Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống giám sát và đánh giá tác động của dự án khôi phục rừng và quản lý rừng bền vững ở các tỉnh quảng nam quảng ngãi bình định và phú yên dự án KFW6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

HOÀNG PHÚ MỸ

NGHIÊN CỨU HOÀN THIỆN HỆ THỐNG GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH
GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA DỰ ÁN KHÔI PHỤC RỪNG VÀ QUẢN LÝ
RỪNG BỀN VỮNG Ở CÁC TỈNH QUẢNG NAM, QUẢNG NGÃI,
BÌNH ĐỊNH VÀ PHÚ YÊN (DỰ ÁN KFW6)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI, NĂM 2009


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

HOÀNG PHÚ MỸ

NGHIÊN CỨU HOÀN THIỆN HỆ THỐNG GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH
GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA DỰ ÁN KHÔI PHỤC RỪNG VÀ QUẢN LÝ
RỪNG BỀN VỮNG Ở CÁC TỈNH QUẢNG NAM, QUẢNG NGÃI,
BÌNH ĐỊNH VÀ PHÚ YÊN (DỰ ÁN KFW6)


CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH ĐỨC THUẬN

HÀ NỘI, NĂM 2009


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng có vai trị rất quan trọng trong đời sống con người, điều đó được
khẳng định trong nhiều Cơng ước quốc tế mà chính phủ Việt Nam đã ký kết.
Ngoài việc cung cấp gỗ, lâm đặc sản phục vụ cho nền kinh tế quốc dân, rừng cịn
có vai trị bảo vệ mơi trường, duy trì cân bằng sinh thái, bảo tồn nguồn gen cũng
như các tác dụng khác nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
Tuy nhiên, tài nguyên rừng đang ngày càng cạn kiệt. Theo thống kê của tổ
chức FAO, trong mấy chục năm gần đây trên thế giới đã có trên 200 triệu ha
rừng tự nhiên bị mất, trong khi đó phần lớn diện tích rừng cịn lại bị thối hố
nghiêm trọng cả về đa dạng sinh học và chức năng sinh thái [28]. Ở Việt Nam, từ
năm 1943 đến năm 1990 diện tích rừng suy giảm nhanh chóng từ 14,3 triệu ha
với độ che phủ là 43% xuống còn 9,18 triệu ha, độ che phủ rừng là 27,2%. Bằng
rất nhiều nguyên nhân như chiến tranh, đốt nương làm rẫy, khai thác quá mức….
mà trong vòng 50 năm Việt Nam đã mất đi khoảng 5,7 triệu ha rừng, thay vào đó
là những diện tích đất trống đồi núi trọc và diện tích rừng cịn lại cũng có chất
lượng rất thấp. Theo kết quả kiểm kê rừng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thơn, tính đến ngày 31/12/2008 diện tích rừng nước ta đã tăng lên là 13,12

triệu ha với độ che phủ là 38,7%. Đạt được kết quả trên không thể không nhắc
đến sự góp sức của các dự án đầu tư của Chính phủ cũng như của các tổ chức
trong và ngồi nước, trong đó có đóng góp rất quan trọng của vốn ODA và nó
đang góp phần tạo cơng ăn việc làm cho hàng triệu lao động ở các vùng nông
thôn miền núi, từng bước làm thay đổi độ che phủ của rừng.
Hiện nay ngành Lâm nghiệp Việt Nam đã và đang nhận được sự hỗ trợ
phát triển từ chính phủ các nước thơng qua các chương trình dự án. Tuy nhiên
hiệu quả của từng dự án là rất khác nhau về mức độ đạt được, nó do nhiều
nguyên nhân như hệ thống thể chế chính sách của Việt Nam và chính sách của
các nhà tài trợ cịn nhiều bất cập, từ những văn bản đầu vào của từng dự án đến
sự chuẩn bị, thực thi, giám sát và đánh giá trong quá trình thực hiện dự án. Việc


2

tìm kiếm nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém hiệu quả của các dự án để khắc
phục trong quản lý các dự án là rất cần thiết.
Để chương trình, dự án đạt kết quả cao thì “giám sát, đánh giá” là một
khâu quan trọng trong chu trình quản lý dự án. Giám sát là một quá trình liên tục
được xây dựng để kiểm tra tiến độ so với kế hoạch đã đặt ra của một dự án đang
tiến hành, từ đó có thể thay đổi cho phù hợp. Cịn đánh giá dự án là quá trình
được lập nên để xem xét mức độ hoàn thành hoặc đang thực hiện của một dự án
dựa trên những tiêu chí đánh giá dự án (hiệu quả, hiệu suất, tác động, tính thích
hợp và khả năng duy trì dự án), sau đó khuyến nghị về quá trình thực hiện dự án
trong tương lai cũng như rút ra các bài học kinh nghiệm cho các dự án khác [27].
Trước thập kỷ 90 của thế kỷ trước, thuật ngữ “đánh giá dự án” mới chỉ
giới hạn ở đánh giá hiệu quả bao gồm hiệu lực thực thi (efficiency) và hiệu quả
(effectiveness). Đến những năm 90 thì các hoạt động đánh giá bao gồm cả đánh
giá tác động (impact assessment), tức là xem xét xem các hoạt động của dự án đó
có bền vững sau khi dự án kết thúc không (John et al, 2000). Việc đánh giá tác

động được coi như bắt buộc đối với tất cả các hoạt động đánh giá hiện nay. Các
tác động được xác định bao gồm tất cả các thay đổi về sinh thái, văn hoá xã hội,
kinh tế, kỹ thuật, thể chế và chính sách đem lại bởi các hoạt động của dự án.
Giám sát, đánh giá dự án có vai trị quan trọng, quyết định sự thành cơng
của các dự án thông qua những điều chỉnh kịp thời của nhà quản lý. Giám sát,
đánh giá tác động có thể được sử dụng như một công cụ chỉ đạo trong công tác
quản lý dự án và cung cấp thông tin cho các cấp xây dựng chủ trương, chính
sách nhằm giúp nhà quản lý đưa ra những quyết định thích hợp. Nó quy định
trách nhiệm giải trình cho các thành phần tham gia dự án về việc thực hiện các
mục tiêu đã được dự định cũng như việc sử dụng các nguồn vốn, vật tư đã được
cung cấp. Để phục vụ tốt mục đích của hệ thống này, cơng tác giám sát tác động
cần phải có những chu kỳ thực hiện đều đặn và phải được tiếp tục duy trì sau khi
kết thúc dự án, do đó ta cần phải có những cam kết thực hiện đầy đủ với các Nhà


