Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới – cơ hội và thách thức hướng tới phát triển thương mại bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.64 KB, 12 trang )

HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI – CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
HƢỚNG TỚI PHÁT TRIỂN THƢƠNG MẠI BỀN VỮNG
Ths. Trần Hoàng Hà
Trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm lược: Trong xu thế phát triển mang tính tồn cầu và đa liên kết như hiện nay, ký
kết các hiệp định FTA thế hệ mới không chỉ cắt giảm sâu thuế quan, tạo thuận lợi cho giao
thương giữa các quốc gia, mà còn cam kết về các lĩnh vực phi thương mại như vấn đề con
người, lao động, minh bạch hóa, quyền sở hữu trí tuệ và mơi trường. Với việc tham gia hai
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là CPTPP và EVFTA, Việt Nam đã và đang đi trên con
đường định hướng phát triển thương mại theo hướng bền vững
Từ khóa: EVFTA, CPTPP, hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, thương mại bền
vững, môi trường
1. Giới thiệu về thƣơng mại bền vững và sự khác biệt giữa FTA thế hệ mới và FTA
truyền thống
Ý tưởng về phát triển bền vững đã được phát triển t n a sau thế kỷ 19, khi quốc gia
phát triển phương Tây nhận ra những tác động tiêu cực t các hoạt động kinh tế lên chất
lượng môi trường và sự ổn định xã hội (hay nói cách khác, là b t nguồn t nhận thức của kinh
tế học sinh thái).
Cho đến năm 1987, trong bản báo cáo Brundtland của Ủy ban Môi trường và Phát
triển Thế giới (World Commission on Environment and Development – WCED) đã đưa ra khái
niệm chính thức đầu tiên về “phát triển bền vững”. Theo đó, phát triển bền vững được định
nghĩa là “một ý niệm mà ở đó con người sống và thỏa mãn nhu cầu của mình mà khơng làm
ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai”.T đó, thay vì cổ v cho sự
phát triển một cách cực đoan (khai thác tài nguyên, mở rộng sản xuất tràn lan hay thực hiện
chiến tranh để chiếm hữu) các nhà kinh tế, chính trị gia c ng như những thể nhân tham gia
vào nền kinh tế quốc gia c ng như nền kinh tế quốc tế dần nhận ra tầm quan trọng của sự phát
triển bền vững. Câu h i được đặt ra thời nay khơng cịn là “Liệu mục tiêu phát triển và mục
tiêu về môi trường có xung đột nhau hay khơng?” (hàm ý sự đánh đổi giữa phát triển và phúc
lợi) mà là “Làm sao để đạt được sự phát triển bền vững?”
Có nhiều khái niệm được các nhà học giả, các chính trị gia đưa ra nhằm giải thích cho
cụm t phát triển bền vững. Đơn c như việc coi sự phát triển bền vững là việc đảm bảo sự


công bằng về lâu dài cho các thế hệ tương lai (Stoddart, 2011) hay là sự ổn định lâu dài về kinh
tế và môi trường – điều mà có thể đạt được thơng qua hội nhập và sự th a nhận về các mối lo về
kinh tế, môi trường và xã hội trong quá trình đưa ra các quyết định (Emas, 2015). Về sự phát
triển bền vững trong thương mại quốc tế hay thương mại bền vững cho đến thời điểm hiện nay
chưa có định nghĩa đầy đủ và thống nhất. Tuy nhiên, nhìn chung, thương mại bền vững được
nhìn nhận dưới ba giác độc cơ bản là kinh tế - xã hội và sinh thái. Zhou (2004) đã định nghĩa
125


thương mại bền vững là sự trao đổi hướng tới sự phát triển bền vững, đòi h i thương mại quốc
tế quan tâm nhiều hơn đến bảo vệ môi trường. Dương (2015) định nghĩa thương mại bền vững
là sự phát triển ổn định, hợp lý, lâu dài về quy mô, chất lượng, cơ cấu và mức dọ thân thiện với
môi trường của thương mại. Hoặc c ng có thể hiểu phát triển thương mại bền vững là sự tăng
trưởng cao, hợp lý, ổn định, dài hạn cả về về quy mô, tốc độ của các hoạt động thương mại g n
với sự dịch chuyển về cơ cấu và nâng cao về chất lượng của các hoạt động thương mại hàng
hóa, dịch vụ. Phát triển thương mại đảm bảo kết hợp hài hòa, hợp lý giữa các mặt kinh tế, xã
hội, mơi trường và an ninh quốc phịng (Phạm, 2019). Tóm lại, có thể hiểu thương mại bền
vững là một sự phát triển mang tính tổng thể và cân bằng giữa sự phát triển về lượng và sự phát
triển về chất của nền kinh tế. Trong thực tế, hầu hết mọi người khi đề cập đến “phát triển bền
vững” sẽ liên tưởng đến sự phát triển bền vững về mặt môi trường và sinh thái (Tolba, 1984),
c ng là điều mà bài nghiên cứu này tập trung hướng tới.
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng như hiện nay, “nền kinh tế” ở đây không ch được hiểu
như là nền kinh tế của một quốc gia, mà là nền kinh tế của các quốc gia, có mối liên hệ chặt chẽ,
phụ thuộc, tùy thuộc và tác động lẫn nhau trong một bức tranh tồn cầu nhiều màu s c.
Có nhiều cách để các quốc gia kết nối với nhau, có thể về kinh tế, chính trị, về văn
hóa, xã hội, …Nhưng xét đến ngun nhân gốc rễ, thì khơng thể khơng nghĩ tới sự liên kết
nhằm mục tiêu lợi ch, đặc biệt là lợi ích về chinh trị và lợi ích về kinh tế. Sự liên kết liên
quốc gia về mặt kinh tế thường được thực hiện dưới hình thức ký kết hiệp định, th a thuận hội
nhập kinh tế ở nhiều mức độ (thấp nhất là khu vực thương mại tự do và cao nhất là liên minh
kinh tế), trong đó, hình thức ký kết hiệp định hình thành khu vực thương mại tự do chiếm đa

