Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Tài liệu Đề tài "Công tác huy động vốn tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam.Thực trạng và giải pháp " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.09 KB, 78 trang )


----------










Đề Tài: Công tác huy động vốn tại Sở giao
dịch I Ngân hàng Công thương Việt
Nam.Thực trạng và giải pháp










Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
MỤC LỤC


Danh mục những cụm từ viết tắt.


Danh mục bảng biểu.
Lời mở đầu
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng thương mại
1.1.Hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại.
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại.
1.1.3. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại.
1.2. Vốn huy động và công tác huy động vốn trong hoạt động kinh doanh cảu
ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm về vốn.
1.2.2. Vai trò của vốn huy động.
1.2.3. Các hình thức huy động vốn.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn.
1.3.1. Nhân tố khách quan.
1.3.2. Nhân tố chủ quan.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại Sở giao dịch I ngân hàng
Công thương Việt Nam.
2.1. Khái quát về Sở giao dịch I NHCTVN
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức SGD I NHCT VN.
2.1.3. Kết quả một số hoạt động của SGD I trong vài năm gần đây.
2.2. Thực trạng huy động vốn tại SGD I NHCT VN.
2.2.1. Tiền gửi doanh nghiệp.
2.2.2. Tiền gửi dân cư.
2.2.3. Huy động vốn từ việc phát hành giấy tờ có giá.
2.3. Đánh giá thực trạng công tác huy động vốn tại SGD I NHCT VN
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
2.3.1. Kết qủa đạt được.

2.3.2. Những vấn đề tồn tại.
2.3.3. Nguyên nhân chủ yếu.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác huy động
vốn tại SGD I NHCT VN.
3.1. Định hướng phát triển của SGD I NHCT VN.
3.1.1. Các mục tiêu hoạt động kinh doanh năm 2005.
3.1.2. Biện pháp thực hiện.
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác huy động vốn tại SGD I
3.2.1. Có định hướng phát triển nguồn vốn phù hợp.
3.2.2. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn.
3.2.3. Đơn giản hóa các thủ tục gửi tiền và cho vay.
3.2.4. Ap dụng chính sách lãi suất linh hoạt.
3.2.5. Tăng cường huy động vốn với sử dụng vốn có hiệu quả.
3.2.6. Thực hiện tốt chính sách khách hàng và chiến lược Marketing.
3.2.7. Hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu qủ trong kinh doanh.
3.2.8. Đổi mới công nghệ ngân hàng.
3.2.9. Phát huy tối đa yếu tố con người.
3.2.10.Tăng cường công tác thông tin, quảng cáo.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với ngân hàng Công thương Việt Nam.
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
3.3.3. Kiến nghị với Nhà nước.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo.



Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
DANH MỤC NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT




Diễn giải Ký hiệu
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá CNH - HĐH
Có kỳ hạn CKH
Giấy tờ có giá GTCG
Không kỳ hạn KKH
Sở giao dịch I ngân hàng Công thương Việt Nam SGDI NHCT VN
Ngân hàng Nhà nước NHNN
Ngân hàng thương mại NHTM
Ngân hàng trung ương NHTƯ
Ngoại tệ quy Việt nam đồng NTQVND
Tiền gửi TG
Tổ chức kinh tế TCKT
Ngân hàng Công thương Việt Nam
INCOMBANK


















Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
DANH MỤC BẢNG BIỂU


Bảng 1: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ SGD I NHCT VN
Bảng 2: Báo cáo hoạt động kinh doanh
Bảng 3: Biến động của nguồn vốn huy động
Bảng 4: Tình hình huy động vốn từ Doanh nghiệp
Bảng 5: Tình hình huy động vốn từ dân cư
Bảng 6: Kết cấu tiền gửi dân cư
Bảng 7: Tình hình phát hành giấy tờ có giá năm 2004
Bảng 8: Tình hình phát hành giấy tờ có giá tháng 6/2005
Biểu số 1: Tình hình tăng trưởng vốn huy động
Biểu số 2: Tình hình huy động vốn từ Doanh nghiệp

















Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
LỜI MỞ ĐẦU

Đất nước ta đang trong thời kỳ biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế, thời
kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém
phát triển và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Đảng và Nhà nước ta đã chủ
trương “phát huy nội lực bên trong, nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết
định, nguồn vốn nước ngoài giữ vai trò quan trọng”. Đồng thời, quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế đang diễn ra hết sức sôi động. Điều đó đồng
nghĩa với sự cạnh tranh đã, đang và sẽ diễn ra ngày càng khốc liệt trong toàn
bộ nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, việc
khai thông nguồn vốn đối hoạt động huy động vốn của các NHTM nói chung
được đặt ra rất bức thiết. Các Ngân hàng hiện nay hoạt động đòi hỏi phải có
hiệu quả cao, vấn đề huy động vốn không chỉ được quan tâm “từ đâu?” mà
phải được tính đến “như thế nào?”, “bằng cách gì” để có hiệu quả cao nhất,
đáp ứng nhu cầu cho vay của Ngân hàng nhưng lại đòi hỏi chi phí thấp nhất.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác huy động vốn trong hoạt
động của Ngân hàng. Với những kiến thức đã học và qua thực tế tại Sở giao
dich ngân hàng Công thươngViệt Nam, em xin mạnh dạn chọn đề tài "Công
tác huy động vốn tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam.Thực
trạng và giải pháp ".
Ngoài phần mở đầu, kết thúc, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề

