Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Đánh giá hiệu quả quản lý rừng dựa vào cộng đồng vùng dân tộc khmer ven biển tỉnh sóc trăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

LÝ HÒA KHƯƠNG

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
VÙNG DÂN TỘC KHMER VEN BIỂN TỈNH SÓC TRĂNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Đồng Nai, 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

LÝ HÒA KHƯƠNG

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
VÙNG DÂN TỘC KHMER VEN BIỂN TỈNH SÓC TRĂNG

CHUYÊN NGÀNH : LÂM HỌC
MÃ SỐ : 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHẠM XUÂN HOÀN

Đồng Nai, 2012


Chú ý: Phần trình bày của các mục trong trang bìa đều quy định cỡ chữ (em đã
chỉnh lại theo quy định khi ra in anh bảo đừng có chỉnh cỡ chữ nữa nha)
Gáy luận văn
LÝ HÒA KHƯƠNG * LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP * ĐỒNG NAI, 2012
(CỠ CHỮ 14)


1

MỞ ĐẦU
Rừng là một bộ phận của môi trường sống, là tài nguyên quý giá của đất
nước, có khả năng tái tạo rất phong phú, đa dạng, có giá trị to lớn nhiều mặt đối với
nền kinh tế quốc dân, văn hoá cộng đồng, du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học, an
ninh quốc gia và chất lượng cuộc sống của cả dân tộc. Việc bảo vệ và phát triển tài
nguyên rừng là trách nhiệm và nghĩa vụ của toàn xã hội.
Trong những năm qua, công tác bảo vệ và phát triển rừng luôn được nhà
nước quan tâm. Với chủ trương xã hội hóa cơng tác bảo vệ và phát triển rừng đã mở
ra những triển vọng to lớn cho sự tham gia đông đảo của nhiều lực lượng khác nhau
vào các hoạt động lâm nghiệp; phát huy được sức mạnh của tồn xã hội tham gia
vào cơng tác bảo vệ và phát triển rừng; kết hợp giữa bảo vệ rừng với phát triển kinh
tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo…. Chính vì thế, ngành lâm nghiệp nước ta đã và
đang từng bước hội nhập trong xu hướng phát triển của khu vực và trên thế giới,
chuyển đổi dần sang lâm nghiệp xã hội. Xu thế phát triển này, đã tạo ra nhiều nhân

tố tích cực, đa dạng hố các hình thức quản lý và phương thức tiếp cận mới đối với
quản lý tài nguyên rừng. Một trong những hình thức đó là quản lý rừng dựa vào
cộng đồng (Community-Based Forest Management-CBFM), nhằm thúc đẩy việc sử
dụng đất và tài nguyên rừng hiệu quả và bền vững, đồng thời cải thiện sinh kế cho
người dân. Quản lý rừng cộng đồng hiện đã được thực hiện ở nhiều địa phương
dưới nhiều cách thức quản lý khác nhau.
Đến nay, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, đã tạo động lực mạnh mẽ cho
phát triển nghề rừng. Trong đó, quản lý, bảo vệ rừng có sự tham gia của cộng đồng
dân cư thơn, bản là một trong những hình thức quản lý bảo vệ rừng đang được sự
quan tâm từ cấp Trung ương đến chính quyền địa phương. Đối với cộng đồng dân
cư những người hiện đang sinh sống ở vùng rừng và gần rừng, đời sống kinh tế, xã
hội của họ có quan hệ trực tiếp và gắn bó với rừng, đây là một nhân tố tích cực và
ngày càng có vị trí quan trọng trong hệ thống quản lý rừng cộng đồng. Phát huy vai
trò của cộng đồng dân cư để quản lý bảo vệ rừng là vấn đề vừa mang ý nghĩa phát
huy truyền thống dân tộc, vừa tạo ra một cách quản lý rừng có hiệu quả hơn, bền
vững hơn, phù hợp với những xu thế phát triển lâm nghiệp trên thế giới, đặc biệt là
các nước đang phát triển.
Đối với Sóc Trăng, hệ sinh thái rừng ngập mặn (HSTRNM) đã cung cấp
những lợi ích kinh tế trực tiếp, đặc biệt đối với nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy
sản, cũng như các dịch vụ gián tiếp đối với con người và được xem như những vùng


2

đệm tự nhiên, chống lại sự đe dọa của lũ lụt, xói lở, gió bão. Hệ sinh thái rừng ngập
mặn là khu vực ương nuôi, sinh sản và cư trú của nhiều loại tôm, cá và nhuyễn thể
quan trọng. Đặc biệt là nơi trú đơng đối với một số lồi chim nước di cư.
Trong những năm qua, do nhu cầu xuất khẩu thủy sản của khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long, tỉnh Sóc Trăng đã chú trọng đến việc ni tơm cơng nghiệp
và đánh bắt thuỷ hải sản. Do đó, diện tích rừng ngập mặn có giá trị về nhiều mặt,

nhưng khai thác chưa hợp lý, chủ yếu để phục vụ lợi ích trước mắt, nên đã gây ảnh
hưởng rất lớn đến tài nguyên rừng ngập mặn và môi trường. Chính vì thế, việc tìm
ra các giải pháp về quản lý, bảo vệ và sử dụng hiệu quả HSTRNM, đặc biệt là vùng
đồng bào dân tộc Khmer, trở thành vấn đề cấp bách, cần phải tiếp cận từ nhiều khía
cạnh khác nhau và phải có chung quan điểm phát triển bền vững.
Từ năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 773/TTg:
“Chương trình khai thác và sử dụng đất hoang hóa, bãi bồi ven sơng, ven biển và
mặt nước ở các vùng đồng bằng“ với mục tiêu là huy động tối đa mọi nguồn lực của
các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, để hoàn thành cơ bản việc khai thác sử
dụng hiệu quả quỹ đất ở các đồng bằng chưa khai thác, để tăng diện tích sản xuất,
tăng sản lượng hàng hóa nơng -lâm -ngư nghiệp và từng bước ổn định đời sống
người dân. Đến năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt dự án “ Bảo vệ và
phát triển những vùng đất nước ven biển” trong giai đoạn 2000 - 2005 (do Ngân
hàng thế giới tài trợ) với mục tiêu là tái lập hệ sinh thái của vùng đất ngập nước ven
biển của vùng phía Nam đồng bằng sơng Cửu Long và bảo vệ bền vững các chức
năng nuôi dưỡng thủy sản và bảo vệ bờ biển của vùng đất nầy. Đến tháng 10 năm
2006, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án Quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên
tại tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2007 – 2010 (do Cộng hòa Liên bang Đức tài trợ), với
mục tiêu nhằm phát triển bền vững vùng đất ngập nước ven biển tỉnh Sóc Trăng.
Song vấn đề quản lý bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững
ở vùng đồng bào dân tộc Khmer ít được lưu tâm đến, còn là vấn đề nhức nhối của
địa phương. Đặc biệt, việc nghiên cứu đánh giá kết quả việc thực hiện công tác
quản lý, bảo vệ rừng có sự tham gia của cộng đồng trong thời gian qua, để tìm ra
các định hướng, các giải pháp quản lý rừng, nhằm phát triển bền vững chưa được đề
cập đến. Từ những nhu cầu bức thiết đó mà đề tài “Đánh giá hiệu quả quản lý rừng
dựa vào cộng đồng vùng dân tộc Khmer ven biển tỉnh Sóc Trăng” được đặt ra,
nhằm phát huy vai trò cộng đồng dân tộc Khmer trong việc quản lý tài nguyên thiên
nhiên, đồng thời nâng cao đời sống dân cư vùng ven biển một cách bền vững.



