghĩ lâu, MĐC đối ngay :


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Quan coi ải vái ông hai vái, tỏ ý phục tài, rồi mở cửa cho đi.


<b>Vũ Ngọc Khánh </b>


<b>Giải Oan </b>



Một bổi chiều hè, trời nắng như đổ lửa, Mạc ĐĩNh Chi và mọi người lúc ấy
wa một qu an nước ven đường. M.ac cho mọi người nghỉ lại. Chủ qu an là
một bà cụ già tóc bạc phơ, đon đả chào khách. Ca nh đấy không xa có tiếng
khơi nước trong xanh. Trên thành giếng có viết 5 chữ : "Ngân bình, kiện
thượng tị ". Thấy lạ, Mạc hỏi duyên do. Bà cụ chậm rãi kể :


- xưa có một cơ gái bán hàng nước học hành giỏi, chữ nghĩa thơng. Gần đây,
có một anh học trò muốn ngấp nghé, cứ ngày ngày đi học về, lại vào uống
nước tìm lời trêu ghẹo. Một hơm cơ hàng nước nói thực với anh:


- Thiếp là con nhà lương dân, có theo địi bút nghiên, mà chàng cũng con
nhà thi lễ, nếu như phải duyên trời, thực cũng xứng đôi vừa lứa, Nhưng mà
thiếp chưa được biết tài học của chàng ra sao, vậy thiếp xin ra một câu đối,


nếu chàng đối được, thiếp tình nguyện xin nâng khăn sửa túi, bằng khơng,
thì xin chàng chớ qua đây làm gì nữa. Anh học trị bằng lịng. Cơ hàng nhân
trơng thấy cái ấm tích bằng bạc, mới ra câu đối rằng:


" Ngân bình, kiện thượng tị "


(Bình ngọc, mũi trên vai. Ý nói cái vịi trên cổ ấm ).


Anh học trị nghĩ mãi mà khơng đối được, xấu hổ quá, đành đâm đầu xuống
giếng đó chết. Ít lâu sau, người ta cho viết vế câu đối ấy lên thành giếng để
thách thức cả thiên hạ, nhưng xưa nay chưa ai đối được .


Nghe đến đây, Mạc cười :


- Câu ấy dễ thế sao không đối được mà phải ngậm oan nơi đáy giếng! Thôi
để ta đối giùm giản oan cho hồn kẻ thư sinh.


Mạc Đĩnh Chi bèn đọc :
" Kim tỏa, phúc trung tu"


(Khóa vàng, râu trong bụng. Ý nói cái tua khóa ở trong ruột khóa ).


Sau đó, Mạc bèn sai người viết câu ấy lên thành giếng, bên cạnh câu đối của
cô hàng nước năm xưa.


Mọi người đều chịu ông đối giỏi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

xưng tặng là "lưỡng quốc Trạng nguyên".


Nguyễn Trực sinh ra trong một gia đình thuộc dịng dõi có học vấn, đỗ đạt


cao: Ông nội là tiến sĩ Nguyễn Bính (dưới triều vua Trần Hiến Tơng từng
giữ chức: "Nho học huấn đạo giáo quan Quốc Tử Giám"), bố đẻ là tiến sĩ
Nguyễn Thời Trung làm quan giáo thục Quốc Tử Giám dưới triều vua Lê
Thái Tông,... Nguyễn Trực quê làng Bối Khê - Thanh Oai - Hà Tây. Ông
sinh ngày 16-5 năm Đinh Dậu (1417), thuở nhỏ đã nổi tiếng là người rất
mực thông minh, mẫn tiệp. Lên 8 tuổi đi học, 12 tuổi có khả năng làm thơ
văn. Năm Thiệu Bình thứ nhất (1434), ở tuổi 17, Nguyễn Trực tham dự kỳ
thi Hương và đỗ đầu (Giải nguyên). Đến năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo
thứ ba (1442), Nguyễn Trực 25 tuổi, tham dự kỳ thi Đình và đỗ Đệ nhất giáp
Tiến sĩ Đệ nhất danh (Trạng nguyên). Ông được nhà vua ban sắc "Quốc Tử
Giám thi thư" và ban thưởng á Liệt Khanh, đứng đầu trong số 33 vị tiến sĩ
cùng khóa. Lần đầu tiên trong lịch sử nước Việt, vua Lê ban mũ áo Trạng
nguyên cho người đỗ đạt cao nhất. Hiện nay, tên tuổi của ông vẫn đứng đầu
trong các bia tiến sĩ ở Văn Miếu.


