Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Đánh giá khả năng sinh trưởng một số loài cây bản địa dưới tán rừng tại tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 82 trang )

i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả phân tích nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào.
Nếu nội dung nghiên cứu của tôi trùng lặp với bất kỳ cơng trình nghiên
cứu nào đã cơng bố, tơi xin hồn toàn chịu trách nhiệm và tuân thủ kết luận
đánh giá luận văn của Hội đồng khoa học.
Hà Nội, ngày ... tháng .... năm 2016
Tác giả luận văn

Phan Khắc Đạo


ii

LỜI CẢM ƠN
Được sự đồng ý của phòng Đào tạo sau Đại học, Trường Đại học Lâm
nghiệp tôi tiến hành thực hiện đề tài: " Đánh giá khả năng sinh trưởng một
số loài cây bản địa dưới tán rừng tại tỉnh Bắc Ninh”. Sau thời gian thực
hiện với những cố gắng và nỗ lực của bản thân, sự giúp đỡ của các thầy cô
giáo và các bạn đồng nghiệp đến nay luận văn đã hồn thành.
Qua đây tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến tồn cán bộ cơng, viên chức
chi Cục kiểm lâm Bắc Ninh, lãnh đạo Ban quản lý rừng phòng hộ tỉnh Bắc
Ninh cùng các thầy cô giáo trong Khoa Lâm học và đặc biệt là thầy giáo Lê
Xuân Trường đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ để tơi hồn thành bài luận văn tốt
nghiệp này.
Mặc dù có nhiều cố gắng song do năng lực bản thân cịn hạn chế, thời
gian có hạn và kinh nghiệm đi thực tế chưa nhiều nên luận văn tốt nghiệp này
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Kính mong nhận được sự


quan tâm đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để
luận văn tốt nghiệp được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày ....tháng.... năm 2016
Tác giả luận văn

Phan Khắc Đạo


iii

MỤC LỤC
Lời cam đoan ...................................................................................................... i
Lời cảm ơn ........................................................................................................ ii
Mục lục ............................................................................................................. iii
Danh mục các từ viết tắt................................................................................... vi
Danh mục các bảng ......................................................................................... vii
Danh mục các hình ......................................................................................... viii
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................... 2
1.1 Trên thế giới ............................................................................................. 2
- Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài: .............................................. 2
1.2. Ở Việt Nam ............................................................................................. 5
1.2.1. Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây bản địa .................... 5
1.2.2. Một số thông tin về các loài cây nghiên cứu .................................. 13
Chương 2. MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
2.1 Mục tiêu - giới hạn nghiên cứu - đối tượng nghiên cứu ........................ 20
2.1.1. Mục tiêu tổng quát .......................................................................... 20
2.1.2. Mục tiêu cụ thể ............................................................................... 20
2.1.3. Giới hạn nghiên cứu:....................................................................... 20

2.1.4 Đối tượng nghiên cứu. ..................................................................... 20
2.2. Nội dung nghiên cứu ............................................................................. 21
2.2.1. Điều kiện lập địa khu vực nghiên cứu ............................................ 21
+ Đặc điểm của rừng Thông mã vĩ xen Keo tai tượng ............................. 21
+ Đặc điểm cây bụi, thảm tươi dưới tán rừng Thông mã vĩ xen Keo tai
tượng ......................................................................................................... 21
2.2.2. Đánh giá khả năng sinh trưởng của các loài cây bản địa dưới tán
rừng Thông mã vĩ xen Keo tai tượng........................................................ 21


iv

2.2.3. Đề xuất được các biện pháp kỹ thuật để chuyển hóa rừng Thơng mã
vĩ xen Keo tai tượng thành rừng hỗn loài cây bản địa lá rộng. ................ 21
2.3. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 22
2.3. 1. Phương pháp điều tra thu thập thông tin........................................ 22
2.3.2. Phương pháp điều tra thu thập số liệu ngoài thực địa .................... 22
2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu .............................................................. 24
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC PHẠM VI NGHIÊN CỨU .................... 26
3.1 Điều kiện kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu ........................................ 26
3.1.1 Vị trí địa lý ....................................................................................... 26
3.1.2. Địa hình địa thế ............................................................................... 26
3.1.3 Khí hậu thủy văn .............................................................................. 27
3.1.4. Đặc điểm kinh tế - xã hội ................................................................ 28
3.1.5 . Đất đai, kết cấu hạ tầng.................................................................. 31
3.1.6. Cơ cấu đầu tư .................................................................................. 32
3.1.7. Văn hóa xã hội ................................................................................ 33
32.1.8. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên .......................................... 34
Chương 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................ 37
4.1 Điều kiện lập địa khu vực nghiên cứu ................................................... 37

4.1.1. Đặc điểm đất đai khu vực nghiên cứu ............................................ 37
4.1.2. Đặc điểm khí hậu ............................................................................ 39
4.2. Đặc điểm của rừng Thông mã vĩ xen Keo tai tượng............................. 41
4.3 Đặc điểm thảm thực vật dưới rừng thông mã vĩ xen keo tai tượng ....... 43
4.4. Đánh giá khả năng sinh trưởng một số loài cây bản địa tại khu vực
nghiên cứu .................................................................................................... 44
4.4.1 Khả năng sinh trưởng của Lim xanh dưới tán rừng Thông mã vĩ xen
Keo tai tượng............................................................................................. 44


v

4.4.2 Khả năng sinh trưởng của Lát hoa dưới tán rừng Thông mã Vĩ xen
Keo tai tượng............................................................................................. 45
4.4.3 Khả năng sinh trưởng của Muồng xiêm dưới tán rừng Thông mã Vĩ
xen Keo tai tượng ...................................................................................... 46
4.4.4 Khả năng sinh trưởng của Long não dưới tán rừng Thông mã Vĩ xen
Keo tai tượng............................................................................................. 47
4.4.5 Khả năng sinh trưởng của Trám trắng dưới tán rừng Thông mã Vĩ
xen Keo tai tượng ...................................................................................... 48
4.4.6.So sánh khả năng sinh trưởng của 5 loài cây tại núi Phật Tích ....... 48
4.4.7. So sánh khả năng sinh trưởng của 5 loài cây tại núi Bảo Tháp ...... 51
4.4.8. So sánh khả năng sinh trưởng của 5 loài cây tại núi Dạm.............. 53
4.4.9. So sánh khả năng sinh trưởng trung bình của 5 lồi câybản địa
trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ xen Keo tai tượng. ............................... 56
4.5. Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật chuyển hóa rừng Thơng mã vĩ xen
Keo tai tượng thành rừng hỗn loài với các loài cây bản địa ........................ 58
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................... 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