3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
Khái niệm về quản lý rừng cộng đồng đã được đề cập hàng thập kỷ nay
nhưng trên thực tế vẫn chưa có một định nghĩa trọn vẹn. Nhìn nhận một cách tổng
quát và chung nhất thì quản lý rừng cộng đồng đề cập đến những hoạt động của
cộng đồng nhằm hướng tới việc quản lý và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên
rừng (Asiaforest network) [36].
Trên thế giới khái niệm quản lý rừng cộng đồng lần đầu tiên được tổ chức
FAO đưa ra vào năm 1978 trong hội nghị lâm nghiệp thế giới đó là “tất cả các hoạt
động lâm nghiệp mà cộng đồng người dân tham gia, bao gồm những hoạt động nhỏ
lẻ ở các khu vườn, đến thu hái các sản phẩm lâm nghiệp cho nhu cầu cuộc sống của
người dân và đến việc trồng cây ở các trang trại cây hàng hoá, sản xuất chế biến
các sản phẩm lâm nghiệp ở quy mơ hộ gia đình, hợp tác xã để tăng thu nhập cho
những cộng đồng sống trong rừng”. Tổ chức Fern (2005) lại đưa ra một khái niệm
cơ đọng và đơn giản hơn đó là "tiến trình quản lý, bảo vệ và phát triển rừng dựa
vào những kiến thức bản địa, cấu trúc truyền thống, những lễ hội và luật tục của
cộng đồng”. Hoạt động quản lý rừng cộng đồng bao gồm cả các hoạt động của cá
nhân và cộng đồng liên quan đến rừng, đến quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Thực ra, khó có một định nghĩa nào đầy đủ có thể phản ánh được thực tế của
việc quản lý rừng cộng đồng mà nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện tự nhiên, kinh
tế, xã hội ở mỗi nơi một khác nhau. Từ đó các hình thức quản lý rừng cộng đồng
cũng trở nên rất khác nhau. Ngoài ra, việc quản lý rừng cộng đồng khơng chỉ đóng
khung trong các hoạt động của cộng đồng mà nó liên quan đến nhiều bên tham gia
như các nhà lập định chính sách, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, các cơ quan
tài trợ và các nhà khoa học. Sự tham gia của các tổ chức này ít nhiều cũng có tác
động đến tiến trình quản lý, bảo vệ rừng cũng như điều kiện kinh tế, xã hội của các
cộng đồng. Mặc dù khơng có một định nghĩa hồn tồn chính xác về quản lý rừng



4

cộng đồng, nhưng khơng vì thế mà tiến trình của phát triển rừng cộng đồng trên
thực tế lại giảm đi. Các hoạt động quản lý rừng cộng đồng đã được người dân thực
hiện hàng trăm năm trước đây, và công bằng mà nói thì hoạt động quản lý rừng
cộng đồng đã được người dân thực hiện trước tất cả những khái niệm về rừng cộng
đồng được các nhà khoa học nhắc tới. Hiệu quả về mặt sinh thái và xã hội của các
khu rừng cộng đồng đã chỉ ra rằng quản lý rừng cộng đồng là một trong những hoạt
động mang tính logíc và hiệu quả nhất trong việc tìm ra những nguyên lý, những
chiến lược cơ bản về quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng. Về phương diện
khoa học, quản lý rừng cộng đồng chỉ mới được nhận diện vào những năm đầu của
thập kỷ 70, khi mà hạn hán ở Châu Phi và lũ lụt ở Châu Á đã làm cho tài nguyên
rừng bị suy giảm một cách nghiêm trọng. Nhiên liệu và chất đốt cho các cộng đồng
nơng thơn trở nên ngày càng khó khăn. Chính tại thời điểm này các kinh nghiệm về
quản lý rừng cộng đồng ở Ấn Độ (mơ hình lâm nghiệp xã hội), Hàn Quốc (mơ hình
vườn cây cấp bản), Thái Lan (mơ hình rừng cấp bản) và ở Tanzania (trồng rừng cấp
bản) đã được các nhà khoa học trên thế giới đặc biệt chú ý và chúng được coi như là
một giải pháp nhằm phát triển rừng và giải quyết vấn đề chất đốt ở nông thôn. Đến
những năm cuối thập kỷ 70, thì khái niệm về quản lý rừng cộng đồng đã được thừa
nhận một cách rộng rãi trên toàn thế giới. Năm 1978, đại hội thế giới về lâm nghiệp
đã lấy tiêu đề là “rừng cho cộng đồng” nhằm tôn vinh và thúc đẩy các hoạt động
rừng cộng đồng (Arnold, 1992). [36]
Trong thập kỷ 80s các dự án phát triển rừng cộng đồng được mở rộng ra
khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Ấn Độ và Nepal. Tên gọi về rừng cộng đồng
cũng có những thay đổi như “cùng quản lý rừng – Join Forest Management”; “lâm
nghiệp xã hội –Social Forestry”, “quản lý rừng dựa vào cộng đồng – Community
Based Forest Management” … Tuy nhiên, về bản chất của các hoạt động quản lý
rừng cộng đồng vẫn khơng thay đổi, đó là q trình lấy người dân làm trung tâm

trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Cuối những năm 80s và thập kỷ 90 của thế
kỷ XX, các nhà khoa học tập trung nhiều hơn về nghiên cứu thể chế trong quản lý
rừng cộng đồng, kể cả những thế chế truyền thống và thể chế của nhà nước, nhằm


5

tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển rừng cộng đồng. Trong giai đoạn này các
khái niệm về quyền sở hữu được đưa ra để thảo luận một cách rộng rãi, bao gồm sở
hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu cộng đồng và sử dụng tự do. Đã có lúc khái
niệm rừng cộng đồng bị phê phán một cách kịch liệt theo cách nhìn nhận của
Hardin trong “Bi kịch của sở hữu chung”[38] (The Tragedy of The Commons,
1968), cho rằng phương thức sở hữu cộng đồng về rừng là đồng nghĩa với sử dụng
tự do. Đó là hình thức sử dụng mà mọi thành viên đều muốn lợi dụng của chung để
tối đa hố lợi ích cho mình, vì thế rừng bị khai thác một cách kiệt quệ. Trái ngược
với Hardin, Arnold (1978) lại cho rằng rừng cộng đồng mang lại hiệu quả lớn trong
phát triển rừng và phát triển cộng đồng. Ông nhấn mạnh rằng rừng cộng đồng phải
là một hợp phần không thể thiếu trong phát triển nông thôn, mà mục tiêu chủ yếu là
nhằm giúp đỡ những cộng đồng nghèo tự duy trì và phát triển cuộc sống của họ …
Vì thế, rừng cho phát triển cộng đồng phải là rừng của người dân, cho người dân và
phải có sự tham gia của người dân trong quản lý và phát triển. Với cách nhìn như
vậy, thì Arnold đã chỉ ra 3 mục tiêu cơ bản của rừng cộng đồng là: (1) cung cấp
nhiên liệu và những nhu yếu phẩm khác nhằm phục vụ cho những nhu cầu cơ bản
của cộng đồng, (2) cung cấp bền vững nguồn lương thực và môi trường sống cho
một quá trình sản xuất lương thực liên tục, và (3) tạo nguồn thu nhập, giải quyết
công ăn việc làm cho người dân địa phương. Burda (1997) [37] cũng đã nhìn nhận
về quản lý rừng cộng đồng rằng: “Những người dân sống lâu ở trong rừng có
những kiến thức đặc biệt về sinh thái bản địa và những ảnh hưởng dài hạn về mặt
xã hội, môi trường của rừng đến cuộc sống của họ. Sự tập trung hoá trong hệ thống
quản lý quan liêu thiếu đi sự linh động và khả năng thích ứng với những điều kiện

