Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nghiên cứu xây dựng kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2016 2020 và đề xuất định hướng quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện thanh chương tỉnh nghệ an đến năm 2030

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.56 KB, 101 trang )

i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu khoa học nào.
Tác giả luận văn

Võ Thị Vinh


ii

LỜI CẢM ƠN
Luận văn “Nghiên cứu xây dựng kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng
giai đoạn 2016 - 2020 và đề xuất định hướng quy hoạch bảo vệ phát triển
rừng huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An đến năm 2030” được hoàn thành
tại trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam theo chương trình đào tạo cao học
Lâm nghiệp – Khóa 21A, giai đoạn 2013 -2015.
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn, học viên đã được Khoa
Đào tạo Sau đại học – Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam và các cấp
chính quyền địa phương tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ cho các tác giả thu
thập tài liệu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Trước hết, tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới GS TS. Trần
Hữu Viên (người hướng dẫn khoa học) đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ học
viên trong thời gian thực hiện luận văn. Xin chân thành cảm ơn Khoa Đào tạo
Sau đại học – Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam đã tạo mọi điều kiện
giúp đỡ học viên trong thời gian học tập cũng như thực hiện luận văn. Quan
đây, tác giả xin chân thành cảm ơn các cấp chính quyền địa phương huyện
Thanh Chương tỉnh Nghệ An đã cung cấp những thông tin, tư liệu cần thiết và
tạo điều kiện cho học viên thu thập số liệu phục vụ cho luận văn tốt nghiệp.


Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng đề tài không tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và bạn bè đồng
nghiệp.
Tôi xin cam đoan số liệu thu thập và kết quả tính tốn là hồn tồn
trung thực và được trích dẫn rõ ràng.
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Học viên

Võ Thị Vinh


iii

DANH MỤC BẢNG
TT

Nội dung

Số
trang

4.1

Hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp tính đến hết năm 2014

42

4.2

Hiện trạng 3 loại rừng trên địa bàn huyện


43

4.3

Hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp theo chủ quản lý

44

4.4

Hiện trạng trữ lượng rừng theo chủ quản lý

45

4.5

Diễn biến rừng và độ che phủ rừng giai đoạn (20132014)

48

4.6

Khối lượng một số hạng mục chính bảo vệ và phát triển
rừng giai đoạn 2011-2015

49

4.7


Dự báo nhu cầu gỗ và lâm sản toàn quốc đến năm 2020

54

4.8

Khối lượng rừng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên
rừng giai đoạn 2016-2020

57

4.9

Khối lượng trồng rừng giai đoạn 2016-2020

58

4.10

Khối lượng làm giàu rừng giai đoạn 2016-2020

60

4.11

Kế hoạch bảo vệ rừng giai đoạn 2016-2020

60

4.12


Dự kiến sản lượng gỗ khai thác theo các giai đoạn

62

4.13

Khối lượng một số hạng mục chính BV & PTR giai đoạn
2016-2020

65

4.14

Tổng hợp nhu cầu vốn bảo vệ và phát triển rừng

66

4.15

Quy hoạch sử dụng đất rừng phòng hộ đến năm 2030

69

4.16

Quy hoạch sử dụng đất rừng sản xuất đến năm 2030

70


4.17

Quy hoạch bảo vệ rừng theo giai đoạn

71

4.18

Quy hoạch khoanh nuôi tái sinh tự nhiên đến năm 2030

73

4.19

Quy hoạch trồng rừng các loại đến năm 2030

74

4.20

Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng theo giai đoạn đến

77

năm 2020
4.21

Tổng hợp vốn đầu tư theo hạng mục và giai đoạn

78


4.22

Tổng hợp các chỉ tiêu kinh tế

80


iv

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt

Nghĩa

BV & PT

Bảo vệ và phát triển

QHSDĐ

Quy hoạch sử dụng đất

KTXH

Kinh tế xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân


PTNT

Phát triển nông thôn

Ia

Đất trống, trảng cỏ

Ib

Đất trống, trảng cỏ, cây bụi

Ic

Đất trống, có cây gỗ mọc rải rác

IIIa

Trạng thái rừng tự nhiên nghèo kiệt

Hvn

Giá trị chiều cao vút ngọn


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Quy hoạch là việc tổ chức không gian và thời gian phát triển chung cho

kinh tế - xã hội, môi trường hoặc một ngành, một lĩnh vực trong từng giai
đoạn cụ thể. Thực hiện chủ trương phát triển lâm nghiệp và bảo vệ rừng Ngày
14 tháng 01 năm 2008 Bộ Nơng nghiệp và PTNT đã có thơng tư số
05/2008/TT-BNN về việc hướng dẫn lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát
triển rừng. Tuy nhiên cho đến nay nhiều địa phương đặc biệt là cấp huyện vẫn
chưa quy hoạch lâm nghiệp. Vấn đề quy hoạch cấp huyện vẫn cịn nhiều bất
cập, đặc biệt là cơng tác dự báo chưa đáp ứng được với yêu cầu của xã hội đề
ra cũng như sự phối hợp giữa các ngành như nơng nghiệp, lâm nghiệp, thủy
lợi và nơng thơn cịn nhiều hạn chế.
Trong tình hình hiện nay, trước sự đổi mới mạnh mẽ của nền kinh tế
theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơng tác quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cho các cấp, các ngành sắp xếp,
bố trí, sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai. Qua đó, vừa
đáp ứng được yêu cầu Nhà nước thống nhất quản lý đất đai, vừa tránh được
sự chồng chéo, sử dụng đất sai mục đích sử dụng đất gây lãng phí, hủy hoại
mơi trường đất. Đồng thời, bảo vệ được cảnh quan thiên nhiên và mơi trường
sinh thái, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Do vậy, việc thực hiện công tác kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng
một yêu cầu mang tính cấp bách của địa phương, là căn cứ để hoạch định mục
tiêu phát triển toàn diện của từng cấp, từng ngành trong năm 2015.
Trong tình hình kinh tế - xã hội hiện nay và các năm tiếp theo của
huyện, cần đẩy mạnh hơn nữa kinh tế theo hướng bền vững, hiệu quả và thân
thiện với môi trường. Với cách hướng phát triển như vậy, cần đánh giá tiềm
năng phát triển của mỗi ngành kinh tế để xác định trọng tâm phát triển sao
cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và văn hóa của cộng đồng