số (lên tới 90 %, theo Kaul, 2018),
Nếu như trước kia, các hiệp định thương mạithường ch được ký với mục đ ch gỡ b
rào cản thương mại (thuế quan và phi thuế quan) là chủ yếu, thì ngày nay, hiệp định thương
mại tự do có mức độ cam kết sâu rộng hơn rất nhiều và thường được gọi là hiệp định thƣơng
mại tự do thế hệ mới. Theo tác giả Mạnh Cường (2018), so với hiệp định thương mại tự do
truyền thống, hiệp định thương mại tự do thế hệ mới thể hiện được sự tân tiến và cấp thời hơn
ở bốn điểm: (1) mức độ cam kết rộng, bao trùm gần như toàn bộ hàng hóa và dịch vụ; (2)
mức độ cam kết sâu hơn, cắt giảm thuế quan về 0% với hầu hết các mặt hàng; (3) áp dụng cơ
chế thực thi chặt chẽ; (4) cam kết ngồi lĩnh vực truyền thơng (ví dụ: mơi trường, lao động,
sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ, minh bạch hóa, …) Trong đó, đặc điểm thứ tư làm nên sự
khác biệt đặc trưng nhất của FTA thế hệ mới so với FTA truyền thống
Cho đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã tham gia k kết, đàm phán 16 hiệp định
thương mại tự do. Trong đó 12 hiệp định thương mại tự do đã đi vào hiệu lực, 1 hiệp định đã
ký kết nhưng chưa có hiệu lực và 3 hiệp định đang trong quá trình đàm phán. Trong số các
hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đang tham gia, có 2 hiệp định thương mại tự do thế
hệ mới đi vào hiệu lực hoặc đã hoàn thành k kết gần đây là Hiệp định đối tác toàn diện và
tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP hay cịn gọi là TPP-11) và Hiệp định thương mại tự
do Liên minh Châu Âu – Việt Nam (EVFTA)
126


2. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dƣơng – CPTPP
Hiệp định Đối tác tồn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP hay TPP-11)
là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đầu tiên mà Việt Nam tham gia ký kết cùng với
nhiều quốc gia thuộc nhiều châu lục khác nhau bao gồm: Australia, Brunei, Canada, Chile,
Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru và Singapore. Hiệp định có tiền thân là
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình dương (TPP hay TPP-12) khi cịn có sự tham gia của Hoa
Kỳ (Hoa Kỳ rút kh i TPP t 30/01/2017).
Sau hơn 10 năm hình thành và phát triển, đến ngày 08/03/2018 CPTPP chính thức
được ký kết ở Santiago, Chile. Hiệp định chính thức có hiệu lực vào ngày 30/12/2018 khi sáu

quốc gia hoàn tất thủ tục phê chuẩn hiệp định. Đối với Việt Nam – quốc gia thứ sáu phê
chuẩn hiệp định, thì hiệp định có hiệu lực t ngày 14/01/2019.
So với TPP, Hiệp định CPTPP vẫn giữ nguyên nội dung được đàm phán trong TPP
ngoại tr một số điểm chung như sau:
- Loại b các cam kết riêng đã được ấn định trong các cuộc đàm phán với Hoa Kỳ
trong TPP (do Hoa Kỳ khơng cịn là thành viên của Hiệp định)
- Tạm thời hỗn thực hiện 20 nhóm cam kết khác nhau nằm trong 9 chương của TPP
- Bao gồm một số thư song phương, văn bản s a đổi, điều ch nh giữa các bên của CPTPP
Có thể thấy, về cơ bản, CPTPP vẫn giữ được mức độ cam kết sâu rộng và đột phá so
với các FTA truyền thống. Nội dung của CPTPP bao trùm không ch các lĩnh vực liên quan
đến thương mại hàng hóa – dịch vụ, đầu tư, … mà còn bao gồm lĩnh vực mới mẻ như mua
s m công, thương mại điện t , các quy định về sở hữu trí tuệ, về tiêu chuẩn lao động và tiêu
chuẩn môi trường, …
Về cam kết về môi trường, CPTPP ch tập trung vào 2 nhóm vấn đề chính là:
(1) Cam kết về chính sách và pháp luật trong nước về môi trường
Các tiêu chuẩn mà CPTPP đặt ra về nghĩa vụ chính sách, pháp luật mơi trường không
rõ ràng, cụ thể, mà ch đơn thuần nhấn mạnh việc mỗi quốc gia thành viên cần nhận thức về
tầm quan trọng của môi trường, sẽ tự chủ trong việc thiết lập các tiêu chuẩn môi trường của
quốc gia, đảm bảo xây dựng c ng như thực thi hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường một
cách đầy đủ, không gây ảnh hưởng lên thương mại và đầu tư giữa các bên tham gia. Điểm
quan trọng trong các cam kêt về mơi trường của CPTPP chính là việc các cải cách về mặt
chính sách b t buộc phải theo hướng nâng cao dần mức độ bảo vệ môi trường; và các thành
viên không giảm nhẹ nghĩa vụ pháp l và quy định về mơi trường vì mục tiêu thúc đẩy thương
mại và đầu tư.
(2) Cam kết liên quan với các Hiệp định đa phương về môi trường mà các bên tham gia
CPTPP c ng nhấn mạnh việc thực hiện nghĩa vụ trong 3 điều ước quốc tế về môi
trường mà tất cả 11 quốc gia đều đã là thành viên (bao gồm Nghị định thư MONTREAL về
các chất làm suy giảm tầng ozone; Công ước quốc tế MARPOL về ngăn ng a ô nhiễm t tàu
biển và Công ước CITES về bn bán các lồi động vật hoang dã đang bị đe dọa). Ngồi ra,
đối với các cơng ước quốc tế khác về môi trường mà các thành viên cam kết thì CPTPP khơng