3

tài trợ trong công tác giám sát tác động. Hệ thống giám sát đề xuất cần phải
hướng tới một tổng thể thiết kế cân đối nằm trong phạm vi mong đợi và mức độ
chính xác của các thơng tin cũng như các nguồn lực sẵn có của dự án. Các kết
quả của hệ thống giám sát tác động sẽ cung cấp cho dự án những số liệu về tính
hiệu quả của các hoạt động giám sát nhằm thực hiện hoàn tất các mục tiêu của
dự án và do đó chúng có thể được sử dụng để giúp đưa ra những quyết định và
các biện pháp điều chỉnh theo yêu cầu.
Dự án “Khôi phục rừng và quản lý rừng bền vững ở các tỉnh Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên - Dự án KfW6” được xây dựng và triển khai
với sự tài trợ của Ngân hàng tái thiết Đức (KfW). Mục tiêu của dự án Nâng cao
mức sống của người dân chủ yếu dựa vào rừng thông qua tạo việc làm, tăng thu
nhập nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều hoà nguồn nước tại các
vùng được phục hồi rừng và các khu vực lân cận, điều hoà tiểu khí hậu vùng và

tăng tính đa dạng sinh học.
Sau thời gian thực hiện dự án từ năm 2005 đến nay, đánh giá tác động của
dự án theo các mục tiêu của dự án đã được xác định là một vấn đề quan trọng và
cần thiết để khẳng định các kết quả của dự án đã đạt được thông qua những tác
động đến điều kiện kinh tế, xã hội và môi trường trên địa bàn dự án. Để thực
hiện được nội dung này, với sự trợ giúp của các chuyên gia quốc tế, dự án đã
thiết kế một hệ thống giám sát và đánh giá tác động. Tuy nhiên, để hệ thống
đánh giá được đưa vào thực thi có hiệu quả, cần được nghiên cứu đầy đủ về nội
dung và phương pháp cũng như điều kiện áp dụng cho phù hợp với điều kiện dự
án từ đó đề xuất những giải pháp có tính khả thi với hệ thống đánh giá tác động
của dự án KfW6 nói riêng và các dự án có điều kiện tương tự.
Xuất phát từ lý do đó, đề tài "Nghiên cứu hồn thiện hệ thống giám sát
và đánh giá tác động của Dự án Khôi phục rừng và quản lý rừng bền vững ở
các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên - Dự án KfW6 ” đặt
ra là hết sức cấp thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.


4

Chương 1
TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU VỀ GIÁM SÁT VÀ
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA DỰ ÁN
1.1. Khái niệm dự án, phân loại dự án.
1.1.1. Khái niệm về dự án.
Từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những
định nghĩa khác nhau về dự án. Theo cách hiểu đơn giản nhất, dự án được coi là
một sáng kiến được đưa ra một cách hoàn toàn chủ quan nhằm đáp ứng một nhu
cầu trong một tình huống nhất định. Ví dụ: trong cuộc sống hàng ngày ta thường
nghe thấy: “Đó là một ý kiến hay nếu như ta giải quyết vấn đề bằng cách…”.
Theo tài liệu Management Tool for Development Assistance đưa ra định

nghĩa: Dự án là một công việc dự kiến trước nhằm đạt được những mục tiêu đã
xác định trong một khoảng thời gian cụ thể và với một kinh phí nhất định. Theo
Vũ Cao Đàm: Dự án được coi là một loại đề tài có mục đích ứng dụng xác định,
cụ thể về kinh tế và xã hội. Dự án nhằm đáp ứng một nhu cầu đã được nêu ra,
chịu sự ràng buộc của kỳ hạn và thường là ràng buộc về nguồn lực và phải thực
hiện trong bối cảnh không chắc chắn. Một số định nghĩa khác về dự án khi xét
dưới góc độ của bình đẳng giới như Dự án là một tổ chức của con người sử dụng
các nguồn lực trong một khoảng thời gian nhất định để mang lại những thay đổi
đã được dự kiến trước cho một nhóm người đã được xác định trước tại thời điểm
kết thúc dự án. Một dự án mang đến sự can thiệp có tính phát triển và được dự
định trước nhằm đáp ứng một nhu cầu hoặc khắc phục một vấn đề. Một dự án
luôn sẽ quan tâm và coi sự phát triển của phụ nữ là mục tiêu của dự án nếu giới
được coi là một phần của vấn đề cần giải quyết.
Theo quan điểm quản lý các dự án kỹ thuật và cơng nghệ thì dự án là một
loạt những hoạt động được thực hiện bởi một nhóm người nhằm đạt được những
mục tiêu cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định và với một số nhất định.
Xét theo quan điểm phát triển cộng đồng thì dự án là một tổng thể có kế hoạch


5

những hoạt động (công việc) nhằm đạt một số mục tiêu cụ thể trong một khoảng
thời gian và trong khuôn khổ chi phí nhất định. Theo Điều 5 trong Nghị định
17/2001/ NĐ-CP của Chính phủ ghi rõ Dự án là một tập hợp các hoạt động có
liên quan đến nhau nhằm đạt được một hoặc một số mục tiêu xác định, được
thực hiện trong một thời hạn nhất định, dựa trên những nguồn lực xác định.
Theo đại từ điển Bách khoa toàn thư, “Dự án - Project” là “điều người ta
có ý định muốn làm” và được sắp đặt theo kế hoạch để chuyển động ý đồ hay ý
tưởng thành q trình hành động. Khái niệm này đã nói lên được sự gắn kết giữa
tư duy và hành động để thể hiện mối quan hệ giữa ước mơ và hiện thực thông

qua các hoạt động được sắp xếp một cách có kế hoạch, theo một trình tự và phụ
thuộc lẫn nhau trong một chuỗi liên kết nhằm: (1) Đáp ứng một mong muốn đã
được đề ra; (2) chịu ràng buộc bời kỳ hạn và nguồn lực và (3) thực hiện trong
một bối cảnh để chắc chắn đạt được mục tiêu đề ra.
Theo Cleland và King, dự án là sự kết hợp giữa các yếu tố về nguồn nhân
lực, trí lực trong một thời gian nhất định để đạt được mục tiêu cụ thể đặt ra. Theo
Cirdap, dự án là một hoạt động để giải quyết một vấn đề hay hoàn thiện một
trạng thái đặc biệt nào đó [9].
Theo Gittingger (1928) trong nghiên cứu: Phân tích kinh tế các dự án lâm
nghiệp, dự án được định nghĩa theo 3 quan điểm: (1) Dự án là sự sắp xếp có hệ
thống các nguồn dự trữ cho đầu tư, các nguồn dự trữ đó được lập kế hoạch, phân
tích đánh giá, thực thi và tiến hành như một đơn vị độc lập; (2) Dự án được coi
như một đơn vị nhỏ nhất trong một kế hoạch, hay một chương trình, được chuẩn
bị và thực hiện như một thể tách biệt; (3) Dự án là một hoạt động trong đó các
nguồn dự trữ được sử dụng tốt nhất với khả năng thu hồi và có lãi khi dự án kết
thúc [31].
Lyn Squire Herman G. Vander Tak (1989) dựa trên quan điểm đánh giá
tác động của dự án tới các vấn đề xã hội cho rằng Dự án là tổng thể các giải pháp
nhằm sử dụng nguồn tài nguyên hoặc nguồn lực hữu hạn vốn có nhằm đem lại