thực tiễn của các địa phương khác nhau. Trong khi đó quản lý rừng cộng đồng giúp
cho con người sống gần gũi hơn với thiên nhiên và từ đó lập ra những thiết chế, kế
hoạch nhằm quản lý và sử dụng rừng một cách hiệu quả hơn. Quản lý rừng cộng
đồng đã tạo ra một hệ thống nhạy bén để nhanh chóng đưa ra những quyết định và
hành động nhằm thích ứng với những thay đổi của điều kiện cụ thể. Các quyết định


6

này nhằm đáp ứng lợi ích của tồn thể cộng đồng, những người chịu trách nhiệm
trực tiếp trong việc đưa ra những quyết định đó”.
Theo Herb (1991:34) cũng đã đưa ra những lập luận nhằm ủng hộ quản lý
rừng cộng đồng rằng “quản lý rừng bởi cộng đồng tạo ra những cơ hội để tìm kiếm
các giải pháp mà ở hệ thống tập trung quyền lực khơng có được. Cộng đồng là nơi
mà các hoạt động được thực tế diễn ra, và kế hoạch được xác lập hàng ngày. Quá
trình lập kế hoạch và hành động được lồng ghép một cách có trách nhiệm bởi vì
chúng được thực hiện ở tại một nơi và bởi cùng một cộng đồng”. Bất chấp những
tranh luận thì rừng cộng đồng vẫn phát triển một cách tự nhiên và nhanh chóng. Rất
nhiều nơi trên thế giới nó đã được chấp nhận rộng rãi và được xem như một chiến
lược quan trọng trong quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng [35], [41]
Tóm lại: Vấn đề quản lý tài nguyên rừng và đất rừng cộng đồng có rất nhiều
tác giả, nhiều chương trình, dự án tham gia nghiên cứu đã chỉ ra được:
+ Việc đổi mới, sửa đổi lại chính sách lâm nghiệp đã chú trọng đến các khía
cạnh, vị trí pháp lý của cộng đồng, kinh tế, xã hội, môi trường cùng với việc hỗ trợ
cộng đồng để duy trì vai trị sản xuất của rừng, khuyến khích tham gia và đóng góp
ý kiến của người dân địa phương trong việc lập kế hoạch quản lý rừng là thành công
rất to lớn ở các nước này.
+ Nhiều nước đã tiến hành giao đất, giao rừng, xu hướng chung là quay trở
lại với hình thức quản lý truyền thống dựa trên cơ sở gắn đất đai và tài nguyên rừng
với người dân sở tại.

+ Cách tiếp cận có sự tham gia của người dân, chú ý đến tiến trình phát huy
kiến thức bản địa, nâng cao năng lực của các cộng đồng để xây dựng các mơ hình
quản lý rừng cộng đồng cũng như lập kế hoạch quản lý rừng là cách tiếp cận phù
hợp nhất trong bối cảnh chung về quản lý rừng cộng đồng hiện nay.
+ Các nghiên cứu đã phản ánh được nhu cầu phát triển phương thức quản lý
dựa vào cộng đồng ở các quốc gia và đưa ra được các vấn đề cần quan tâm để phát
triển lâm nghiệp cộng đồng trong khu vực:


7

* Phân cấp và chuyển giao quyền sở hữu trong sử dụng tài nguyên rừng cho
cộng đồng.
* Xây dựng các mơ hình hợp tác giữa các cộng đồng và các bên liên quan để
phát triển lâm nghiệp cộng đồng.
* Phát triển một hệ thống chính sách đồng bộ hỗ trợ cho phát triển lâm
nghiệp cộng đồng ở tất cả các lĩnh vực.
* Phát triển các cách tiếp cận đơn giản về kỹ thuật lâm sinh, về điều tra rừng
có sự tham gia và đưa ra các tài liệu hướng dẫn về điều tra và phân tích dữ liệu tài
nguyên rừng đơn giản có sự tham gia trong quản lý tài nguyên để xây dựng các kế
hoạch quản lý bền vững dựa vào cộng đồng. Đây là những kinh nghiệm tốt có thể
kế thừa và vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
1.2 Ở Việt Nam
1.2.1 Khái niệm
Rừng cộng đồng là rừng Nhà nước giao cho cộng đồng dân cư thôn để sử
dụng rừng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Nhà nước trao quyền sử dụng
rừng cho cộng đồng bằng quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
Quản lý rừng cộng đồng là một hình thức quản lý rừng trong đó cộng đồng
dân cư thơn với tư cách là chủ rừng tham gia vào các hoạt động giao rừng, lập kế

hoạch quản lý rừng và tổ chức thực hiện kế hoạch đó, thực hiện nghĩa vụ và quyền
lợi, giám sát và đánh giá rừng nhà nước giao cho cộng đồng.
- Quản lý rừng dựa vào cộng đồng
+ Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là quản lý rừng được thực hiện bởi cộng
đồng. Cộng đồng có thể là chủ thể quản lý rừng hoặc cộng đồng tham gia quản lý
rừng và được chia sẻ lợi ích từ rừng. [26]
+ Hay nói một cách khác “ Quản lý dựa vào cộng đồng là việc bảo vệ, xây
dựng phát triển và sử dụng rừng có sự tham gia điều hành bởi cộng đồng bất kể
rừng đó có thuộc quyền sở hữu của cộng đồng hay không?"
- Quản lý rừng cộng đồng


8

+ Quản lý rừng cộng đồng là cộng đồng quản lý rừng thuộc sở hữu của cộng
đồng hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng. Rừng của cộng đồng là rừng
của làng bản được quản lý theo truyền thống trước đây, rừng trồng của các hợp tác
xã trước đây mà sau khi chuyển đổi hoặc giải thể hợp tác xã đã giao lại cho các xã
hoặc các thôn quản lý [8]
+ Quản lý rừng cộng đồng: là một hình thức quản lý rừng trong đó cộng
đồng với tư cách là chủ rừng tham gia vào các hoạt động giao rừng, lập kế hoạch
quản lý rừng và thực hiện kế hoạch đó, thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi, giám sát,
đánh giá rừng do nhà nước giao cho cộng đồng.
Quản lý rừng cộng đồng và lâm nghiệp cộng đồng là hai khái niệm khác
nhau. Thuật ngữ quản lý rừng cộng đồng được sử dụng với ý nghĩa hẹp hơn thuật
ngữ lâm nghiệp cộng đồng. Thuật ngữ này được sử dụng khi đề cập đến việc quản
lý rừng của một cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, cũng có xu hướng đồng nhất lâm
nghiệp cộng đồng và quản lý rừng cộng đồng. Điều này có ý nghĩa là nói đến lâm
nghiệp cộng đồng hay quản lý rừng cộng đồng chính là diễn tả hàng loạt các hoạt
động gắn người dân trong cộng đồng với rừng, cây, các sản phẩm của rừng và việc