127


có ràng buộc về nghĩa vụ mà ch yêu cầu các quốc gia thực thi hiệu quả các cam kết mơi
trường mà quốc gia đó đang tham gia.
Nhìn chung, những yêu cầu và cam kết trong CPTPP về môi trường ch mang tính
khuyến nghị và khơng cao hơn mức tiêu chuẩn môi trường mà Việt Nam đã và đang áp dụng
nên hiện tại sẽ không tạo ra tác động quá lớn cho doanh nghiệp và chính phủ. Tuy nhiên, đối
với một số vấn đề môi trường cụ thể như nghĩa vụ về loại b trợ cấp đánh b t thủy sản và tàu
cá hoạt động bất hợp pháp thì chính phủ Việt Nam cần có lộ trình cụ thể để thực thi, tránh b
lỡ cơ hội thâm nhập thị trường
Quan trọng hơn cả là CPTPP c ng tạo ra lực đẩy cho việc nâng cao hơn các tiêu chuẩn
môi trường và không thể đảo ngược nhằm phục vụ cho cải thiện môi trường, hướng tới phát
triển bền vững. Bên cạnh đó, CPTPP c ng quy định các quốc gia thành viên phải xây dựng cơ
chế khởi kiện, bồi thường và kh c phục hậu quả t hành vi vi phạm pháp luật về mơi trường
của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp c ng cần lưu tâm để đề ra chiến lược đầu tư lâu dài,
phù hợp với xu hướng nâng cao tiêu chuẩn về môi trường của quốc gia và trên thế giới.
3. Hiệp định thƣơng mại tự do Việt Nam – EU
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) là hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới thứ 2 mà Việt Nam tham gia. Trong bối cảnh quan hệ song phương c ng giá trị
thương mại giữa Việt Nam và khu vực Liên minh Châu Âu ngày càng gia tăng và tốt đẹp,
Việt Nam cùng 28 quốc gia thành viên Liên minh Châu Âu quyết định khởi động đàm phán
thiết lập hiệp định thương mại tự do t năm 2010. Sau khi ch nh thức kết thúc đàm phán vào
ngày 01/12/2015, EVFTA được tách thành Hiệp định thương mại (EVFTA) và Hiệp định bảo
hộ đầu tư (EVIPA – bao gồm các điều khoản về bảo hộ đầu tư và giải quyết tranh chấp trong
đầu tư) vào 26/06/2018. Ngày 21/01/2020, Ủy ban Thương mại quốc tế (INTA) của Nghị viện
Châu Âu đã b phiếu nhất tr thơng qua EVFTA. Đến ngày 31/01/2020, Anh chính thức
khơng cịn là thành viên liên minh Châu Âu. Tuy nhiên t thời điểm này đến cuối năm 2020
Anh vẫn đang trong giai đoạn chuyển tiếp. Chính vì vậy những lợi ích t mối quan hệ thương
mại Việt Nam – Anh trong khuôn khổ hiệp định EVFTA ch tồn tại trong ng n hạn (cho đến

khi Anh hoàn thành giai đoạn chuyển tiếp và rời kh i liên minh hải quan EU – EUCU).
Về nội dung, Hiệp định bao tr m thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và đầu tư
(khơng bao gồm những cam kết trong EVIPA). Việt Nam sẽ giảm 65% số dịng thuế đối với
hàng hóa t EU ngay sau khi EVFTA đi vào hiệu lực và 35% cịn lại sẽ được xóa b trong
thời hạn 10 năm. Về phía EU, EU cam kết giảm 85,6% số dịng thuế (tương đương 70,3% kim
ngạch xuất khẩu) với hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào EU ngay sau khi EVFTA có hiệu lực,
phần thuế cịn lại sẽ được cam kết xóa b trong thời hạn 7 năm tiếp theo.
Có thể thấy, tương tự như CPTPP, EVFTA c ng bao gồm các cam kết đa lĩnh vực qua
17 chương khác nhau bao gồm vấn đề về thương mại hàng hóa và dịch vụ, mua s m cơng,
quyền sở hữu trí tuệ, … So với CPTPP, EVFTA có mức cam kết khơng chặt chẽ bằng nhưng
có sự quan tâm sâu s c hơn đến vấn đềmôi trường và phát triển bền vững. Liên minh Châu Âu
vốn luôn coi trọng các vấn đề liên quan đến môi trường, phúc lợi, an sinh xã hội. Tầm nhìn và
128