được trình bày theo 3 chương.
Chương I : Những vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Chương II : Thực trạng công tác huy động vốn của SGD I NHCT VN
Chương III : Những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác
huy động vốn tại SGD I NHCT VN
. Do thời gian nghiên cứu cũng như kiến thức thực tế không nhiều, bài
chuyên đề của em còn nhiều điểm chưa đề cập đến và còn có những thiếu sót
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý của các thày, cô giáo cùng các bạn
để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, cán bộ hướng dẫn
khóa luận cùng toàn thể các anh chị trong Sở giao dịch I Ngân hàng Công
thương Việt Nam đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong thời gian thực tập và
nghiên cứu viết chuyên đề. Đặc biệt em xin chân thành cám ơn T.S Lê Văn
Luyện đã có hướng dẫn và giúp đỡ em viết chuyên đề này.
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. KháI niệm về ngân hàng thương mại
Để đưa ra được một định nghĩa về ngân hàng thương mại, người ta
thường phải dựa vào tính chất mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài
chính và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.Với
mỗi quốc gia khác nhau, hình thành một khái niệm khác nhau về NHTM.

Theo Luật Ngân hàng Đan Mạch năm 1930: “Những nhà băng thiết
yếu bao gồm những nghiệp vụ nhận tiền gửi, buôn bán vàng bạc, hành nghề
thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực
hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm...”
Theo Luật Ngân hàng Pháp năm 1941: “NHTM là những xí nghiệp hay
cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác
hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ
chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Theo Luật của các TCTD tại Việt Nam:“Ngân hàng là TCTD thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, chủ yếu là
nhận tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh
toán”.
“NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện toàn bộ các hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi
nhuận góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước”.
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng khi phân tích khai
thác nội dung của các định nghĩa đó, người ta dễ nhận thấy các NHTM đều
có chung một tính chất, đó là: việc nhận tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, đầu tư và các dịch vụ kinh doanh khác
của chính ngân hàng
1.1.2 Vai trò của ngân hàng thương mại
Từ khái niệm về NHTM nêu trên áp dụng vào thực tế nước ta, một
nước có hơn 80% dân số sống bằng nghề nông, việc phát triển sản xuất theo
chiều hướng CNH- HĐH rất cần đến NHTM với vai trò to lớn của nó. Nhất
là khi quá trình CNH - HĐH của chúng ta đã đi vào chiều sâu, yêu cầu cần có
vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng tốc đầu tư, từng bước chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu bền, thực hiện

thành công các mục tiêu phát triển kinh tế năm thì vai trò của các NHTM
càng được Đảng và Nhà nước ta coi trọng.
a. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và các tổ chức trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng
thu nhập quốc dân, có mức độ tiêu dùng hợp lý. Tăng thu nhập quốc dân
đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự
phát triển của các ngành trong nền kinh tế. Điều đó muốn làm được lại cần có
vốn. Vốn được coi như nguồn “thức ăn” chính thức cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Khi “thức ăn” bị thiếu, doanh nghiệp sẽ
mất đi cơ hội đầu tư mới hoặc không tiến hành kịp thời quá trình tái sản xuất.
NHTM chính là người đứng ra tiến hành khơi thông nguồn vốn nhàn rỗi ở
mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế... Thông qua hình thức cấp tín
dụng, ngân hàng đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản
xuất, cải tiến máy móc, thiết bị, đổi mới qui trình công nghệ, nâng cao năng
suất lao động đem lại hiệu quả kinh tế, cũng có nghĩa là đưa doanh nghiệp lên
những nấc thang cạnh tranh cao hơn. Cạnh tranh càng mạnh mẽ, kinh tế càng
phát triển. Như vậy với khả năng cung cấp vốn, NHTM đã trở thành một
trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế của quốc gia.
b. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, giúp cho các
nhà kinh doanh trong xây dựng chiến lược quản lý doanh nghiệp.
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
Thị trường ở đây được hiểu ở hai góc độ, thị trường đầu vào và thị
trường đầu ra của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành bất kỳ một hoạt động
kinh doanh nào, doanh nghiệp cần phải tham gia vào thị trường đầu vào
nhằm thực hiện thành công chiến lược 5P: Product (sản phẩm), Price (giá cả),
Promotion (giao tiếp, khuyếch trương), Place (địa điểm) và People (con
người). Từ đó tiếp cận mạnh mẽ vào thị trường đầu ra, tìm kiếm lợi nhuận.
Qui trình đó chỉ được bắt đầu khi doanh nghiệp trang bị được đầy đủ vốn cần