phân chia lợi ích các sản phẩm từ rừng [25].
Tóm lại: Lâm nghiệp cộng đồng chính là nói tới các hoạt động lâm nghiệp
dựa vào cộng đồng bất kể rừng và đất rừng có thuộc sở hữu của cộng đồng hay
khơng hoặc lâm nghiệp cộng đồng là hình thức kiểm soát quản lý , bảo vệ rừng và
đất rừng lâu dài do cộng đồng làng bản thực hiện theo pháp luật và chính sách của
nhà nước.
Những khái niệm cơ bản về lâm nghiệp cộng đồng, quản lý rừng dựa vào
cộng đồng, quản lý rừng cộng đồng trên đây là những luận cứ khoa học quan trọng,
giúp cho tác giả một phần trong nghiên cứu cơ sở khoa học cho quản lý rừng cộng
đồng ở Việt Nam nói chung và các cộng đồng khu vực nghiên cứu tại vùng ven biển
tỉnh Sóc Trăng nói riêng. Đề tài kế thừa những luận cứ khoa học này để tiếp tục
nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn không chỉ về cơ sở phương pháp luận mà còn cả
cơ sở thực tiễn khi nghiên cứu về lâm nghiệp cộng đồng tại tỉnh Sóc Trăng - một


9

trong những địa phương đầu tiên thực hiện mơ hình “đồng quản lý” ở khu vực đồng
bằng sông Cửu Long
1.2.2.Hiện trạng phát triển Lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam
Theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, được Quốc hội thơng qua ngày 03
tháng 12 năm 2004, có quy định: “Cộng đồng dân cư thơn là tồn bộ các hộ gia
đình, cá nhân sống trong cùng một thơn, làng, bản, ấp, bn, phum, sóc hoặc đơn vị
tương đương”[24].
Cộng đồng dân cư thơn có cùng phong tục, tập qn, có truyền thống gắn bó
cộng đồng với rừng về sản xuất, đời sống, văn hố, tín ngưỡng; có khả năng quản lý
rừng; có nhu cầu và đơn xin giao rừng; Việc giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn
phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng đã được phê duyệt;
phù hợp với khả năng quỹ rừng của địa phương.
Qua kết quả điều tra lâm nghiệp cộng đồng do Cục Lâm nghiệp thực hiện

vào tháng 05 năm 2008, có 10.006 cộng đồng dân cư thơn trên phạm vi cả nước
đang quản lý 2,79 triệu ha rừng và đất chưa có rừng và quy hoạch để trồng rừng,
chiếm khoảng 14% so với tổng diện tích rừng cả nước. Hiện nay trên tồn quốc có
1.203 xã, 146 huyện của 24 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đang tham gia
quản lý rừng cộng đồng.[9]
Vùng Tây Bắc với diện tích rừng và đất rừng cộng đồng tham gia quản lý là
1.057.585 ha, chiếm 45,04% so với tổng diện tích rừng cộng đồng tham gia quản lý
trong cả nước. Trong đó, diện tích rừng và đất rừng được chính quyền địa phương
giao cho cộng đồng là 732.676,6 ha, chiếm 69,27% tổng diện tích rừng và đất rừng
của vùng do cộng đồng quản lý; Vùng Đơng Bắc với diện tích rừng và đất rừng
cộng đồng tham gia quản lý là 472.376 ha, chiếm 20,12% so với tổng diện tích rừng
cộng đồng trong cả nước. Trong đó, diện tích rừng và đất rừng được chính quyền
địa phương giao cho cộng đồng là 299.987 ha. (Chiếm 63,50 % tổng diện tích rừng
và đất rừng của vùng do cộng đồng quản lý); Vùng Tây Nguyên với diện tích rừng
và đất rừng cộng đồng tham gia quản lý là 495.797 ha chiếm 21,11% so với tổng


10

diện tích rừng cộng đồng tham gia quản lý trong cả nước [17]. Trong đó, diện tích
rừng và đất rừng được chính quyền địa phương giao cho cộng đồng là 131.634,9 ha,
chiếm 26,54 % tổng diện tích rừng và đất rừng của vùng do cộng đồng quản lý;
Vùng Bắc Trung Bộ với diện tích rừng và đất rừng cộng đồng là 188.144,4 ha,
chiếm 8,01% so với tổng diện tích rừng cộng đồng tham gia quản lý trong cả nước.
Trong đó, diện tích rừng và đất rừng được chính quyền địa phương giao cho cộng
đồng là 39.663,6 ha, chiếm 21,08 % tổng diện tích rừng và đất rừng của vùng do
cộng đồng quản lý; Các vùng cịn lại, diện tích rừng và đất rừng giao cho cộng đồng
chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ [27].
Ở Việt Nam, cả trên phương diện về lý thuyết và thực tế thì các hoạt động
quản lý rừng cộng đồng đã và đang được công nhận. Luật quản lý, bảo vệ và phát

triển rừng năm 2004 [24] đã xác nhận quyền sở hữu của cộng đồng đối với rừng và
từ đó đã có những quy định về giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn bản. Ở các
vùng cao, đặc biệt là các vùng dân tộc thiểu số đều có các hoạt động quản lý rừng
cộng đồng thơng qua các khu “rừng thiêng”, “rừng ma”, “rừng nhóm hộ”... Các khu
rừng này được người dân quản lý, bảo vệ một cách khá chặt chẽ và có hiệu quả. các
loại hình quản lý rừng cộng đồng được nhận dạng ở Việt Nam bao gồm:
Xét về nguồn gốc hình thành, rừng và đất rừng do cộng đồng quản lý được
hình thành từ nhiều nguồn khác nhau và có thể phân thành 3 loại sau đây:
a. Rừng và đất rừng do cộng đồng tự công nhận và quản lý theo truyền thống từ
nhiều đời nay
Đây là các loại rừng quản lý theo truyền thống của các đồng bào dân tộc
thiểu số. Tại các khu rừng này, về mặt pháp lý, các quyền sở hữu, quyền sử dụng
rừng chưa được xác lập, nhưng trên thực tế nó đang được điều tiết một cách khơng
chính thức bởi các luật tục truyền thống. Trong xã hội cổ truyền của một số đồng
bào dân tộc, thôn là đơn vị độc lập cao nhất, mỗi thôn đều có ranh giới lãnh địa nhất
định bao gồm cả đất, rừng, nguồn nước, suối...Trong phạm vi của thôn bản, các
nguồn tài nguyên trên thuộc quyền sử dụng công cộng và được điều hành bởi một


