Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Nghiên cứu điều kiện lập địa cho cây trồng keo lai a mangium x a auriculiformis tại một số nơi ở vùng đông bắc bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 70 trang )

B GIO DC V O TO
Bộ giáo dục đào tạo

B NễNG NGHIP V PTNT

Bộ nông nghiệp và PTnt

TRNG AI HOC LM NGHIấP
------------------Tr-ờng đại học lâm nghiệp

NGUYN
HIấN
Ngô ThếTH
Long

NGHIấN CU IU KIN LẬP ĐỊA CHO GÂY TRỒNG KEO LAI
(A.mangium
x A.auriculiformis)
TẠIsinh
MỘTtr-ëng
SỐ NƠI Ở VNG
xây dựng
các mô
hình cấu trúc,
ễNG BC B
và hình dạng thân cây làm cơ sở đề xuất các ph-ơng
pháp xác định trữ l-ợng, sản l-ợng cho lâm phần keo
tai t-ợng (Acacia

mangium) tại khu vực


hàm yên - tuyên quang
LUN VN THC S KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI - 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------

NGUYỄN THỊ HIÊN

NGHIÊN CỨU ĐIỀU KIỆN LẬP ĐỊA CHO GÂY TRỒNG KEO LAI
(A.mangium x A.auriculiformis) TẠI MỘT SỐ NƠI Ở VÙNG ĐÔNG
BẮC BỘ

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. NGƠ ĐÌNH QUẾ

HÀ NỘI - 2010



1

MỞ ĐẦU
Trong thực tiễn trồng rừng sản xuất, bên cạnh những thành cơng thì vẫn
có một số nơi bị thất bại, do đó việc gây trồng ở điều kiện lập địa nào cho phù
hợp với đặc tính của lồi cây (đất nào cây ấy) để đạt được năng suất và hiệu
quả cao là vấn đề cần được quan tâm. Những năm gần đây, nhu cầu về gỗ
ngày càng tăng trong khi nguồn gỗ từ rừng tự nhiên ngày càng cạn kiệt. Vì
vậy, việc lựa chọn các lồi cây mọc nhanh đã trở thành xu hướng tất yếu ở
các vùng trong cả nước nói chung và Đơng Bắc Bộ nói riêng.
Các loài Keo được đưa vào nước ta từ những năm 1960, là loài cây sinh
trưởng và phát triển nhanh, đồng thời lại có khả năng cải tạo đất. Với những
ưu điểm đó, cây Keo đã nhanh chóng trở thành cây trồng rừng chủ lực cho
ngành lâm nghiệp, đặc biệt là cho trồng rừng sản xuất nguyên liệu giấy, chế
biến ván nhân tạo. Trong đó Keo lai và Keo tai tượng được coi là hai lồi có
triển vọng nhất cho trồng rừng đa mục đích: Phịng hộ, cải tạo đất, cung cấp
nguyên liệu.
Ở nước ta đã có nhiều nghiên cứu về các loài Keo nhưng phần lớn mới
chỉ tập trung vào khâu tuyển chọn giống mà ít có những nghiên cứu về mối
tương quan giữa tính chất đất với khả năng sinh trưởng của cây đặc biệt là ở
cấp độ vi mơ. Bên cạnh đó cơng tác quy hoạch trồng rừng lại phần lớn thực
hiện ở cấp vĩ mô nên khi áp dụng cụ thể vào một địa phương, một đơn vị sản
xuất cụ thể đã có một vài nơi thất bại do không xác định được các yếu tố hạn
chế về điều kiện đất đai cụ thể của địa phương. Do đó đề tài thực hiện nhằm:
Nghiên cứu mối tương quan giữa sinh trưởng của Keo lai với một số tính chất
đất tại một số lâm trường ở vùng Đơng Bắc Bộ làm cơ sở cơ sở cho việc phân
hạng đất trồng rừng cấp vi mô.



2

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Các nghiên cứu về phân hạng, đánh giá đất và thích hợp cây trồng
Phân hạng và đánh giá đất là một trong những chuyên ngành nghiên
cứu quan trọng và rất gần gũi với các nhà quy hoạch và người sử dụng đất.
Trong hoàn cảnh hiện nay, dân số ngày một tăng nhanh, diện tích đất đai bình
qn đầu người ngày một giảm kết hợp với tình trạng đang suy thối dần
những vùng đất canh tác thích hợp là những vấn đề mang tính nóng bỏng
khơng chỉ ở nước ta mà trên tồn thế giới. Để giải quyết, các nhà tổ chức quốc
tế cùng các nhà khoa học nhiều quốc gia tiến hành điều tra và đánh giá tài
nguyên đất không chỉ trên quy mơ quốc gia mà cịn trên phạm vi tồn cầu làm
cơ sở cho việc xây dựng các chương trình phát triển và tối ưu hóa sử dụng đất
đai ở mức độ quốc tế.
Trong nông nghiệp các yếu tố dùng để phân hạng thường là loại đất,
các tính chất quan trọng liên quan năng suất cây trồng như: Độ pH, hàm
lượng chất hữu cơ, các chất dễ tiêu N, P, K, v.v. Cách phân hạng thường dựa
vào phương pháp cho điểm theo thang 10 điểm hoặc 50, 100 điểm [15].
Trong Lâm nghiệp các yếu tố phân hạng đất thường là loại đất, độ dày
tầng đất, thành phần cơ giới, độ pH, thực bì chỉ thị cho độ phì hoặc mức độ
thối hóa đất [15]
Điều quan trọng trong phân hạng đất đai là cần phải có tư liệu về năng
suất cây trồng để từ đó tìm hiểu mối quan hệ của chúng với các tính chất đất đai.
1.1.1. Trên thế giới
Việc phân hạng đất và đánh giá đất đai đã được thực hiện từ khá lâu ở
nhiều nước trên thế giới. Từ những năm 1950, việc đánh giá khả năng sử
dụng đất được xem như là bước kế tiếp của công tác nghiên cứu đặc điểm đất.
Tùy vào trình độ phát triển của từng quốc gia riêng lẻ, phương pháp đánh giá