vi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu

STT

Giải thích

1

OTC

Ơ tiêu chuẩn

2

ODB

Ơ dạng bản

3

Hvn

Chiều cao vút ngọn của cây

4


Dt

Đường kính tán

5

D1.3

Đường kính thân cây ở vị trí 1.3m

6

D00

Đường kính gốc

7

VQG

Vườn quốc gia

8

T

Tốt

9


X

Xấu

10

TB

Trung bình


vii

DANH MỤC BẢNG

TT

Nội dung

Trang

3.1

Hiện trạng diện tích rừng và đất lâm nghiệp

35

4.1


Kết quả phân tích lý, hóa tính của đất tại các khu thí nghiệm

38

4.2

Số liệu Khí hậu – Thủy văn ở Bắc Ninh

40

4.3

Đặc điểm sinh trưởng rừng Thông mã vĩ xen Keo tai tượng

42

4.4

Kết quả điều tra cây bụi, thảm tươi tại khu vực nghiên cứu

43

4.5

chỉ tiêu sinh trưởng của Lim xanh dưới tán rừng Thông xen Ke

44

4.6


chỉ tiêu sinh trưởng của Lát hoa dưới tán rừng Thông xen Keo

45

4.7

Chỉ tiêu sinh trưởng của Muồng xiêm dưới tán rừng Thông xen Keo

46

4.8

Chỉ tiêu sinh trưởng của Long não dưới tán rừng Thông xen keo

47

4.9

Chỉ tiêu sinh trưởng của trắm trắng dưới tán rừng Thông xen Keo

48

4.10

4.11

4.12

4.13


So sánh khả năng sinh trưởng của 5 loài cây bản địa trồng dưới tán
rừng Thông mã vĩ xen Keo tai tượng tại Núi Phật Tích
So sánh khả năng sinh trưởng của 5 lồi cây bản địa trồng dưới tán
rừng Thông mã vĩ xen Keo tai tượng tại núi Bảo Tháp
So sánh khả năng sinh trưởng của 5 loài cây bản địa trồng dưới tán
rừng Thông mã vĩ xen Keo tai tượng tại núi Dạm
So sánh khả năng sinh trưởng của 5 loài cây bản địa trồng dưới tán
rừng Thông mã vĩ xen Keo tai tượng tại Bắc Ninh

48

51

53

56


viii

DANH MỤC HÌNH

TT

Nội dung

Trang

4.1


Biểu đồ lượng mưa và nhiệt độ trung bình theo tháng

41

4.2

Tỷ lệ sống trung bình của các lồi cây bản địa tại núi Phật Tích

49

4.3

D00 trung bình của các lồi cây bản địa tại núi Phật Tích

49

4.4

Hvn trung bình của các lồi cây bản địa tại núi Phật Tích

50

4.5

Tỷ lệ sống trung bình của các lồi cây bản địa tại núi Bảo Tháp

51

4.6


D00 trung bình của các lồi cây bản địa tại núi Bảo Tháp

52

4.7

Hvn trung bình của các loài cây bản địa tại núi Bảo Tháp

52

4.8

Tỷ lệ sống trung bình của các lồi cây bản địa tại núi Dạm xã
Nam Sơn

54

D00 trung bình của các lồi cây bản địa tại núi Dạm xã Nam Sơn

54

4.10 Hvn trung bình của các lồi cây bản địa tại núi Dạm xã Nam Sơn

55

4.11 Tỉ lệ cây sống trung bình các cây bản địa

56

4.12 đường kính D00 trung bình của các loài cây bản địa


57

4.13 Chiều cao vút ngọn trung bình của các lồi cây bản địa

57

4.9


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là tài nguyên vô cùng quý giá, rừng đóng một vai trị trong phát
triển kinh tế mà cịn đóng một vai trị quan trọng trong việc cân bằng sinh thái
và bảo vệ môi trường đặc biệt là giảm hiệu ứng nhà kính. Rừng có vai trị
quan trọng như vậy nhưng diện tích rừng trên tồn thế giới dần bị mất đi, sự
mất rừng này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống con người như lũ lụt
hạn hán mất mùa thiên tai làm con người mất khả năng phòng tránh thiên tai
khiến cho thiệt hại về con người và tài sản vơ cùng lớn. Trước tình hình đó
Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chương trình thúc đẩy sự phát triển của
ngành lâm nghiệp như dự án 5 triệu ha rừng, chương trình 661 327... độ che
phủ trên cả nước tăng lên đáng kể song độ che phủ có tăng nhưng chủ yếu là
cây mọc nhanh như thông keo bạch đàn khiến chất lượng rừng chưa cao.
Trước tình hình đó tỉnh Bắc Ninh đã và đang thực hiện các chương trình dự
án để nâng cao chất lượng rừng như trồng rừng di tích, rừng nâng cấp mục
đích phát triển cây bản địa dưới tán rừng Thơng. Để góp phần đánh giá khách
quan kết quả dự án và đề xuất phương pháp lâm sinh để nâng cao hơn nữa
hiệu quả của dự án trong những năm tới nên tôi thực hiện đề tài “Đánh giá
khả năng sinh trưởng một số loài cây bản địa dưới tán rừng tại tỉnh Bắc

Ninh”


2

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Trên thế giới
- Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài:
Kết quả nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới cho thấy rừng trồng
thuần lồi đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Vì vậy, các nhà khoa học trên thế giới
đã quan tâm nghiên cứu xây dựng các mơ hình rừng trồng hỗn lồi nhằm kinh
doanh rừng theo hướng bền vững, nhất là trong giai đoạn biến đổi khí hậu
tồn cầu hiện nay.
Nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài đã được các nước Châu Âu tiến hành
từ những năm đầu thế kỷ 19. Điển hình là cơng trình nghiên cứu của Tikhanop
(1872), tác giả đã sử dụng 2 loài cây là: Quercus sp và Ulmus campestris với
kiểu hỗn lồi có tên gọi là Donsk. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa hai lồi cây này
có phù hợp với nhau hay khơng thì chưa được quan tâm nghiên cứu, do đó lồi
Ulmus campestris với đặc tính sinh trưởng nhanh hơn nên sau khi trồng vài
năm đã lấn át loài Quercus sp. Để giải quyết mối quan hệ này, Polianxki
(1884)[15] đã cải tiến kiểu hỗn loài Donsk, song vẫn chưa thành công. Một số
tác giả khác như Kharitonovis (1950); Grixenco (1951); Timofeev (1951);
Encova (1960) và các cộng sự đã phân tích nguyên nhân thất bại của kiểu
Donsk và chỉ ra rằng các Phitonxit của loài Ulmus campestris đã tác động xấu
tới loài cây Quercus sp nên chúng sinh trưởng rất kém. Nghiên cứu về ảnh
hưởng tương hỗ giữa các loài, các tác giả cho rằng sự cảm nhiễm tương hỗ là
yếu tố quan trọng khi lý giải cơ chế cạnh tranh sinh học của thực vật[29]. Trên
cơ sở nghiên cứu tạo rừng hỗn loài giữa Quercus sp và Fraxnus sp, JB.Ball, T.J
Wormald (1994) cho thấy sinh trưởng của Quercus sp trồng hỗn loài tốt hơn

Quercus sp trồng thuần loài. Ngoài ra, khi trồng Quercus sp hỗn loài với các
loài cây khác theo băng hẹp (3 - 4 hàng) hoặc theo hàng cũng thấy Quercus sp
sinh trưởng tốt hơn khi trồng thuần loài [30].