11

bộ máy tự quản do già làng hoặc trưởng thôn đứng đầu. Các thành viên của làng
được quyền tự do lựa chọn một mảnh rừng để canh tác nương rẫy. Khi phạm vi
rừng bị thu hẹp, dân số tăng lên thì diện tích nương rẫy dần dần thuộc quyền sử
dụng của dịng họ. Tồn bộ các hoạt động quản lý tài nguyên của cộng đồng được
thực hiện thông qua các luật tục hay hương ước thôn. Hiệu lực của các luật tục được
thực hiện thông qua sự hợp lực gắn bó với nhau giữa xã hội và tâm linh [5], [25].
Tính đến tháng 6 năm 2010, tổng diện tích rừng và đất sử dụng vào mục đích
lâm nghiệp do cộng đồng tự công nhận và quản lý theo truyền thống là 214.006 ha,
bao gồm: 86.702 ha đất có rừng; 127.304 ha đất trống đồi núi trọc. Đó là những khu

rừng thiêng, rừng ma, rừng đình, rừng thổ cơng, rừng mó nước (giữ nguồn nước
phục vụ trực tiếp cho cộng đồng), rừng phịng hộ xóm làng (chống sạt lở, đá lăn…),
những khu rừng cung cấp lâm sản truyền thống cho cộng đồng (săn bắn, thu hái
măng, cây thuốc...), bãi chăn thả [9]. Ranh giới rừng từng thôn đều được phân định
rất rõ ràng trong nhận thức của người dân. Một số nơi, rừng trồng của HTX, rừng tự
nhiên đã giao cho HTX trước đây sau khi chuyển đổi HTX đã giao lại cho các xã
hoặc thơn quản lý. Hình thức này phổ biến ở cộng đồng người dân tộc thiểu số sống
ở vùng sâu, vùng xa, nơi tính cộng đồng, hương ước thơn cịn được duy trì. Xét về
khía cạnh pháp lý: về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng đã ghi rõ: "Làng, bản
hiện còn rừng làng, rừng bản trước ngày ban hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng,
mà không trái với những quy định của Luật Bảo vệ và phát triển rừng và Luật đất
đai thì được xét công nhận là chủ rừng hợp pháp đối với diện tích rừng, đất trồng
rừng đang quản lý sử dụng" [24]. Như vậy, theo văn bản trên, Nhà nước thừa nhận
thơn là chủ rừng đối với diện tích rừng làng, rừng bản đã nói ở trên. Nhưng trong
thực tế, phần lớn diện tích đất dành vào mục đích lâm nghiệp do cộng đồng tự quản
lý, chính quyền địa phương chưa làm thủ tục giao quyền sử dụng lâu dài cho các
cộng đồng. Tuy nhiên ở nhiều nơi, mọi sự tác động của Nhà nước và các tổ chức
khác vào loại rừng này đều phải có sự thoả thuận và đồng ý của cộng đồng. Những
khu rừng này có vai trị quan trọng trong sản xuất, đời sống hoặc có ý nghĩa tâm
linh, tôn giáo đối với cộng đồng và gần như cộng đồng có tồn quyền quyết định


12

trong việc bảo vệ và sử dụng rừng cũng như hưởng lợi từ rừng. Luật bảo vệ và phát
triển rừng năm 2004 đã tạo khuôn khổ pháp lý cho việc Nhà nước sẽ hợp pháp hố
diện tích rừng này, theo đó, Điều 29 quy định rõ cộng đồng dân cư thôn được giao
những khu rừng hiện cộng đồng đang quản lý, sử dụng có hiệu quả; khu rừng giữ
nguồn nước phục vụ trực tiếp cho cộng đồng, phục vụ lợi ích chung khác của cộng
đồng..vv..

b. Rừng và đất sử dụng vào mục đích lâm nghiệp được chính quyền địa phương
giao cho cộng đồng quản lý, sử dụng ổn định lâu dài
Trước năm 2004, mặc dù pháp luật chưa quy định cộng đồng là đối tượng
giao quyền sử dụng đất, nhưng đã có 18 tỉnh làm thí điểm giao đất, giao rừng cho
cộng đồng trên cơ sở vận dụng các quy định tại Nghị định số 02/CP trước đây và
sau đó được thay thế bằng Nghị định số 163/1999/NĐ-CP của Chính phủ về giao
đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục
đích lâm nghiệp. Về trạng thái rừng trên đất giao cho cộng đồng: phần lớn cộng
đồng được giao quản lý, bảo vệ nuôi dưỡng những khu rừng phục hồi sau nương rẫy
hoặc sau khai thác kiệt. Một số cộng đồng được giao đất trống đồi trọc để trồng
rừng hoặc khoanh ni xúc tiến tái sinh, hiếm có trường hợp cộng đồng được giao
những diện tích rừng giàu để quản lý, bảo vệ và sử dụng ổn định lâu dài.
Đối với diện tích đất và rừng giao cho cộng đồng: các thành viên của cộng
đồng cùng đầu tư, quản lý và hưởng lợi, hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện
và cùng có lợi giữa các thành viên của cộng đồng. Cộng đồng thành lập tổ, nhóm để
tổ chức mọi hoạt động từ bảo vệ, cung cấp đầu vào, tổ chức sản xuất, bao tiêu sản
phẩm và phân phối lợi ích cho các thành viên trong cộng đồng. Ở một số nơi, đất sử
dụng vào mục đích lâm nghiệp được chính quyền địa phương giao cho cộng đồng
đều thuộc các khu vực có triển khai các dự án thuộc Dự án 327 [1], Dự án 661 [2]
trước đây ... hoặc ở những nơi có dự án từ nguồn tài trợ quốc tế, như chương trình
phát triển lâm nghiệp Việt Nam -Thụy Điển ở các tỉnh miền núi phía Bắc, các dự án
do DANIDA, JICA, WB, GIZ tài trợ ở khu vực các tỉnh có triển khai dự án...


13

Nhìn chung, hình thức quản lý rừng có sự tham gia của cộng đồng hiện nay
đang chứng tỏ có hiệu quả, cơng tác bảo vệ rừng được tốt hơn. Có nơi người dân đã
được hỗ trợ vốn từ các dự án nên đã giúp cho việc tăng thu nhập và cải thiện đời
sống của họ. Ở những nơi này, nhiều dự án đã áp dụng các phương pháp mới trong

cả quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch, quản lý vốn... có sự tham gia của người
dân, gắn với việc xây dựng quy ước quản lý, bảo vệ rừng của cộng đồng một cách
dân chủ, công khai, do vậy, họ rất phấn khởi và tích cực bảo vệ rừng. Đây là loại
hình quản lý rừng cộng đồng hiện được nhiều tỉnh quan tâm và đang có xu hướng
được nhân rộng [30].
Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù cộng đồng đã có quyết định giao đất, giao
rừng, nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, ngoài
nguồn đầu tư và hỗ trợ từ các chương trình, dự án thì các quyền cơ bản của chủ
rừng theo quy định của pháp luật, cộng đồng vẫn không được hưởng như việc vay
vốn từ các tổ chức tín dụng, đầu tư hỗ trợ của nhà nước cũng như xử lý các hành vi
xâm hại đến rừng cộng đồng là hết sức khó khăn. Mặt khác, nảy sinh một số vấn đề
cần quan tâm giải quyết như sau khi kết thúc các dự án, nguồn đầu tư khơng cịn,
nếu khơng có những chính sách hỗ trợ ngay từ đầu dễ dẫn đến tình trạng cộng đồng
lại bỏ mặc khơng bảo vệ rừng; cần hướng dẫn cộng đồng các biện pháp tổ chức sản
xuất, các hình thức góp vốn đầu tư và các nguồn lực khác của các thành viên; phân
chia quyền hưởng lợi từ rừng giữa các thành viên trong cộng đồng. Luật bảo vệ và
phát triển rừng năm 2004 đã tạo khuôn khổ pháp lý bảo đảm các quyền của cộng
đồng, theo đó, Điều 30 quy định cộng đồng được giao rừng được hướng dẫn về kỹ
thuật, hỗ trợ về vốn theo chính sách của nhà nước, được hưởng lợi do các cơng trình
bảo vệ, cải tạo rừng mang lại..vv..
c. Rừng và đất sử dụng vào mục đích lâm nghiệp do cộng đồng nhận khốn bảo vệ,
khoanh ni tái sinh và trồng mới rừng của các tổ chức nhà nước
Từ thập niên 90, tổng diện tích đất lâm nghiệp được cộng đồng nhận khốn
bảo vệ, khoanh ni tái sinh và trồng rừng mới là 936.327 ha, bao gồm đất rừng