2

dân cư trên địa bàn huyện. Như vậy, ngành lâm nghiệp cũng có vai trị và vị

trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân
trong huyện.
Thanh Chương là huyện miền núi thấp, diện tích rừng và đất lâm nghiệp
chiếm 57,85% tổng diện tích tự nhiên, với 65.233,65 ha.Trong tổng số 40 xã,
thị trấn thì 35 xã có rừng và đất lâm nghiệp. Tài nguyên rừng chủ yếu nằm tập
trung ở những xã dọc phía Tây của huyện.
Tuy nhiên tài nguyên rừng của huyện chưa phát huy được giá trị xứng
tầm với tiềm năng sẵn có do chưa có định hướng phù hợp. Do vậy để rừng và
đất lâm nghiệp huyện được sử dụng một cách bền vững, phát huy được thế
mạnh của rừng tương ứng với tiềm năng của địa phương, trong giai đoạn tới
địi hỏi cần phải có một phương án quy hoạch thật cụ thể và đúng đắn. Xuất
phát từ những yêu cầu trên, tôi thực hiện đề tài: "Nghiên cứu xây dựng kế
hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2016 - 2020 và đề xuất định
hướng quy hoạch bảo vệ phát triển rừng huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ
An đến năm 2030".


3

Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.

Nhận thức chung về quy hoạch
Quy hoạch nói chung và quy hoạch lâm nghiệp nói riêng là một hoạt

động định hướng nhằm sắp xếp, bố trí tổ chức các hoạt động trơng khơng gian
và thời gian một cách hợp lý vào thời điểm hiện đại và phù hợp với mục tiêu
trong tương lai.
1.1.1. Quy hoạch sử dụng đất

Hiện nay có rất nhiều tài liệu nghiên cứu định nghĩa về quy hoạch sử
dụng đất khác nhau từ đó đưa đến những vấn đề phát triển quan điểm và
phương pháp được sử dụng trong quy hoạch sử dụng đất cũng khác nhau.
Theo Dent (1988; 1993) [19]: QHSDĐ như là phương tiện giúp chio
lãnh đạo quyết định sử dụng đất đai như thế nào thông qua việc đánh giá có
hệ thống cho việc chọn mẫu hình trong sử dụng đất đai, mà trong sự lựa chọn
này sẽ đáp ứng với các mục tiêu riêng biệt và từ đó hình thành nên chính sách
và chương trình cho sử dụng đất đai.
Một định nghĩa khác của Fresco và ctv (1993) [29], QLSDĐ như là một
dạng hình của quy hoạch vùng, trực tiếp cho thấy việc sử dụng tốt nhất về đất
đai trên quan điểm chấp nhận những mục tiêu, và những cơ hội về môi
trường, xã hội và những vấn đề hạn chế khác.
Theo Mohammer (1999) [19], những từ vựng kết hợp với định nghĩa về
QHSDĐ là hầu hết đều đồng ý chú trọng và giải đoán những hoạt động như là
một tiến trình xây dựng quyết định cấp cao. Do đó QHSDĐ, trong một thời
gian dài với quyết định từ trên xuống nên cho kết quả là quy hoạch bảo về
người dân phải làm những gì. Trong phương pháp tổng hợp và người sử dụng
đất đai là trung tâm (UNCED, 1992; trong FAO, 1993) [18] đã đổi lại định
nghĩa về QHSDĐ như QHSDĐ là một tiến trình xây dựng những quyết định


4

để đưa đến những hành động việc phân chia đất đai cho sử dụng để cung cấp
những cái có lợi bền vững nhất (FAO, 1995).
Với cái nhìn về quan điểm khả năng bền vững thì chức năng bền vững
thì chức năng của QHSDĐ là hướng dẫn sự quyết định trong sử dụng đất đai
để làm sao trong nguồn tài nguyên đó được khai thác có lợi cho con người,
nhưng đồng thời cũng được bảo về cho tương lai. Cung cấp những thông tin
tốt liên quan đến nhu cầu và sự chấp nhận của người dân, tiềm năng thực tại

của nguồn tài ngun và những tác động đến mơi trường có thể có của những
sự lựa chọn là một yêu cầu đầu tiên cho tiến trình quy hoạch sử dụng đất đai
thành công. Ở đây đánh giá đất đai giữ vai trị quan trọng như là cơng cụ để
đánh giá thực trạng của đất đai khi được sử dụng cho mục đích riêng biệt
(FAO, 1976) [27] hay như là phương pháp để giải nghĩa hay dự đoán tiềm
năng sử dụng của đất đai (Van Diepen và ctv.,1988). Do đó có thể định nghĩa:
Quy hoạch sử dụng đất là một sự đánh giá tiềm năng đất nước có hệ thống,
tính thay đổi trong sử dụng đất đai và những điều kiện kinh tế xã hội để chọn
lọc và thực hiện các sự chọn lựa sử dụng đất đai tốt nhất. ĐỒng thời quy
hoạch sử dụng đất đai cũng là chọn lựa và đưa vào thực hành những sử dụng
đất đai đó mà nó phải phù hợp với yêu cầu cần thiết của con người về bảo vệ
nguồn tài nguyên thiên nhiên trong tương lai” [19].
Lê Quang Trí (2005) [19]: QHSDĐ là sự đánh giá tiềm năng đất nước
có hệ thống, tính thay đổi trong sử dụng đất đai và những điều kiện kinh tế xã
hội để chọn lọc và thực hiện các sự lựa chọn sử dụng đất đai tốt nhất. Đồng
thời QHSDĐ cũng là chọn lọc và đưa vào thực hành những sử dụng đất đai
đó mà nó phải phù hợp với yêu cầu cần thiết của con người về bảo vệ nguồn
tài nguyên thiên nhiên trong tương lai.