thiết. Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ khả năng về tài chính.
Do vậy, buộc họ phải tìm kiếm vốn phục vụ chính họ. Nguồn vốn tín dụng
của NHTM sẽ giúp các doanh nghiệp giải quyết những khó khăn đó, tạo cho
doanh nghiệp có đủ khả năng thoả mãn tối đa nhu cầu của thị trường trên mọi
phương diện: giá cả, chủng loại, chất lượng, thời gian, địa điểm... NHTM sẽ
là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường gần nhau hơn cả về không gian và
thời gian.
c. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá như hiện nay thì vai trò này
ngày càng thể hiện rõ rệt hơn. áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi quốc
gia khi mở cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt là
tiềm lực về tài chính. Nhưng làm thế nào để có thể hoà nhập nền tài chính của
một quốc gia với phần còn lại của thế giới? Câu hỏi đó sẽ được giải đáp nhờ
vào hệ thống các NHTM vì hệ thống này có khả năng cung cấp nhiều loại
hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho việc đầu tư từ nước ngoài vào trong nước
theo các hình thức: thanh toán quốc tế, nghiệp vụ hối đoái, cho vay uỷ thác
đầu tư... giúp cho luồng vốn ra, vào một cách hợp lý, đưa nền tài chính nước
nhà bắt kịp với nền tài chính quốc tế. Đây là một trong những điều kiện tiên
quyết cho tiến trình hội nhập kinh tế ở các quốc gia trên thế giới.
d. Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế vì hoạt động Ngân hàng góp phần chống lạm phát.
Một trong những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm
phát qua con đường tín dụng. Khi xảy ra lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
tăng tỉ lệ vào dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hoặc tham gia vào thị
trường mở để thông qua các ngân hàng thương mại thay đổi lại lượng tiền
trong lưu thông. Các Ngân hàng thương mại sẽ kiểm soát lạm phát thông qua
các hoạt động tín dụng, bảo lãnh. Từ đó ngân hàng xác định được hướng đầu
tư vốn và đề ra các biện pháp xử lý những tác động xấu ảnh hưởng đến nền

kinh tế, làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục, góp phần điều hoà lưu
thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
1.1.3 Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM
a- Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn tự có của NHTM
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình tạo vốn của NHTM mà cụ thể là
hình thành nên nguồn vốn của NHTM. Nguồn vốn của NHTM bao gồm:
*Vốn tự có:
Vốn tự có là vốn riêng có của NHTM. Vốn này tuy chiếm tỉ trọng nhỏ
trong tổng vốn của NHTM song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành
lập một ngân hàng. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như
là tài sản đảm bảo gây lòng tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh
toán trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ. Vốn tự có cũng là căn cứ để
tính toán các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Trong thực tế, vốn tự có không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt
động kinh doanh của bản thân ngân hàng mang lại. Bộ phận vốn này đóng
góp một phần đáng kể vào vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM, đồng
thời góp phần vào nâng cao vị thế của NHTM trên thương trường.
Như vậy, vốn tự có là nguồn vốn ổn định, ngân hàng sử dụng một cách
chủ động. Do đó vấn đề đặt ra là ngân hàng phải bảo toàn và không ngừng
tăng vốn tự có của mình theo yêu cầu của sự phát triển hoạt động kinh doanh
theo đúng chính sách, chế độ. Đồng thời phải sử dụng vào các mục đích đã
định.
* Nghiệp vụ huy động vốn:
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ
các TCKT và cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp
vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Vốn huy động là công cụ chính đối với các hoạt động kinh doanh của
các NHTM. Nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn

của ngân hàng và giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Mặc dù bị giới hạn về mức huy động vốn, song nếu các NHTM sử
dụng tốt nguốn vốn này thì không những nguồn lợi của ngân hàng được tăng
lên mà còn tạo cho ngân hàng uy tín ngày càng cao. Qua đó ngân hàng có thể
mở rộng được vốn và mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Nguồn vốn huy động của ngân hàng bao gồm: Tiền gửi doanh nghiệp,
tiền gửi dân cư,phát hành giấy tờ có giá
* Nghiệp vụ vốn đi vay:
Đối với nghiệp vụ này các NHTM tiến hành tạo vốn cho mình bằng
cách vay của các TCTD trên thị trường tiền tệ và NHTƯ dưới hình thức tái
chiết khấu hay vay có bảo đảm, nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của
bản thân NHTM khi mà họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại
chỗ. Thực tế cho thấy, chi phí của vốn đi vay thường cao hơn chi phí của vốn
huy động tại chỗ. Tuy nhiên, tính chủ động của vốn đi vay lại cao hơn vốn
huy động tại chỗ.
*Nghiệp vụ tạo vốn khác:
Trong quá trình là trung gian thanh toán, các NHTM cũng tạo được
một khoản gọi là vốn trong thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng,
tài khoản tiền gửi séc bảo chi, séc định mức và các khoản tiền phong toả do
ngân hàng chấp nhận các hối phiếu thương mại... Các khoản tiền tạm thời
được trích khỏi tài khoản này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên tạm
thời coi là tiền nhàn rỗi.
Thông qua nghiệp vụ đại lý, ngân hàng thu hút được một lượng vốn
đáng kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho các TCTD
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
khác, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư... Do đó
ngân hàng có thể sử dụng tạm thời những tài khoản đó vào kinh doanh.
Để mở rộng nghiệp vụ này các NHTM cần chú trọng đến phát triển các
dịch vụ và không ngừng nâng cao uy tín của mình trên thương trường.