6

lợi ích lớn nhất có thể cho xã hội. Đây là một khái niệm rất khái quát, rất rộng, là
mục tiêu mà tất cả các dự án đều mong đạt được[38].
Với các tiếp cận lấy mục tiêu làm cơ sở để xác định khái niệm dự án,
Nguyễn Thị Oanh (1995) dẫn ra khái niệm dự án: (1) Dự án là sự can thiệp một
cách có kế hoạch nhằm đạt các mục tiêu thông qua hệ thống chỉ báo đã định
trước trong một không gian và khoảng thời gian nhất định, có huy động sự tham
gia thật sự của những tác nhân và tổ chức cụ thể; (2) Dự án là một tổng thể các

hoạt động có kế hoạch những hoạt động (công việc) nhằm đạt được các mục tiêu
cụ thể trong một khảng thời gian và khn khổ chi phí nhất định.
Từ những quan điểm trên chúng ta có thể thấy, khái niệm dự án có nhiều
cách diễn đạt và trên nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên điểm thống nhất cơ
bản trong các cách tiếp cận trên thì dự án là một tập hợp các hoạt động liên quan
với nhau được thiết kế để đạt được mục tiêu cụ thể. Mục tiêu cơ bản của các dự
án là nhằm tăng cường năng lực sản xuất để tạo thêm nhiều vật chất và dịch vụ
cho xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Hiệu quả đầu tư của
dự án được xác định thơng qua q trình quản lý, giám sát và đánh giá việc sử
dụng vốn, vật tư, lao động để mang lại lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường.
Từ các định nghĩa về dự án trên đây, trong khuôn khổ nghiên cứu của đề
tài, xin đưa ra khái niệm về dự án như sau: Dự án là một loạt các hoạt động có
kế hoạch nhằm đạt được một hay một số kết quả dự kiến trước tại một địa bàn
nhất định, được thực hiện trong khoảng thời gian và nguồn kinh phí nhất định,
có sự tham gia của tất cả các bên liên quan đến dự án.
1.1.2. Phân loại dự án.
Với từng dự án lại có những đặc điểm, tính chất, u cầu riêng và công tác
quản lý cho mỗi dự án cụ thể cũng có yêu cầu và thể thức riêng.
Từ các định nghĩa về dự án trên đây có thể phân loại dự án dựa vào các
tiêu chí như: phạm vi hoạt động, mục đích và quy mơ dự án…
Theo mục đích hoạt động của từng dự án, các dự án có thể được phân chia


7

thành các nhóm lớn sau:
* Nhóm dự án phát triển: Là các dự án nhằm đến mục đích làm thay đổi
các điều kiện kinh tế, xã hội của một địa phương, cải tổ một hệ thống quản lý tài
nguyên và môi trường, phát triển nguồn nhân lực, triển khai một cơng nghệ
mới…. Đó là nhóm các dự án đa dạng, sử dụng nguồn ngân sách công cho mục

tiêu phát triển.
* Nhóm dự án sản xuất kinh doanh: Gồm các dự án nhằm vào việc tạo ra
sản phẩm, nâng cao năng lực sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh của một
doanh nghiệp. Đó là các dự án sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp hay các đơn
vị sản xuất kinh doanh. Mục tiêu chính của chúng là hiệu quả kinh tế và lợi
nhuận.
Sự xem xét về phân chia dự án, theo các tiêu chí trên đây, có thể nhận ra
rằng các dự án Lâm nghiệp là các dự án phát triển mà không phải là dự án sản
xuất kinh doanh. Vì thứ nhất, chúng xuất phát từ những vấn đề nảy sinh trong
thực tiễn quản lý rừng và việc điều hoà các mối quan hệ giữa các cộng đồng địa
phương với tài nguyên rừng. Thứ hai, là tính đa dạng của các vấn đề trong dự án
Lâm nghiệp làm cho phạm vi hoạt động của các dự án thường liên quan đến các
cộng đồng địa phương. Thứ ba, nguồn lực cho các dự án Lâm nghiệp thường là
các khoản kinh phí của nhà nước và các tổ chức xã hội và từ sự đóng góp của
cộng đồng. Thứ tư, các dự án Lâm nghiệp phản ánh những định hướng của nhà
nước và khuyến khích người dân sống trong rừng hoặc liên quan đến rừng tham
gia vào các hoạt động quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng nhằm đạt
được mục đích phát triển bền vững kinh tế xã hội và môi trường.
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
1.2.1. Trên thế giới.
Đánh giá Dự án là khâu then chốt trong quá trình thực hiện các hoạt động
của Dự án. Đánh giá là quá trình tổng kết lại, xem xét lại các hoạt động của Dự
án có đạt được mục tiêu đưa ra hay khơng. Hay nói cách khác đánh giá là quá


8

trình xem xét một cách có hệ thống và khách quan, nhằm cố gắng xác định tính
phù hợp, tính hiệu quả và các hoạt động với mục tiêu đã đề ra.
Các lý thuyết và hướng dẫn về đánh giá Dự án được đề cập chi tiết trong

các cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau trên thế giới.
Trước những năm 1990, thuật ngữ “đánh giá dự án” mới chỉ giới hạn ở
đánh giá hiệu quả bao gồm hiệu lực thực thi (efficiency) và hiệu quả
(effectiveness). Đến những năm 90 thì các hoạt động đánh giá bao gồm cả đánh
giá tác động (impact assessment), tức là xem xét xem các hoạt động của dự án đó
có bền vững sau khi dự án kết thúc không (John et al, 2000). Việc đánh giá tác
động được coi như bắt buộc đối với tất cả các hoạt động đánh giá hiện nay [22].
Thành quả đầu tiên về quản lý dự án phải kể đến là sự cơng bố phần mềm có tên
là EVALUE của Cục Nông nghiệp Mỹ vào năm 1980. Đây là phần mềm cho
phép người sử dụng đánh giá được hiệu quả đầu tư cho các dự án rừng trồng
(Peter J.Ince và cộng sự, 1980). Tuy nhiên, chương trình máy tính này chỉ dừng
lại ở mức đánh giá hiệu quả tài chính thơng qua các chỉ tiêu NPV, IRR,... Báo
cáo đánh giá của Winconsin Woodland, Micheal Luedeke và Jeff Martin (1996)
cũng có kết luận tương tự. Tuy nhiên, các tác giả cũng khuyến nghị thêm rằng
hoạt động đánh giá tài chính đơn thuần chỉ nên sử dụng cho các cơng ty kinh
doanh mà lợi nhuận kinh tế là yếu tố hàng đầu, còn đối với các dự án đầu tư
mang nhiều yếu tố xã hội thì nên cân nhắc việc đánh giá hiệu quả cả xã hội và
môi trường.
Theo nhiều tài liệu được cơng bố thì phần lớn các tác giả trên thế giới như
Jim Woodhill, Lisa Robins, Joachim Theis, Heather. M. Grady đã chia đánh giá
dự án thành hai loại là đánh giá mục tiêu và đánh giá tiến trình. Đánh giá mục
tiêu là xem xét khả năng đạt được mục tiêu đạt ra của dự án, vì vậy nó tập trung
vào việc phân tích các chỉ số đo đạc về hiệu quả thu được. Đánh giá tiến trình là
mở rộng diện đánh giá hơn so với đánh giá mục tiêu, sử dụng tri thức và hiểu
Cũng xuất phát từ quan điểm đó, Renard R. (2004) [39] biết của nhiều người để


9

xem xét nhiều khía cạnh của dự án [32].