5

Do đó trong quy hoạch cho thấy: Những sự cần thiết phải thay đổi;
Những cần thiết cho việc cải thiện quản lý, hay những cần thiết cho kiểu sử
dụng đất đai hoàn toàn khác nhau trong các trường hợp cụ thể khác nhau.
Các loại sử dụng đất đai bao gồm: Đất ở nông nghiệp (thủy sản, chăn
nuôi,…) đồng cỏ, rừng, bảo vệ thiên nhiên và du lịch đều phải được phân chia
một cách cụ thể theo thời gian được quy định. Do đó trong QHSDĐ phải cung
cấp những hướng cụ thể giúp cho các nhà quyết định có thể lựa chọn trong
các các trường hợp có sự mâu thuẫn giữa đất nông nghiệp và phát triển đô thị

hay công nghiệp hóa bằng cách chỉ ra các vùng đất đai nào có giá trị nhất cho
đất nơng nghiệp và nơng thơn mà khơng nên sử dụng cho các mục đích khác.
Quy hoạch sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật
và pháp chế của nhà nước về tơt chức sử dụng đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao
thông qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất (cả nước hoặc tổng phạm
vi một đơn vị, đối tượng sử dụng đất cụ thể), tổ chức sử dụng đất như một tư
liệu sản xuất cùng với các tư liệu sản xuất khác gắn liền với đất nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả sản xuất xã hội tạo điều kiện bảo vệ và bảo
vệ môi trường [23].
1.1.2.Quy hoạch vùng lãnh thổ
Theo Nguyễn Nhật Tân – Nguyễn Thị Vòng (1995) [17] Quy hoạch
vùng lãnh thổ là hệ thống các biện pháp xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý
gắn liền với cơ cấu đất đai và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài ngun, các
cơng trình kinh tế - văn hóa – xã hội, nguồn lao động, tăng cường xây dựng
cơ sở hạ tầng, phát triển lực lượng sản xuất để phát triển kinh tế, xã hội nông
thôn mới và xã hội mới.
Quy hoạch vùng lãnh thổ là khoa học về quản lý tài nguyên mang cả 3
tính chất: kinh tế, kỹ thuật và pháp lý. Là cơ sở để lập dự án đầu tư phát triển


6

kinh tế và xây dựng nông thôn mới. Sự phát triển của các quản lý phát triển
kinh tế và phân bố lực lượng sản xuất trên địa bàn lãnh thổ.
Quy hoạch phát triển nông thôn là quy hoạch tổng thể, nó bao gồm tổng
hợp nhiều nội dung hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế văn hóa xã hội và
mơi trường liên quan đến vấn đề phát triển con người trong các cộng đồng
nông thôn theo tiêu chuẩn của phát triển bền vững. Về khái niệm quy hoạch
phát triển nông thơn có thể tiếp cận theo 2 góc độ, đứng trên góc độ phân bố
lực lượng sản xuất, quy hoạch phát triển nông thôn là sự phân bố các nguồn

lực tài nguyên đất đai, lao động, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, sự bố trí cơ cấu
kinh tế nơng nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trên lãnh thổ nông thôn mộc cách
hợp lý để đạt hiệu quả cao. Đứng trển góc độ hoạch hóa, quy hoạch phát
treienr nơng thơn là một khâu trong quy trình kế hoạch hóa nơng thơn. Bắt
đầu tự chiến lược phát triển kinh tế xã hội nông thôn đến quy hoạch phát triển
nông thôn rồi cụ thể hóa bằng các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn
trên địa bàn nông thôn [9].
Đặc điểm của quy hoạch là quy hoạch thường mang tính định hướng về
tương lai, vì vậy quy hoạch phải có mục tiêu rõ rệt. Mục tiêu khơng thể hình
thành do ý nghĩa chủ quan của một số người làm quy hoạch, cũng khơng thể
hình thành chóng vánh trong ngày một ngày hai mà nó phải trải qua một q
trình tìm tịi, cân nhắc lâu dài từ tổng quát đến chi tiết, từ cục bộ đến tồn
diện. Mục tiêu phải có tính khả thi, nếu quy hoạch khơng hướng về tương lai
thì chỉ là một việc làm tốn kém, một bức tranh không có lợi ích [9].
1.1.3.Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
Lân nghiệp là một ngành kinh tế kĩ thuật đặc thù bao gồm tất cả các
hoạt động gắn liền với sản xuất hàng hóa và dịch vụ rừng như các hoạt động
bảo về, gây trồng, khai thác, vận chuyển, sản xuất, chế biến lâm sản và các
dịch vụ môi trường có liên quan đến rừng; đồng thời ngành lâm nghiệp có vai


7

trị rất quan trọng trong việc bảo vệ mơi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, xóa
đói, giảm nghèo, đặc biệt cho người dân miền núi, góp phần ổn định xã hội và
an ninh quốc phòng [20]
Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng là một hoạt động vừa mang tính
chất khoa học vừa mang tính chất pháp lý của hệ thống các biện pháp kĩ thuật,
kinh tế, xã hội. Thực chất đó là q trình ra quyết định sử dụng rừng và đất
rừng như một tư liệu sản xuất đặc biệt, nhằm mục tiêu sử dụng rừng và đất

rừng một cách hiệu quả. Công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng luôn
được trú trọng và coi là nhiệm vụ chiến lược trong quản lý rừng và đất rừng.
Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng là một bộ phận cấu thành của quy
hoạch tổng thể phát triển nơng thơn. Do đó cơng tác quy hoạch bảo vệ và phát
triển rừng cần có sự phối hợp chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội nông thôn nhằm tránh sự chồng chéo, hạn chế lẫn nhau giữa các
ngành. Thực chất của các công tác quy hoạch là tổ chức không gian và thời
gian phát triển cho một ngành hoặc một lĩnh vực sản xuất trong từng gai đoạn
cụ thể. Mỗi ngành kinh tế muốn tồn tại và phát triển thì nhất thiết phải thực
hiện quy hoạch, sắp xếp một cách hợp lý mà trong đó cơng tác điều tra cơ bản
phcuj vụ cho quy hoạch phát triển phải đi trước một bước. Quy hoạch bảo vệ
và phát triển rừng có ý nghĩa rất quan trọng đối với ngành lâm nghiệp nói
riêng và sự phát triển kinh tế xã hội nói chung. Nếu cơng tác quy hoạch bảo
vệ và phát triển rừng được chú ý quan tâm đúng mức thì sự phát triển của
ngành lâm nghiệp sẽ mang lại tính bền vững, trong điều kiện ngược lại sẽ gặp
những trở ngại, khó khăn. Ngày nay khi nhu cầu của xã hội về lâm sản đáp
ứng cho nguyên liệu, gỗ, củi,.. ngày càng cao, tạo áp lực ngày càng lớn vào tài
nguyên rừng và đất rừng thì vấn đề quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng một
cách bền vững càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết, và đã trở