Sử sách chép rằng: Nguyễn Trực sinh ra trong thời buổi loạn lạc, nhà Hồ
cướp ngôi nhà Trần. Cha của Nguyễn Trực lúc đó phải lánh nạn về phía tây
ở Tiểu Đơng Mộng - thơn Cây Thượng - xã Nghĩa Hương - Quốc Oai - Hà
Tây. Tại đây Nguyễn Thời Trung gặp và kết duyên với một phụ nữ tên là Đỗ
Thị Chừng, sinh ra Nguyễn Trực ở Am Long Khôi - núi Phật tích thuộc địa
phận xã Sài Sơn - Quốc Oai - Hà Tây ngày nay. Thấy ơng cịn ít tuổi mà đã
đăng quang, nên vua Lê Thái Tông ban cho ông yến tiệc của vườn Quỳnh,
cưỡi bạch mã đi dạo quanh kinh đô Tràng An,...


Ngày 3-5-1442, cha Nguyễn Trực qua đời, ông phải về chịu tang. Năm Giáp
Tý niên hiệu Thái Hòa thứ hai (1444), dưới triều vua Lê Nhân Tông,


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

gồm 50 vận làm vẻ vang đất nước, ông được vua cử đi sứ sang Trung Quốc.
Sang đó, gặp kỳ thi Đình, Trạng ngun Nguyễn Trực cùng phó sứ là Trịnh
Khiết Tường muốn cho nhà Minh biết tài học vấn của người nước Việt, nên


đã đăng ký tham dự kỳ thi đó. Sau kỳ thi năm ấy, Trạng nguyên Nguyễn
Trực được người Minh xưng tặng là "Lưỡng quốc Trạng nguyên", phó sứ
Trịnh Khiết Tường được đỗ bảng nhãn. Trở về nước, cả hai ông đều được
vua phong chức Thượng thư và ban thưởng tám chữ vàng: "Thành công
danh Nam Bắc triều biên ngã" (Công danh cả hai nước đều hoàn thành).
Nguyễn Trực là người đầu tiên mở ra danh vị Khôi nguyên của nước Việt,
văn chương rạng rỡ một thời. Nhắc đến tên tuổi của ơng là người ta hình
dung tới một nơi kết tụ sự hiểu biết của các triều vua điển văn học thuật ở
chốn Hàn lâm. Ông là người có phong cách rất mực khiêm nhường, chan
hịa. Ngày nay sử sách còn ghi lại: Vào năm Nhâm Tuất (1442) dưới triều
vua Lê Thái Tông, khi ông tham dự kỳ thi Đình, trong đề thi có bảy câu hỏi
xoay quanh vấn đề "Luận về phép trị nước của các vương triều". Nguyễn
Trực đã khẳng khái trả lời: "Vua sáng tơi hiền thì nước sẽ thịnh, vua khơng
sáng tơi khơng hiền thì nước sẽ suy vong". Dù lịch sử dân tộc đã trải qua
nhiều bước thăng trầm, song tên tuổi của Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn
Trực mãi mãi là dấu son chói ngời trong lịch sử Việt Nam.