Tuy nhiên, đánh giá dự án là một hoạt động rất quan trọng nhưng cũng rất
nhạy cảm, đặc biệt trong lĩnh vực lâm nghiệp lại càng nhạy cảm và phức tạp vì
nó không chỉ là đánh giá hiệu quả kinh tế mà cịn bao hàm cả những khía cạnh
về hiệu quả xã hội và môi trường.
] đặc biệt phê phán việc sử dụng đánh giá hiệu quả tài chính trong các dự
án lâm nghiệp vì theo ơng nó hồn tồn vơ nghĩa. Việc đánh giá hiệu quả tài
chính ln bỏ qua yếu tố lạm phát, chi phí cơ hội và rủi ro; trong khi những yếu
tố này là rất lớn trong lâm nghiệp. Theo ơng thì hiệu quả kinh tế trong lâm
nghiệp sẽ không cao và ông khuyến nghị việc đánh giá hiệu quả kinh tế (áp dụng
giá bóng - tính đến cả yếu tố lạm phát, chi phí cơ hội) đồng thời là hiệu quả xã
hội, hiệu quả môi trường trong đánh giá các dự án lâm nghiệp.
FAO (1990, 1997) cũng nhấn mạnh việc đánh giá hiệu quả xã hội và môi
trường khi đưa ra các báo cáo tham luận về lâm nghiệp xã hội, lâm nghiệp cộng
đồng. Cũng theo tổ chức này, một dự án lâm nghiệp dù có đạt được hiệu quả tài
chính cao (NPV, IRR, BCR,…) nhưng chưa đạt được hiệu quả xã hội là (giải
quyết công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, nâng cao trình độ dân trí,…), và hiệu
quả mơi trường (khơng gây ơ nhiễm mơi trường, xói mịn đất,…) thì khơng được
coi là một dự án bền vững.
Việc ký kết Nghị định thư Kyoto cũng như việc thành lập Quỹ mơi trường
tồn cầu (GEF) càng đề cao vai trò của việc đánh giá hiệu quả xã hội và hiệu quả
môi trường. Theo khuyến nghị của nhiều chun gia thì cần phải có hoạt động
đánh giá môi trường riêng rẽ bao gồm tất cả các chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng tích
cực hay tiêu cực của các dự án đến môi trường như mức độ xói mịn đất, khả
năng ngăn ngừa thiên tai, độ che phủ rừng, sự hấp thụ và phát thải CO2…
Trong mô hình quản lý dự án, hoạt động đánh giá là khâu cuối cùng trong
tiến trình triển khai dự án. Thực ra đánh giá dự án không chỉ tiến hành một lần
vào cuối dự án, mà đó mới chỉ là đánh giá tổng thể. Trong quá trình thực hiện dự


10


án, đánh giá có thể được tiến hành vào những giai đoạn quan trọng, thường gọi
là đánh giá giai đoạn (Gittingger, 1982). Có nhiều tác giả cho rằng, điều quan
trọng là phải tiến hành đánh giá có sự tham gia của các bên có liên quan mà quan
trọng nhất là người hưởng lợi từ dự án. Mặt khác, khi triển khai dự án phải có hệ
thơng thường xun và thu nhận các phản hổi để kiểm tra xem dự án có đi đúng
hướng hay khơng. Đánh giá quan trọng ở chỗ nó giúp chúng ta có những cơ sở
quan trọng và cần thiết để đi đến những quyết định chính xác trong quá trình
thực hiện phải điều chỉnh để phù hợp với tình huống khách quan với những đổi
thay đột ngột hoặc bất thường của điều kiện thực thi.
Nếu như việc đánh giá dự án được tiến hành sau khi thực hiện dự án hoặc
đã kết thúc dự án nhằm đưa ra những kết quả, làm rõ những thành công hay thất
bại và rút ra những bài học kinh nghiệm để quản lý chu kỳ tiếp theo trong tương
lai của dự áấnhy các dự áúâu này thì đánh giá tác động dự án đặc biệt là dự án
đầu tư lâm nghiệp được hình thành từ yêu cầu khách quan về sự phát triển bền
vững của Rừng - Môi trường - Con người. Ngoài hiệu quả kinh tế - xã hội - mơi
trường của q trình đầu tư, thơng qua q trình đánh giá tác động dự án giúp
chúng ta định lượng được những tổn thất, những tái tạo về rừng và môi trường
do tác động của dự án đem lại, từ đó làm cơ sở cho việc tính tốn mức chi phí
cần thiết cho bảo vệ rừng, điều chỉnh các hoạt động thực tiễn phù hợp, đảm bảo
có lợi cho môi trường từ bảo vệ và phát triển rừng mang lại.
Đánh giá tác động dự án không chỉ xem xét tác động của dự án về mặt
kinh tế mà còn cả xã hội, mơi trường sinh thái. Tùy theo tính chất và thể loại dự
án việc đánh giá dự án đầu tư lâm nghiệp có những điểm khác nhau. Một số dự
án mang tính chất sản xuất kinh doanh hay còn gọi là các dự án đầu tư trồng
rừng sản xuất thì đánh giá thường tập trung vào các khía cạnh phân tích hiệu quả
kinh tế. Ngược lại các dự án bảo tồn lại chú ý nhiều đến khía cạnh môi trường.
Thời điểm và mục tiêu đánh giá khác nhau thì yêu cầu về nội dung đánh giá cũng
khác nhau. Đánh giá giữ kỳ hay đánh giá tiến độ thường chỉ tập trung xem xét về



11

tiến độ thực hiện các hoạt động dự án, nhằm xem xét mức độ hồn thành, xác
định những khó khăn trở ngại và đưa ra những biện pháp điều chỉnh kịp thời.
Trong khi đó việc đánh giá kết thúc lại phân tích một cách tồn diện về tất cả các
mặt; đồng thời phải đưa ra một chiến lược tiếp theo. Trong một số trường hợp
đối với một số dự án có quy mơ lớn và triển khai đồng thời nhiều mảng hoạt
động có tính chất tách biệt hay dự án với nhiều hợp phần khác nhau thì cơng tác
đánh giá thường tách riêng theo từng mảng hoạt động hay còn gọi là đánh giá
theo chuyên đề.
Tổ chức nghiên cứu cao cấp về phát triển quốc tế Nhật Bản (2003) đã đề
xuất việc đánh giá tác động không chỉ tập trung so sánh kết quả đầu ra với đầu
vào của dự án mà cịn phải xem xét những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, hiện
tại và tương lai, thậm chí là những ảnh hưởng gián tiếp phát sinh từ những ảnh
hưởng trực tiếp. Vì vậy trong quá trình đánh giá dự án, việc thiết kế phương
pháp và câu hỏi nên chia thành 2 nhóm vấn đề chính: Các vấn đề đan xen (chính
sách, kỹ thuật, mơi trường, văn hóa - xã hội, thể chế - quản lý và kinh tế - tài
chính) và phân loại tác động thành 4 nhóm: tích cực tiêu cực và mong đợi/khơng
mong đợi.
Theo FAO (1987), hướng dẫn đánh giá kinh tế các dự án quản lý lưu vực
thì đánh giá về mặt kinh tế thường được dùng để phân tích các lợi ích và chi phí
của xã hội, nên các lợi ích và chi phí đó phải được tính cho suốt thời gian mà
chúng cịn có tác dụng, nhất là đối với dự án trồng rừng, phải sau khoảng thời
gian dài thì chúng mới cho sản phẩm, đồng thời lại có những tác động về mặt
mơi trường có thể cịn có tác dụng trong một thời gian dài sau khi kết thúc dự án.
Vậy cần vận dụng khoảng thời gian nào để đánh giá thì thích hợp là câu hỏi đang
được đạt ra.
Đứng về phương diện các phương thức canh tác, hay sử dụng các phương
án sử dụng đất khác nhau, Walfredo [38] đã cho rằng: Phương thức canh tác sẽ

có những tác động tới kinh tế, sinh thái và xã hội từ đó sẽ có ảnh hưởng lần lượt