mối quan tâm của Liên minh Châu Âu EU với vấn đề phát triển thương mại theo hướng bền
vững, thân thiện với mơi trường có thể được tham chiếu cụ thể trong Chương 7 (Các rào cản
phi thuế quan đối với thương mại và đầu tư trong sản xuất năng lượng tái tạo) và Chương 13
(Thương mại và Phát triển bền vững) của hiệp định EVFTA.
Có thể nói, EVFTA là hiệp định thương mại tự do toàn diện nhất mà EU t ng ký kết
với một quốc gia thuộc nhóm thu nhập trung bình (Chu Hồng Long, 2019). T đó, vị thế của
Việt Nam trên thế giới gia tăng, được đặt ngang hàng với các đối tác lớn khác của EU tại
Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc. Bên cạnh đó, c ng thể hiện được mức độ sẵn sang mở c a,
sẵn sàng tham gia và tuân thủ các tiêu chuẩn cấp độ quốc tế của Việt Nam
4. Việt Nam tham gia vào các Hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới
Việt Nam được đánh giá là một trong các quốc gia năng động nhất thế giới. Với dân
số t nh đến cuối năm 2019 đạt 96.208.984 người (và mật độ dân lên tới 290 người/km2, Kết
quả tổng điều tra dân số: thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019). Hiện nay, Việt Nam vẫn
ở trong thời kỳ dân số vàng (với khoảng 70% dân số nằm trong độ tuổi lao động) và theo các
chuyên gia dự đốn thì Việt Nam vẫn cịn khoảng 20 năm để tận dụng lợi thế này trên con

đường phát triển kinh tế - xã hội (Theo Dự báo dân số việt nam 2014 – 2049, năm 2016).
Nhận thức được tình hình v a phải phát triển kinh tế quốc gia v a phải cân nh c đến sự phát
triển có tính hài hịa giữa mọi mặt đời sống như phúc lợi, môi trường, thu nhập, an ninh, …
Nhà nước đã đề ra các kế hoạch năm năm phát triển kinh tế xã hội nhằm định hướng quốc gia
và doanh nghiệp trong t ng thời kỳ với độ mở c a ngày một cao. Ngày 12/0/2016, tại kỳ họp
thứ 11, Quốc hội khóa XIII đã thơng qua Nghị quyết số 142/2016/QH13 về Kế hoạch phát
triển kinh tế xã họi 5 năm 2016 – 2020. Ngoài việc đặt mục tiêu phấn đấu tăng trưởng cao hơn
qua t ng năm, duy trì ở mức tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt 6,5 – 7% và thu nhập
người dân đến năm 2020 đạt trung bình t 3200 – 3500 USD,… bản kế hoạch còn nhấn mạnh
tầm quan trọng của các mặt khác trong đời sống như quốc phịng – an ninh, mơi trường, an
sinh – xã hội, … Trong đó, về thương mại, nhà nước định hướng cân bằng cán cân thương
mại giữa Việt Nam với các quốc gia đối tác, khai thác tối đa cơ hội để mở rộng thị trường, ký
kết các hiệp định thương mại tự do mới, nhấn mạnh phải xây dựng chương trình hành độn
nhằm thực thi hiệp định mới và đề án triển khai 17 mục tiêu, 169 ch tiêu trong văn kiện
“Chuyển đổi thế giới của chúng ta: Chương trình Nghị sự năm 2030 vì sự phát triển bền
vững” của Liên Hợp Quốc”
Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội, Việt Nam đã duy trì được mức tăng trưởng
GDP hàng năm trung bìnhđạt mục tiêu trong giai đoạn 2016 – 2020, trong đó đạt đ nh tăng
trưởng GDP vào năm 2019 (7,1%). Dự đoán GDP Việt Nam sẽ ước tính đạt vào khoảng 7 –
7,5 % vào cuối năm 2020 (Theo Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế xã hội Quốc gia).
Những thành quả kinh tế và chuyển dịch cơ cấu đạt được khơng thể khơng kể đến sự đóng
góp của các hiệp định thương mại tự do, mang lại những cú hích cho nền kinh tế và kích thích
nền kinh tế thay đổi theo hướng tích cực.