8

thành một nguyên tắc hàng đầu trong chiến lược phát triển rừng của mỗi quốc
gia nói riêng và trên tồn thế giới nói chung [14].
Tùy theo cách nhìn nhận về quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng sao
cho hợp lý đã được nhiều tác giả khác nhau đề cập tới ở những mức độ rộng
hẹp khác nhau. Việc đưa ra một khái niệm thống nhất là một điều rất khó thực
hiện, song phân tích qua các khái niệm cho thấy có những điểm giống nhau,
đó là dựa trên quan điểm về sự phát triển bền vững thì các hoạt động có liên

quan đến đất đai phải được xem xét một cách tồn diện và đồng thời nhằm
đảm bảo nó một cách lâu dài và bền vững.
Những nội dung chủ yếu thường được chú ý là các yếu tố về mặt kinh
tế, bảo vệ môi trường, bảo vệ các hệ sinh thái đa dạng sinh học và các đặc
điểm xã hội, nhân văn. Quá trình phát triển của việc quản lý sử dụng đất trên
thế giới luôn gắn liền với lâm sản phát triển xã hội loài người.
1.2. Trên thế giới
1.2.1. Quy hoạch sử dụng đất
Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh
tế Tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển, nên nhu
cầu khối lượng gỗ ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa
phương của chế độ phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hóa Tư bản
chủ nghĩa. Thực tế sản xuất lâm nghiệp đã khơng cịn bó hẹp trong việc sản
xuất gỗ đơn thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm
bảo thu hoạch lợi nhuận lâu dài cho các chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh
về lý luận quy hoạch lâm nghiệp đã được hình thành trong hồn cảnh như
vậy.
Tại Châu âu, vào thập kỉ 30 và 40 của thế kỉ XX, quy hoạch được giữ
vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỉ. Năm
1946, Jack.G.V đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất với tên


9

“phân loại đánh giá đất đai cho quy hoạch sử dụng đất”. Đây là tài liệu đầu
tiên đề cập đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại
vùng Rhodesia trước đây, nay là cộng hòa Zimbabwe, Bộ Nông nghiệp đã
xuất bản cuốn sổ tay hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch
cơ sở hạ tầng cho trồng rừng. Vào đầu những năm 60 của thế kỉ XX, tạp chí
“East Afican Journal fof Agricultue and Dorestry” đã xuất hiện nhiều bài báo

về quy hoạch cơ sở hạ tầng ở Nam Châu phi. Năm 1966, Hội đất học của Mỹ
và Hà Nội cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả
năng của đất và ứng dụng trong quy hoạch sử dụng đất, vv…[8].
Trong khi xấy dựng khung đánh giá đất đai, lần đầu tiên tổ chức FAO
năm 1976 đã đề xuất cấu trúc khung quy hoạch sử dụng đất với 10 điểm
chính. Trong phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng sử dụng đất được
xét như là các bước chính trong q trình quy hoạch [27].
Năm 1985 một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng
đất được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình quy hoạch sử
dụng đất.
Wilkingson năm 1985 nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất theo khía
cạnh luật pháp. Tác giả đề nghị “Một hệ thống pháp luật thích hợp cần được
phát triển nhằm mục đích: Cung cấp chính sách và mục tiêu rõ ràng của Nhà
nước về đất đai, thiết lập các tổ chức sử dụng đất, phù hợp với các yêu cầu sử
dụng theo quy trình kế hoạch và kỹ thuật, tăng cường sự thống hiểu về sử
dụng đất và khuyến khích sản xuất cơ chế giám sát và cưỡng chế” [30].
Năm 1986, Dent và nhiều tác giả nghiên cứu sâu về công trình quy
hoạch, Ơng khái qt quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau và mối
quan hệ của các cấp: kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng (tỉnh,
huyện) cấp cộng đồng (xã, thơn). Ơng cịn đề xuất quy trình quy hoạch gồm 4
giai đoạn và 10 bước [26].


10

Nhưng kết quả thử nghiệm phân tích hệ thống canh tác tại Châu á,
Châu phi và Nam Mỹ xác nhận rằng tích hệ thống canh tacs là một cơng cụ
quy hoạch lâm nghiệp và lập kế hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng
đất cấp địa phương. Lung năm 1990 lần ddaaud tiên nghiên cứu đánh giá đất
đai với phân tích hệ thống canh tác cho quy hoạch sử dụng đất.

1.2.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ
Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp ở Liên Xô trước đây: Nguyễn
Nhật Tân – Nguyễn Thị Vịng (1995) [17]: Quy hoạch vùng nơng nghiệp là
một biện pháp tổng hợp của nhà nước về phân bố và phát triển lục lượng sản
xuất trên lãnh thổ các vùng hành chính – nơng nghiệp nhằm đáp ứng các nhu
cầu về phát triển tất cả các ngành kinh tế quốc dân trong vùng. Quy hoạch
vùng nông nghiệp là giai đoạn kết thúc của kế hoạch hóa tương lai của nhà
nước một cách chi tiết sự phát triển và phân bố lực lượng sản xuất theo lãnh
thổ của vùng, là biện pháp xác định các xí nghiệp chun mơn hóa một cách
hợp lý, là biện pháp thiết kế và đưa vào nề nếp việc sử dụng đất đai trên từng
khu vực cụ thể của vùng, là biện pháp xác định sự phân bố đúng đắn các cơ
quan y tế và phục vụ sinh hoạt văn hóa cho nhân dân, là biện pháp xây dựng
các tiền đề tổ chức lãnh thổ nhằm sử dụng hợp lý các của cải tự nhiên, các
thành tựu khoa học kĩ thuật, các nguồn lao động nhằm phát triển với tốc độ
nhanh kinh tế của tất cả các xí nghiệp đồng thời cải thiện đời sống vật chất và
văn hóa của nhân dân trong vùng lao động nơng nghiệp đó.
Trần Hữu Viên (2005) [25]: Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tuân
theo học thuyết Mác – Lê Nin về phân bố và phát triển lực lượng sản xuất
theo lãnh thổ và sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Các Mác và Ăng Ghen đã chỉ ra “Mức độ phát triển của lực lượng sản
xuất của một dân tộc thể hiện rõ nét hơn hết ở sự phân công lao động của dân
tộc đó được phát triển đến mức độ nào”.