12

tới tăng trưởng kinh tế, cân bằng sinh thái và phát triển xã hội. Tất cả các mối
quan hệ ảnh hưởng này sẽ tác động toàn diện về kinh tế - xã hội - bảo vệ môi
trường sinh thái.
Theo Lyn Squire [38] trong tài liệu “Phân tích kinh tế dự án” đã chỉ ra
rằng, trong trường hợp các chi phí hoặc lợi ích mơi trường kéo dài trong tương
lai thì các lợi ích và chi phí đó phải được đưa vào phân tích. Khơng phải là dự án
đã kết thúc về mặt hành chính mà chúng ta bỏ qua các lợi ích và chi phí về mơi
trường. Tuy nhiên trên thực tế, vấn đề tỷ suất chiết khấu và lý do muốn giản đơn
việc tính tốn đã làm cho nhiều người chọn thời hạn phân tích và đánh giá ngắn
hơn nhiều. Đối với các dự án quản lý rừng đầu nguồn hoặc trồng rừng thì thì thời
hạn đánh giá phải đủ lớn (chừng khoảng 15-20 năm) để thấy đầy đủ và rõ ràng
các lợi ích và chi phí kinh tế.
1.2.2. Trong nước.
Ở Việt Nam, việc đánh giá hiệu quả dự án được nhắc đến nhiều từ thập kỷ
80 của thế kỷ XX. Việc tiếp cận muộn hơn so với nhiều nước trên thế giới đã tạo
ra những cơ hội tốt trong việc tiếp cận phương pháp mới trong đánh giá. Đặc
biệt, trong các dự án lâm nghiệp thì hiệu quả đầu tư không chỉ được đánh giá qua
các chỉ tiêu kinh tế mà hiệu quả về mặt xã hội và môi trường cũng được quan
tâm. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế chuyển đổi sang kinh tế thị trường,
các nghiên cứu trong thời gian qua đang tập trung chủ yếu vào đánh giá hiệu quả
kinh tế dự án trồng rừng để giúp cho việc lựa chọn phương án đầu tư có hiệu quả
nhất về mặt tài chính.
Theo Vũ Nhâm [19] trước khi đánh giá Dự án cần chuẩn bị một số
bước sau:
+ Bước 1: Xem xét các mục tiêu và thực hiện các hoạt động của Dự án.

+ Bước 2: Xác định lý do đánh giá.
+ Bước 3: Xác định các vấn đề đánh giá.
+ Bước 4: Xác định ai sẽ thực hiện đánh giá.


13

+ Bước 5: Xác định các chỉ số trực tiếp và giám tiếp, định lượng và định
tính trong đánh giá.
+ Bước 6: Xác định các nguồn thông tin cần thu thập cho đánh giá.
+ Bước 7: Xác định yêu cầu chuyên môn của người đánh giá.
+ Bước 8: Lập kế hoạch thời gian tiến hành đánh giá.
+ Bước 9: Xác định ai sẽ thu thập thông tin.
+ Bước 10: Phân tích trình bầy kết quả.
Để đảm bảo tính bền vững của Dự án, khi đánh giá Dự án cần quan tâm
đánh giá những chỉ tiêu sau:
KINH TẾ

Lợi ích của các
đối tác

XÃ HỘI

MƠI TRƯỜNG

Hình 1.1. Các chỉ tiêu đánh giá dự án
Một số cơng trình nghiên cứu về đánh giá hiệu quả kinh tế cho các dự án
trồng rừng gỗ nguyên liệu được tiến hành vào thập kỷ 90 như: Per H. Stahl và
Heine Krekula (1990) [31] với cơng trình “Đánh giá hiệu quả kinh tế cho hoạt
động kinh doanh rừng trồng Bạch đàn tại vùng nguyên liệu giấy Phú Thọ”. Các

chỉ tiêu NPV, IRR được dùng chủ yếu để đánh giá hiệu quả kinh tế. Một số chỉ
tiêu về hiệu quả xã hội và môi trường cũng đã được nhắc đến nhưng nhìn chung
cịn rất hạn chế và chưa rõ ràng, đặc biệt những ảnh hưởng của cây Bạch đàn đến
môi trường đất, nước chưa được chú ý đến. Một chương trình máy tính đã được
Heine Krekula xây dựng nhằm đánh giá hiệu quả kinh tế cho một số loài cây
trồng rừng chủ yếu trên một số vùng sinh thái như: Bạch đàn ở Măng Yang (Gia
Lai), Mỡ ở Vĩnh Phúc và Phú Thọ, Bồ đề ở Tuyên Quang. Kết quả nghiên cứu
này là cơ sở quan trọng cho việc lựa chọn các loài cây trồng rừng cung cấp gỗ


14

nguyên liệu giấy của các tỉnh vùng Đông Bắc Bộ.
Andrew ewing, Henning Hamiton và Lars Heikensten với cơng trình
nghiên cứu “Phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội của cơng trình nhà máy giấy Bãi
Bằng”. Các tác giả đã thơng qua việc phân tích chi phí và lợi nhuận để đánh giá
hiệu quả đầu tư của nhà máy trong thời gian hoạt động nhằm xem xét mức độ
phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời điểm hiện tại. Tuy nhiên vào thời
điểm đó, nền kinh tế của Việt Nam đang trong thời kỳ bao cấp, mọi hoạt động
sản xuất đều thực hiện theo mệnh lệnh và do đó những tác động của nhà máy đến
môi trường xung quanh chưa được đề cập. Do đó kết quả của nghiên cứu này chỉ
mang tính tham khảo về mặt lý luận.
Sau thập kỷ 90, vấn đề hiệu quả xã hội và môi trường đã được nhiều tác
giả quan tâm trong nghiên cứu đánh giá hiệu quả của dự án. Các nghiên cứu tập
trung xác định rõ nguyên nhân của sự thay đổi về mặt kinh tế, xã hội và môi
trường ở thời điểm trước và sau khi dự án được triển khai. Tuy nhiên, các nghiên
cứu này mới chỉ dừng lại ở việc ứng dụng các phương pháp và xây dựng lý
thuyết đánh giá. Nổi bật trong số các cơng trình nghiên cứu đó là:
Lê Thạc Cán (1994) [7] với cơng trình nghiên cứu “Đánh giá tác động
mơi trường - phương pháp luận và kinh nghiệm thực tiễn”. Kết quả nghiên cứu