3

đất đai đã được nhiều nhà khoa học và các tổ chức Quốc tế quan tâm. Ngày
nay công việc này càng cần thiết hơn và đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu
quan trọng của các nhà quy hoạch, hoạch định chính sách và người sử dụng
[4]. Tùy theo mục đích cụ thể mà mỗi quốc gia sẽ đề gia nội dung, phương
pháp đánh giá đất của mình [23].
Ở Mỹ, đánh giá đất đai được thực hiện với các phương pháp là:
- Phương pháp tổng hợp: Lấy năng suất cây trồng nhiều năm làm tiêu
chuẩn và phân hạng cho từng cây trồng cụ thể, trong đó lấy cây lúa mì là đối
tượng chính.
- Phương pháp yếu tố: Bằng cách thống kê các yếu tố tự nhiên, kinh tế
để so sánh, trong đó lấy lợi nhuận tối đa là 100 điểm (hoặc 100%) để làm mốc
so sánh với đất khác [4].
Trong quá trình phân hạng, đánh giá đất đai ở Mỹ đã đưa ra các khái
niệm là:
+ Phân loại khả năng thích nghi đất có tưới (Irrigation Land
Suitability Classification) của Cục cải tạo đất đai - Bộ Nông nghiệp Mỹ
(USBR) xuất bản năm 1951. Phân loại này dựa vào độ phì của đất để đánh
giá, nó bao gồm 6 lớp (classes) bắt đầu từ lớp có thể canh tác được (arable)
đến lớp có thể trồng trọt một cách giới hạn (limited arable) và lớp không thể
trồng trọt được (non arable). Trong phân loại này, nhiều đặc điểm đất đai và
một số chỉ tiêu kinh tế định lượng cũng được đề cập nhưng giới hạn ở phạm
vi thủy lợi.
+ Tiềm năng đất đai (Land Capability) do Clingebiel và Naontgomery
thuộc Vụ bảo tồn đất đai - Bộ Nông nghiệp cũng đưa ra (năm 1964) trong
công tác đánh giá đất đai ở Hoa Kỳ. Trong đánh giá này các đơn vị bản đồ đất
đai (Land Mapping Units) được nhóm lại dựa vào khả năng sản xuất một loại
cây thực vật tự nhiên nào đó, chỉ tiêu chung là các hạn chế của lớp phủ thổ



4

nhưỡng đối với mục tiêu canh tác được đề nghị. Hệ thống đánh giá đất đai
này mang tính sơ lược, gắn đất với hiện trạng sử dụng đất hay còn gọi là
“Loại hình sử dụng đất”.
Ở Liên Xơ và các nước Đông Âu dựa vào thuyết phát sinh đất của
V.V Docuchaev, trong đó chỉ ra việc hình thành đất là một quá trình phức tạp
do tác động của 5 yếu tố tự nhiên là: Đá mẹ, địa hình, khí hậu, thời gian và
sinh vật [4].
- Những thập niên 1960, việc phân hạng và đánh giá đất đai được thực
hiện bao gồm ba bước là: 1) so sánh các hệ thổ nhưỡng theo tính chất tự nhiên
(đánh giá lớp phủ thổ nhưỡng); 2) đánh giá tiềm năng sản xuất của đất đai và
3) đánh giá kinh tế đất (chủ yếu đánh giá tiềm năng sản xuất hiện tại của đất).
- Tuy nhiên phương pháp này mới chỉ thuần túy quan tâm đến khía
cạnh tự nhiên của đối tượng đất đai mà chưa xem xét đầy đủ đến khía cạnh
kinh tế - xã hội của việc sử dụng đất đai.
Ở Ấn Độ và các nước vùng nhiệt đới ẩm Châu Phi thường áp dụng
phương pháp tham biến để xác định mối quan hệ giữa các yếu tố đất đai và
cây trồng, các mối quan hệ này được biểu thị dưới dạng phương trình tốn
học. Kết quả phân hạng được thể hiện dưới dạng % hoặc điểm [11].
Ở nhiều nước Châu Âu việc phân hạng và đánh giá đất đai được thực
hiện theo 2 hướng là:
- Phân hạng định tính: Dựa trên các kết quả nghiên cứu các yếu tố tự
nhiên để xác định tiềm năng sản xuất của đất đai.
- Phân hạng định lượng: Dựa vào kết quả nghiên cứu các yếu tố kinh
tế để xác định sức sản xuất thực tế của đất đai [4].
Những năm 1970 nhiều quốc gia ở Châu Âu đã cố gắng phát triển các
hệ thống đánh giá đất đai của họ, kết quả là các nhà nghiên cứu nhận thấy



5

rằng cần phải có một nỗ lực quốc tế để đạt được sự thống nhất và tiêu chuẩn
hóa vào việc đánh giá đất đai [17].
Phương pháp đánh giá đất đai của FAO: Được hệ thống do 2 Ủy ban
nghiên cứu ở Hà Lan và FAO - Roma thực hiện vào năm 1972, được công bố
đầu tiên vào năm 1976 và được chỉnh lý vào năm 1983 [11], trong đó:
Đề xuất định nghĩa về đánh giá đất đai là: Đánh giá đất đai là q trình
so sánh, đối chiếu những tính chất của vạt đất cần đánh giá với những tính
chất đất đai mà loại hình sử dụng đất yêu cầu phải có. Đánh giá đất đai là
q trình thu thập thơng tin, xem xét một cách tồn diện các yếu tố đất đai với
cây trồng để phân định ra mức độ thích hợp cao hay thấp.
Đã đưa ra một số nội dung hoặc khái niệm được xác định cụ thể như sau:
- Đánh giá tiềm năng sử dụng đất đai (land capability): Đó là việc
phân chia hay phân hạng đất đai thành các nhóm dựa trên các yếu tố thuận lợi
hay hạn chế trong sử dụng như độ dốc, độ dày tầng đất, đá lẫn, tình trạng xói
mịn, úng ngập, khơ hạn, mặn hóa… Trên cơ sở đó có thể lựa chọn những
kiểu sử dụng đất phù hợp.
Việc đánh giá tiềm năng đất sử dụng đất thường áp dụng trên qui mô
lớn, trong phạm vi một nước, một tỉnh hay một huyện.
Thí dụ: Ở Mỹ đã sử dụng các yếu tố hạn chế là những yếu tố hầu như
không thay đổi được là: độ dốc, độ dày tầng đất và khí hậu để phân chia đất
đai tồn quốc thành 8 nhóm với các yếu tố hạn chế tăng dần từ nhóm I tới
nhóm VIII. Trong đó nhóm I là nhóm thuận lợi nhất trong sử dụng, có ít yếu
tố hạn chế nhất, nhóm VIII là nhóm có nhiều yếu tố hạn chế nhất trong sử
dụng. Yếu tố hạn chế được thể hiện chủ yếu qua chữ viết tắt như xói mòn là e,
dư thừa nước là w, v.v, [15].
- Đánh giá mức độ thích hợp đất đai (land suitability): Là q trình