14

phòng hộ 494.242 ha; đất rừng đặc dụng 39.289 ha; đất rừng sản xuất 402.795 ha.
Đây là hình thức cộng đồng nhận khoán theo quy định tại Nghị định 01/CP (1995)

của Chính phủ, các tổ chức giao khốn cho cộng đồng chủ yếu là lâm trường quốc
doanh; Ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; Ban quản lý các dự án 327, 661
và các dự án khác. Sau khi ký hợp đồng khoán, các cộng đồng tự tổ chức lực lượng
thực hiện các công việc đã ký kết trong hợp đồng.
Quyền hưởng lợi của cộng đồng tuỳ thuộc vào tình trạng rừng lúc nhận
khốn, thời gian và cơng sức đã đầu tư vào rừng, thơng qua hình thức nhận tiền và
được hưởng một phần sản phẩm khi rừng được phép khai thác chính, ngồi ra cịn
được thu hái lâm sản ngồi gỗ, sản phẩm nơng lâm kết hợp trên đất rừng nhận
khốn. Nhìn chung, loại hình nhận khốn rừng này, về thực chất, cộng đồng chỉ là
người làm thuê cho chủ rừng, ngồi những cơng việc thực hiện theo thoả thuận giữa
các bên trong hợp đồng nhận khoán, cộng đồng khơng có quyền lợi và nghĩa vụ gì
khác. Mặc dù cộng đồng được nhận một khoản tiền khoán hàng năm, nhưng với
mức quá thấp (100.000 đ/ha/năm) chưa đủ cải thiện đời sống người dân, do vậy
chưa tạo được sức hấp dẫn, nên ở một số nơi rừng đã được khoán cho cộng đồng
nhưng việc tổ chức bảo vệ cũng chỉ là hình thức và nguy cơ rừng bị tàn phá vẫn có
thể xảy ra.
d. Về sự tác động của Nhà nước đối với quản lý rừng cộng đồng
Sự tác động của Nhà nước đối với quản lý rừng cộng đồng có thể chia thành
3 phương thức như sau:
Thứ nhất, nhà nước chỉ tạo hành lang pháp lý, không can thiệp sâu vào
những quyết định cụ thể về bảo vệ, phát triển và sử dụng rừng của cộng đồng. Thể
hiện rõ nét nhất là những khu rừng làng, rừng bản tồn tại theo truyền thống, mặc dù
địa vị pháp lý của cộng đồng chưa được quy định rõ nhưng trên thực tế cộng đồng
gần như có tồn quyền trong việc bảo vệ và sử dụng rừng. Một số tỉnh đã có chủ
trương hợp lý hố những khu rừng này, cộng đồng với tư cách như là chủ rừng [18].


15

Thứ hai, nhà nước giao đất, giao rừng cho cộng đồng bảo vệ, khoanh nuôi tái

sinh và trồng rừng, cộng đồng được thừa nhận là chủ rừng. Lâm nghiệp cộng đồng
là một bộ phận cấu thành trong chương trình phát triển lâm nghiệp của địa phương.
Thứ ba, nhà nước thông qua các tổ chức của nhà nước, khoán cho các cộng
đồng bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng. Các tổ chức nhà nước (bên giao
khoán) quyết định mọi vấn đề, từ quy hoạch sử dụng đất đến việc xác định cơ cấu
cây trồng, thời điểm khai thác và tiêu thụ sản phẩm, cộng đồng chỉ là người làm
thuê, được hưởng tiền cơng khốn và một phần sản phẩm trên đất rừng nhận khốn
tuỳ theo thời gian và cơng sức mà mình đã bỏ ra.
1.2.3. Kinh nghiệm thực tiễn và một số bài học quản lý rừng cộng đồng

Khái niệm “cộng đồng” lâu nay với những cách hiểu khác nhau cũng dẫn đến
những cách thức tiếp cận khác nhau của người làm dự án, cũng như thái độ tiếp
nhận của người dân và cơ quan chức năng. Vì vậy, để tiến đến thể chế hóa chính
sách về lâm nghiệp cộng đồng, các ý kiến cho rằng, cần thống nhất ngay từ khái
niệm.
Nhiều mơ hình thí điểm, thử nghiệm về quản lý rừng cộng đồng đã được
triển khai rộng khắp, trong đó có cả những dự án lớn do nhà nước đầu tư cũng như
các mơ hình do các đơn vị ngoài nhà nước, các tổ chức bảo tồn quốc tế bảo trợ.
Từ chia sẻ bài học kinh nghiệm của các mơ hình quản lý rừng cộng đồng,
cũng đã có những câu hỏi mang tính căn bản được đặt ra, như “thử nghiệm đã
nhiều, nhưng liệu có mơ hình nào đủ tiêu chuẩn để trở thành mơ hình mẫu?”, hay
“nên duy trì diện tích rừng cộng đồng bao nhiêu là vừa?”, “nên giao cho cộng đồng
rừng giàu hay rừng nghèo để tối ưu hóa lợi ích cả ba mặt kinh tế – xã hội – môi
trường? [22], [23]”
“Cả nước hiện có nhiều mơ hình thí điểm về quản lý rừng cộng đồng nhưng
khó có thể chọn ra một mơ hình mẫu để nhân rộng”.


16


- Kết quả và những bài học kinh nghiệm trong việc triển khai dự án “Quản lý
và phát triển rừng bền vững dựa vào cộng đồng ở một số vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao
tại tỉnh Bắc Kạn”. Dự án do CSIRO - Astralia và Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên thực hiện.
- Quản lý rừng cộng đồng ở Hịa Bình và các giải pháp - Do Viện Khoa học
Lâm nghiệp Việt Nam thực hiện.
- Một số kinh nghiệm trong quản lý rừng cộng đồng từ Dự án “Tăng cường
năng lực cộng đồng trong quản lý rừng” - Do Chương trình CASI, Trường Đại học
nơng lâm Thái Ngun thực hiện.
- Một số giải pháp bảo vệ và phục hồi rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng do
UBND huyện Hậu Lộc - Thanh Hóa thực hiện [4].
- Mơ hình Đồng quản lý rừng ngập mặn tại vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng, do
Dự án GIZ và Chi cục Kiểm lâm Sóc Trăng thực hiện
- Quản lý rừng dựa vào cộng đồng, những bài học kinh nghiệm - Do tổ chức
CARE quốc tế tại Việt Nam thực hiện [5].
Việc giao đất, giao rừng chính thức cho cộng đồng đã được triển khai đầu
tiên ở tỉnh Bắc Kạn. Quá trình giao đất rừng cộng đồng gặp rất nhiều khó khăn. Khó
khăn lớn nhất là phải giải quyết cạnh tranh mâu thuẫn về ranh giới rừng cộng đồng,
vì trước kia rừng cộng đồng được coi là tài sản chung, người dân nhiều thôn bản có
quyền khai thác, sử dụng. Cịn tại Hịa Bình, theo thống kê của tỉnh thì chưa giao
rừng cho cộng đồng, nhưng trên thực tế nhiều diện tích rừng tự nhiên, chủ yếu là
rừng phòng hộ đã được giao cho cộng đồng dưới hình thức một số người trong thơn
hoặc trưởng thơn đứng tên. Đã có hiện tượng người đứng tên địi lại rừng và coi
rừng cộng đồng đó là của mình nên xảy ra tình trạng tranh chấp giữa người chủ
đứng tên và cộng đồng ở địa phương.
Vấn đề đa dạng hóa các phương thức quản lý tài nguyên rừng hiện nay đang
được đặt ra nhằm mục tiêu: quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng bền vững song song với