đã tạo ra một hướng mới và một tiền đề về phương pháp luận, cơ sở khoa học
định hướng cho việc nghiên cứu về môi trường trong giai đoạn tiếp theo.
Trần Hữu Dào (1995) [8] đã đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và mơi
trường của mơ hình trồng Quế thâm canh, thuần lồi, quy mơ hộ gia đình tại
huyện Văn Yên - Yên Bái. Tuy nhiên, việc đánh giá các chỉ tiêu xã hội và mơi
trường vấn cịn chưa sâu.
Đồn Hồi Nam (1996) [18] với cơng trình “Bước đầu đánh giá hiệu quả
kinh tế, sinh thái của một số mơ hình rừng trồng tại n Hưng - Hàm Yên Tuyên Quang” đã đề cập đến hiệu quả tổng hợp về mặt kinh tế, sinh thái, tuy
nhiên hiệu quả xã hội vấn chưa được đánh giá.


15

Đỗ Doãn Triệu (1997) [25], đã đề cập đến phương pháp phân tích hiệu
quả đầu tư các dự án trồng rừng và phân biệt được sự khác nhau giữa phân tích
tài chính và kinh tế của dự án. Tồn bộ nội dung này được giới thiệu trong bải
giảng “Đánh giá kinh tế các dự án đầu tư trồng rừng trong cơ chế thị trường” do
chính tác giả biên soạn.
Cao Danh Thịnh (1998) [23] đã đề cập đến vấn đề định lượng các chỉ tiêu
đánh giá thông qua các trọng số trong việc tính tốn hiệu quả tổng hợp kinh tế mơi trường. Theo tác giả thì phương pháp tính trọng số bằng tương quan cho độ
chính xác cao nhất.
Đỗ Đức Bảo và cộng sự (2001) [6] đã sử dụng phương pháp ma trận môi
trường để đánh giá tác động của các loại hình canh tác và phương án canh tác
lâm nghiệp ở khu vực lòng hồ huyện Mộc Châu Sơn La. Các loại hình canh tác
được đánh giá bao gồm: Vườn tạp, nông lâm kết hợp và rừng tự nhiên,… Theo
phương pháp này, việc phân tích được phân theo hàng và cột, chúng ta có thể
đưa ra hàng loạt các chỉ tiêu khác nhau thuộc các lĩnh vực chịu tác động như
kinh tế, xã hội và môi trường. Phương án được đánh giá cuối cùng thông qua
tổng số điểm đạt được. Tuy nhiên, theo phương pháp này có một hạn chế là việc
cho điểm phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, kinh nghiệm và trình độ của người

chấm điểm nên độ chính xác khơng cao.
Gần đây, Phạm Xn Thịnh (2002) [24] nghiên cứu “Đánh giá tác động
của dự án KFW1 tại vùng dự án xã Tân Hoa, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang”.
Cơng trình đã đánh giá tác động của dự án trên các mặt kinh tế, xã hội và mơi
trường. Q trình đánh giá đã sử dụng các chỉ tiêu, chỉ bảo có sự so sánh các lĩnh
vực trước và sau dự án. Tuy nhiên, việc đánh giá mới chỉ dừng lại ở mặt tích
cực, cịn mặt tiêu cực của dự án chưa thấy tác giả đề cập đến.
Việc đánh giá tác động của dự án trên cả 3 mặt kinh tế, xã hội và môi
trường cũng được các tác giả Nguyễn Đình Sơn (2003), Đàm Đình Hùng (2003)
[11], Lại Thị Nhu (2004) [20] thực hiện. Trong quá trình đánh giá, các tác giả


16

này đã sử dụng các chỉ tiêu, chỉ báo có sự so sánh các lĩnh vực trước và sau dự
án. Nhìn chung những nghiên cứu này đã đánh giá được tác động tổng hợp của
dự án trên cả 3 linh vực kinh tế, xã hội và môi trường, tuy nhiên phạm vi đánh
giá của các tác giả cũng có sự khác nhau, như tác giả Đàm Đình Hùng chỉ đánh
giá trên một tiểu vùng nên chưa phản ánh được cho tồn vùng dự án.
Nguyễn Xn Sơn (2005)[15] với cơng trình “Đánh giá tác động của dự
án lâm nghiệp xã hội và bảo tồn thiên nhiên tỉnh Nghệ An đến vùng đệm Vườn
Quốc gia Pù Mát”. Ngoài việc đánh giá tác động của dự án trên 3 lĩnh vực kinh
tế, xã hội, mơi trường, tác giả cịn phân tích được hiệu quả kinh tế của một số
cây trồng dài ngày, tuy nhiên tác giả chỉ đánh giá với chu kỳ 5 năm là chưa hợp
lý, chưa thấy hết được những tác động mà các lồi cây trồng có thể mang lại.
Việc đánh giá hiệu quả đầu tư của một số loài cây trồng rừng chủ yếu
cũng được thực hiện bởi Hoàng Liên Sơn (2005) [14]. Tác giả đã đánh giá hiệu
quả kinh tế của các loài cây trồng rừng nguyên liệu trên các loại đất xấu khơng
có khả năng tiếp tục canh tác cây công - nông nghiệp. Tuy nhiên hiệu quả về mặt
xã hội và môi trường chưa được tác giả nghiên cứu một cách đầy đủ.

Cao Lâm Anh (2007) [1] đã đánh giá tác động của dự án trồng rừng
KFW4 đến sinh kế của người dân vùng dự án huyện Thạch Thành tỉnh Thanh
Hóa. Nghiên cứu này đã đề cập đến lý thuyết tác động trên cơ sở đưa ra các giả
thuyết tác động cùng các chỉ số, chỉ báo tác động. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ
dừng lại ở việc đánh giá tác động của dự án đến sinh kế của người dân mà chưa
đề cập đến việc đánh giá hiệu quả, hiệu suất, tính thích hợp và khả năng duy trì
dự án, mặt khác việc đánh giá mới chỉ ở giai đoạn trước mắt mà chưa phân tích
được những tác động lâu dài trong cả chu kỳ của dự án.
Trương Tất Đơ (2009) [10] đã tiến hành đánh giá tác động xã hội của
công tác quản lý rừng tại lâm trường Văn Chấn tỉnh Yên Bái, đây có thể xem là
cơng trình đầu tiên đi sâu về đánh giá tác động xã hội trong công tác quản lý
rừng, tác giả đã phân tích kỹ mối quan hệ tác động qua lại giữa cộng đồng, địa