b. Nghiệp vụ tài sản có:
Là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm
đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM. Nội dung
nguồn vốn này gồm:
*Nghiệp vụ ngân quĩ
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản về dự trữ của ngân hàng nhằm đảm
bảo an toàn trong thanh toán và thực hiện qui định về dự trữ bắt buộc do
NHTƯ đề ra. Vì một trong những chức năng của NHTM là nhận tiền gửi của
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả. Khoản dự trữ này do NHNN qui định
theo một tỷ lệ nhất định trên tổng tiền gửi. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc này thay đổi
theo từng thời kỳ nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc
gia.
Những khoản này gồm: tiền mặt tại quĩ, tiền gửi tại NHNN (dự trữ bắt
buộc và tiền gửi đảm bảo khả năng thanh toán), các chứng khoán có tính
thanh khoản cao.
*Nghiệp vụ cho vay
Là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu và tạo khả năng sinh lời cao cho
ngân hàng. Trong tổng tài sản có thì nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Nghiệp vụ cho vay bao gồm các khoản sinh lời thông qua cho vay
ngắn hạn, trung và dài hạn:
- Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay nhằm giải quyết thiếu hụt
vốn tạm thời trong kinh doanh của khách hàng. Cho vay ngắn hạn chủ yếu
đầu tư vào tài sản lưu động. Ở Việt Nam hiện nay thường cho vay ngắn hạn
theo hai phương thức:
+ Cho vay theo hạn mức: áp dụng cho những khách hàng vay trả
thường xuyên có vòng quay vốn nhanh.
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
+ Cho vay từng lần: áp dụng cho những khách hàng vay trả thường
xuyên và có vòng quay vốn chậm.

- Cho vay trung - dài hạn: là hình thức cho vay mà tiền vay được cấu
tạo vào tài sản cố định. Đây là loại cho vay có thể nhận trức tiếp bằng tiền
hoặc cho vay thông qua tài sản - nghiệp vụ cho thuê tài chính.
Hoạt động cho vay mang lại lợi nhuận cơ bản cho ngân hàng, nhưng
đồng thời nó cũng mang lại rủi ro rất cao cho nên ngân hàng luôn xem xét kỹ
lưỡng tới từng món vay và từng đối tượng khách hàng vay để chỉ đảm bảo an
toàn cho các khoản vay.
*Nghiệp vụ đầu tư tài chính
Các NHTM thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của mình thông qua
các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường...
với mục đích kiếm lời, phân tán rủi ro qua việc đa dạng hoá các hoạt động
kinh doanh.
*Nghiệp vụ tài sản có khác
Bằng các hoạt động khác trên thị trường như: uỷ thác, đại lý, kinh
doanh và dịch vụ bảo hiểm, thực hiện các dịch vụ tư vấn, ngân quĩ... và các
dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng như dịch vụ bảo quản hiện
vật quí, giấy tờ có giá, cho thuê két, cầm đồ và nhiều dịch vụ khác theo qui
định của NHNN Việt Nam giúp cho Ngân hàng thu được những khoản lợi
đáng kể.
c. Nghiệp vụ khác
*Nghiệp vụ trung gian
Là nghiệp vụ của ngân hàng thực hiện các dịch vụ cho khách hàng
thông qua đó nhận được các khoản thu dưới hình thức hoa hồng. Nền kinh tế
càng phát triển thì dịch vụ này càng mở rộng. Gồm có:
- Ngân hàng tiến hành chuyển tiền cho khách hàng, thanh toán hộ
khách hàng về các khoản tiền mua bán dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi hộ
khách hàng bằng hình thức séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng...
- Ngân hàng đóng vai trò làm trung gian trong việc mua bán hộ cho
khách hàng.
Häc ViÖn Ng©n Hµng

Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
- Ngân hàng làm đại lý phát hành và bán chứng khoán cho công ty.
*Nghiệp vụ ngoại bảng
Là những khoản dùng để phản ánh những tài sản tạm thời để ở ngân
hàng nhưng không thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Ngoài ra, các khoản
này còn phản ánh một số chỉ tiêu kinh tế đã được phản ánh ở các tài khoản
trong bảng cân đối kế toán những đơn vị cần theo dõi để phục vụ yêu cầu
quản lý nợ khó đòi đã xử lý, chi tiết ngoại tệ...
Về nguyên tắc, các tài khoản thuộc loại này đều ghi “đơn” tức là chỉ
ghi vào bên nợ hoặc bên có của tài khoản mà không ghi quan hệ đối ứng hoặc
giá qui định trong biên bản giao nhận, trong hoá đơn, chứng từ. Tài sản nhận
giữ hộ, tài sản gán nợ, xiết nợ chờ xử lý...
Những tài sản phản ánh trên các tài khoản này đều phải được tiến hành
kiểm kê, bảo quản như với tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp

1.2.
Vốn huy động và công tác huy động vốn trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm về vốn.
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng
thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực
hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của ngân
hàng thương mại, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng bao gồm:
*Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập
được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Nó mang tính ổn định và căn cứ để quyết
định đến khả năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng.
*Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ
các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội và được dùng làm vốn để kinh
doanh. Vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng
chỉ có quyền sử dụng và phải hoàn trả đúng gốc và lãi khi đến hạn. Nguồn