17


việc đáp ứng nhu cầu của người dân về lợi ích kinh tế từ rừng. Quản lý rừng cộng
đồng ở Việt Nam là đề tài đang được nghiên cứu.
Các dự án đã góp phần xác định nhu cầu về chính sách nhằm tạo khuôn khổ
pháp lý thuận lợi cho cộng đồng tham gia bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng ở
Việt Nam.
“Cả nước hiện có nhiều mơ hình thí điểm về quản lý rừng cộng đồng nhưng
khó có thể chọn ra một mơ hình mẫu để nhân rộng” Đây là một trong những điều
trăn trở đối với các nhà quản lý và những người đang trực tiếp công tác trong lĩnh
vực bảo vệ và phát triển rừng. Cho đến nay chưa có đánh giá hiệu quả quản lý rừng
cộng đồng ở quy mơ tồn quốc. Tuy nhiên, qua thực tiễn có thể đưa ra một số nhận
định sau:
- Nhiều nơi rừng cộng đồng được bảo vệ và phát triển tốt, những nơi rừng do
cộng đồng quản lý hầu như khơng bị chặt phá, do khơng có xâm hại nên rừng ngày
càng tăng trưởng.
- Góp phần nâng cao thu nhập của người dân, xố đói giảm nghèo, đáp ứng
nhu cầu lâm sản cho các cơng trình chung của cộng đồng và hộ gia đình. Đối với
diện tích rừng do cộng đồng nhận khoán bảo vệ, hàng năm được Nhà nước hoặc chủ
rừng trả tiền cơng khốn đã góp phần giải quyết một phần khó khăn cho một bộ
phận dân cư.
Đối với diện tích rừng và đất rừng được chính quyền địa phương giao, cộng
đồng có thể tận dụng khi rừng chưa khép tán hoặc đất trống chưa trồng rừng để
canh tác kết hợp cây nông nghiệp, chăn thả gia súc, nuôi thủy sản dưới tán rừng,
được các dự án đầu tư hỗ trợ vốn để sản xuất, được hưởng lợi từ sản phẩm rừng.
Đối với diện tích rừng cộng đồng quản lý theo truyền thống cho đến nay hầu như
cộng đồng có tồn quyền quyết định việc sử dụng tài nguyên rừng, trong đó đáp
ứng nhu cầu lâm sản cho các cơng trình chung của cộng đồng, giải quyết nhu cầu gỗ
làm nhà cho các hộ gia đình. Tiết kiệm chi phí cho nhà nước. Hiện nay có nhiều
cộng đồng đang quản lý rừng, mặc dù hầu như khơng có sự hỗ trợ của nhà nước về



18

kinh phí, nhưng rừng vẫn được bảo vệ tốt. Rừng cộng đồng đã góp phần bảo vệ
nguồn nước, giải quyết một phần nhu cầu gỗ gia dụng cho cộng đồng và thành viên
của cộng đồng; khai thác lâm sản ngoài gỗ..., góp phần phát triển ngành nghề thủ
cơng truyền thống và tăng thu nhập cho cộng đồng dân cư sống trong và gần rừng.
Góp phần khơi phục truyền thống văn hố, phong tục tập qn tốt đẹp của
cộng đồng. Thơng qua việc quản lý rừng cộng đồng, có sự giúp đỡ và hướng dẫn
của các tổ chức nhà nước, đã góp phần thúc đẩy việc xây dựng và thực hiện quy chế
quản lý, bảo vệ rừng ở cộng đồng; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; khôi phục
truyền thống văn hoá tốt đẹp, hương ước của cộng đồng.
1.3. Thảo luận
Qua thực tế cho thấy, mơ hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng có nhiều mặt
tích cực như: được đông đảo các tầng lớp tham gia quản lý rừng từ trưởng thơn, hợp
tác xã, các hộ gia đình và nhiều lực lượng khác, hoạt động theo luật và quy ước
riêng của cộng đồng. Kiến thức bản địa và tính cộng đồng cao là những nhân tố
thuận lợi trong việc quản lý và phát triển tài nguyên rừng có sự tham gia của cộng
đồng.
Bên cạnh đó, quản lý rừng dựa vào cộng đồng có nhiều mặt trở ngại, khó
khăn như: trình độ dân trí, nhận thức của người dân vùng sâu vùng xa còn thấp, nên
việc tiếp nhận tiến bộ khoa học kỹ thuật còn hạn chế. Việc đầu tư tự nguyện của
người dân vào rừng cộng đồng cũng bị hạn hẹp, trong khi đó cộng đồng dân cư thôn
không phải là đối tượng được vay vốn và hưởng ưu đãi đầu tư theo Luật khuyến
khích đầu tư
Cộng đồng tham gia quản lý rừng chủ yếu là các cộng đồng cư trú tại vùng
sâu, vùng xa; sản xuất chủ yếu là tự cung, tự cấp; đồng bào các dân tộc thiểu số
chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu dân số; nơi cịn duy trì nhiều phong tục, tập qn của
dân tộc mình; cuộc sống của các thành viên cộng đồng gắn bó, chưa bị tác động
nhiều bởi cơ chế thị trường đồng thời, vai trò của già làng, trưởng bản cịn có tác

dụng quan trọng trong việc tổ chức và chỉ đạo các công việc của cộng đồng. Rừng


19

cộng đồng hiện đang tồn tại mang tính khách quan và có vị trí quan trọng trong hệ
thống quản lý tài nguyên rừng ở Việt Nam.
Các nghiên cứu về rừng cộng đồng và quản lý rừng cộng đồng trên thế giới
cũng như ở Việt Nam tương đối nhiều, cung cấp đa chiều các kiến thức cũng như
những bài học kinh nghiệm để các quốc gia, địa phương có cơ sở khoa học và thực
tiễn trong việc quản lý rừng cộng đồng. Việt Nam đã xây dựng, tạo lập một khuôn
khổ gồm nhiều chính sách nhằm quản lý rừng cộng đồng có hiệu quả. Tuy nhiên,
đối với từng địa phương có những đặc thù về tài nguyên rừng khác nhau, các vấn đề
kinh tế - xã hội khác nhau sẽ dẫn đến việc thực thi và áp dụng các chính sách rừng
cộng đồng sẽ có sự khác nhau đáng kể.
Đối với tỉnh Sóc Trăng, một số vấn đề cần được nghiên cứu để việc quản lý
rừng cộng đồng đem lại hiệu quả có những câu hỏi cần đặt ra:
- Thực trạng của việc quản lý rừng cộng đồng ở vùng ven biển tỉnh Sóc
Trăng: thành quả và thách thức?
- Những tác động của chính sách vĩ mơ đến quản lý rừng cộng đồng tại địa
phương?
- Vai trò của cộng đồng dân tộc Khmer trong việc quản lý rừng ngập mặn?
- Những mơ hình quản lý rừng cộng đồng đang tồn tại ở địa phương và
những kinh nghiệm bản địa được sử dụng? Đã có những giải pháp nào cho vấn đề
quản lý bảo vệ rừng? kết quả ra sao? tác dụng như thế nào? những hạn chế và tồn
tại của những giải pháp ?
- Định hướng gì cho sự phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn một cách bền
vững?