3

Ở Kasma Forest Technology Centre (Nhật Bản)[28] đã thiết lập hàng
loạt các mơ hình rừng nhiều tầng tán bao gồm nhiều loài cây và ở nhiều cấp
tuổi, trồng ở một số mật độ khác nhau, đặc biệt ở vùng Tsucuba với độ cao
dưới 876m so với mực nước biển đã trồng loài cây Tuyết tùng (Japanese
ceder) để tạo ra các lâm phần bền vững có giá trị, các nhà nghiên cứu ở đây
nhận thấy có ảnh hưởng lẫn nhau giữa các loài cây khi trồng rừng hỗn giao
với nhau và ảnh hưởng của mơi trường tới từng lồi cây trồng. Khi nghiên
cứu về trồng rừng hỗn loài, các tác giả trên đều cho rằng việc bố trí các lồi
cây trong mơ hình rừng trồng hỗn lồi thường có ảnh hưởng khá rõ tới sinh
trưởng của chúng tuỳ theo đặc điểm từng loài và cự ly trồng từng cá thể.
Đặc điểm nổi bật của rừng hỗn lồi là có kết cấu nhiều tầng tán. Vì thế
nghiên cứu tạo rừng hỗn lồi nhiều tầng đã được một số nhà khoa học trên thế
giới quan tâm. Khi nghiên cứu về cấu trúc tầng tán của lâm phần hỗn loài,
Bernar Dupuy (1995) đã cho thấy rằng kết cấu tầng tán của rừng trồng hỗn
loài phụ thuộc vào đặc điểm sinh trưởng và tính hợp quần của các loài cây
trong lâm phần[26]. Điều này cho thấy để tạo được các mơ hình rừng trồng
hỗn lồi có cấu trúc hợp lý, tận dụng được tối đa khơng gian dinh dưỡng thì
cần phải dựa vào đặc điểm sinh thái cũng như phải quan tâm đến mối quan hệ
qua lại giữa các loài cây để lựa chọn các loài cây trồng cho phù hợp. Đây là
những cơ sở quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của các mơ
hình rừng trồng hỗn lồi.
Ở Malaysia (1999) đã nghiên cứu tạo rừng hỗn loài nhiều tầng bằng
nhiều phương thức khác nhau. Tuỳ theo các đối tượng khác nhau là rừng tự

nhiên hay rừng trồng Keo tai tượng (Acacia mangium) 10 - 15 tuổi hoặc rừng
trồng Keo tai tượng 2 - 3 tuổi mà mở các băng chặt và băng chừa khác nhau.
Chiều rộng băng chặt và chừa từ 6m (chặt 1 hàng) đến 60m (chặt 20 hàng).
Thời gian đưa các loài cây bản địa vào trồng hỗn loài trong các băng chặt


4

cũng rất khác nhau, từ 1 - 7 năm sau khi mở băng chặt. Các loài cây bản địa
đưa vào trồng trong các băng chặt tương đối phong phú, từ 14- 23 loài cây
khác nhau với số hàng từ 3 đến 16 hàng. Kết quả cho thấy các loài cây bản địa
được trồng trong các băng có 3 lồi cây khả năng sinh trưởng chiều cao và
đường kính tốt nhất là Shorea roxburrghii; Shorea ovalis; Shorea leprosula.
Sinh trưởng chiều cao của các loài cây trồng trong băng 10m và 40m tốt hơn
băng 20m. Khu trồng theo băng có sinh trưởng chiều cao tốt nhất ở công thức
trồng 1 hàng Keo xen 1 hàng cây bản địa. Kết quả nghiên cứu này cịn đưa ra
khuyến nghị điều chỉnh q trình sinh trưởng của các mơ hình thí nghiệm
theo 8 thời điểm từ 2 - 47 năm sau khi trồng[31]. Như vậy, đây là một trong
những cơng trình nghiên cứu tạo rừng hỗn loài ở nước ngoài tương đối toàn
diện về các biện pháp kỹ thuật, từ việc chọn loài cây trồng đến nghiên cứu
phương thức trồng, thời điểm trồng và sự điều chỉnh mơ hình theo q trình
sinh trưởng trong thời gian dài. Do đó những mơ hình thí nghiệm này hứa hẹn
nhiều thành cơng trong tương lai và có thể áp dụng mở rộng trong sản xuất.
Qua những nghiên cứu trên cho thấy cây bản địa đã được nhiều tác giả
quan tâm và đã được lựa chọn để trồng rừng, về phương thức trồng có thể
trồng theo băng hoặc theo đám để tận dụng không gian dinh dưỡng, các
nghiên cứu về ảnh hưởng lẫn nhau khi trồng rừng hỗn giao. Tuy nhiên, các
nghiên cứu trên chưa đề cập đến ảnh hưởng của độ tàn che của tầng cây cao
đến sinh trưởng của lồi cây khác trồng dưới tán. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu ảnh hưởng của độ tàn che đến sinh trưởng của cây bản địa trồng dưới tán

và biện pháp gây trồng một số loài cây bản địa là cần thiết, đặc biệt đối với
loài cây bản địa tại Việt Nam.