11

Lê Nin đã chỉ ra “Sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm tự nhiên
kinh tế xã hội của mỗi vùng là nguyên tắt quan trọng để phân bố sản xuất”. Vì
vậy, nghiên cứu đặc điểm đặc trưng cho sự phân bố lực lượng sản xuất cho
một vùng trong quá khứ và hiện tại để xác định khả năng tiềm tàng và tương

lai phát triển của vùng đó.
Dựa trên cơ sở học thuyết Mác và Ăng Ghen, V.I.Lê Nin đã nghiên cứu
các hướng cụ thể và kế hoạch hóa và phát triển lực lượng sản xuất trong xã
hội chủ nghĩa.
Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari trước đây: Nhằm sử dụng hiệu quả
nhất vùng lãnh thổ của đất nước. Bố trí hợp lý các hoạt động của con người
nhằm đảm bảo tái sản xuất mở rộng, xây dựng đồng bộ môi trường sống.
Quy hoạch lãnh thổ đất nước được phân thành các vùng: Lãnh thổ là
môi trường thiên nhiên phải bảo vệ; Lãnh thổ thiên nhiên khơng có nông thôn,
sự tác động của con người vào đây rất ít; Lãnh thổ là mơi trường thiên nhiên
có mạng lưới nơng thơn, có sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi
cho nghỉ mát; Lãnh thổ là môi trường nơng nghiệp khơng có mạng lưới nơng
thơn nhưng có tác động đặc biệt của con người; Lãnh thổ là môi trường nơng
nghiệp có mạng lưới nơng thơn và có sự can thiệp vừa phải của con người,
thuận lợi cho nghỉ mát; Lãnh thổ là mơi trường nơng nghiệp khơng có mạng
lưới nơng thơn nhưng có tác động đặc biệt của con người; Lãnh thổ là môi
trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người.
Trên cơ sở quy hoạch vùng lãnh thổ cả nước tiến hành quy hoạch lãnh
thổ vùng và quy hoạch lãnh thổ địa phương.
Quy hoạch vùng ở Pháp: Theo quan niệm chung của hệ thống các quy
hoạch vùng lãnh thổ M.Thensevin (M.Pierr Thenseevin), một chuyên gia
thống kê đã giới thiệu một số mơ hình quy hoạch vùng được áp dụng thành
công ở miền Tây Nam nước Cộng hịa Coote D’ivoire. Trong mơ hình quy


12

hoạch vùng này, người ta nghiên cứu hàm mục tiêu cực đại giá trị tăng thêm
xã hội với các giàng buộc trong nội dùng, có quan hệ với các vùng khác và
với nước ngồi. Thực chất mơ hình là một bài tốn quy hoạch tuyến tính có

cấu trúc:
-Các hoạt động sản xuất:
+Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và
trồng trọt cơng nghiệp với các mức thâm canh cao độ, thâm canh trung bình
và cổ điển (truyền thống).
+Hoạt động khai thác rừng
+Hoạt động đô thị: Chế biến gỗ, bột giấy, vận chuyển, dịch vụ, thương
mại,..
-Nhân lực theo các dạng thuế thời vụ, các loại lao động nông nghiệp,
lâm nghiệp.
-Cân đối xuất nhập, thu chi và các cân đối khác vào giàng buộc diện
tích đất, về nhân lực, về tiêu thụ lương thực,…
Tóm lại: Quy hoạch vùng nhằm đạt được mục địch khai thác lãnh thổ
theo hướng tăng thêm giá trị sản phẩm của xã hội theo phương pháp mơ hình
hóa trong điều kiện thực tiễn của vùng, so sánh với vùng xung quanh và nước
ngoài.
Quy hoạch vùng lãnh thổ của Thái Lan: Công tác quy hoạch vùng lãnh
thổ được chú ý từ những năm 1970. Hệ thống quy hoạch được tiến hành theo
3 cấp: (Quốc gia, vùng, á vùng hay địa phương).
Vùng (Region) được coi như một á miền (Subdivision) của đất nước.
Đó là điều cần thiết để phân chia quốc gia thành các á miền theo các phương
diện khác nhau như phân bố dân cư, khí hậu, địa hình,… Đồng thời vì lý do
quản lý hay chính trị, đất nước chia thành các miền như đơn vị hành chính
hay đơn vị bầu cử. Quy mơ diện tích của vùng phụ thuộc vào kích thước, diện


13

tích của đất nước. Thơng thường vung nằm trên một diện tích lớn hơn đơn vị
hành chính lớn nhất. Sự phân chia vùng theo mục đích của quy hoạch, theo