vốn này luôn biến động, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi
hoạt động của ngân hàng.
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
*Vốn đi vay là phần vốn các Ngân hàng đi vay để bổ sung vào vốn
hoạt động của mình trong trường hợp tạm thiếu vốn khả dụng. Nó có chi phí
tương đối cao cho nên chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng.
*Vốn khác là phần vốn phát sinh trong quá trình thực hiện các nghiệp
vụ thanh toán…
1.2.2 Vai trò của vốn huy động
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì
phải có vốn bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh
doanh. Riêng đối với Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh một loại
hàng hoá đặc biệt là “tiền tệ” với đặc thù hoạt động kinh doanh là “đi vay để
cho vay” nên nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng lại
càng có vai trò hết sức quan trọng. Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh
doanh của ngân hàng. Ngoài vốn ban đầu cần thiết tức là đủ vốn điều lệ theo
luật định thì để bắt đầu hoạt động kinh doanh của mình, việc đầu tiên mà
ngân hàng phải làm là huy động vốn. Vốn huy động sẽ cho phép ngân hàng
cho vay, đầu tư... để thu lợi nhuận. Nói cách khác, nguồn vốn mà ngân hàng
huy động được nhiều hay ít quyết định đến khả năng mở rộng hay thu hẹp tín
dụng. Nguồn vốn huy động được nhiều thì cho vay được nhiều và mang lại
lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Với chức năng tập trung và phân phối cho các nhu cầu của nền kinh tế,
một nguồn vốn huy động dồi dào sẽ tạo cho ngân hàng điều kiện để mở rộng
hoạt động kinh doanh, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, không bỏ lỡ cơ hội
đầu tư, giảm thiểu rủi ro, tạo dựng được uy tín cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, nguồn vốn huy động của ngân hàng quyết định đến khả
năng cạnh tranh. Nếu nguồn vốn huy động lớn sẽ chứng minh rằng qui mô,

trình độ nghiệp vụ, phương tiện kĩ thuật của ngân hàng hiện đại.
Các ngân hàng thực hiện cho vay và nhiều hoạt động khác đều chủ yếu
dựa vào vốn huy động. Còn vốn tự có chỉ sử dụng trong những trường hợp
cần thiết. Vì vậy, khả năng huy động vốn tốt sẽ là điều kiện thuận lợi đối với
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế cả
về qui mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay,
thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút
ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên
nhanh chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động kinh
doanh, đảm bảo uy tín và năng lực trên thị trường.
Với những vai trò hết sức quan trọng đó, các ngân hàng luôn tìm cách
đưa ra những chính sách quản lý nguồn vốn từ khâu nhận vốn từ những
người gửi tiền và những người cho vay khác nhau đến việc sử dụng nguồn
vốn một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, các nhà quản trị ngân hàng cũng luôn
tìm cách để đổi mới, hoàn thiện chúng cho phù hợp với tình hình chung của
nền kinh tế. Đó là một trong những điều kiện tiên quyết đưa ngân hàng đến
thành công.
1.2.3. Các hình thức huy động vốn
a.
.
Tiền gửi của khách hàng.
Tiền gửi của khách hàng đó là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, doanh
nghiệp cơ quan Nhà nước và các định chế tài chính trung gian cùng cá nhân
trong và ngoài nước có quan hệ gửi tiền tại ngân hàng.
Tiền gửi của khách hàng được chia làm hai bộ phận: Tiền gửi của
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
*Tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế bao gồm:
-Tiền gửi không kỳ hạn.

Đây là khoản tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào và
ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng, thực chất đó là khoản
tiền gửi dùng để đảm bảo trong thanh toán.
Tiền gửi đảm bảo thanh toán được ký ýthác vào ngân hàng để thực
hiện các khoản chi trả khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh
của khách hàng một cách thuận tiện và tiết kiệm. Đây là khoản tiền tạm thời
nhàn rỗi chờ thanh toán mà không phải để dành. Bởi vậy đối với khách hàng
đây là một tài sản mà họ kýý thác uỷ nhiệm cho ngân hàng bảo quản và thực
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
hiện các nghiệp vụ liên quan theo yêu cầu của khách hàng. Do vậy khách
hàng không mất quyền sở hữu, cũng như quyền sử dụng số tiền đó. Họ có
quyền lấy ra hoặc chuyển nhượng cho bất kỳ ai và bất kỳ thời gian nào.
Khách hàng được sử dụng số tiền của mình bằng các phương tiện thanh toán
dùng để chi trả như séc, uỷ nhiệm chi, thư chuyển tiền…
Đối với ngân hàng đây là một khoản nợ mà ngân hàng có nghĩa vụ
thực hiện lệnh thanh toán chi trả cho người thụ hưởng loại tiền gửi này, lãi
suất thường thấp hơn lãi suất trả cho các khoản tiền gửi có lãi khác.Nhưng
khi khách hàng mở và sử dụng các loại tài khoản này thì được ngân hàng
cung ứng các loại dịch vụ miễn phí hoặc thu với tỷ lệ thấp, lượng tiền vốn ở
tài khoản thanh toán thường chiếm gần 1/3 tiền gửi ngân hàng.
Như vậy các tài khoản này đã đem lại cho khách hàng sự an toàn trong
việc bảo quản vốn và trong qúa trình thanh toán trả tiền hàng hoá dịch vụ,
ngoài ra khách hàng còn được hưởng một khoản tiền lãi nhỏ và một số dịch
vụ miễn phí. Còn đối với ngân hàng phải bỏ ra một số chi phí cho bộ máy kế
toán theo dõi và nghi chép các nghiệp vụ phát sinh, chi phí phát hành séc và
một số dịch vụ kèm theo. Chi phí này khá lớn, nhưng nó được bù đắp lại bởi
vì trên thực tế do lượng tiền gửi vào và số lượng tiền rút ra không cùng một
lúc và chủ tài khoản thường không sử dụng hết số tiền của mình trên tài
khoản. Do đó luôn tồn tại một số tiền trên tài khoản trong một thời gian dài