5

1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây bản địa
Ở Việt Nam, vấn đề trồng rừng hỗn loài đã được các nhà khoa học
quan tâm từ rất sớm, điển hình là cơng trình nghiên cứu của Maurand (người
Pháp) ở Đồng Nai vào những năm 30 của thế kỷ trước, tác giả đã sử dụng các
loài Sao đen (Hopea odorata), Dầu rái (Dipterocarpus alatus) và Vên vên
(Anisoptera costata) để xây dựng các mơ hình trồng rừng hỗn lồi, cho đến
nay các mơ hình này vẫn cịn giá trị tham khảo nhất định. Trong giai đoạn
1930-1980 có rất ít các cơng trình nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài và
nghiên cứu chọn loài cây trồng cũng chỉ tập trung cho một số loài cây thuộc
họ Dầu. Từ năm 1985 đến nay, việc nghiên cứu trồng rừng hỗn loài bằng các
loài cây bản địa được triển khai nhiều hơn kể cả số lượng lồi cây và diện tích
rừng trồng. Trong giai đoạn này nhiều loài cây lá rộng bản địa đã được lựa
chọn để nghiên cứu cho các vùng sinh thái trong cả nước. Các loài cây lá rộng
bản địa được lựa chọn để nghiên cứu trồng rừng hỗn lồi chủ yếu là các lồi
có giá trị kinh tế cao. Một số loài cây bản địa được lựa chọn cho vùng Tây
nguyên và Nam bộ như: Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), Cẩm lai (Dalbergia
oliveri), Căm xe (Xylia xylocarpa), Tếch (Tectona grandis) ... và được trồng
chủ yếu tại các trạm thực nghiệm Trảng Bom tỉnh Đồng Nai, Lang Lanh và
Măng Linh tỉnh Lâm Đồng, Ekmat tỉnh Đắc Lắc, Tân Tạo Thành Phố Hồ Chí
Minh. Ở miền Bắc, các lồi cây chủ yếu được lựa chọn để trồng rừng hỗn loài
là Lim xanh (Erythurophleum fordii), Lim xẹt (Peltophorum tonkinnensis),
Giổi xanh (Mechelia mediocris), Re gừng (Cinamomum ilcidioides), Mỡ
(Manglietia conifera), Bồ đề (Styrax tonkinensis), Lát hoa


(Chukrasia

tabularis), Ràng ràng mít (Ormosia balansae), Xoan đào (Prunus arborea),
Vạng trứng (Endospermum chinense) ...


6

Nguyễn Bá Chất (1995) [4], khi nghiên cứu rừng phục hồi ở Sơng Hiếu
(1981 - 1985) đã thí nghiệm gây trồng rừng hỗn loài Lát hoa (Chukrasia
tabularis) với các loài cây bản địa lá rộng khác như: Lim xẹt (Peltophorum
tonkinnensis), Giổi (Michelia sp), Thôi chanh (Evodia bodinieri), Lõi thọ
(Gmelia arbores) ... nhằm tạo ra cấu trúc hợp lý. Sau 10 năm, kết quả cho
thấy Lát hoa trồng hỗn loài tốt hơn khi trồng thuần loài ...
Trần Ngũ Phương (2000)[23] cũng đã nghiên cứu xây dựng các mơ
hình trồng rừng hỗn lồi tạo ra rừng nhiều tầng tán nhằm mục đích cho phịng
hộ và sản xuất thơng qua các phương thức hỗn loài khác nhau như hỗn loài
giữa cây cao với cây bụi, hỗn loài giữa cây cao với cây cao. Căn cứ kết quả
của các cơng trình nghiên cứu các quy luật chủ yếu ở rừng tự nhiên ở miền
Bắc Việt Nam, tác giả đã chỉ ra rằng thảm thực vật rừng ở nước ta đều phân
thành nhiều tầng, từ 2 đến 3 tầng cây gỗ chưa kể tầng cây nhỡ và thảm tươi.
Dựa trên quy luật đó tác giả đã đề xuất mơ hình trồng rừng hỗn lồi đáp ứng
mục tiêu phòng hộ đầu nguồn cho các vùng xung yếu, trong đó có 2 mơ hình
hỗn lồi nổi bật là mơ hình rừng sản xuất khí hậu vĩnh viễn nhiều tầng và
rừng sản xuất thứ sinh tạm thời nhiều tầng.
Lâm Phúc Cố (1995)[24] khi nghiên cứu một cây bản địa được chọn
trồng rừng phịng hộ đầu nguồn Sơng Đà ở Púng Lng, Mù Căng Chải đã
chọn được 4 lồi cây bản địa đó là: Pơ mu ( Fokienia hodginsic Henry et
thomas), Tô hạp hương (Altingia takhtadjanii), Giổi (Tahauma Gioi A.Chev)

và cây song mật (calamus ealusetris) có thể làm giàu rừng theo phương thức
trồng xen dưới tán rừng hay làm giàu rừng theo băng.
Một thí nghiệm trồng rừng hỗn lồi khác là trồng theo đám ở Trường
đại học Lâm nghiệp (Phạm Xuân Hoàn, 2004)[11], đã sử dụng 165 loài cây
bản địa trồng dưới tán của Thơng và Keo, trong đó dưới tán rừng Thơng mã vĩ
(Pinus massoniana) là 27 lồi, dưới tán rừng Keo lá tràm (Acacia


7

auriculifomis) là 21 lồi, số cịn lại trồng dưới tán của trạng thái rừng hỗn
giao Thông mã vĩ với Keo lá tràm, Thông mã vĩ với Keo tai tượng, Bạch đàn
... tỉ lệ sống của các loài cây bản địa dưới tán rừng Thông được đánh giá đạt
93,2% và dưới tán rừng Keo đạt 91,2%. Tăng trưởng thường xuyên và tăng
trưởng bình qn của cây bản địa có sự phân hố khác nhau khá rõ ràng ở các
lồi. Đặc biệt, đáng chú ý một số loài thường được đánh giá sinh trưởng chậm
như: Re hương (Cinnammomun inners), Lim xanh (Erythurophleum fordii)...
nhưng ở giai đoạn cịn nhỏ có khả năng chịu bóng tốt dưới tán rừng Thơng,
Keo lại sinh trưởng tốt và rất có triển vọng.
Mơ hình trồng rừng hỗn lồi Keo trắng (Paraserianthes falcataria) và
Lõi thọ (Gmelia arboria) ở Lương Sơn – Hồ Bình cũng đã được Hồng Văn
Thắng và cộng sự (2005) [18] nghiên cứu và kết quả cho thấy sau nương rẫy,
có độ dốc từ 150 đến 200, trồng hỗn giao theo băng, cả Keo trắng và Lõi thọ
đều sinh trưởng tốt, chưa thấy xuất hiện sâu bệnh hại và Lõi thọ hiện nay đã
bắt đầu ra hoa và có thể chuyển hố thành rừng giống.
Xác định lồi cây bản địa cho từng vùng sinh thái cũng là nội dung
quan trọng trong xây dựng rừng hỗn loài. Ở Việt Nam nghiên cứu các loài cây
bản địa cho mỗi vùng sinh thái cũng đã được một số tác giả quan tâm, một số
cơng trình nghiên cứu điển hình có thể kể đến như sau:
Phùng Ngọc Lan (1994)[12] nghiên cứu đặc tính của lồi lim xanh