xác định mức độ thích hợp cao hay thấp của các kiểu sử dụng đất cho một


6

đơn vị đất đai và tổng hợp cho toàn khu vực dựa trên so sánh yêu cầu kiểu sử
dụng đất với đặc điểm các đơn vị đất đai [15]
Hệ thống đánh giá được thể hiện theo 4 cấp:
- Phân thành 2 cấp lớn: Kiểu sử dụng đất hay loài cây trồng thích hợp
(Viết tắt là S- Suitable) hay khơng thích hợp (Viết tắt là N- Not suitable) với
điều kiện đất đai.
- Mức độ thích hợp (S) phân chia thành 3 mức:
+ Thích hợp cao (S1): Đất hầu như khơng có hạn chế đáng kể khi thực
hiện canh tác.
+ Thích hợp trung bình (S2): Đất có hạn chế nhất định làm giảm năng
suất cây trồng hoặc nâng cao chi phí canh tác nhưng vẫn thích hợp cho cây
trồng hoặc kiểu sử dụng đất.
+ Thích hợp kém (S3): Đất có hạn chế đáng kể làm giảm mạnh năng
suất và tăng cao chi phí canh tác rõ rệt, hiệu quả kinh tế bị suy giảm đáng kể.
Nhìn chung quá trình đánh giá đất đai của FAO được tiến hành thông
qua một số bước sau:
- Xác định mục tiêu sử dụng.
- Thu thập thông tin liên quan.
- Đánh giá mức độ thích hợp của các loại hình sử dụng đất.
- Xem xét mơi trường tác động của tự nhiên, kinh tế xã hội.
- Xác định các loại hình sử dụng đất thích hợp.
Ngồi những tài liệu cơ bản của FAO về đánh giá đất đai, FAO cũng
đưa ra những hướng dẫn khác nhau về đánh giá đất đai cho các đối tượng
riêng biệt như:
- Đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp nhờ mưa (Guieline for land

Evaluation for Rainfed Agriculture - FAO, 1983) [24]


7

- Đánh giá đất đai cho trồng trọt cỏ quảng canh (Land Evaluation for
extensive grazing - FAO, 1990) [25].
- Đánh giá đất đai và phân tích hệ thống canh tác cho quy hoạch sử
dụng đất (Land Evaluation and farming system analysis for land planning FAO, 1992) [26].
Trên thế giới cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa
đặc điểm đất đai với sinh trưởng của cây trồng. Với các kết quả nghiên cứu đã
đạt được, nhiều nhà khoa học đã cho rằng: Đối với các vùng ôn đới, phản ứng
của đất, hàm lượng CaCO3 và các chât BaZơ khác, thành phần cấp hạt và điện
thế ơxy hóa khử (Eh) của đất là những yếu tố quan trọng nhất. Quan điểm này đã
xem xét các yếu tố hóa học đất quan trọng hơn yếu tố vật lý. Đối với vùng nhiệt
đới thì các tác giả cho rằng: Các yếu tố có khả năng giữ nước, độ sâu của đất và
độ thống khí là những yếu tố giữ vai trị chủ đạo. Điều này có nghĩa là: Yếu tố
vật lý đất quan trọng hơn yếu tố hóa học đất. Các kết quả này dựa trên các
nghiên cứu về đất đồi núi và đất nông nghiệp [11].
Thời gian gần đây, Trung tâm lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR) đã tiến hành
nghiên cứu về quản lý lập địa và sản lượng rừng cho rừng trồng ở các nước nhiệt
đới như: Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, Nam Phi, Conggo, Brazil. Kết quả
nghiên cứu cho thấy: Các biện pháp xử lý lập địa khác nhau và các lồi cây trồng
khác nhau đã có ảnh hưởng khác nhau đến độ phì đất, cân bằng nước, sự phân
hủy thảm mục và chu trình dinh dưỡng khống [22], [23].
Phân hạng đất, đánh giá đất trong những năm gần đây đã có những
cơng trình nghiên cứu cụ thể song mới chỉ nghiên cứu cho từng đối tượng cây
trồng cụ thể. Ở vùng ôn đới các nghiên cứu đã đề cập về ảnh hưởng của rừng
tự nhiên, rừng trồng đến độ phì đất. Nghiên cứu về rừng mưa nhiệt đới ở
Australia, Week (1970) đã khẳng định sinh trưởng của thực vật phụ thuộc vào

các yếu tố là: Đá mẹ, độ ẩm của đất, thành phần cơ giới, CaCO3, hàm lượng
mùn và đạm.