129


T nh đến tháng 02/2020, Việt Nam đã tham gia 16 hiệp định thương mại tự do
(Bảng1.1.). Gần đây nhất, với sự kiện Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU được chính
thức ký kết (30/06/2019) và Hiệp định CPTPPcó hiệu lực (tháng 01/2019 với Việt Nam) – là

hai hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với các cam kết sâu rộng và toàn diện, Việt Nam là
quốc gia đầu tiên trong Đơng Nam Á có được bước tiến dài trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế
Bảng 1.1. Danh sách các FTA VN tham gia mà tình trạng tính đến tháng 2/2020
STT

FTA

Thành viên

Tình trạng

FTA đã có hiệu lực
1

AFTA

ASEAN

Có hiệu lực t 01/01/1993

2

ACFTA

ASEAN, Trung Quốc

Có hiệu lực t tháng 07/2003

3


AKFTA

ASEAN, Hàn Quốc

Có hiệu lực t tháng 06/2007

4

AJCEP

ASEAN, Nhật Bản

Có hiệu lực t tháng 12/2008

5

VJEPA

Việt Nam, Nhật Bản

Có hiệu lực t tháng 10/2009

6

ÀITA

ASEAN, Ấn Độ

Có hiệu lực t tháng 01/2010


7

AANZFTA

ASEAN, Úc, New Zealand

Có hiệu lực t tháng 01/2010

8

VCFTA

Việt Nam, Chi Lê

Có hiệu lực t tháng 01/2014

9

VKFTA

Việt Nam, Hàn Quốc

Có hiệu lực t tháng 12/2015

VN – EAEU FTA

Việt Nam, Nga, Belarus, Ame- Có hiệu lực t tháng 10/2016
nia, Kazakhstan, Kyrgyzstan


CPTPP

Việt Nam, Canada, Mexico, Pe- Có hiệu lực t 14/01/2019
ru, Chi Lê, New Zealand, Úc,
Nhật Bản, Singapore, Brunei,
Malaysia

AHKFTA

ASEAN, Hồng Kơng

10

11

12

Có hiệu lực t 11/06/2019

FTA đã ký nhƣng chƣa có hiệu lực
13

Đã k kết (30/06/2019)

EVFTA

FTA đang trong giai đoạn đàm phán
14
15
16


VN – EFTA FTA

Việt Nam, Thụy S , Na Uy, Đàm phán t tháng 05/2012
Iceland, Liechtenstein

RCEP

ASEAN, Trung Quốc, Nhật Đàm phán t tháng 03/2013
Bản, Ấn Độ, Úc, New Zealand

VN – Israel FTA

Việt Nam, Israel

Đàm phán t tháng 12/2015

CPTPP bao gồm 11 thành viên (gồm Nhật Bản – là một trong các đối tác thương
mại lớn nhất của Việt Nam) nằm rải rác ở các lục địa khác nhau trên toàn cầu đưa đến cho
Việt Nam cơ hội phát triển thương mại đa hướng, vươn rộng ra đến thị trường các quốc
gia Châu M .

130


Đơn vị: triệu USD
45.00

40.00
39.43

36.81

35.00

34.10
30.00
29.72
29.30
29.03
27.78

25.00

25.45
Nhập khẩu

20.00

Xuất khẩu

20.55
18.84

15.00

16.21
14.71
13.78
12.65
10.64


10.00

5.00

8.01
6.10
5.305.115.31

2019

2018

2017

2016

2015

2014

2013

2012

2011

2010

2009


2008

2007

2006

2005

2004

2003

2002

2001

2000

0.00

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu xuất nhập khẩu của Bộ Cơng Thương
Hình 2.1. Kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu vủa Việt Nam
với các quốc gia thành viên CPTPP giai đoạn 2000 – 2019
Ngày 14/10/2014, tại hội nghị Thượng đ nh APEC ở Nhật Bản, lãnh đạo của 9 quốc
gia (gồm Úc, Brunei, Chile, Nhật Bản, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam)
đã c ng tán thành với lời đề nghị của Obama - Tổng thống M lúc bấy giờ về việc thiết lập
một vùng tự do mậu dịch Châu Á – Thái Bình Dương, qua đó gây dựng tầm ảnh hưởng của
Hoa Kỳ tại khu vực này. Với triển vọng về việc hình thành TPP, kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam có mức tăng trưởng đều hàng năm trong giai đoạn 2010 – 2014, đến năm 2015 thì

có sụt giảm do biến động giá hàng hóa (Hình 2.1). Trong năm 2015 – 2016, khi Donald
Trump kế nghiệm Barack Obama, ông đã đưa M kh i Hiệp định TPP bấy giờ đang trong giai
đoạn đàm phán, khiển triển vọng thiết lập khu vực mậu dịch tự do này đi vào bế t c. T năm
2017, với những nỗ lực lớn t Nhật Bản và Việt Nam c ng như sự đồng lòng của các quốc gia
thành viên khác, CPTPP đã ra đời, thay thế cho TPP và được ký kết vào ngày 08/03/2018, mở
ra triển vọng đầu tư và thương mại cho các quốc gia cùng khối. Trong những năm gần đây,
Việt nam duy trì được thặng dư thương mại với các quốc gia trong CPTPP