đặc điểm của lãnh thổ.
Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp á miền được xây dựng theo
2 cách:
Thứ nhất: Sự bổ sung của kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng,
nhưng mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sao đó kế hoạch
vùng được giải quyết trong kế hoạch quốc gia.
Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của
vùng, các kế hoạch vùng đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc gia.
Quy hoạch phải gắn liền với các tổ chức hành chính và quản lý nhà
nước, phải phối hợp với chính phủ và chính quyền địa phương.
Dự án phát triển của Hoàng Gia Thái Lan đã xác định được vùng nơng
nghiệp chiếm một vị trí quan trọng về kinh tế, xã hội và chính trị ở Thái Lan
và tập trung xây dựng ở 2 vùng: Trung tâm và Đông Bắc. Trong 30 năm
(1961-1988 đến 1992-1996), tổng dân cư nông thôn trong các vùng nông
nghiệp từ 80% giảm xuống 66,6%, các dự án tập trung vào mấy vấn đề quan
trọng: Nước, đất đai, vốn đầu tư kĩ thuật, nông nghiệp, thị trường [18].
1.2.3. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Vên (1999) [25]: Đầu thế kỉ 18, phạm vi quy
hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc “khoanh khu chặt luân chuyển” có
nghĩa là đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng chia đều cho từng năm
của chu kì khai thác và tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng
hoặc diện tích. Phương thức này phục vụ cho phương thức inh doanh rừng
chồi, chu kì khai thác ngắn.
Sau cách mạng cơng nghiệp, vào đầu thế kỉ XIX phương thức kinh
doanh rừng chồi được thay thế bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu


14

kì khai thác dài. Và phương thức “khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ

cho phương thức “chia đều” của Hartig. Hartig đã chia chu kì khai thác thành
nhiều thời kì lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Đến
năm 1816 xuất hiện phương pháp phân kì lợi dụng của H.Cotta chia chu kì
khai thác thành 20 thời kì lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng chặt
hàng năm.
Sau đó phương pháp “Bình qn thu hoạch” ra đời. Quan điểm phương
pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kì khai thác hiện tại, đồng thời
vẫn bảo đảm thu hoạch được liên tục trong chu kì sau. Và đến cuối thế kỉ XIX
xuất hiện phương pháp “Lâm phần kinh tế” của Judeich, phương pháp này
khác với phương pháp “Bình quân thu hoạch” về căn bản. Judeich cho rằng
những lâm phần nào đảm bảo thu hoạch đưcọ nhiều tiền nhất sẽ đưa vào diện
khai thác. Hai phương pháp “Bình quân thu hoạch” và “Lâm phần kinh tế”
chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác
nhau. Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp “Cấp
cuối” chịu ảnh hưởng của “Lý luận rừng tiêu chuẩn”, có nghĩa là rừng phải có
kết cấu rừng tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa
các cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh
rừng này được dùng phổ biến ở các nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn
phương pháp “Lâm phần kinh tế” và hiện này là phương pháp “Lâm phần”
không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần
tiến hành phân tích, xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh. Cũng từ
phương pháp này, còn phát triển thành “Phương pháp kinh doanh lô” và
“Phương pháp kiểm tra”.
Năm 1929 bang Wiscosin đã tạo ra luật sử dụng đất đai trong đó có quy
định nguyên tắc sử dụng đất lâm nghiệp, tiếp theo xây dựng kế hoạch sử dụng


15

đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin, kế hoạch này đã xây dựng cá

diện tích cho sử dụng đất lâm nghiệp, nơng nghiệp và nghỉ ngơi giải trí.
1.3. Ở Việt Nam
1.3.1. Quy hoạch sử dụng đất
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã chỉ ra “Xúc tiến công tác điều tra
cơ bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất,
nghiên cứu chiến lược kinh tế xã hội, dự thảo kế hoạch triển vọng để chuẩn bị
cho kế hoạch 5 năm sau (1986-1990)”.
Các tác giả: Phạm Văn Chiểu (1964); Bùi Huy Đáp (1977); Vũ Tuyên
Hoàng (1987); Lê Trọng Cúc (1971); Nguyễn Ngọc Bình (1987); Bùi Quang
Toản (1991) đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về luân canh tăng vụ, trồng
xen, trồng gối vụ với mục đích sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai. Bên cạnh
đó những nghiên cứu lựa chọn hệ thống cây trồng phù hợp trên đất dốc vùng
đồi núi phía Bắc Việt Nam cũng đã được nhiều tác giả đề cập đến.
Năm 1993, nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về quy hoạch sử dụng đất
và giao đất lâm nghiệp cấp xã do dự án đổi mới chiến lược phát triển rừng
thực hiện tại xã Tử Nê, xã Hang kìa và xã Pà Cị thuộc tỉnh Hịa Bình. Một
trong những bài học rút ra được qua việc thực thi dự án là công tác quy hoạch
sử dụng đất phải được coi là một nội dung chính và cần được thực hiện trước
khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương dãy cố định, lấy xã là đơn vị
để lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng,
trưởng bản và chính quyền xã. Hạn chế của chương trình này là chưa có kế
hoạch sử dụng chi tiết nên khó tránh khỏi các mâu thuẫn của cộng đồng phát
sinh sau quy hoạch.
Năm 1994, Tổng cục địa chính đã xây dựng kế hoạch và triển khai
công tác quy hoạch sử dụng đất trên quy mơ cả nước giai đoạn 1995-2000.
Trong đó việc lập kế hoạch giao đất nơng nghiệp, lâm nghiệp có rừng để sử


16


dụng vào mục đích khác cũng được đề cập tới. Báo cáo đánh giá tổng quan
hiện trạng sử dụng đất và định hướng phát triển đến năm 2000 làm căn cứ để
các địa phương, các ngành thống nhất triển khai công tác lập quy hoạch và kế
hoạch sử dụng đất[16].
Nguyễn Xn Qt (1996) [11], đã phân tích tình hình sử dụng đất đai
và đề xuất mơ hình sử dụng đất bền vững, mơ hình khoanh ni phục hồi
rừng ở Việt Nam. Đồng thời, đưa ra tập đồn cây trồng thích hợp cho mơ hình
sử dụng đất tổng hợp bền vững trong cơng trình nghiên cứu “Sử dụng đất
tổng hợp và bền vững”.
Các vấn đề sử dụng đất đai gắn liền với bảo vệ độ phì nhiêu của đất và
mơi trường vùng đồi núi trung du phía Bắc Việt Nam, đã được Lê Vĩ (1996)
đề cập tới trên các khía cạnh: Tiềm năng đất vùng trung du; Hiện trạng sử
dụng đất vùng trung du; Các kiến nghị về sử dụng đất bền vững.
Tác giả Vũ Văn Mễ và Desloges (1996), đã thử nghiệm phương pháp
quy hoạch sử dụng đất có người dân tham gia tại Quảng Ninh đã đề xuất 6
nguyên tắc và các bước cơ bản trong QHSDĐ trong đó cấp xã đóng vai trị
phát triển trong phương pháp quy hoạch. Sáu ngun tắc đó là: Kết hợp hài
hịa giữa ưu tiên của chính phủ và nhu cầu nguyện vọng của nhân dân địa
phương; Tiến hành trong khuôn khổ luật định và các nguồn lực hiện có tại địa
phương; Đảm bảo tính cơng bằng, chú ý đến cộng đồng dân tộc miền núi,
nhóm người nghèo và vai trị phụ nữ; Đảm bảo tính bền vững; Đảm bảo
nguyên tắc cùng tham gia; Kết hợp hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng.
Luật đất đai năm 2003 quy định cụ thể về công tác quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất. Điều 22 quy định căn cứ để lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
Điều 23 quy định nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều 25 quy
định rõ cả 4 cấp hành chính trong cả nước phải lập quy hoạch, kế hoạch sử