<b>Trạng nguyên cuối cùng - Trịnh Huệ</b>



Trịnh Huệ (Trịnh Tuệ ); (1703 - ?) Hiệu Cúc Tâm, đỗ Trạng nguyên (1736),
làm quan đến Tế tửu Quốc tử giám ( thời Trịnh Doanh ).. Dòng cháu chắt
của Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng. Đến thời Trịnh Huệ, gia tộc đã sa sút, nhưng
ông không dựa dẫm ỷ thế cháu chúa, mà sớm mang ý chí tự lập tự cường,
chăm lo sôi kinh nấu sử. Vốn lại thông minh, kinh sử chỉ xem qua một lần là
thuộc.


Trịnh Huệ là vị trạng nguyên cuối cùng của chế độ khoa cử nước ta thời
phong kiến. Ông quê ở xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá bây
giờ. Sau Ông dời cư về Bất Quần, tức xã Quảng Thịnh, huyện Quảng Xương
ngày nay. Trịnh Huệ hiệu là Tĩnh tâm Cư sĩ, sinh năm 1704, mất năm nào


khơng rõ. Ơng cịn có tên là Tuệ, vì trùng tên với vợ chúa Trịnh Sâm là
Đặng Thị Huệ, nên mới cải tên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

Huệ vốn thông minh, học giỏi. Nhưng khoa thi hội ơng dự thi thì người họ
Trịnh là Trịnh Diễn làm chủ khảo, đến khi thi đình lại xảy ra một sự thay đổi
khác những khoa nhi trước, là các thí sinh, khơng vào sân rồng để vua Lê
vấn thí, mà lại vào sân để chúa Trịnh Giang hỏi thi. Theo sử sách ghi chép,
thì việc đổi thay nói trên là do Hồng Cơng Phụ, viên quan trong triều được
chúa u, lại chơi thân với ông Huệ, bầy đặt ra. Nên dư luận dị nghị cho
rằng Trịnh Huệ khơng có tài, vì dịng dõi nhà Chúa nên mới được lấy đỗ
trạng. Ơng Huệ lấy làm bực tức nói với mọi người “Tơi đỗ nhất Tam khơi
mà nói là do Vương phủ thiên vị thì cịn gọi gì là văn chương nữa! Nay để
khỏi nghi ngờ, trong triều ngồi nội ai có câu hỏi gì khó ở bất cứ sách vở
nào về kinh sử, tả truyện, y nho, lý số thì đem đến tơi xin trả lời hết!”.


Nhiều người đến hỏi, đã được ông giải đáp. Riêng có một phụ nữ nêu ý kiến:
“Chiếc đũa là vật thiêng khơng có chân, lúc thì gẫy, lúc thì mất. Vậy nó chạy
đi đâu, ở trong kinh điển nào?”


Trịnh Huệ trả lời: “Khơng thấy ở Thanh Hóa có núi Chiếc Đũa đó sao? Nó
khơng có chân mà chạy về gốc đấy!”


Mọi người đều bái phục ông thông minh và hiểu biết rộng. Quả ở Thanh
Hóa, nơi cửa biển Thần Phù, (nay thuộc địa phận làng Văn Đức, xã Nga
Phú, huyện Nga Sơn) có ngọn núi đứng một mình tên chữ là “Chích Trợ
Sơn” gọi nơm là núi Chiếc Đũa, hình thù giống như chiếc cọc cắm giữa biển
làm mốc cho thuyền bè qua lại. Thuở xưa núi Chiếc Đũa đã có tên trong
sách vở. Một số vua chúa, danh nhân nước ta có thơ đề vịnh về ngọn núi
này. Ví như Thiên Nam động chủ (Lê Thánh Tông) thế kỷ XV, Thượng
Dương động chủ (Lê Hiến Tông) đầu thứ kỷ XVI, Nhật Nam nguyên chủ


(Trịnh Sâm) thế kỷ XVIII.