(Erythurophleum fordii) đã xác nhận vùng phân bố của lồi Lim xanh rất rộng
có mặt hầu hết ở các tỉnh trong cả nước với độ cao phân bố từ 900m trở
xuống ở phía Nam và 500m trở xuống ở phía Bắc. Sinh trưởng thích hợp ở
đồi bát úp, độ dốc nhỏ hơn 200 hoặc ở chân đồi, chân núi dốc tụ.
Theo Hoàng Hoè và Trần Xn Thiệp (1999)[19] thì ở nước ta có
khoảng 250 lồi cây bản địa và nhập nội đã và đang được sử dụng để trồng
rừng. Như vậy, việc tạo lập các lâm phần rừng trồng nói chung và các lâm


8

phần rừng trồng hỗn lồi nói riêng ở nước ta đã chọn ra được nhiều loài cây
trồng phù hợp cho các vùng sinh thái trong cả nước. Đó là cơ sở khoa học
quan trọng cho việc xây dựng và nâng cao năng suất chất lượng rừng trồng ở
nước ta.
Qua nhiều năm nghiên cứu, Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
(2000)[21] đã đưa ra trên 100 loài cây bản địa cho các chương trình trồng
rừng phục hồi cả 3 loại rừng là rừng sản xuất, phịng hộ và đặc dụng.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu đã nêu, Chương trình 327, Dự án 661
cũng tạo ra nhiều mơ hình trồng rừng hỗn lồi với các lồi cây bản địa lá
rộng, trong đó chủ yếu là tạo rừng phòng hộ cho các vùng xung yếu trong cả
nước. Trong các mơ hình này hầu hết đều sử dụng các loài cây phù trợ như
Keo tai tượng (Acacia mangium), Keo Lá tràm (Acacia auriculiformis), Keo
lai (Acacia mangium x Acaccia auriculiformis), Muồng đen (Cassia siamea),
với tỷ lệ hỗn loài là 600 cây bản địa và 1000 cây phù trợ/ha. Tuy nhiên, việc
điều chỉnh tán che của các lồi cây phù trợ trong các mơ hình rừng trồng hỗn
loài đã chưa được quan tâm nghiên cứu và điều chỉnh kịp thời nên các lồi
cây trồng chính có tỷ lệ sống rất thấp và thường sinh trưởng kộm. Đây cũng là
tồn tại chung của hầu hết các mô hình trong các dự án 327 và 661.
Nghiên cứu phương thức và phương pháp hỗn loài cũng đang được

nhiều tác giả quan tâm. Thực tế cho thấy các mơ hình rừng trồng hỗn loài ở
nước ta đến nay chủ yếu là áp dụng theo phương thức trồng rừng hỗn loài
giữa cây cao với cây cao. Điển hình là thí nghiệm trồng rừng hỗn loài theo
hàng giữa Mỡ (Manglietia conifera) với các loài cây Lim xanh
(Erythurophleum fordii), Xà cừ (Khaya senegalensis), Tếch (Tectona
grandis)[22]. Trong một cơng trình nghiên cứu khác trồng rừng gỗ lạng ở Tây
Nguyên, Nguyễn Xuân Quát và cộng sự (1990) đã sử dụng cây Đậu tràm
(Indigofera teysmanii) như là một cây phù trợ cho Tếch (Tectona grandis),


9

kết quả cho thấy Tếch trồng xen với cây Đậu tràm giai đoạn đầu sinh trưởng
khá tốt, hình thân đẹp và thẳng, khả năng phân cành ít. Hơn nữa, cỏ dại dưới
tán rừng trồng cũng hạn chế phát triển hơn nơi Tếch trồng thuần loài [14];
Nghiên cứu tạo rừng hỗn lồi giữa cây lá kim (Thơng đi ngựa) và cây lá
rộng (Keo lá tràm và Bạch đàn trắng) ở Núi Luốt - Xuân Mai của Phùng Ngọc
Lan (1986) [13]; Nghiên cứu thiết lập rừng trồng hỗn loài giữa các loài cây ưa
sáng Bạch đàn trắng (Eucalyptus camaldu) và Keo lá tràm (Acaccia
auriculiformis) của Nguyễn Hữu Vĩnh và các cộng tác viên (1991-1993) [20].
Hầu hết các cơng trình nghiên cứu này đều áp dụng phương pháp trồng hỗn
loài theo hàng hoặc theo băng. Các kết quả nghiên cứu của các công trình này
cho thấy dù được xây dựng theo phương thức và phương pháp nào thì rừng
trồng hỗn lồi đều tạo điều kiện cho các loài cây bản địa sinh trưởng tốt hơn
và rừng trồng có tính bền vững cao hơn cả về kinh tế và môi trường so với
rừng trồng thuần loài.
Khi nghiên cứu các phương thức phục hồi rừng thứ sinh nghèo kiệt,
Nguyễn Bá Chất (1981-1985)[6] đã cho thấy sinh trưởng của Lát hoa
(Chukrasia tabularis) trồng hỗn loài tốt hơn rừng Lát hoa trồng thuần loài.
Hơn nữa, các loài cây khác trong rừng thứ sinh cũng có khả năng tái sinh

phục hồi tốt hơn.
Dự án trồng rừng hỗn loài các loài cây gỗ giá trị cao để cung cấp gỗ và
tăng cường các dịch vụ cộng đồng giữa Việt Nam và Australia (2002-2006)
đã thiết lập rừng trồng hỗn loài giữa các loài cây nhập nội và cây bản địa với
các thời điểm hỗn loài khác nhau tại 3 địa điểm: i) Đoan Hùng - Phú Thọ:
trồng cùng thời điểm các lồi Bạch đàn urophylla, gồm có Giổi xanh
(Mechelia mediocris), Lát hoa (Chukrasia tabularis) và Trám trắng
(Canarium album); ii) Vườn quốc gia Tam Đảo: trồng hỗn loài giữa Sấu
(Darcontomelon duperrea), Xà cừ (Khaya senegalensis), Lim xanh