17


dụng đất; Điều 26 quy định về thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất; Điều 29 thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [12].
Ngày 01/07/2004 Luật đất đai mới chính thức có hiệu lực thi hành.
Luật quy định rõ về công tác quản lý đất đai, trong đó nêu rõ nội dung cơng
tác quản lý quy hoạch sử dụng đất.
Chính phủ ban hành nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về
việc thi hành luật đất đai [4]. Đồng thời Bộ tài nguyên và môi trường cũng
ban hành thông tư số 20/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 về việc hướng
dẫn, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [2].
1.3.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ
1.3.2.1. Quy hoạch vùng chuyên canh (Quy hoạch vùng chuyên canh cây
trồng)
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế, đã xây dựng các vùng chuyên
canh lúa ở đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, các vùng rau
thực phẩm cho thành phố lớn, các vùng cây công nghiệp ngắn ngày (hàng
năm): Vùng bông Thuận Hải, vùng đay Hải Hưng, vùng thuốc lá Quảng An
(Cao Bằng), Ba Vì (Hà Sơn Bình nay là Hà Nội), Hữu Lũng (Lạng Sơn), Nho
Quan (Hà Nam Ninh nay là Ninh Bình), vùng mía Vạn Điểm, Việt Trì, Sơng
Lam, Quảng Ngãi,… các vùng cây cơng nghiệp dài ngày (lâu năm): Vùng cao
su Sông Bé, Đồng Nai, Buôn Hồ (Đắc Lắc) Chư Pả, Ninh Đức (Gia Lai Kon
Tum), vùng chè ở Hoàng Liên Sơn, Mộc Châu, Thái nguyên, Lâm Đồng, Gia
Lai Kon Tum, vùng dau tằm Bảo Lộc (Lâm đồng),…
Quy hoạch vùng chuyên canh có tác dụng: Xác định phương hướng sản
xuất, chỉ ra những vùng chuyên môn hóa và những vùng có khả năng hợp tác
quốc tế; Xác định và chọn những vùng trọng điểm giúp nhà nước tập trung
đầu tư vốn đúng đắn; Xây dựng được cơ cấu sản xuất, các chỉ tiêu sản xuất
sản phẩm và sản phẩm hàng hóa của vùng, yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất,


18


kỹ thuật phục vụ sản xuất, nhu cầu lao động; Cơ sở để xây dựng kế hoạch
phát triển, nghiên cứu tổ chức quản lý kinh doanh theo ngành và theo lãnh
thổ.
Quy hoạch vùng chuyên canh đã thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là bố trí
cơ cấu cây trồng được chọn với quy mô và chế độ canh tác hợp lý, theo
hướng tập trung, để ứng dụng tiến bộ kĩ thuật nhằm nâng cao năng suất, sản
lượng và chất lượng sản phẩm cây trồng, đồng thời phân bố các chỉ tiêu
nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ sở sản xuất, làm cơ sở cho công tác quy hoạch,
kế hoạch của các cơ sở sản xuất.
Quy hoạch vùng chuyên canh có các nội dung chủ yếu sau: Xác định
quy mô, ranh giới vùng; Xác định phương hướng, chỉ tiêu nhiệm vụ sản xuất;
Bố trí sử dụng đất đai; Xác định quy mơ ranh giới nhiệm vụ chủ yếu cho các
sí nghiệp trong vùng và tổ chức sản xuất ngành nông nghiệp; Xác định hệ
thống cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ sản xuất đời sống; Tổ chức và sử dụng
lao động; Ước tính đầu tư và hiệu quả kinh tế; Dự tính tiến độ thực hiện quy
hoạch [17].
1.3.2.2. Quy hoạch nơng nghiệp huyện
Quy hoạch nông nghiệp huyện được tiến hành ở hầu hết các huyện là
một quy hoạch ngành bao gồm cả nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thủ
công nghiệp và công nghiệp chế biến. Nhiệm vụ chủ yếu của quy hoạch nông
nghiệp huyện: Một là trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện,
căn cứ vào dự án phát triển và phân bố lực lượng sản xuất và phân vùng nông
nghiệp tỉnh (hoặc thành phố) đã được phê duyệt, xác định phương hướng
nhiệm vụ, mục tiêu phát triển nông nghiệp và xấy dựng các biện pháp nhằm
thực hiện các mục tiêu đó theo hướng chun mơn hóa, tập trung hóa kết hợp
phát triển tổng hợp nhằm thực hiện ba mục tiêu nông nghiệp là giải quyết
lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và nông sản xuất khẩu