8

1.1.2. Ở Việt Nam
Từ những năm 80 trở lại đây một số cơng trình nghiên cứu dưới đây đã
đặt nền móng cho việc nghiên cứu và đánh giá đất đai:
- Nghiên cứu đánh giá và quy hoạch đất khai hoang ở Việt Nam của
Bùi Quang Toản và nhóm nghiên cứu (1991) [18], đã ứng dụng phân loại
tiềm năng (Capability classification) của FAO. Tuy nhiên nghiên cứu chỉ
đánh giá các điều kiện tự nhiên (thổ nhưỡng, thủy văn và tưới tiêu, khí hậu
nơng nghiệp) và nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở lớp (class) thích nghi cho từng
loại hình sử dụng.
- Trần An Phong (1994) [10] đã đưa ra kết quả đánh giá hiện trạng sử
dụng đất ở nước ta theo quan điểm sinh thái và phát triển bền vững. Phương
pháp đánh giá này đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố: Tính
chất của đất, hiện trạng sử dụng đất, tính thích nghi đất đai, vùng sinh thái.
- Đánh giá tiềm năng sử dụng đất Lâm nghiệp của từng vùng sinh thái
và trong tồn quốc của Đỗ Đình Sâm và cộng sự (2000) là phương pháp ứng
dụng phần mềm GIS trên máy tính để xây dựng các bản đồ đánh giá tiềm
năng sử dụng đất lâm nghiệp. Phương pháp này cho phép lợi dụng được các
thông tin sẵn có và có ý nghĩa là mang tính chiến lược và dự báo [14].
Cho đến nay, các cơng trình nghiên cứu về đất đai ở Việt Nam có khá
nhiều tập trung chủ yếu dựa vào các nội dung chính sau:
- Nghiên cứu cơ bản về hình thành và tính chất lý, hóa học của đất.
- Điều tra, phân loại, xây dựng bản đồ đất với các tỷ lệ khác nhau.
- Đánh giá tiềm năng sản xuất đất.
- Biện pháp cải tạo một số loại đất có vấn đề.

- Bảo vệ và chống suy thoái tài nguyên đất.
Năm 1960, F.R. Moormann đã xuất bản Bản đồ thổ nhưỡng ở miền
Nam Việt Nam với tỷ lệ 1/1.000.000 và kèm theo bảng phân loại đất dùng


9

cho bản đồ này. Năm 1969 V.M. Fridland cùng một số nhà khoa học Việt
Nam cũng đã xuất bản Bản đồ thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam tỷ lệ
1/1.000.000 và bản chú giải phân loại. Đặc điểm của 2 bảng phân loại này là
theo 2 phương pháp khác nhau. Bảng phân loại đất dùng cho sơ đồ thổ
nhưỡng miền Bắc là theo hướng phân loại phát sinh của Liên Xô. Bảng phân
loại đất của Moormann theo hướng phân loại của Mỹ trước kia, một phần
theo hướng phân loại phát sinh và một phần theo tính chất thực dụng [4].
- Tơn Thất Chiểu và Hoàng Ngọc Toàn (1980-1985) đã tiến hành
nghiên cứu phân hạng đất đai tổng quan trên toàn quốc, với nhiều đối tượng
cây trồng, nhiều vùng chuyên canh khác nhau trên cơ sở phân hạng định
lượng của FAO. Đối tượng chính của nghiên cứu này là đất nơng nghiệp và
đất đồi núi [4].
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành tiêu chuẩn
ngành 10 TCN 343-98 về Quy trình đánh giá đất đai phục vụ nơng nghiệp,
trên cơ sở vận dụng nội dung, phương pháp đánh giá đất của FAO theo điều
kiện và tiêu chuẩn cụ thể của Việt Nam [4].
- Kết quả điều tra tổng hợp của Viện quy hoạch thiết kế Nông nghiệp
năm 1995 đã xác định 9 vùng sinh thái nông nghiệp trên toàn quốc. Phương
pháp tổng hợp là căn cứ vào 7 yếu tố với các chỉ tiêu phân cấp là: Loại đất, độ
dày tầng đất, độ dốc, thủy văn mặt nước, tưới tiêu, lượng mưa và nhiệt độ.
Mặc dù đã có sự cố gắng gộp nhóm và đơn giản các yếu tố, chỉ tiêu tham gia
xây dựng đơn vị đất đai nhưng kết quả tổ hợp vẫn cho ra số lượng đơn vị đất
đai toàn quốc khá lớn. Trên bản đồ tỷ lệ 1/1.000.000 tồn quốc có tới 373 đơn

vị đất đai [4].
- Vũ Cao Thái và các cộng sự năm 1989 đã nghiên cứu đánh giá, phân
hạng đất Tây Nguyên với cây Cao su, Cà phê, Chè và Dâu tằm. Nghiên cứu
đã vận dụng phương pháp phân hạng đất của FAO theo kiểu định tính và hiện


10

tại để đánh giá khái quát tiềm năng đất đai của vùng và đã phân chia đất theo
4 hạng riêng cho từng cây trồng [4].
- Trong quy trình điều tra xây dựng bản đồ lập địa phục vụ công tác
trồng rừng cho các dự án như: KFW1, KFW3, ADB, Lâm nghiệp xã hội Sơng
Đà… của tác giả Ngơ Đình Quế, đã dựa vào các yếu tố là: Loại đất, độ dày
tầng đất, độ dốc và thực bì để xác định dạng lập địa.
Các nghiên cứu phân hạng đất lâm nghiệp thực hiện chủ yếu đối với
một số cây trồng quan trọng và có ý nghĩa đối với thực tiễn sản xuất. Đó là
các rừng trồng Bồ đề cung cấp nguyên liệu giấy được gây trồng mạnh ở vùng
Trung tâm vào những năm 1960-1970, rừng trồng Thông nhựa gây trồng phổ
biến trên đất trống đồi núi trọc trong toàn quốc, rừng trồng Thông ba lá và
một số rừng cây đặc sản như: Quế, Hồi…[15]
Tác giả Hoàng Xuân Tý (1997) [21], tiến hành nghiên cứu mối quan hệ
giữa sinh trưởng của rừng trồng Bồ đề (Styrax tonkinensis) tự nhiên, rừng
trồng với các yếu tố lập địa và điều kiện gây trồng. Tác giả đã đề xuất 3 tiêu
chuẩn quan trọng để xác định trồng rừng Bồ đề là: Loại đất, độ dày tầng đất
và độ thối hóa đất, thực bì chỉ thị. Đồng thời tác giả cũng đưa ra bảng phân
hạng đất trồng rừng Bồ đề với 4 mục tiêu là:
- Phản ánh được độ màu mỡ hiện tại của đất;
- Phản ánh được cơ cấu cây trồng và sản lượng;
- Phản ánh được biện pháp kỹ thuật và giá thành;
- Đơn giản, dễ áp dụng trong điều kiện rừng núi của lâm nghiệp.