17

phương với hoạt động sản xuất kinh doanh của Lâm trường; chỉ ra sự phù hợp và
chưa phù hợp của từng tiêu chí, chỉ số về mặt xã hội theo tiêu chuẩn trong bộ
tiêu chuẩn QLRBV của Việt Nam, từ đó đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm
hồn chỉnh các tiêu chí về mặt xã hội để tiến tới QLRBV và cấp chứng chỉ rừng
cho Lâm trường trên cơ sở những dự báo về sự biến đổi của kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, những tác động về mặt kinh tế, mơi trường có ảnh hưởng qua lại đến
những tác động về mặt xã hội nhưng chưa được tác giả quan tâm, đánh giá.
Đinh Đức Thuận (2006) [26] đã chỉ ra rằng, khi xem xét tác động của các
dự án lâm nghiệp đến đói nghèo và sinh kế thì phương thức lập kế hoạch hoạt
động có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh tế và tối ưu hóa hiệu quả đầu tư của
nguồn vốn.
Nhìn chung, cơng tác đánh giá tác động kinh tế, xã hội và môi trường ở
nước ta hiện nay có thể nói cịn rất mới mẻ, đang ở giai đoạn đầu của sự phát
triển. Đây lại là vấn đề phức tạp, địi hỏi phải có đầu tư thích đáng về thời gian

và tiền của nên nhìn chung chúng ta cịn thiếu hụt về thơng tin, về phương pháp
luận và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn. Chính những tồn tại trên đây là một
trong những nguyên nhân gây trở ngại cho công tác quản lý và bảo vệ mơi
trường, thực hiện các chính sách về mơi trường nói chung. Do vậy chúng ta cần
phải tiếp tục có những nghiên cứu nhằm hoàn thiện dần phương pháp luận cũng
như tích luỹ dần kinh nghiệm thực tiễn, đồng thời làm phong phú thêm nguồn
thông tin cho các nhà nghiên cứu sau này. Vì vậy, lựa chọn đề tài nghiên cứu
giám sát và đánh giá tác động là vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa.
1.3. Cơ sở lý luận về giám sát và đánh giá tác động của dự án.
1.3.1. Giám sát dự án.
Giám sát là một là một bộ phận và là cơng việc thường xun trong q
trình thực hiện dự án. Giám sát là quá trình ghi chép, tổng hợp và phân tích q
trình thực thi dự án, phân tích kết quả, hiệu quả dự án từ đó có thể đề ra các giải
pháp để điều chỉnh dự án đang thực thi hay rút kinh nghiệm để quản lý các dự án


18

có hiệu quả hơn.
Giám sát thường có sự tham gia của các cơ quan cấp trên nhằm kiểm tra
các hoạt động của các cơ quan cấp dưới giúp các cơ quan đưa ra quyết định quản
lý dựa trên việc thường xuyên so sánh tình hình thực hiện giữa thực tế và kế
hoạch của 3 yếu tố, đó là:
- Giải ngân nguồn vốn đầu tư;
- Quá trình quản lý dự án;
- Tình hình thực hiện các sản phẩm đầu ra của dự án.
Các dữ liệu và kết quả thực hiện này sẽ cung cấp thơng tin để liên tục
hồn thiện q trình thực hiện. Các nhà lãnh đạo sử dụng kết quả theo dõi trong
quá trình ra quyết định quản lý có thể đem lại nhiều kết quả đầu tư có hiệu quả
và hiệu suất cao hơn.

Một hệ thống và quá trình giám sát hiệu quả sẽ cung cấp thơng tin cho q
trình quản lý thơng qua việc phản ánh và kiểm điểm thường xuyên với các bên
liên quan hoặc thông qua đánh giá độc lập. Đội ngũ quản lý khi giám sát q
trình thực hiện có thể theo sát được tiến độ thực hiện nhằm đạt được các kết quả
và mục tiêu đề ra cũng như cung cấp được dữ liệu sử dụng cho đánh giá giữa kỳ
và đánh giá sau dự án.
Tất cả các Cơ quan chủ quản (CQCQ), Chủ dự án và Ban quản lý dự án
(BQLDA) thực hiện các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA hay nguồn vốn của
Nhà nước đều có chức năng và nhiệm vụ tổ chức thực hiện giám sát. Để thực
hiện nhiệm vụ giám sát một dự án ODA, bao gồm 9 bước:
Bước 1: Xây dựng hoặc điều chỉnh khung lơgíc của dự án được giám sát
Bước 2: Xác định các câu hỏi hoạt động, nhu cầu thông tin và chỉ số
Bước 3: Xây dựng khung theo dõi và kế hoạch giám sát
Bước 4. Xây dựng cơ cấu tổ chức hỗ trợ công tác giám sát
Bước 5: Chuẩn bị các công cụ và hệ thống công nghệ thông tin (CNTT)
hỗ trợ hệ thống giám sát


19

Bước 6: Thu thập và phân tích dữ liệu
Bước 7: Báo cáo kết quả và thông tin giám sát
Bước 8: Hỗ trợ sử dụng các thông tin giám sát và phản hồi
Bước 9: Xem xét các điều kiện và năng lực cần thiết.
1.3.2. Đánh giá tác động dự án.
Đánh giá là một hoạt động không thể tách rời của công tác quản lý dự án.
Đánh giá dự án chỉ được thực hiện sau khi kết thúc kết thúc (Final evaluation)
hoặc sau một thời gian triển khai dự án (Middle - Term evaluation).
Trong vịng đời của một chương trình, dự án đầu tư cơng, đánh giá được
tiến hành ít nhất là bốn đợt nhằm đo lường mức độ phù hợp, hiệu suất, hiệu quả,

tác động và tính bền vững của dự án đó, bao gồm:
- Đánh giá ban đầu - Do các cán bộ của cơ quan chủ quản (CQCQ), chủ
dự án/chủ đầu tư và Ban Quản lý dự án (BQLDA) thực hiện vào thời điểm bắt
đầu triển khai thực hiện dự án. Trong một số trường hợp có thể thuê các chuyên
gia giám sát và đánh giá tác động độc lập hỗ trợ công tác đánh giá này;
- Đánh giá giữa kỳ - Do các chuyên gia đánh giá độc lập phối hợp với
nhóm cán bộ quản lý thực hiện vào giữa thời gian thực hiện dự án;
- Đánh giá kết thúc - Do các chuyên gia độc lập thực hiện vào thời điểm
kết thúc thực hiện của dự án;
- Đánh giá tác động - Do các chuyên gia đánh giá độc lập thực hiện sau
khi dự án đưa vào khai thác, sử dụng khoảng từ 3 đến 5 năm.
Đánh giá tác động của Dự án là một quá trình phân tích và so sánh sự
khác biệt về giá trị các chỉ tiêu kinh tế, xã hội, môi trường ở các thời điểm trước
khi thực hiện Dự án và sau khi thực hiện Dự án. Đồng thời có thể so sánh các chỉ
tiêu đó ở vùng có Dự án với vùng khơng có Dự án.
Mục tiêu của đánh giá tác động của Dự án là nhằm xác định ảnh hưởng
của Dự án đến môi trường xung quanh, kết quả thực hiện của Dự án những thay
đổi về kinh tế, xã hội, môi trường.