10

(Erythurophleum fordii) với Keo lai vào cùng một thời điểm; iii) Đèo Hải
Vân - Huế tạo rừng hỗn loài giữa Keo tai tượng (Acacia mangium) với Sao
đen (Hopea odorata), Dầu rái (Dipterocarpus alatus) và Chị chỉ (Parashorea
chinensis), trong đó Keo tai tượng được trồng trước 7 năm sau đó được chặt
theo băng để đưa các loài cây bản địa vào trồng dưới tán với mật độ 250
cây/ha. Kết quả sau 3 năm cho thấy các lồi cây trồng đều có tỷ lệ sống cao,
sinh trưởng tốt và có nhiều triển vọng. Tuy nhiên, đây mới chỉ là kết quả bước
đầu. Mặt khác khi thiết kế xây dựng mơ hình, việc nghiên cứu mối quan hệ
giữa các loài cây chưa được chú ý. Vì vậy, với các mơ hình này cần phải theo
dõi để có biện pháp tác động kịp thời, điều chỉnh sự cạnh tranh giữa các loài,
đặc biệt là các loài cây mọc nhanh như Bạch đàn và Keo lai, tạo điều kiện để
cây bản địa sinh trưởng, phát triển tốt.
Nguyễn Hoàng Nghĩa (1997)[3] đã đưa ra nhận định về nghịch lý cây
bản địa. Theo tác giả vai trò của cây bản địa trong công tác trồng rừng là rất
rõ ràng, song còn tồn tại một số nghịch lý ở tầm quốc tế và ở mỗi quốc gia,
đòi hỏi các nhà nghiên cứu và quản lý sớm quan tâm giải quyết.
(i)- Nghịch lý thứ 1: Thế giới ưa của ngoại. Đó là việc sử dụng rộng rãi

các giống cây trên phạm vi toàn cầu.
(ii)- Nghịch lý thứ 2: Lâm nghiệp thế giới trồng cây nhập nội điển hình
là lồi Bạch đàn ( Eucalyptus) là cho thực vật họ Sim với trên 500 loài chỉ
phân bố suy nhất ở Oxtraylia. Theo ước tính của tổ chức nơng lương thì trên
thê giới tính đến năm 1995 đã có gần 100 nước gây trồng Bạch đàn.
(iii)- Nghịch lý thứ 3: Việt Nam trồng thành công nhiều cây nhâp nội.
Nếu chỉ kể đến các lồi cây lấy gỗ và đặc sản thì bao gồm: Điều, Cao su, Cà
phê, Phi lao, Thông đuôi ngựa, Bạch đàn... Nhiều lồi cây trong số đó đã trở
thành quen thuộc không thể thiếu trong đời sống của người dân. Đối với vùng
ven biển thì Phi lao trở thành cây khó có thể thay thế.


11

(iv)- Nghịch lý thứ 4: Khó gây trồng cây bản địa. Điều đáng quan tâm
là vốn cây bản địa hiện đang suy giảm nghiêm trọng về cả số lượng và chất
lượng do các hoạt động phá rừng. Thứ nhất là thiếu hiểu biết về đặc điểm của
các loài cây bản địa cụ thể như về khí hậu, đất đai, ánh sáng ở các giai đoạn
khác nhau, mối quan hệ giữa các loài trong các quần thể đa loài, khả năng tái
sinh tự nhiên, khả năng gây trồng...; do đó khó có thể phát triển cây bản địa
trên diện rộng. Thứ 2 là cây bản địa quen sống trong một môi trường sống
hồn chỉnh, ít biến động nên có nhu cầu cao về đất và các yếu tố khác. Nên
không thể trồng cây bản địa ngay trên đất trống đồi núi trọc do đó muốn gây
trồng thành cơng cây bản địa thì ta phải tạo được hồn cảnh tương đối thích
hợp với từng loài cây bản địa. Thứ 3 là các yếu tố xã hội, vùng có nhu cầu lớn
về cây bản địa thường là vùng sâu vùng xa, đời sống con người gặp nhiều khó
khăn, giao thơng kém...
Hiện nay nhiều đối tượng rừng trồng thuần loài đều tuổi ở nước ta đã
và đang được nghiên cứu để chuyển hoá thành rừng hỗn lồi khác tuổi, có cấu
trúc ổn định và bền vững hơn thông qua việc đưa thêm một số lồi cây mục

đích vào trồng theo các thời điểm khác nhau. Điển hình là dự án trồng rừng
Việt - Đức ở các tỉnh Bắc Giang, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Ban đầu rừng
trồng của dự án ở các tỉnh này là rừng thuần lồi Thơng mã vĩ, Keo lá tràm,
hoặc Thông mã vĩ xen Keo lá tràm. Sau 7 năm dự án đã thí nghiệm chuyển
hố rừng Thơng mã vĩ thuần lồi và rừng hỗn lồi Thơng mã vĩ xen Keo lá
tràm thành rừng hỗn loài với một số loài cây lá rộng bản địa khác bằng cách
chặt tỉa Thông mã vĩ và Keo lá tràm, mở thành các rạch rộng 6m sau đó đưa
các lồi cây lá rộng bản địa vào trồng. Như vậy, xét về thời điểm hỗn lồi thì
đây có thể coi là một trong những thí nghiệm điển hình và có tính thực tiễn
cao, phần lớn diện tích rừng trồng của nước ta hiện nay đều là rừng trồng
thuần lồi hoặc hỗn lồi khơng bền vững là đối tượng cần được chuyển hoá


12

thành rừng hỗn loài bền vững nhằm kinh doanh rừng theo hướng ổn định, bền
vững hơn.
Lê Minh Cường (2007)[7] đã nghiên cứu trồng một số loài cây bản địa
dưới tán rừng Thông mã vĩ ở Đại Lải Vĩnh Phúc, tác giả đã đề xuất được 3
lồi cây bản địa có triển vọng để gây trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ (Pinus
massoniana) đó là: Lim xanh (Erythrophleum pordii), Re hương
(Cinnamomum iners), Sao đen (Hopea odorata). Trong đó, Lim xanh là lồi
cây có khả năng sinh trưởng tốt nhất dưới tán rừng Thơng mã vĩ sau 7 năm
trồng đường kính gốc trung bình đạt từ 6,0cm - 6,4cm, chiều cao vút ngọn đạt
từ 4,2m - 4,6m. Ngoài ra, tác giả đã đề xuất một số biện pháp kỹ thuật gây
trồng cây bản địa dưới tán rừng Thông mã vĩ.
Trường đại học Lâm nghiệp Xuân Mai cũng đã xây dựng vườn sưu tập
vườn thực vật với gần 300 loài cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ
(Pinus massoniana) và Keo tai tượng (Acacia mangium). Sau nhiều năm
nghiên cứu đã tìm ra một số lồi cây thích nghi dưới tán rừng như Đinh thối

(Fernandoa brilletii), Máu chó (Knema pierrei), Tai chua (Garcinia cowa),
Re hương (Cinnamomun iners), Long não (Cinnamomun camphora)... (dẫn
theo Lê Minh Cường 2007)[7].
Cũng trên nền tảng nghiên cứu về rừng Thông mã vĩ và Keo lá tràm tại
Núi Luốt, Xuân Mai, Đỗ Thị Quế Lâm (2003) [12] đã nhận định các loài Lim
xanh (Erythrophleum pordii), Đinh thối (Fernandoa brilletii), Re hương
(Cinnamomun iners), sinh trưởng tương đối tốt dưới tán rừng Thông mã vĩ.
Tuy nhiên, dưới các độ tàn che khác nhau, khả năng sinh truởng của các loài
cây bản địa cũng rất khác nhau.
Qua những nghiên cứu trên cho thấy việc trồng rừng hỗn lồi giữa
Thơng và cây bản địa, đặc biệt là trồng các loài cây bản địa dưới tán rừng
Thơng mã vĩ đó và đang được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm.