Năm 1990 trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm đất rừng Thơng nhựa,
tác giả Ngơ Đình Quế đã thấy rằng yếu tố quyết định đến việc trồng
rừng Thông nhựa có thành cơng hay khơng là: Phản ứng của đất (pH KCl
3,5-5,5), độ xốp (> 40%), độ sâu tầng kết cứng (5-10cm) và yếu tố thực
bì chỉ thị tốt nhất là tế guột dày [12].


11

Kết quả nghiên cứu của Hà Quang Khải (1999) [9], cho thấy sự thay
đổi tính chất của đất gần và xa gốc của rừng trồng Thông mã vĩ và Keo tai
tượng thể hiện tương đối rõ, nhất là các tính chất về lý tính, mối tương quan
giữa sinh trưởng và từng tính chất đất là khơng rõ ràng. Tuy nhiên mối tương
quan lại tương đối chặt giữa sinh trưởng với tổng hợp một số tính chất đất.
1.2. Các nghiên cứu về Keo lai
1.2.1. Đặc điểm hình thái
Keo lai là tên gọi tắt của giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng
(A.mangium) và Keo lá tràm (A.auriculiformis). Cây gỗ nhỡ, cao 25-30m,
đường kính 30-40 cm, thân thẳng, cành nhánh nhỏ, tỉa cành khá, tán dày và
rậm. Các đặc tính khác có tính trung gian giữa hai lồi bố mẹ.
Từ khi hạt nảy mầm tới hơn một tháng hình thái lá biến đổi theo 3 giai
đoạn, lá mầm, lá thật và lá giả. Lá giả mọc cách tồn tại mãi, Keo lai có lá rộng
hơn Keo lá tràm nhưng nhỏ hơn lá Keo tai tượng.
Hoa tự bông, mọc từng đôi ở nách lá. Mùa hoa tháng 3 -4, quả chín
tháng 7 -8. Quả Keo lai có đầu dẹt, khi non thẳng khi già cuộn hình xoắn ốc,
vỏ quả cứng, khi chín màu xám và nứt. Mỗi quả có 5- 7 hạt màu nâu đen,
bóng. Rễ Keo lai có nhiều nốt sần có tác dụng cải tạo đất nhờ khả năng cố
định đạm.
1.2.2. Phân bố
Trên thế giới Keo lai được Messrs Herburn và Shim phát hiện lần đầu

tiên vào năm 1972 trong số những cây Keo tai tượng được trồng ven đường ở
Sook Telupid thuộc bang Sabah của Malaysia. Sau này Tham (1976) cũng coi
đó là giống lai. Đến tháng 7 năm 1978, sau khi xem xét các mẫu tiêu bản thực
vật ở Queensland (Australia) được gửi từ tháng 1 năm 1977 Pedgley đã xác
nhận đó là giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm. Keo lai cũng


12

được tìm thấy ở khu trồng Keo tai tượng tại Quảng Châu -Trung Quốc, dẫn
theo Lê Đình Khả (1999) [7].
Ở Việt Nam, theo Lê Đình Khả (1999), Keo lai được phát hiện vào năm
1982 ở Ba Vì, với nguồn gốc cây mẹ là Keo tai tượng có xuất xứ Daintree
(thuộc bang Queensland của Australia) và cây bố là Keo lá tràm xuất xứ
Darwin (thuộc bang Northern Territory của Australia). Năm 1984 Keo lai
cũng được tìm thấy ở vùng Đơng Nam Bộ, với cây mẹ là Keo tai tượng xuất
xứ Mossman (bang Queensland của Australia) và cây bố Keo lá tràm xuất xứ
Oenpelli (bang Northern Territory của Australia) [7]. Như vậy, các giống Keo
lai ở Việt Nam mặc dù lấy từ miền Bắc hay miền Nam về cơ bản đều có cây
bố, mẹ thuộc các vùng sinh thái tương đối giống nhau.
Vùng trồng Keo lai thích hợp ở Việt Nam là các tỉnh từ Bắc Trung Bộ
đến Nam Bộ và Tây Nguyên, đặc biệt là các tỉnh Nam Bộ. Keo lai cũng sinh
trưởng được ở vùng thấp các tỉnh Bắc Bộ.
1.2.3. Khí hậu
- Ánh sáng và nhiệt độ
Keo lai là lồi cây ưu sáng, sinh trưởng tốt dưới ánh sáng mặt trời,
trong bóng cây sinh trưởng kém, yếu ớt và cịi cọc.
Các vùng trồng Keo lai ở Việt Nam thuộc vùng khí hậu nhiệt đới ẩm
điển hình khơng có mùa đơng lạnh và khí hậu nhiệt đới ẩm có mùa đơng lạnh,
sự biến thiên về nhiệt độ tối cao và nhiệt độ tối thấp trong năm tương đối lớn.

Vì thế nó có khả năng sinh trưởng, phát triển ở nhiều vùng khác nhau với
nhiệt độ trung bình năm từ 21 – 270C, nhiệt độ tối cao tuyệt đối 42,10C, tối
thấp tuyệt đối < 100C.
Keo lai cũng có thể sinh trưởng ở những nơi có sương giá trong mùa
đơng lạnh, trong điều kiện nhiệt độ khơng khí thấp nó vẫn có thể sống được
nhưng sinh trưởng kém hơn rõ rệt.