Sau khi đỗ trạng ngun, Trịnh Huệ nhanh chóng được phong Đơng các đại
học sĩ lên tới chức Tham tụng (Tể tướng). Nhưng chỉ được ít năm, đến đời
chúa Trịnh Doanh, thì ông bị nghi ngờ theo đảng phản nghịch, cùng với
Hồng Cơng Phụ nên phải biếm chức, bị bắt giam, rồi được tha và giữ chức
Thư chính Sơn Nam, Tế tửu Quốc Tử giám. Con đường công danh của ông
cũng gập ghềnh, không phát huy được hết tài năng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Vợ cả là Nguyễn Phu Nhân quê ở xã Đại Khánh, huyện Đông Sơn, sinh ra
ông Trịnh Đức. Vợ thứ là Hồng Phu Nhân, ở thơn Thọ Sơn, xã Bất Quần,
huyện Quảng Xương, sinh ra ơng Trịnh Qn (cịn có tên là Trịnh Sa). Ơng
Trịnh Đức đỗ cử nhân, làm Tri phủ huyện Ứng Thiên sau làm lại Bộ Lang
Trung (con cháu ở vùng Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội và thơn Nhữ Lâm,
huyện Văn Giang, tỉnh Hải Hưng). Ông Trịnh Quán đậu cử nhân, làm Tri
phủ Hà Trung. Rồi làm phó sứ Sơn Tây, phụng coi Trấn hữu Đội tước Hoan
Thọ Hầu. Cuối đời, Trạng Nguyên Trịnh Huệ về mở trường dạy học ở chân
núi Voi (thôn Thọ Sơn, xã Bất Quần). Khi mất con cháu lập miếu thờ ông.
Cả vùng đến dâng hương ngưỡng mộ, cầu mong con cháu học giỏi như
ông .Khi mất được phong Hữu thị lang.


Trịnh Huệ là vị Trạng Nguyên cuối cùng trong lịch sử khoa cử Việt Nam.
Sau ông, khơng có ai danh hiệu Trạng Ngun nữa.


Ơng cịn xưng là Trúc Lâm Cư sĩ. Trình bày quan niệm Tam giáo một
nguồn, trong bài Tam giáo nhất nguyên thuyết, có đoạn ơng viết:
“Nhà Nho có tam tài, nhà Phật có tam thế, nhà Đạo có tam thanh, cũng
chẳng khác gì trời có mặt trời, trăng, sao, như vạc ba chân, quan hệ mật thiết
với nhau và không tách rời nhau được. Nói cho rõ là lễ nhạc, hình, chính của
nhà Nho dùng để ngăn ngừa lịng người khiến cho người ta xu hướng về


điều thiện và cấm chỉ các điều ác, xa rời cái xấu và tăng thêm cái đẹp, hiển
nhiên là như vậy. Thanh tĩnh, từ bi của nhà Phật, trừ bỏ nghiệp chướng cứu
người độ vật, cùng đi đến chỗ giác ngộ, thì đó lại là un vi trong un vi.
Nhà Nho chủ trương chỉnh đốn luân thường, duy trì giáo hóa, làm cho người
ta đổi thói bạc làm thói hậu, bỏ điều bạo chăm điều nhân. Đó là cơng việc rõ
ràng. Nhà Đạo chủ trương rửa sạch lụy trần, từ bỏ tham dục, vượt cõi phàm
vào cõi thánh, cùng chung dun lành thì đó lại là huyền diệu trong huyền
diệu. Sách Đại học nói ‘Sáng tỏ đức mình, làm mới đức dân, dừng ở chỗ chí
thiện.’ Kinh Phật nói ‘Bát nhã ba la mật’, nói ‘Bồ đề tát đóa’, nói ‘Ma ha
tát’. Về ý nghĩa, hai đằng có trái ngược nhau đâu … Cho nên Tam giáo vẫn
là một mơn, ba dịng vẫn là một lý, vốn không phải như nước lửa, đen trắng,
ngọt đắng có tính chất chống lại nhau … Thế mới biết Nho tức là Thích mà
Thích tức là Nho. Đạo cũng là Nho mà Nho cũng là Đạo.”


Cuối bài, Trịnh Tuệ kết luận:
Ai hay Tam giáo bất đồng,


</div>

<!--links-->

×