131


Đối với Việt Nam, EU là thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 trong khu vực Châu Âu với
trên 90% tổng kim ngạch nhập khẩu. Thế mạnh sản xuất của Eu và của Việt Nam có sự bổ
sung, bù tr lẫn nhau khi Việt Nam chủ yếu nhập khẩu máy móc, thiết bị, dược phẩm, vi tính,
sản phẩm điện t , … còn EU chủ yếu nhập khẩu các mặt hàng về dệt may, da giày, linh kiện
điện t và nông sản, … t Việt Nam. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với khối các
quốc gia này nhìn chung liên tục tăng trong giai đoạn năm 2000 – 2018 (Hình 2.2). Trong đó,
có sự suy giảm sâu vào năm 2009 do tác động của cuộc Khủng hoảng kinh tế - tài chính tồn
cầu b t nguồn t M . Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU có giảm nhẹ do
một số nguyên nhân có thể kể đến như: mất cân bằng cung cầu với các mặt hàng nông sản (cà
phê, hồ tiêu, …); việc phải đối mặt với hàng rào quy định về tiêu chuẩn k thuật, tiêu chuẩn
vệ sinh và an toàn cho môi trường t EU; doanh nghiệp găm hàng chờ Hiệp định EVFTA
chính thức có hiệu lực để hưởng lợi.
Đơn vị: triệu USD
45

41.9 41.5

40


38.1
34

35
30.9
30

27.9
24.3

25
20.3
20

16.6

15
9.1

10
5.5

5

7.1

5
3.9
2.8 3 3.1 2.5 2.7 2.6 3.1
1.3 1.5 1.8


11.4

10.9

6.4
5.1 5.4 5.8

7.8

10.4 11.1
8.8 9.5 8.9

12.2

13.9

14.9

0.9

0
20002001200220032004200520062007200820092010201120122013201420152016201720182019
Nhập khẩu

Xuất khẩu

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của World Bank và Tổng cục thống kê Việt Nam
Hình 2.2. Tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của VN từ 2000 – 2019
Bên cạnh đó, với sự ra đi của Anh được ấn định chính thức vào 31/01/2020 c ng có

tác động giảm giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Nhưng nhìn chung, cho d kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam sang Anh luôn đạt tỷ trọng ở mức tương đối cao (trung bình khoảng
15,7% trong giai đoạn năm 2000 – 2019, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Anh ch
đứng sau Đức và Hà Lan trong khối EU) trong kim ngạch xuất khẩu với EU, thì Việt Nam
vẫn có được nhiều cơ hội phát triển tốtkhitham gia Hiệp định EVFTA.
132


5. Việt Nam và cơ hội phát triển bền vững từ Hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới
sản xuất theo hướng chất lượng cao và tiệm cận với quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc tế.
EVFTA và CPTPP cung cấp những cơ sở pháp l để hưởng ưu đãi t Hiệp định, là phải đảm
bảo các sản phẩm xuất khẩu sang thị trường đối tác đáp ứng được các quy định về tiêu chuẩn
k thuật, về kiểm dịch, vệ sinh, an toàn thực phẩm, … Khi các doanh nghiệp buộc sản xuất
theo những tiêu chuẩn t thị trường nhập khẩu lớn như EU, Nhật Bản, … để hưởng lợi ích thì
các hoạt động sản xuất sẽ được cải thiện về mặt chất và chuyển dịch cơ cấu theo hướng công
nghệ cao, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phục hồi của môi trường và phát triển bền vững
Thứ hai, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới này thúc đẩy chính phủ
c ng như các doanh nghiệp cần thực hiện quy định không ch liên quan đến c t giảm thuế quan,
đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn nhập khẩu của đối tác mà còn cần phải n m được các cơ chế tự vệ
thương mại hợp pháp và các biện pháp áp dụng khi tranh chấp thương mại xảy ra. T đó, Việt
Nam đạt được lợi ích trong việc cải thiện thể thế theo hướng minh bạch hóa, vì mục tiêu phát
triển bền vững kinh tế - xã hội; có kinh nghiệm hơn trong đàm phán lợi ích và giải quyết tranh
chấp theo hướng có lợi hơn cho doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào sân chơi tồn cầu
Thứ ba, việc thành cơng ký kết Hiệp định CPTPP và EVFTA với các đối tác thương
mại có tầm vóc lớn trên sân chơi tồn cầu đã đưa đến cho Việt Nam vị thế cao hơn. T đó trở
thành mơi trường đầu tư – kinh doanh triển vọng cao trong m t các nhà đầu tư – kinh doanh
nước ngoài. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam thu hút vốn đầu tư nước ngồi, góp phần
vào q trình chuyển giao cơng nghệ. Với việc ban hành nghị quyết số 50 của Bộ chính trị về
Định hướng đầu tư nước ngoài đến năm 2030, Việt Nam nhấn mạnh việc phải định hướng thu
hút các nguồn vốn đầu tư chất lượng, có hàm lượng cơng nghệ cao, an tồn với mơi trường.

Ngồi ra, Nghị quyết đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2030 tỷ lệ doanh nghiệp s dụng công
nghệ tiên tiến, quản trị hiện đại, bảo vệ môi trường, hướng đến công nghệ cao phải tăng 100%
so với năm 2018. Bên cạnh đó, Việt Nam cịn có thể tận dụng vị thế được nâng cao để lấy đà
tiếp tục có được các th a thuận thương mại tiến bộ và có lợi hơn nữa, tạo sự thuận lợi cho
định hướng phát triển thương mại và phát triển nền kinh tế theo hướng bền vững.
6. Thách thức gặp phải và định hƣớng
Hiện nay, xuất khẩu vẫn phụ thuộc nhiều vào các nhà đầu tư nước ngoài (Kim ngạch
xuất nhập khẩu của Việt Nam 60% đến t khối doanh nghiệp FDI). Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn
chưa tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu mà mới ch d ng lại ở những khâu sản xuất cơ
bản, khơng có giá trị gia tăng cao, khả năng tiếp thu chuyển giao cơng nghệ cịn thấp. Đặc biệt,
ngành cơng nghiệp điện t đang đóng góp một tỷ trọng không nh trong giá trị nhập khẩu và
xuất khẩu của Việt Nam. Đến thời điểm hiện nay, ơng lớn đóng góp vào sự phát triển của ngành
cơng nghiệp điện t ở Việt Nam là Samsung – một tập đoàn Hàn Quốc. Theo báo KoreaBusiness, Samsung đóng góp tới 65,7 tỷ USD tương đương 28% tổng GDP của Việt Nam năm
2018. Và cho đến thời điểm hiện nay, công nghiệp chế biến của Việt Nam vẫn chưa trở thành
133