13

Nhiều lồi cây gỗ có giá trị đó được lựa chọn để trồng rừng như: Đinh thối,
Lim xanh, Re hương ...
Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa đề cập đến biện pháp kỹ thuật gây
trồng và tác động cụ thể vào tầng cây cao như thế nào, các biện pháp kỹ thuật
gây trồng cây bản địa dưới tán như thế nào. Hơn nữa, chưa thấy có nghiên
cứu nào về trồng cây bản địa dưới tán rừng Thông mã vĩ xen Keo tai tượng ở
tỉnh Bắc Ninh
Chính vì vậy, việc nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật gây trồng cây bản
địa dưới tán rừng, đặc biệt là rừng Thông mã vĩ xen Keo tai tượng để làm cơ
sở chuyển hóa rừng Thơng mã vĩ xen Keo tai tượng thành rừng hỗn loài với
các loài cây bản địa nhiều tầng tán nhằm phát triển bền vững và nhân rộng mơ
hình là cần thiết.
1.2.2. Một số thơng tin về các lồi cây nghiên cứu
1.2.2.1. Cây Trám trắng(Canarium album)

Nguồn:

/>
trang
Tên đồng nghĩa: Pimela alba Lour. 1790; Canarium nigrum (Lour.)
Engler, 1900; Canarium pimela Leenh., 1959 Tên khác: Bùi, mắc cơm, cà na
(Tày, Nùng)
Họ: Trám – Burseraceae
Hình thái :
Cây gỗ lớn, cao 20 m hoặc hơn. Thân thẳng trịn, phân cành muộn.
Cành non màu nâu nhạt, có lơng mềm. Vỏ mỏng màu nâu xám. nứt dọc nhẹ,
thịt hồng, có mùi thơm đặc biệt và khi bị cắt có nhựa đặc chảy ra. Lá kép lông
chim lẻ, mọc so le, dài 35-40 cm, mang 7-11 lá chét; lá chét hình trái
xoan, mặt trên màu xanh nhạt,bóng, mặt dưới có lơng ánh bạc; những lá gần
gốc đầu có mũi nhọn ngắn, lá phía trên có đầu thn dài; gân lá hơi rõ; có lá


14

kèm hình dùi, phủ lơng mềm, màu nâu bạc. Cụm hoa mọc ở ngọn thành chùm
kép, dài 8-10 cm; lá bắc hình vảy. Hoa đơn tính cùng gốc, mọc thưa, thường
tụ họp 2-3 cái ở một mấu; đài có lơng 3 răng; tràng hình bầu dục, có 3 cánh
hơi dài hơn lá đài, phủ lơng ngắn ở mặt ngồi; nhị 6 chỉ nhị ngắn; bầu
hình trứng có lơng màu nâu.
Quả hạch hình trái xoan, hai đầu nhọn, dài 2,5- 3,5 cm, khi chín màu
vàng nhạt;hạt cứng hố gỗ dày. Các thông tin khác về thực vật Trám
(Canarium L.) là một chi lớn, có khoảng 80-150 lồi. Riêng ở Việt Nam chi
này có 8 lồi. Những lồi phổ biến là: Trám trắng (C. album L.), trám đen (C.
tramdenum Dai & Yakovl.); trám chim (C. tonkinensis Engl.), trám hồng hay
trám 3 cạnh (C. bengalense Roxb.) và cà na (C. subulatum Guillaum.). Hầu

hết các lồi này có quả ăn được nhưng 2 lồi trám trắng và trám đen là thường
được sử dụng nhiều và quả có vị ngon hơn cả.
Ở Việt Nam Trám trắng phân bố ở hầu hết các tỉnh phía Bắc, Tây
Nguyên và Đông Nam Bộ. Đã gặp ở Sơn La, Hà Giang, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Bắc Kạn, Hà Tây, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hồ Bình, Ninh Bình, Thanh
Hố, Nghệ An, Hà Tĩnh, Gia Lai, Kon Tum, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu
Đặc điểm sinh học Cây mọc khá phổ biến trong các rừng mưa nhiệt đới
thường xanh ở độ cao 100-1.000 m trên mặt biển, tập trung nhiều ở độ cao
200-700 m; nơi có lượng mưa 1.500-2.000 mm/năm. Trong các rừng nguyên
sinh hoặc mới bị khai thác nhẹ, chưa bị mở tán lớn, trám trắng thường mọc
đơn độc cùng với sấu, lim. sến Trong các rừng thứ sinh, bị khai thác mạnh
hoặc mở tán rộng, trám mọc thành từng đám lớn cùng sau sau, chẹo, dẻ gai
Trám trắng có thể sống trên nhiều loại đất, nhưng tốt nhất là đất feralít đỏ
vàng hay vàng đỏ, có tầng đất dày trên 50 cm, nhiều mùn, phát triển trên các
loại đá phiến thạch sét, phiến thạch mica; thuộc loại đất hơi chua độ pH từ 4-5


15

và cịn mang tính đất rừng. Thường gặp trám trắng mọc ven bìa rừng, đường
đi, quanh làng bản, ven sơng suối.
Trám trắng là cây ưa sáng, mọc nhanh. Trong rừng tự nhiên thường
vươn lên tầng trên; nhưng khi còn non, trong 2 năm đầu cần có tàn che nhẹ,
độ che sáng thích hợp là 0,2-0,4. Cây trồng ở VQG Cúc Phương từ năm 1986
đến 2002 cóchiều cao trung bình 7-8m, đường kính 12-15 cm; cây phát triển
khơng đều, có cây đã raquả. Nếu trồng nơi đất tốt, cây 20 tuổi có chiều cao
trung bình 19-22 m, chiềucao dưới cành 11-13,5 m, đường kính trung bình 24
cm. Trong tự nhiên, cây tái sinh tốt cả bằng hạt và chồi. Những năm gần đây,
nhân dân nhiều tỉnh vùng Đông Bắc đã trồng rất nhiều trám trắng trên các
vườn rừng hay đất rừng được giao. Một số nơi như Sơn Động (Bắc Giang),

dân bảo vệ rừng trám rất tốt để chích nhựa.
Cây mọc tự nhiên từ hạt sẽ cho quả sau 8-10 năm, Cây trồng cho quả
sớm hơn, chỉ sau 6-7 năm.
Mùa hoa tháng 5-6, mùa quả tháng 8-9.
1.2.2.2 Cây Lim Xanh
Nguồn: ( />Tên khoa học: Erythrophleum fordii Oliver
Họ thực vật: Vang (Caesalpiniaceae)
Đă ̣c điể m hình thái:
Cây gỗ lớn, cao 37-45m, đường kính có khi tới 2-2,5m, thường xanh.
Gốc có bạnh vè, thân trịn, phân cành nhánh lớn, tán lá hình ơ, dày, rộng. Vỏ
màu nâu, bong vảy lớn, khi non có nhiều bì khổng.
Lá kép lơng chim 2 lần với 3-5 đơi cuống thứ cấp và mỗi cuống mang
9-15 lá chét hình trái xoan, đầu nhọn, gốc trịn. Hoa tự kép hình bông, dài 2030cm, hoa nhỏ, màu trắng xanh. Quả thuỗn dài 20cm, rộng 3-4cm, có 6-14
hạt. Hạt dẹt màu nâu đen, xếp lợp lên nhau, có lớp vỏ chất sừng, bảo vệ chắc