số dư ấy được ngân hàng dùng để đầu tư cho vay đối với một số doanh
nghiệp, cá nhân thiếu vốn sản xuất, kinh doanh để thu lợi nhuận. Như vậy đối
với tài khoản tiền gửi thanh toán số dư trên tài khoản giao dịch không những
bù đắp được chi phí mà còn có thể mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Ngày nay do điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều công nghệ
mới được ứng dụng vào hoạt động ngân hàng. Vì vậy đã có nhiều doanh
nghiệp, cá nhân mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng, làm cho lượng tiền gửi
này ngày càng gia tăng. Đó là những nguồn vốn dùng để cho vay hết sức
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
quan trọng của ngân hàng, đồng thời lợi nhuận thu về từ nguồn vốn này cũng
ngày càng tăng.
- Tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp,
chưa sử dụng đến trong một thời gian nhất định, mà khoảng thời gian này
được xác định trước. Do đó cá doanh nghiệp thường gửi vào ngân hàng dưới
hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Phần lớn các nguồn tiền gửi này xuất phát từ
nguồn tích luỹ của các doanh nghiệp mà có. Về nguyên tắc khách hàng chỉ
được rút tiền ra khi đến hạn và được hưởng số tiền lãi trên số tiền gửi đó.
Nhưng hiện nay để thu hút vốn nhằm khuyến khích khách hàng gửi tiền vào
ngân hàng, các NHTM cho phép khách hàng rút tiền ra trước thời hạn. Trong
trường hợp này khách hàng không được hưởng lãi hoặc chỉ được hưởng theo
lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn.
Do tính chất của loại tiền vốn tương đối ổn định, ngân hàng có thê sử
dụng phần lớn số dư loại nguồn vốn này để cho vay trung và dài hạn. Nếu
nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động sẽ tạo điều
kiện thuận lợi, chủ động của ngân hàng trong quá trình kinh doanh, các
NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn nhằm đáp ứng nhu cầu tiền gửi của
khách hàng. Hiện tại các NHTM có các loại tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng, 2
tháng, 3 tháng, 6 tháng 9 tháng, 1 năm, 2 năm. Với mỗi một kỳ hạn khác

nhau thì ngân hànng áp dụng một loại lãi suất khác nhau. Thông thường thì
thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Các NHTM thường khuyến khích
khách hàng gửi tiền với thời hạn dài, vì loại tiền này tương đối ổn định, ngân
hàng sẽ chủ động trong kinh doanh. Để thu hút được nhiều nguồn vốn dài hạn
thì tốc độ phát triển nền kinh tế phải ổn định, giá trị đồng tiền được đảm bảo,
lạm phát vừa phải (thường là một con số một năm) và tình hình hoạt động
kinh doanh của các ngân hàng có hiệu quả.
* Tiền gửi tiết kiệm dân cư:
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
Tiển gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi các nhân được gửi
vào Ngân hàng, nhằm hưởng lãi suất theo qui định. Tiền gửi tiết kiệm là bộ
phận thu nhập bằng tiền gửi của cá nhân chưa sử dụng được gửi vào tổ chức
tín dụng. Nó là một dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ trong tiêu dùng cá nhân.
Khi gửi tiền người gửi tiền được giao một sổ tiết kiệm coi như một giấy
chứng nhận tiền gửi vào Ngân hàng. Đến thời hạn khách hàng rút tiền ra
được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền gửi tích kiệm.
Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Loại tiền gửi này người gửi tiền có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ số
tiền gửi bất kỳ lúc nào. Nhưng khác với loại tiền gửi thanh toán, người gửi
tiền không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác,
lãi suất tiền gửi tiết kiệm thường cao hơn và phần lớn những người gửi tiền
tiết kiệm là do chưa xác định được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai,
nhưng lại hưởng mức lãi trong thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Khi cá nhân gửi tiền vào ngân hàng loại tiền gửi tích kiệm có kỳ hạn
trên cơ sở thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi, lãi suất
theo qui định và khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn. Nhưng trong
thực tế ở nước ta hiện nay để khuyến khích người gửi tiền các NHTM vẫn

cho khách hàng rút ra trước thời hạn và được hưởng lãi suất thấp hơn lãi suất
tiền gửi có kỳ hạn (thông thường bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ
hạn).
Do nguồn vốn huy động từ loại tiền gửi này mang tính ổn định, cho
nên các NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau như loại 3 tháng,
6 tháng, 12 tháng, 24 tháng… nhằm thu hút càng nhiều nguồn vốn với lãi
suất của các kỳ hạn khác nhau. Thông thường kỳ hạn ngày càng dài thì lãi
suất huy động ngày càng cao (lãi suất tiền gửi có kỳ hạn lớn hơn lãi suất tiền
gửi không kỳ hạn và tiền gửi thanh toán).
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư có số lượng lớn
thứ hai trong tổng số các loại tiền gửi vào ngân hàng và nó phục thuộc rất lớn
vào thu nhập bình quân theo đầu người, tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu nhập của
dân cư, chất lượng phục vụ của NHTM, sự ổn định đồng tiền và nền kinh tế
tăng trưởng vững chắc.
b. Tạo vốn qua phát hành công cụ nợ.
Vốn phát hành của ngân hàng, đây là hình thức huy động vốn thông
qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu…Đó là các công cụ nợ của ngân hàng.
Đặc điểm của loại vốn này là lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết
kiệm. Mục đích huy động dùng để đáp ứng cho các dự án đầu tư lớn. Nguồn
vốn này được huy động theo nhiều thời hạn khác nhau như ngắn hạn, trung
hạn, dài hạn. Thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Hiện nay ở Việt nam
các NHTM thường huy động nguồn vốn này dưới hình thức phát hành kỳ
phiếu có mục đích và trái phiếu trung, dài hạn.
* Phát hành kỳ phiếu có mục đích.
Khi các NHTM có nguồn vốn tài chính dồi dào để tài trợ cho các
nguồn vốn có qui mô lớn, nhằm phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế hoặc liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế mà các nguồn
vốn tự có chưa đáp ứng được, NHTM trình ngân hàng Nhà nước xin phép