ngành m i nhọn, năng lực cạnh tranh còn yếu, dù các doanh nghiệp ngành phụ trợ đang nỗ lực
hơn để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu (sau 5 năm, số lượng doanh nghiệp Việt Nam là
nhà cung ứng cấp 1 cho Samsung tăng t 4 lên 42 doanh nghiệp). Sự phụ thuộc vào doanh
nghiệp FDI mà không nhanh chóng tiếp thu cơng nghệ sẽ khơng mang lại sự chuyển dịch cơ
cấu mong muốn và khiến nền kinh tế dễ mất ổn định hơn khi có biến cố t quốc gia đối tác, gây
ra sự ảnh hướng có tính liên ngành. Ký kết CPTPP và EVFTA đặt ra thách thức cho Việt Nam
trong việc đảm bảo quy định về quy t c xuất xứ tức tỷ lệ phần trăm mà doanh nghiệp nội địa
hay nguyên liệu xuất xứ nội địa tham gia vào cấu thành sản phẩm. Điều này địi h i Việt Nam
phải nhanh chóng thúc đẩy chuyển giao công nghê đồng thời đào tạo nhân lực và có sự tự chủ
nhất định trong nguyên nhiên phụ liệu trong q trình sản xuất để có kế hoạch ni trồng và sản
xuất phù hợp. Về phía doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm tư vấn t chính phủ, chuyên gia,
học h i kinh nghiệm, hiểu và áp dụng tốt các cam kết trong hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới và nhanh chóng tiếp thu cơng nghệ tân tiến t nước ngoài để tăng khả năng cạnh tranh

trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu diễn ra ngày một gay g t.
Định hướng bảo vệ môi trường và phát triển nền kinh tế khơng khói được đưa ra trong
các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là động lực để chuyển hướng nền kinh tế Việt
Nam. Nổi bật trong đó là năng lượng - một chủ đề đặt ra nhiều thách thức cho mọi quốc gia
trong quá trình tiến đến phát triển nền kinh tế một cách bền vững. Một dấu hiệu đáng m ng là
Việt Nam đã và đang đặt ra tiêu chuẩn quốc gia cao hơn mức độ cam kết trong các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới đang có hiệu lực. Hiện nay, thay vì định hướng l p đặt hệ thống
năng lượng sạch theo hộ gia đình, Việt Nam đã cơng nghiệp hóa các dự án; sở hữu 82 dự án
điện mặt trời và đang trong q trình hồn thành 13 dự án (t nh đến năm 2019). Các dự án
được triển khai dựa vào nguồn vốn t nhà đầu tư nước ngoài dựa vào cơ chế đấu giá ngược.
Đây là một bước tiến lớn trên lộ trình phát triển bền vững của Việt Nam, cung cấp nguồn
năng lượng sạch cho sản xuất và tiêu dùng. Vấn đề đặt ra hiện nay là xây dựng được hệ thống
đường dẫn chất lượng cao và dự trữ năng lượng (do tính chất điện mặt trời phụ thuộc nhiều
vào điều kiện tự nhiên). Ngồi ra, cần có kế hoạch xây dựng dự án hợp l để phục vụ cho nhu
cầu sản xuất của doanh nghiệp và nhu cầu s dụng của người dân
Về mơi trường sống, trong một vài năm gần đây có sự suy giảm đáng kể về chất lượng
môi trường sống ở Việt Nam do sự phát triển nóng và thiếu chọn lọc trong thu hút FDI, gây
ảnh hưởng đến sức kh e con người c ng như đe dọa đến hệ sinh thái, biến Việt Nam trở thành
“thiên đường ô nhiễm” do FDI (theo nghiên cứu của PGS.TS Đinh Đức Trường, ĐH Kinh tế
quốc dân). Thiệt hại do ô nhiễm khơng khí tại Việt Nam lên tới 10,8 – 13,2 tỷ USD/năm. Điều
này địi h i Việt Nam phải có những bước đi cấp bách trong giảm thiểu ô nhiễm mơi trường,
đặc biệt là ơ nhiễm khơng khí. Việt Nam cần tận dụng cơ chế tham vấn của EVFTA để học
h i kinh nghiệm cải thiện môi trường t các quốc gia EU và kiểm sốt tốt hóa chất và chất
thải t các nhà máy trong quá trình sản xuất. Đồng thời, cần xây dựng các hệ thống lọc, hệ
134


thống tài chế rác thải, khuyến khích bảo vệ mơi trường ở mức cao đối với cả doanh nghiệp và
cá nhân. Tận dụng và áp dụng nghiêm túc cơ chế cam kết không giật lùi của CPTPP để hướng
tới các quy định và cam kết cao hơn về môi trường