16

nên tồn tại lâu trong đất, dễ bảo quản. Cây lim xanh là cây gỗ lớn, phân bố
trong vành đai nhiệt đới thấp, từ 200-800m, nhưng tập trung nhất ở độ cao
300-500m. Vùng phân bố của lim xanh có nhiệt độ bình quân năm 22,2-23,8
0

C; nhiệt độ tối cao 42,3 oC, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối 1,4 0C; lượng mưa biến

động từ 1.500 mm/năm (Quì Châu, Nghệ An) đến 3.000mm/năm (Móng Cái,
Quảng Ninh), độ ẩm trung bình năm 80-86%.
u cầu ánh sáng của cây thay đổi theo các giai đoạn sinh trưởng, phát
triển: Giai đoạn 4-5 tháng tuổi, lim xanh là cây chịu bóng, sinh trưởng bình
thường ở độ tàn che 25-75%; đặc biệt thích hợp ở độtàn che 50%. Trong điều

kiện được chiếu sáng tự nhiên 100%, ánh sáng hồn tồn (khơng che) hoặc
che tối 100%, cây lim xanh non sinh trưởng rất kém. Giai đoạn càng lớn (từ 5
tuổi trở lên) cây sinh trưởng bình thường ở điều kiện ánh sáng tự nhiên. Khi
trưởng thành, lim xanh luôn vươn lên tầng cao nhất của rừng. Cây lim xanh là
lồi cây cận đặc hữu của Việt Nam vì ngồi khu phân bố tập trung nhất ở Việt
Nam, cịn phát hiện cây lim xanh mọc rải rác ở miền Nam Trung Quốc. Ở
Việt Nam, theo các tài liệu trước đây, lim xanh mọc tập trung ở các tỉnh vùng
Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và biên giới cực nam của lồi cây gỗ q này là tỉnh
Quảng Nam. Nhưng gần đây đã phát hiện lim xanh cịn có ở Quảng Ngãi,
Bình Định, và Bình Thuận (huyện Hàm Tân, độ vĩ 10,47 Bắc). Như vậy khu
phân bố của lim xanh từ 10-230 vĩ Bắc và 102-1080 kinh Đơng. Các tỉnh có
nhiều lim xanh nhất là: Lạng Sơn, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái nguyên, Bắc
Kạn, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Quảng Nam. Vùng sơng Thanh, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng
Nam còn những khu rừng với nhiều cây lim xanh có đường kính trên 1,5m.
Cây phân bố trên nhiều loại đất có nhiều nguồn gốc khác nhau như: sathạch,
phiến thạch sét, gnai, mica sit, poóc phia… có thành phần cơ giới từ cát pha,
sét nhẹ, sét trung bình đến sét nặng. Cây thích hợp nhất với đất sâu, dày, ẩm;
nhưng cũng mọc được ở các loại đất thoái hoá với tầng đất mỏng, độ ẩm


17

khơng cao, tuy vậy cây sinh trưởng kém. Đất có lim xanh mọc thường khá
chua đến chua trung bình. Lim xanh thường mọc thành quần thụ hỗn loại;
chúng mọc xen với các loài cây thuộc chi Dẻ đá và Dẻ gai (họ Dẻ),và các loài
gội nếp, trâm, săng lẻ, sau sau, trám trắng… Cây tái sinh tốt dưới tán rừng có
độ tàn che 0,3-0,7. Đặc biệt tái sinh tốt dưới tán rừng có các lồi cây sau sau,
săng lẻ để tạo thành các khu rừng Lim, như Sau sau ở vùng Lạng Sơn và Lim,
Săng lẻ ở vùng Tây Nghệ An.

Tăng trưởng hàng năm không quá chậm so với nhiều lồi cây gỗ khác:
Tăng trưởng đường kính 0,7-0,8cm/năm và tăng trưởng chiều cao
0,8m/năm. Cây trồng 25 tuổi đạt chiều cao 17-21m và đường kính ngang
ngực 20-21cm. Tuy nhiên, sự hình thành gỗ lõi hơi chậm so với các loài khác.
Vỏ hạt lim có chất sừng nên giữ được sức nẩy mầm trong đất nhiều năm. Khi
gặp điều kiện thuận lợi hạt mới nảy mầm. Hoa tháng 3-4; quả chín tháng 11
đến tháng 1 năm sau.
1.2.2.3. Cây Long não
Tên: Cây Long não (hay cịn gọi là cây Dã hương) có tên khoa học là
Cinnamomum camphora (L.) Presl thuộc họ Long não (Lauraceae).
Đặc điểm hình thái: Cây gỗ lớn có thể cao tới 40m, đường kính đạt
200cm. Cây gỗ, cao 10-15m. Lá đơn nguyên, hình mũi mác, mặt trên xanh,
mặt dưới màu nhạt hơn, có cuống dài, mọc so le, khơng có lá kèm, gân lá lơng
chim. Cụm hoa hình sim 2 ngả ở ngọn cành. Hoa nhỏ màu vàng lục, đều,
lưỡng tính. Quả mọng đựng trong đế hoa tồn tại và rắn lại. Hạt không nội nhũ.
Đặc điểm sinh thái: Ở Việt Nam long não mọc tương đối chậm. Mùa
hoa tháng 3-4, mùa quả tháng 10-11. Là cây tương đối ưa sáng, lúc nhỏ che
bóng, ưa khí hậu ấm và ẩm nhiệt độ trung bình năm 15- 200C, lượng mưa trên
1.000mm. Mọc tốt trên đất sét pha tầng dầy, không sống được trên đất mặn,
đất trũng hoặc quá khô. Ở điều kiện thích hợp long não có thể tái sinh hạt và
chồi tốt. Long não mọc tự nhiên và đã được gây trồng trên diện tích nhỏ ở các
tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam


×