phát hành kỳ phiếu để tạo nguồn vốn tín dụng tương đối lâu dài cho các hoạt
động này.
Như vậy kỳ phiếu là một chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có thời
hạn, người sở hữu có thể chuyển nhượng cho người khác qua chứng nhận của
ngân hàng, vì trên sổ kỳ phiếu có ghi tên người hưởng. Kỳ phiếu ngân hàng
được phát hành nhằm huy động vốn trong dân cư một cách linh hoạt có tác
dụng thu hút cá nguồn tiền nhàn rỗi vào ngân hàng, góp phần kiềm chế lạm
phát, ổn định giá trị của đồng tiền, tạo nguồn vốn trung dài hạn để đầu tư cho
các dự án phát triển kinh tế.
* Phát hành trái phiếu.
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
Trái phiếu ngân hàng thực chất là giấy nhận nợ có kỳ hạn của ngân
hàng đối với những người mua trái phiếu (nhà đầu tư). Trái phiếu được các
NHTM hay các tổ chức tín dụng phát hành nhằm huy động vốn cho chính
bản thân ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng có liên quan. Thời hạn của trái
phiếu thường lớn hơn một năm. Lãi suất của trái phiếu thường cao hơn lãi
suất của tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu. Các NHTM phát hành trái phiếu trên cơ
sở nhu cầu sử dụng vốn thông qua các dự án đầu tư của các doanh nghiệp mà
ngân hàng cam kết cho vay.
Huy động vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ của các
NHTM như kỳ phiếu, trái phiếu là một hình thức mới trong công tác huy
động vốn của NHTM ở cá nước đang phát triển. Vốn được huy động từ hình
thức này dùng để đầu tư cho các dự án trung và dài hạn.
Ở nước ta hình thức này được Ngân hàng sử dụng từ năm 1992. Nhưng
cho đến nay khối lượng vốn huy động của NHTM qua hình thức này vẫn còn
thấp so với các hình thức huy động vốn truyền thống khác. Để phát huy được
thế mạnh của công cụ huy động vốn này đòi hỏi phải có thị trưòng vốn hoàn
chỉnh (thị trưòng chứng khoán). Ở nước ta thị trường này mới được thành lập
cho nên hoạt động của nó chưa ảnh hưởng nhiều đến hoạt động huy động vốn

của ngân hàng.
b. Vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác và ngân hàng Trung ương.
Khi các NHTM có sự mất cân đối giữa nguồn vốn huy động và sử
dụng vốn, xảy ra hiện tượng thiếu vốn đột xuất.
Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình, các tổ chức tín dụng vay
vốn của nhau qua thị trường liên ngân hàng. Thị trường này giúp cho NHTM
bổ sung nguồn vốn cho nhau, nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt vốn trong
thanh toán. Hoạt động của thị trường này nhằm tận dụng đến mức cao nhất
các khả năng sẵn có một cách triệt để của các tổ chức tín dụng, trước khi có
nhu cầu vay vốn của ngân hàng Trung ương.
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
Việc thực hiện quan hệ tín dụng giữa các NHTM phải được tiến hành
theo nguyên tắc đi vay cho vay và phải được thoả thuận trên cơ sở hợp đồng
tín dụng, vốn vay phải đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố (tiền mặt tại quĩ và các
chứng từ có giá trị), hay NHTM đi vay có thể xin ngân hàng Nhà nước bảo
lãnh để vay vốn các ngân hàng khác. Các ngân hàng đi vay phải chấp hành
đầy đủ các quy chế dự trữ bắt buộc và an toàn vốn, phải có tài khoản tiền gửi
thanh toán hoạt động thường xuyên tại NHTW.
Khi các NHTM đã hết khả năng vay mượn của nhau mà vẫn thiếu vốn
hoặc mất khả năng thanh toán, các NHTM thực hiện vay vốn tại ngân hàng
Trung ưng để tạo thêm nguồn vốn bổ sung cho hoạt động kinh doanh của
mình. Việc ngân hàng Trung ương cho các NHTM vay đã làm tăng khả năng
thanh toán cho các NHTM. Nguồn vốn của ngân hàng Trung ương là nguồn
vốn cuối cùng, làm cho khả năng thanh toán của nền kinh tế được bình
thường. Nếu như thiếu nguồn vốn này thì sẽ xuất hiện các cuộc khủng hoảng
tài chính khi các NHTM mất khả năng thanh toán.
Các nguồn vốn đi vay từ các tổ chức tín dụng khác, từ ngân hàng
Trung ương để đảm bảo khả năng thanh toán trong những trường hợp cần
thiết. Cho nên thời hạn vay thường ngắn, lãi suất thường cao hơn các hình