20

Chương 2
MỤC TIÊU, GIỚI HẠN, QUAN ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần bổ sung cơ sở khoa học và thực tiễn trong quản lý rừng cộng đồng
của đồng bào dân tộc Khmer, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần bảo vệ có
hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và nâng cao đời sống cho cộng đồng dân cư vùng
ven biển
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá hiện trạng quản lý rừng cộng đồng
- Đánh giá vai trò cộng đồng dân tộc Khmer trong hoạt động quản lý bảo vệ
hệ sinh thái rừng ngập mặn
- Đề xuất một số giải pháp quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng có hiệu
quả hơn.
2.2 Giới hạn của đề tài
- Về đối tượng nghiên cứu: các hoạt động về quản lý và sử dụng tài nguyên
thiên nhiên ven biển của cộng đồng
- Về địa điểm nghiên cứu: Các xã tham gia dự án “Quản lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên ven biển tỉnh Sóc Trăng” gồm: Các xã An Thạnh 3, An Thạnh Nam
(huyện Cù Lao Dung); xã Trung Bình (huyện Trần Đề); Phường 1, Phường 2,
Phường Vĩnh Phước, xã Lai Hòa, xã Vĩnh Tân, xã Lạc Hòa và xã Vĩnh Hải (Thị xã
Vĩnh Châu). Trong các địa điểm trên, giới han đề tài chọn ra 02 mơ hình quản lý
rừng cộng đồng của người dân tộc Khmer đang tồn tại: mơ hình đồng quản lý tại ấp
Âu Thọ B thuộc xã Vĩnh Hải và mơ hình trồng và bảo vệ rừng
2.3. Quan điểm và phương pháp luận nghiên cứu
2.3.1. Quan điểm nghiên cứu
Tiếp cận trong nghiên cứu quản lý rừng cộng đồng là tiếp cận mang tính đa

ngành, tổng hợp và toàn diện từ các yếu tố kỹ thuật áp dụng để quản lý rừng đến các


21

yếu tố thể chế, chính sách và các yếu tố kinh tế - xã hội tại các cộng đồng dân cư
ven biển nơi có rừng được quản lý theo mơ hình rừng cộng đồng. Chính vì thế,
những nghiên cứu của đề tài sẽ tuân thủ theo hướng tổng hợp, toàn diện và cụ thể.
Có nghĩa là việc nghiên cứu phải đưa ra được các giải pháp cụ thể cho các mơ hình
quản lý rừng cộng đồng đang tồn tại ở địa phương thơng qua phân tích một cách
tổng hợp và tồn diện các yếu tố cấu thành nên các mơ hình quản lý rừng cộng
đồng.
2.3.2. Phương pháp luận
Khi cộng đồng dân tộc Khmer tham gia vào các hoạt động quản lý bảo vệ
rừng là hoạt động trong hệ thống kinh tế - xã hội tác động tới hệ thống sinh thái
rừng ngập mặn.. Điều nầy, sẽ tạo cơ hội cho người dân địa phương cải thiện được
sinh kế đáng kể, thông qua việc tận dụng nguồn lợi thuỷ hải sản dưới tán rừng một
cách bền vững. Đồng thời, là cơ sở cho việc thực thi Nghị định số 99/NĐ-CP, ngày
24 tháng 09 năm 2010, của Chính phủ về “Chính sách chi trả dịch vụ môi trường
rừng”, đang được UBND tỉnh Sóc Trăng, chỉ đạo ngành lâm nghiệp xây dựng kế
hoạch thực hiện cho những năm tiếp theo.
2.4. Nội dung nghiên cứu
Đánh giá hiện trạng, quản lý rừng dựa vào cộng đồng vùng đồng bào dân tộc
Khmer ven biển
Phân tích vai trò của cộng đồng dân tộc Khmer và các biên liên quan trong
việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng
Đánh giá hiệu quả quản lý rừng dựa vào cộng đồng vùng dân tộc Khmer và
mối quan tâm của các bên liên quan đến công tác quản lý, bảo vệ rừng
Đề xuất các giải pháp QLBVR có hiệu quả trên cơ sở cộng đồng dân tộc
Khmer vùng ven biển.

2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Phương pháp kế thừa
- Kế thừa có chọn lọc những thông tin cơ bản về điều kiện tự nhiên, kinh tế,
xã hội và nhân văn của khu vực nghiên cứu.


22

- Kế thừa các nghiên cứu của các nhà khoa học về quản lý rừng cộng đồng.
- Các tài liệu từ cơ quan chuyên ngành như: Quy hoạch sử dụng đất của
huyện, thị , số liệu diễn biến tài nguyên rừng hàng năm, Dự án bảo vệ và phát triển
rừng (327), Dự án 661, Dự án Millev (Hà Lan), Dự án Actmang (Nhật Bản), Dự án
Bảo vệ những vùng đất ngập nước ven biển (Ngân hàng thế giới), Dự án Quản lý
nguồn tài nguyên thiên nhiên vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng (Chính phủ Cộng hịa
LB Đức tài trợ) [10], [12], [13], [15]
2.5.2. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
Nguyên tắc của chọn điểm nghiên cứu là đại diện tương đối cho khu vực
nghiên cứu.
Theo Donova (1997), tiêu chuẩn chọn điểm nghiên cứu là: Thành phần dân
tộc, khả năng tiếp cận và địa hình.
+ Trong vùng nghiên cứu tất cả các xã, phường đều phân bố rừng ngập mặn,
và nuôi trồng thủy sản, cho nên các yếu tố về địa hình và khả năng tiếp cận với rừng
tương đối đồng nhất. Vì vậy, thành phần dân tộc Khmer là yếu tố lựa chọn làm tiêu
chí chọn nơi nghiên cứu của đề tài.
+ Thành phần dân tộc là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn đến thói quen
sử dụng tài nguyên rừng, đến sinh kế, hình thức tác động của cộng đồng, khả năng
tiếp thu thơng tin bên ngồi, dân tộc và tập tục văn hố có thể ảnh hưởng đến quá
trình đổi mới chấp nhận các kỹ thuật mới và sự tham gia vào các hoạt động phát
triển rừng.
Tiêu chí chọn các xã, nghiên cứu, bao gồm các tiêu chuẩn:

- Người dân trong xã có các hoạt động phụ thuộc vào tài nguyên rừng như:
Đất canh tác nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, đánh bắt thủy sản dưới tán rừng, sử
dụng gỗ, củi, tham gia trồng rừng
- Có đồng bào dân tộc Khmer đang sinh sống.
- Có vị trí quan trọng trong công tác quản lý bảo vệ hệ sinh thái rừng
Trên cơ sở các tiêu chuẩn trên, Phường 1, Phường 2, xã Vĩnh Hải, xã Lạc
Hoà, xã Vĩnh Tân, xã Lai Hoà (thuộc thị xã Vĩnh Châu) được chọn làm điểm điều


×