19

ổn định. Hai là hoàn thiện phân bố sử dụng đất đai cho các đối tượng sử dụng
đất đai được hiệu quả cao, đồng thời bảo vệ và nâng cao độ phì nhiêu cho đất.
Ba là tạo điều kiện để ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất nơng nghiệp.
Bốn là tính vốn đầu tư cơ bản và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp theo quy
hoạch.
Nội dung chủ yếu của quy hoạch nopong nghiệp huyện. Xác định
phương hướng và mục tiêu phát triển nong nghiệp; Bố trí sử dụng đất đai;
Xác định cơ cấu và quy mô sản xuất nơng nghiệp (phân chia và tính tốn quy
mơ các vùng sản xuất chun mơn hóa, xác định vùng sản xuất thâm canh cao
sản, các tổ chức liên kết nông – công nghiệp, các cơ sở sản xuất nông nghiệp;
Tổ chức công nghiệp chế biến nông sản và tiểu thủ công nghiệp trong nông
nghiệp; giải quyết mối quan hệ giữa các ngành sản xuất có liên quan trong và
ngồi nơng nghiệp; Bố trí các cơ sở vật chất, kĩ thuật phục vụ nơng nghiệp
(thủy lợi, giao thơng, cơ khí, ddienj, cơ sở dịch vụ thương nghiệp); Tổ chức
sử dụng lao động nông nghiệp, phân bố các điểm dân cư nơng thơn; Những
cân đối chính trong sản xuất nơng nghiệp (lương thực, thực phẩm, thức ăn gia
súc, phân bón, vật tư kĩ thuật nơng nghiệp, ngun liệu cho các xí nghiệp chế
biến); Tổ chức các cụm kinh tế xã hội; bảo vệ môi trường; Vốn đầu tư cơ bản;
hiệu quả sản xuất và tiến độ thực hiện quy hoạch.
Đối tượng quy hoạch nơng nghiệp huyện là tồn bộ đất đai, ranh giới
hành chính huyện [17].
1.3.3. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng áp dụng ở nước ta từ thời kỳ Pháp
thuộc. Như việc xây dựng phương án điều tra rừng chồi, sản xuất củi, điều
chế rừng thông theo phương pháp hạt đều…
Đến năm 1955 – 1957, tiến hành sơ thám mô tả để ước lượng tài
nguyên rừng. Năm 1958 – 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc.



20

Cho đến năm 1960 – 1964 công tác quy hoạch lâm nghiệp mới áp dụng ở
Miền Bắc. Từ năm 1965 đến nay, lực lượng quy hoạch lâm nghiệp ngày càng
được tăng cường và mở rộng [18].
Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng điều tra
quy hoạch của các sở lâm nghiệp ( nay là sở nông nghiệp và phát triển nông
thôn) các tỉnh, không ngừng cải thiện phương pháp điều tra, quy hoạch lâm
nghiệp của các nước cho phù hợp với điều kiện trình độ tài nguyên rừng ở
nước ta. Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển của các nước khác thì quy hoach
lâm nghiệp nước ta hình thành và phát triển muộn hơn rất nhiều. Vì vậy,
những phương pháp nghiên cứu cơ bản về kinh tế, xã hội và tài nguyên rừng
làm cơ sở cho công tác quy hoạch lâm nghiệp chưa được giải quyết triệt để,
nên công tác này ở nước ta đạng trong giai đoạn vừa tiến hành vừa nghiên cứu
áp dụng [21].
Trong cơng trình “Đất rừng Việt Nam”, Nguyễn Ngọc Bình (1996) đã
đưa ra những quan điểm nghiên cứu và phân loại đất rừng trên cơ sở những
đặc điểm cơ bản của đất rừng Việt Nam [1].
Năm 1997, Đặng Văn Phụ, Hà Quang Khải trong chương trình tập huấn
hỗ trợ lâm nghiệp xã hội của Trường Đại học Lâm nghiệp đã đưa ra khái niệm
về hệ thống sử dụng đất và đề xuất một số hệ thống, kĩ thuật sử dụng đất bền
vững trong điều kiện Việt Nam. Trong đó các tác giả đã đi sâu phần tích về:
Quan điểm về tính bền vững; Kĩ thuật sử dụng đất bền vững; hệ thống sử
dụng đất bền vững trong các hệ thống và kĩ thuật sử dụng đất [10].
Tài liệu tấp huấn về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có
sự tham gia của người dân, tác giả Trần Hữu Viên (1997) [22] đã kết hợp
phương pháp sử dụng đất trong nước và của một số dự án Quốc tế đang áp
dụng tại một số vùng có dự án ở Việt Nam. Trong đó tác giả đã trình bày về



21

khái niệm và nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch sử dụng đất và giao đất có người
dân tham gia.
Theo chiến lược phát triển rừng quốc gia giai đoạn 2006 – 2020 một
trong những tồn tại mà Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đánh giá là:
“Công tác quy hoạch nhất là quy hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới,
chưa kết hợp chặt chẽ với quy hoạch của các ngành khác, cịn mang nặng tính
bao cấp và thiếu tính khả thi. Chưa quy hoạch 3 laoij rừng hợp lý và chưa
thiết lập được lâm phần ổn định trên thực địa…”. Đây cũng là nhiệm vụ nặng
nề cấp bách đối với ngành lâm nghiệp ở nước ta hiện nay [7].
Trong khn khổ của chương trình hợp tác kĩ thuật Việt Đức, dự án
phát triển rừng xã hội sông Đà đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy
hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp tại hai xã của 2 huyện Yên Châu
(Sơn La) và Tủa Chùa (Điện Biên) trên cơ sở hướng dẫn của cục kiểm lâm.
Với cách lầm 6 bước và lấy cấp thôn bản làm đơn vị hành chính để quy hoạch
và giao đất lâm nghiệp và áp dụng cách tiếp cận lâm nghiệp xã hội với cộng
đồng dân tộc vùng cao có thể là kinh nghiệm tốt.
1.3.3.1. Đặc thù của công tác quy hoach lâm nghiệp
Theo Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Viên (1999) [25]:
Địa bàn quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng rất đa dạng, phức tạp (bao
gồm cả vùng ven biển, trung du, núi cao và biên giới, hải đảo), thường có địa
hình cao, dốc, chia cắt phức tạp, giao thơng đi lại khó khăn và có nhiều ngành
kinh tế hoạt động.
Là đại bàn cư trú của đồng bào dân tộc ít người, trình độ dân trí thấp,
kinh tế xã hội chậm phát triển, đời sống vật chất và tinh thần còn gặp nhiều
khó khăn.



×