13

- Lượng mưa
Cũng như Keo tai tượng, Keo lai sinh trưởng tốt ở vùng ẩm. Tuy Keo
lai có khả năng chịu hạn cao hơn nhưng nhu cầu về nước cũng ở mức trung
bình đến khá, do đó những nơi có mùa khơ hạn kéo dài thường khơng thích
hợp vì cây sinh trưởng, phát triển chậm.
Keo lai sinh trưởng rất tốt ở những nơi có lượng mưa hàng năm
1.400 – 2.400mm, lượng bốc hơi 540 – 1.200mm.
1.2.4. Giống
Trong báo cáo khảo nghiệm giống Keo lai ở một số vùng sinh thái
chính của nước ta của Lê Đình Khả, Hồ Quang Vinh và cộng sự (1999) [5],
đã kết luận Keo lai có thể sống ở tất cả các nơi khảo nghiệm và đều có sinh
trưởng nhanh gấp 1,5 – 3 lần các loài keo bố mẹ. Những nơi Keo lai sinh
trưởng nhanh là Hàm Yên (Tuyên Quang), Phú Lương (Thái Nguyên), Bình
Thanh (Hịa Bình), vv.., trong 3 năm đầu Keo lai có thể đạt năng suất 19 –
27m3/ha/năm
Các nghiên cứu cũng cho thấy sinh trưởng của cây Keo lai đời F1 là tốt
nhất, cây tương đối đồng nhất với nhiều đặc trưng ưu việt. Đến đời F2 Keo lai
có biểu hiện thối hóa và phân ly, cây sinh trưởng khơng đồng đều, có khi cịn
kém hơn cả sinh trưởng của cây bố mẹ. Như vậy, để phát triển giống Keo lai
vào sản xuất phải áp dụng phương pháp nhân giống bằng hom hoặc nuôi cấy

mô phân sinh.
Nguồn giống Keo lai: Chỉ được sử dụng cây hom đời F1 của các dòng
tốt nhất đã được công nhận để trồng rừng như: BV5, BV10, BV16, BV32,,
TB05, TB07, TB08, TB09….[3].


14

1.2.5. Lập địa
Keo lai có thể mọc trên nhiều loại đất khác nhau, đất nghèo chất
khống, đất bị xói mịn, đất đồi.
Lê Đình Khả, Ngơ Đình Quế, Nguyễn Đình Hải (2000) nghiên cứu về
“nốt sần và khả năng cải tạo đất của Keo lai và các loài keo bố mẹ” cho thấy
ảnh hưởng của Keo lai đến độ phì đất là rất rõ so với Keo lá tràm và Keo tai
tượng. Đất dưới rừng trồng Keo lai 5 tuổi đã có những biến đổi rõ nét về lý
tính, hóa tính và vi sinh vật đất so với đất dưới rừng Keo lá tràm, rừng Keo tai
tượng và đặc biệt là đất trống [6].
Năm 2001, tác giả Vũ Tấn Phương khi đi nghiên cứu mối quan hệ giữa
sinh trưởng của Keo lai (Acacia hybrid) với một số tính chất đất ở Bà Vì, Hà
Tây đã thấy rằng sinh trưởng của Keo lai có quan hệ với từng tính chất đất và
tổng hợp một số tính chất đất [11].
Tác giả Ngơ Đình Quế (2001) cũng tiến hành thực hiện đề tài nghiên
cứu theo dõi, đánh giá diễn biến độ phì của đất dưới các loại rừng trồng thử
nghiệm Keo và Bạch đàn ở Đá Chơng và Cẩm Quỳ, Ba Vì, Hà Tây.
Keo lai sinh trưởng tốt trên đất có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến sét
nhẹ, tầng đất dày trên 50 -60cm, độ chưa pHKCl từ 3,5 -5,0. Mùn từ trung bình
đền giàu, trên 2% ở tầng mặt [3]. Keo lai sinh trưởng phát triển nhanh hơn
nhiều so với hai lồi keo bố mẹ.
Trong luận án tiến sĩ Nơng nghiệp của Đoàn Hoài Nam (2006), đã
nghiên cứu một số cơ sở khoa học về khí hậu, đất đai để trồng rừng Keo lai và

đề xuất các biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm canh cung cấp gỗ nguyên liệu.
Triệu Văn Hùng và Dương Tiến Đức (2004 – 2006), đã nghiên cứu một
số biện pháp kỹ thuật trồng rừng nguyên liệu trong đó có Keo lai ở Tây
Nguyên cho thấy: Với điều kiện lập địa là đất cát pha, đất chua thì dịng Keo


15

lai BV10 có khả năng sinh trưởng, phát triển tốt. Tại Đắc tơve trên đất xám
bạc màu dòng Keo lai BV32 lại có triển vọng hơn. Tại Đắcblao – Đắk Nơng,
trên đất bazan thối hóa dịng TB15 là phù hợp.
Nghiên cứu sinh trưởng Keo lai trồng trên hai loại đất khác nhau ở
vùng Đông Nam Bộ, Phạm Thế Dũng và cộng sự (2004), cho thấy mặc dù
được áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh như nhau, trên đất nâu đỏ
sinh trưởng Keo lai tốt hơn trên đất xám phù sa cổ.
Qua những kết quả nghiên cứu trên, cho thấy Keo lai có khả năng sinh
trưởng, phát triển khác nhau trên những lập địa khác nhau. Vì vậy, muốn
trồng Keo lai có năng suất cao thì phải nghiên cứu, lựa chọn đất đai phù hợp.


16

Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu
- Về lí luận
Góp phần tìm hiểu cơ sở khoa học của việc xác định tiêu chuẩn chọn
đất và phân hạng đất trồng rừng.
- Về thực tiễn

Xác định các tiêu chuẩn và xây dựng được bảng phân hạng đất cấp vi
mô cho rừng trồng Keo lai nhằm sử dụng bền vững tài nguyên đất và nâng
cao hiệu quả kinh doanh rừng tại vùng Đông Bắc Bộ.
2.1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rừng trồng
Keo lai (A.mangium x A.auriculiformis).
- Phạm vi nghiên cứu: Tại một số lâm trường trồng rừng sản xuất tại
một số tỉnh ở vùng Đông Bắc Bộ (Bắc Giang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và
Quảng Ninh).
2.2. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đề tài thực hiện những nội dung là:
2.2.1. Điều tra thu thập các thơng tin ngồi hiện trường
- Thu thập các thơng tin cần thiết ở địa phương: Số liệu chung, năng
suất rừng….
- Xác định các chỉ tiêu sinh trưởng như chiều cao, đường kính cây và
năng suất rừng trồng.
- Đào phẫu diện và lấy mẫu đất để phân tích một số các chỉ tiêu lý, hóa
tính của đất trong phịng thí nghiệm.