20

Tất cả các CQCQ, chủ dự án/chủ đầu tư và các Ban QLDA khi thực hiện
một chương trình, dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA hoặc ngân sách Nhà nước
đều có trách nhiệm tiến hành đánh giá. Trong thực tiễn, đánh giá dự án được
thực hiện 4 bước, các phương pháp và công cụ hỗ trợ hoạt động đánh giá, cách
tiếp cận trong đánh giá ở cấp quốc gia, cấp CQCQ (danh mục) và cấp dự án
- Bước 1: Chuẩn bị khung lơgíc đánh giá
- Bước 2: Chuẩn bị khung đánh giá và kế hoạch đánh giá
- Bước 3: Thu thập và phân tích dữ liệu

- Bước 4: Báo cáo các kết quả đánh giá nhằm hỗ trợ công tác quản lý
Có 5 tiêu chí có thể được sử dụng trong đánh giá: mức độ phù hợp, hiệu
quả, hiệu suất, tác động và tính bền vững. Ý nghĩa của mỗi tiêu chí và mối quan
hệ giữa các tiêu chí với các cấp độ mục tiêu trong khung lơgíc được miêu tả
trong Bảng 1.1.


21

Bảng 1.1. Các câu hỏi chủ yếu liên quan đến 5 tiêu chí đánh giá
Tiêu chí

Các câu hỏi chủ yếu

Hiệu suất

- Liệu có thể giảm bớt số lượng các yếu tố đầu vào mà vẫn đạt được
các sản phẩm đầu ra như mong muốn hay không?
- Các yếu tố đầu vào hiện có được sử dụng đúng hướng để tạo ra các
sản phẩm đầu ra hay không?

Hiệu quả

- Mục tiêu dự kiến đã đạt được chưa?
- Liệu mục tiêu có đạt được vào cuối giai đoạn đầu tư hay không?
- Có những sản phẩm đầu ra nào cần tăng cường để đạt được mục
tiêu đầu tư?
- Liệu có thể giảm bớt các sản phẩm đầu ra mà không ảnh hưởng
đến việc đạt được mục tiêu hay khơng?


Tác động

- Có tác động tiêu cực nào khơng? - Nếu có, có thể giảm thiểu được
khơng?
- Có những tác động tích cực nào khơng? - Nếu có, có thể tối đa hóa
được khơng?
- Mức độ đóng góp của dự án ODA đối với các mục tiêu dài hạn
hơn như thể nào?

Mức độ - Hoạt động đầu tư có nhất quán với các mục tiêu chiến lược quốc
phù hợp
gia hay không?
- Liệu dự án ODA còn đáp ứng các yêu cầu của đối tượng thụ hưởng
hay khơng?
- Có cần thiết phải thay đổi hoạt động đầu tư để phù hợp hơn với các
mục tiêu chiến lược quốc gia?
Tính bền - Liệu các cơ quan Việt Nam tham gia dự án ODA có tiếp tục các
vững â
hoạt động một cách độc lập sau khi kết thúc giai đoạn đầu tư?
- Liệu cộng đồng tham gia dự án ODA có tiếp tục các hoạt động một
cách độc lập sau khi kết thúc giai đoạn đầu tư?
- Những hoạt động nào có thể thay đổi để tăng cường tính tự lực?
Nguồn: Trích FASID (2000) Monitoring and evaluation based on the project
cycle management method. Hiệp hội Nghiên cứu Phát triiển Quốc tế. Tokyo,
Nhật Bản.


22

1.3.3. So sánh giám sát và đánh giá tác động.

Giám sát và đánh giá có những chức năng khác nhau và thường phục vụ
cho các đối tượng sử dụng khác nhau. Nếu phải trả lời các câu hỏi về giám sát
như báo cáo định kỳ mức độ thực hiện, tiến độ thực hiện hoặc giải ngân, ví dụ
như tỷ lệ giải ngân là bao nhiêu hay những thay đổi so với kế hoạch trong quá
trình thực hiện.... Nếu bạn phải trả lời các câu hỏi về tác động hay hiệu quả của
đầu tư thì đó chính là đánh giá tác động của dự án.
Bảng 1.2. So sánh giám sát và đánh giá dự án
Giám sát
Liên tục hoặc định kỳ

Đánh giá
Theo giai đoạn hoặc đột xuất

Tình hình thực hiện các mục tiêu Đánh giá các mục tiêu của chương trình
đặt ra của chương trình
trong mối quan hệ giữa các mục đích ở
cấp cao hơn hoặc với các vấn đề cần giải
quyết
Các chỉ số, tiến độ đã xác định Đặt câu hỏi về tính đúng đắn và hợp lý của
trước được mặc nhiên là đúng
các chỉ số định trước
Giám sát tiến độ dựa vào số ít các Giải quyết các vấn đề thuộc nhiều phạm vi
chỉ số đã được xác định trước
khác nhau
Tập trung vào các kết quả dự kiến

Xác định các kết quả dự kiến và ngoài dự
kiến

Sử dụng phương pháp định lượng


Sử dụng phương pháp định lượng và định
tính

Thu thập dữ liệu thường xuyên

Thu thập dữ liệu từ nhiều nguồn khác
nhau

Không trả lời các câu hỏi nhân quả

Trả lời các câu hỏi nhân quả

Thường là một chức năng của quản Thường do các chuyên gia độc lập thực
lý nội bộ
hiện và các cơ quan bên ngoài đề xướng.
Nguồn: SIDA 2004 Looking back; Moving forward. SIDA Evaluation Manual
(trang 11). SIDAA3753en.
Theo Cesar M. Mercado (2007), giám sát và đánh giá dự án là xem xét
một cách hệ thống mối quan hệ của một tập hợp các nhân tố quả đầu vào, các


23

hoạt động, các kết quả và mục tiêu đặt ra có mối quan hệ qua lại lẫn nhau và
được ghi nhận cụ thể như sau:
- Đầu vào và nguồn lực thực hiện dự án;
- Các hoạt động và quá trình cần được thực hiện để tạo ra kết quả dự án;
- Các kết quả tạo ra để giành được mục tiêu của dự án;
- Mục tiêu cần đạt được để giải quyết những khó khăn hoặc nhu cầu thực

tiễn đặt ra.
Thơng thường, các dự án khi kết thúc sẽ có ngay báo cáo đánh giá cuối
kỳ để xem xét mối liên hệ giữa các cấu phần nêu trên và so sánh kết quả các hoạt
động với mục tiêu của dự án nhưng cách tiếp cận lấy con người làm trung tâm để
xem xét mối quan hệ của 4 nhân tố: đầu vào; các hoạt động, đầu ra và mục tiêu
dự án được nhóm hưởng lợi tham gia giám sát và đánh giá có ý nghĩa thực tiễn
hơn. Điều quan trọng khơng phải là tiến hành đánh giá có sự tham gia của các
bên liên quan mà quan trọng là có sự tham gia của những người hưởng lợi và khi
triển khai dự án phải có hệ thống thường xuyên thu nhận thông tin phản hồi để
kiểm tra xem dự án có đi đúng hướng hay khơng. Q trình này được mơ tả theo
hình sau sau:

Thơng tin cơ sở
Dự án là một tổng
thể, bao gồm:
Người
quản lý
dự án

- Mục tiêu;
- Đầu vào;

Cán
bộ dự
án

- Các hoạt động;

Người
hưởng

lợi

- Đầu ra
Giám sát

Đánh giá

Hình 1.2. Thơng tin cơ sở
Nguồn: Giám sát và đánh giá dự án. Cesar M. Mercado, 2007


×