thức huy động vốn khác của NHTM.
d. Tạo vốn từ nguồn vốn khác.
Ngoài các nguồn vốn huy động trên các NHTM cũng có thể khai thác
nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, đây là nguồn vốn lớn, có thời hạn
tương đối dài từ 5 đến 50 năm với lãi suất tương đối ưu đãi. Khi các NHTM
nhận các nguồn vốn này thường có các điều kiện kèm theo rất chặt chẽ và
việc cấp phát phải đúng nội dung chương trình của các dự án tài trợ.
Ở nước ta khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, Đảng và Nhà
nuớc ta đã sáng suốt lựa chọn các đường lối ngoại giao đúng đắn, trên tinh
thần mở cửa của nền kinh tế, làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, thu
hút các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt nam. Các nguồn vốn này
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
có đóng gỏp rất quan trọng vào công cuộc đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước và NHTM phải tăng cường mở
rộng các mối quan hệ hợp tác quốc tế, từ đó tranh thủ và tiếp nhận các nguồn
vốn này.
Trên đây là các hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM, tuy nhiên
chất lượng, hiệu quả của hoạt động huy động vốn chịu ảnh hưởng tác động
rất nhiều yếu tố, từ các yếu tố mang tính chất vĩ mô, đến các yếu tố mang tính
chât vi mô của nền kinh tế, cũng như các yếu tố liên quan tới chính NHTM.
1
.3. Nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn
1.3.1. Các nhân tố khách quan
a. MôI trường pháp lý
Nghiệp vụ huy động vốn của các NHTM chịu sự điều chỉnh rất lớn của
môi trường pháp lý. Có những Bộ Luật tác động trực tiếp mà chúng ta thường
thấy như: Luật các TCTD, Luật NHNN... Những Luật này qui định tỉ lệ huy
động vốn của ngân hàng so với vốn tự có, qui định về việc gửi và sử dụng tài
khoản tiền gửi... Có những Bộ Luật tác động gián tiếp đến hoạt động ngân

hàng như Luật đầu tư nước ngoài hoặc các NHTM không được nhận tiền gửi
hoặc cho vay bằng cách tăng giảm lãi suất, mà phải dựa vào lãi suất do
NHNN đưa ra và chỉ được xê dịch trong biên độ nhất định mà NHNN cho
phép... Bên cạnh những bộ luật đó thì chính sách tài chính tiền tệ của một
quốc gia cũng ảnh hưởng rất lớn tới nghiệp vụ tạo vốn của NHTM. Nó được
thể hiện ở mục tiêu của chính sách tiền tệ, chẳng hạn khi nền kinh tế lạm phát
tăng, Nhà nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi
để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó NHTM huy động vốn dễ dàng hơn.
Như vậy, môi trường pháp lí là nhân tố khách quan có tác động rất lớn tới
quá trình huy động vốn của NHTM. Mục tiêu hoạt động của NHTM được
xây dựng vào các qui định, qui chế của Nhà nước để đảm bảo an toàn và
nâng cao niềm tin từ khách hàng.
b.Môi trường kinh tế xã hội:
Häc ViÖn Ng©n Hµng
Sinh viªn thùc hiÖn: Ng« Thu H­¬ng
Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước cũng có tác động không
nhỏ đến quá trình huy động vốn của ngân hàng. Khi nền kinh tế tăng trưởng
hay suy thoái thì nó đều ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của NHTM. Mọi
biến động của nền kinh tế bao giờ cũng được biểu hiện rõ trong việc tăng,
giảm nguồn vốn huy động từ bên ngoài của ngân hàng. Nền kinh tế tăng
trưởng, sản xuất phát triển, từ đó tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn, do đó tạo
môi trường cho việc thu hút vốn của NHTM thuận lợi. Ngược lại, khi nền
kinh tế suy thoái, lạm phát tăng, người dân không gửi tiền vào ngân hàng mà
giữ tiền để mua hàng hoá, việc thu hút vốn gặp khó khăn.
c. Tâm lý, thói quen khách hàng
Khách hàng của ngân hàng bao gồm những người có vốn gửi tại ngân
hàng và những đối tượng sử dụng vốn đó. Về môi trường xã hội ở các nước
phát triển, khách hàng luôn có tài khoản cá nhân và thu nhập được chuyển
vào tài khoản của họ. Nhưng ở các nước kém phát triển, nhu cầu dùng tiền
mặt thường lớn hơn. Ở khoản mục tiền gửi tiết kiệm có hai yếu tố quan trọng

tác động vào là thu nhập và tâm lý của người gửi tiền. Thu nhập ảnh hưởng
đến nguồn vốn tiềm tàng mà Ngân hàng có thể huy động trong tương lai. Còn
yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến động ra vào của các nguồn tiền. Tâm lý
tin tưởng vào tương lai của khách hàng có tác dụng làm ổn định lượng tiền
gửi vào, rút ra và ngược lại nếu niềm tin của khách hàng về đồng tiền trong
tương lai sẽ mất giá gây ra hiện tượng rút tiền hàng loạt vốn là mối lo ngại
lớn của mọi ngân hàng. Một đặc điểm quan trọng của đối tượng khách hàng
là mức độ thường xuyên của việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Mức độ sử
dụng càng cao, ngân hàng càng có điều kiện mở rộng việc huy động vốn.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
a.Các hình thức huy động vốn
Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa
dạng hình thức huy động vốn. Hình thức huy động vốn của ngân hàng ngày
càng phong phú, linh hoạt bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế

×