17

2.2.2. Nội nghiệp phân tích mẫu đất và xử lý số liệu
- Phân chia mức độ thích hợp về điều kiện khí hậu, đất đai cho việc
trồng rừng Keo lai và xây dựng bản đồ phân cấp mức độ thích hợp cấp vĩ mô
cho việc trồng rừng Keo lai tại khu vực nghiên cứu.
- Phân tích các mẫu đất với một số chỉ tiêu chủ yếu như: Hữu cơ, đạm
tổng số, độ chua đất (pHKCl), các chất dễ tiêu (P2O5, K2O5), dung trọng và
thành phần cơ giới…
- Xác định cấp năng suất rừng trồng và mối tương quan giữa năng suất

với các yếu tố lập địa.
- Đề xuất bảng phân hạng đất cấp vi mô cho trồng rừng Keo lai.
2.2.3. Đánh giá hiệu quả kinh tế của trồng rừng Keo lai.
- Thu thập các tài liệu từ khi trồng đến khi khai thác tại các lâm trường
như: Hồ sơ thiết kế trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng; Hồ sơ thiết kế khai thác
rừng; Lãi suất của nguồn vốn đầu tư trồng rừng; Giá cả của sản phẩm…
- Xử lý các số liệu thu thập được và tính tốn hiệu quả kinh tế theo các
chỉ tiêu NPV (giá trị hiện tại thuần); IRR (tỷ suất hoàn vốn nội bộ); BCR(hiệu
suất đầu tư).
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp luận và cách tiếp cận
- Dùng không gian thay cho thời gian để bố trí và thu thập số liệu thí
nghiệm ngồi hiện trường.
- Khí hậu và đất đai là hai yếu tố chính để phân hạng đất.
- Do địa điểm nghiên cứu rộng nên chỉ tiến hành nghiên cứu trên những
điểm đại diện đặc trưng cho loài.
- Dùng phương pháp điều tra so sánh năng suất rừng trồng (rừng đã
định hình trên 3 tuổi) xác định các yếu tố đất đai có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh
trưởng của rừng.


18

Điều tra khảo sát hiện trường,
thu thập tài liệu liên quan

Lựa chọn các thông tin,
số liệu cần thiết

Lựa chọn phương

pháp thu thấp số liệu

Thu thập các thông
tin, số liệu

Tổng hợp, phân tích xử lý số liệu
bằng phần mềm Exel và SPSS

Thiết lập mối tương quan và xác
định các yếu tố đất đai có quan
hệ với sinh trưởng cây Keo lai

Đề xuất bảng phân hạng đất
cấp vi mô cho trồng rừng Keo
lai tại vùng Đông Bắc Bộ
Sơ đồ các bước tiếp cận của đề tài
2.3.2. Phương pháp cụ thể
a. Phương pháp kế thừa, thu thập một số kết quả đã có trước đây có
liên quan đến đề tài


19

b. Điều tra ngoại nghiệp
- Chọn địa điểm nghiên cứu, lập tuyến điều tra, khảo sát hiện trạng khu
vực rừng trồng hiện có. Căn cứ vào bản đồ ở các khu vực nghiên cứu, mở các
tuyến khảo sát theo nguyên tắc đi qua các kiểu địa hình, loại đất, cây trồng ở
các tuổi khác nhau. Thông qua hệ thống tuyến khảo sát, tiến hành thu thập các
thông tin theo nội dung đã định.
- Điều tra các chỉ tiêu sinh trưởng D1.3 và Hvn của cây rừng, mơ tả thực

bì dưới rừng trồng.
+ Diện tích ơ tiêu chuẩn là 20m x 20m = 400m2
+ Đo đường kính ngang ngực (D1.3) bằng thước kẹp kính và đo
chiều cao (Hvn) bằng thước Blumeleiss.
- Ngồi ra trong các ơ tiêu chuẩn điển hình, tiến hành đào phẫu diện đất
và mô tả đặc điểm đất, lấy mẫu phân tích các tính chất lý, hóa học của đất
trong phịng thí nghiệm.
Vị trí đào phẫu diện: Đào ở vị trí trung tâm của ơ tiêu chuẩn.
c. Phương pháp nội nghiệp
- Xây dựng bản đồ phân cấp mức độ thích hợp cấp vĩ mơ trên cơ sở kế
thừa kết quả nghiên cứu về tiêu chuẩn phân chia độ thích hợp cây trồng của
Trung tâm Nghiên cứu sinh thái và Mơi trường rừng.
- Phân tích các mẫu đất trong phịng thí nghiệm: Các mẫu đất lấy về
được phân tích các chỉ tiêu lý, hóa tính theo các phương pháp đang được áp
dụng phổ biến hiện nay:
+ Dung trọng: Sử dụng ống đong có thể tích V = 100cm3.
+ Thành phần cơ giới: Theo phương pháp 3 cấp của Mỹ.
+ Mùn tổng số: Theo Walkley-Black.
+ Đạm tổng số: Theo Kjendhall
+ pHKCl của đất: Dùng pH metter (Đức)


20

+ P2O5 dễ tiêu: Trắc quang (Bray II).
+ K2O5 dễ tiêu: Theo Maslova (đo trên quang kế ngọn lửa).
- Tổng hợp và xử lý số liệu bằng chương trình Excel và phần mềm
SPSS:
+ Ứng dụng xử lý thống kê trên máy tính bằng phần mềm SPSS để loại
bỏ những trị số đặc thù về D1.3 và Hvn có thể sai sót trong q trình quan sát,