Các cam kết về môi trường trong CPTPP và EVFTA ch mang tính khuyến nghị
nhưng để hướng tới thương mại bền vững thì Việt Nam cần tuyên truyền, phổ biến điều khoản
trong cam kết đến doanh nghiệp, xây dựng chế tài kiểm soát vi phạm, kiểm soát đầu ra xuất
khẩu đảm bảo tiêu chuẩn quốc gia và yêu cầu của nước nhập khẩu. Đồng thời cần xây dựng
Ủy ban thương mại và phát triển bền vững đóng vai trị cầu nối giữa doanh nghiệp và chính
phủ, c ng như tập trung chuyên trách tư vấn cho doanh nghiệp về thị trường c ng như mặt
hàng đầu tư, hiệp định có thể áp dụng để lợi ích nhận được là cao nhất c ng như định hướng
doanh nghiệp phát triển theo hướng cơng nghệ cao và thân thiện với mơi trường. Ngồi
khuyến khích doanh nghiệp tự nguyện đổi mới dây chuyền sản xuất, định hướng sản phẩm,
Chính phủ cùng cần cần xây dựng cơ chế đánh giá và giám sát chéo tác động mơi trường của
các doanh nghiệp (có thể là giám sát chéo giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp hoặc người
dân với doanh nghiệp nhằm đảm bảo tính khách quan) và công khai các thông tin về đánh giá
để làm động lực cho doanh nghiệp cải tiến.
7. Kết luận
Hơn 30 năm kể t khi cải cách nền kinh tế quốc dân, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu kinh tế - xã hội không thể phủ nhận được, trở thành một trong những nền kinh tế
năng động nhất trên thế giới. Đi c ng với sự phát triển về mặt kinh tế và thu nhập người dân
là sự sụt giảm về chất lượng môi trường sống, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững. Việc chủ
động tham gia vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là CPTPP và EVFTA đã nâng
cao vị thế và tạo bước đà cho Việt Nam định hướng nền kinh tế công nghệ cao, sản xuất theo
tiêu chuẩn của thế giới và các quốc gia tiến bộ c ng như có động lực cải thiện chất lượng mơi
trường sống. Dẫu cho những khó khăn hiện tại Việt Nam đương đầu trên con đường phát triển
bền vững là không nh , nhưng những cơ hội mở ra t các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới là rất lớn. Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam sẽ cần chủ động hơn, tận dụng các cam
kết và các cơ chế tham vấn đồng thời tận dụng Hiệp định để học h i kinh nghiệm phát triển
bền vững, thân thiện với môi trường t các quốc gia tiến bộ trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Anh Hoa 2019, “Việt Nam là điểm đầu tư năng lượng mặt trời “nóng” nhất khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương”, truy cập ngày 20/02/2020, />Ban ch đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung Ương 2019, “Kết quả Tổng điều tra
Dân số và nhà ở: Thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019”, Nhà xuất bản Thống kê

135


Bộ Chính trị 2019, “Nghị quyết 50-NQ/TW về định hướng hồn thiện thể chế, chính
sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030”
Brundtland Gro Harlem 1987, “Brundtland report: Our Common future”, the World
commission on Environment and Development (WCED)
Dương Thị Tình 2015, “Phát triển thương mại bền vững trên địa bàn t nh Thái
Nguyên”, Đại học Kinh tế quốc dân.
Emas Rachel 2015, “The Concept of Sustainable Development: Definition and Defining Principles”,Florida International University
Kaul, J.L, Jha Anupam 2018, “Shifting horizons from public international law: A
South Asian Perspective”, Springer, p. 112
KoreaBusiness, Samsung đóng góp tới 28% tổng GDP của Việt Nam năm 2018, , truy
cập ngày 24/02/2020,
/>Mạnh Cường 2018, “Hiệp định FTA thế hệ mới là gì?”, truy cập ngày 21/02/2020,
/>Nguyễn Minh, “Chuyên gia: EVFTA và EVIPA được ký kết nâng tầm vị thế của Việt
Nam”, truy cập ngày 17/02/2020, />Phạm Thị Khanh 2019, “Phát triển thương mại bền vững giữa Việt Nam và Ấn Độ
(Phần 1)”, truy cập ngày 20/02/2020, />Phan Hậu 2020, “Ô nhiễm khơng khí tại Việt Nam gây thiệt hại t 10,8 – 13,2 t
USD”, truy cập ngày 12/02/2020, />Stoddart Paul, “Development through fair trade: Candour or Deception?”, 2011, published by Blackwell Publishing Oxford
Tolba M.K, The premise for building a sustainable society – Address to the World
Commission on Environmental Development, 1984
Tổng cục Thống Kê, Dự báo dân số Việt Nam 2014 – 2049, 2016, Nhà xuất bản
Thông tấn
Zhou Zhong-hai, Lu Feng-ying, “Law and Practice on Sustainable Trade and Environmental Protection in China”, 2004, Journal of Zhejjang University (Humanities and Social
Sciences) 2004-04

136




×