đo đếm. Việc loại bỏ những trị số này chủ yếu là căn cứ vào mức độ chênh
lệch giữa chúng với trị số trung vị của dãy quan sát. Những trị số về đường
kính và chiều cao quá lớn hoặc quá bé so với trị số trung vị thì ta có thể loại
bỏ trong q trình tính tốn số liệu
+ Năng suất rừng trồng hàng năm được tính tốn theo cơng thức sau:
NS = M/T

với M = G*H*F

Trong đó:
NS - Năng suất rừng trồng (m3/ha/năm)
M - Trữ lượng rừng trồng (m3/ha)
G - Diện tích thiết diện ngang cây ở độ cao 1,3m (m2)
D1.3 - Đường kính ngang ngực của cây (cm)
H - Chiều cao vút ngọn của cây (m)
F - Hệ số hình thon cây (≈ 0,5)
T - Tuổi của rừng (năm)
+ Xây dựng mối tương quan giữa sinh trưởng Keo lai với một số tính
chất đất bằng chương trình SPSS.
Tổng hợp các số liệu phân tích đất, năng suất trung bình năm của rừng
Keo lai. Thực hiện phân tích, xử lý số liệu trên phần mềm SPSS để xác định
mức độ phụ thuộc giữa sinh trưởng của Keo lai với từng tính chất đất.
Sử dụng hệ số xác định R2 để lựa chọn hàm tương quan. Hệ số xác định
là khái niệm để đánh giá mức độ phụ thuộc giữa hai đại lượng và nó nằm giữa


21

0 và 1. Trong trường hợp tuyến tính đơn giữa 2 biến thì hệ số xác định cũng
chính là hệ số tương quan (R) bình phương.

Phân tích thống kê với 28 mẫu (n = 28) để lựa chọn hàm tương quan,
chọn hàm có R2 lớn nhất. Các hàm có tương quan là các hàm đều có xác suất
của trị số F (trị số kiểm tra sự tồn tại của hệ số xác định R2), nếu Sig F < 0,05
thì tồn tại R2 và ngược lại. Một phương trình tương quan chỉ có ý nghĩa khi hệ
số của phương trình tồn tại. Hệ số phương trình tồn tại đều có xác xuất của trị
số t (trị số kiểm tra sự tồn tại của các hệ số a, b). Nếu Sig t < 0,05 thì các hệ
số tồn tại và ngược lại. Phương trình tương quan được thiết lập sau khi đã
kiểm tra sự tồn tại của hệ số b. Ở đây việc kiểm tra sự tồn tại của hệ số b là
đồng nhất với việc kiểm tra sự tồn tại của hệ số tương quan R (chi tiết xem
phần phụ lục).
- Xác định các yếu tố có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng của rừng
trồng Keo lai làm cơ sở đề xuất bảng phân hạng đất cấp vi mô.
d. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế của rừng Keo lai
Đánh giá hiệu quả kinh tế của trồng rừng Keo lai dựa trên một số chỉ
tiêu sau:
- Chỉ tiêu giá trị hiện tại thuần NPV (Net Pressent Value): Là hiệu số của
giá trị hiện tại dòng doanh thu (cash inflow) trừ đi giá trị hiện tại dịng chi phí
(cash outflow) tính theo lãi suất chiết khấu lựa chọn. Cơng thức tính như sau:

NPV 

Bt  Ct

t
t 1 (1  r )
n

Trong đó:
t - thời gian tính dịng tiền
n - tổng thời gian thực hiện dự án

r - tỉ lệ chiết khấu
Ct - dịng chi phí tại thời gian t

(2.1)


22

Bt - Dòng doanh thu tại thời gian t
- Chỉ tiêu tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR: Là chỉ tiêu cho biết khả năng
thu hồi vốn đầu tư, phản ánh mức độ quay vòng của vốn và xác định thời
điểm hồn trả vốn đầu tư. Nó cho phép so sánh và lựa chọn các phương án,
quy mô và kết cấu đầu tư khác nhau. Phương án nào có IRR lớn hơn thì được
lựa chọn. Cơng thức tính chỉ tiêu này là:
n

n
Bt
Ct



t
t
t 1 1  IRR
t 1 1  IRR

(2.2)

Trong đó:

IRR - Tỷ suất hồn vốn nội bộ
t = 1, 2, 3,…n
n - Tổng số năm trong một chu kỳ kinh doanh rừng trồng.
Ct - Chi phí cho rừng trồng trong năm thứ t
Bt - Thu nhập từ rừng trồng trong năm thứ t
- Chỉ tiêu đánh giá hiệu suất đầu tư BCR: Là thương số giữa toàn bộ
thu nhập so với tồn bộ chi phí sau khi đã triết khấu đưa về giá trị hiện tại.
BCR được tính theo cơng thức là:
n

BCR 

t 1
n


t 1

Trong đó:

Bt

 1  r 

t

Ct
1  r t

Ct - Chi phí cho rừng trồng trong năm thứ t

Bt - Thu nhập từ rừng trồng trong năm thứ t

(2.3)


23

Chương 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ-XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý
Vùng Đông Bắc Việt Nam gồm 6 tỉnh: Bắc Giang, Thái Nguyên, Cao
Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Quảng Ninh với tổng diện tích tự nhiên là
3.203.652 ha.
Vị trí địa lý: 20050’ - 23010’vĩ độ Bắc
104020’ – 108000’ kinh độ Đông
Ranh giới hành chính như sau:
- Phía Bắc giáp Trung Quốc
- Phía Tây giáp Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc
- Phía Nam giáp tỉnh Hải Dương, Hịa Bình, Hải Phịng và Hà Nội
- Phía Đơng giáp với biển Đơng
3.1.2. Đặc điểm khí hậu
Vùng Đơng Bắc nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa
đơng lạnh. Mùa đơng trời rét có xuất hiện nhiều xương muối ở các tỉnh Cao
Bằng, Bắc Cạn. Do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên từ tháng 10 đến
tháng 3 năm sau nhiệt độ trung bình thấp hơn hẳn so với các tháng trong mùa
hè. Nhiệt độ bình quân năm biến động từ 18,70C đến 22,70C.
Biên độ nhiệt giữa các mùa rất lớn, trong từng mùa nhiệt độ của các
vùng cũng chênh lệch nhiều, điều này làm ảnh hưởng đến thời vụ và cơ cấu
cây trồng của từng nơi trong vùng.

Lượng mưa không phân bố đều, thường tập trung từ tháng 5 đến tháng
10 trong năm, chiếm 70-80% lượng mưa cả năm và không phân bố đều giữa
các tỉnh trong vùng. Do lượng mưa phân bố không đều nên đã tạo nên các
mùa khô hạn và lũ lụt.


×