Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Nghiên cứu hiệu quả kinh tế và tác động môi trường của một số mô hình nông lâm kết hợp tại viện khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía bắc xã phú hộ thị xã phú thọ tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.95 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

------------------

NGUYỄN VĂN CHUNG

NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ TÁC ĐỘNG MƠI TRƯỜNG
CỦA MỘT SỐ MƠ HÌNH NÔNG LÂM KẾT HỢP TẠI VIỆN KHOA
HỌC KỸ THUẬT NÔNG LÂM NGHIỆP MIỀN NÚI PHÍA BẮC - XÃ
PHÚ HỘ - THỊ XÃ PHÚ THỌ - TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI - 2010


BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

--------------------

NGUYỄN VĂN CHUNG

NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ TÁC ĐỘNG MƠI TRƯỜNG


CỦA MỘT SỐ MƠ HÌNH NÔNG LÂM KẾT HỢP TẠI VIỆN KHOA
HỌC KỸ THUẬT NÔNG LÂM NGHIỆP MIỀN NÚI PHÍA BẮC - XÃ
PHÚ HỘ - THỊ XÃ PHÚ THỌ - TỈNH PHÚ THỌ

Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
Mã số: 60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ QUỐC DOANH
HÀ NỘI - 2010


1

Chương 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất đồi núi (đất dốc) chiếm trên 3/4 diện tích trong tổng số 32,929 triệu
ha đất tự nhiên của Việt Nam. Đây là những hệ sinh thái đa dạng, giàu tiềm
năng song cũng rất dễ bị tổn thương. Việc sử dụng đất dốc gặp phải hàng loạt
trở ngại như xói mịn, rửa trơi bề mặt, rửa trơi theo chiều sâu, thiếu độ ẩm, đất
chua, nghèo kiệt dinh dưỡng và độ dễ tiêu thấp. Tất cả các trở ngại này đều
liên quan với một yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu đó là sự tuần hồn chất
hữu cơ bao gồm cả lớp phủ thực vật và vật chất mùn cấu thành bản thể đất.
Miền núi Việt Nam gần 1/3 dân số của cả nước (> 24 triệu người) trong
đó gần 9 triệu là đồng bào các dân tộc thiểu số có trình độ dân trí thấp, tập
qn canh tác lạc hậu, nền kinh tế nghèo nàn, đời sống thấp kém và có hệ sinh
thái khơng bền vững do con người gây ra. Phần lớn đất đai có địa hình chia
cắt, độ dốc lớn và hiểm trở. Do thiếu đất sản xuất nên nông dân miền núi vẫn

phải canh tác trên đất có độ dốc rất lớn, thậm trí trên 45 0. Với độ dốc như vậy,
sự việc xói mịn đất xảy ra rất mạnh dẫn đến đất bị thoái hoá nghiêm trọng và
trở thành đất trống đồi núi trọc, hiện tượng “hoang mạc” hóa đang diễn ra ở
nhiều nơi.
Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc là đơn vị
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ về nông lâm nghiệp phục vụ
phát triển trung du miền núi phía Bắc nói riêng và cả nước nói chung. Cho
đến nay Viện đã có rất nhiều đề tài, chương trình, dự án mang lại hiệu quả rất
thiết thực cho người dân miền núi. Vùng Miền núi phía Bắc là một trong
những vùng khó khăn nhất với diện tích đất dốc chiếm trên 90% tổng diện
tích của vùng, trong đó có tới 51% diện tích có độ dốc lớn và 38.4% đất có
tầng đất mỏng dưới 50 cm. Vì vậy việc giới thiệu các mơ hình nơng lâm kết


2

hợp vào thực tiễn sản xuất đóng một vai trị quan trọng nhằm cải thiện sinh kế
cho nông dân miền núi.
Hiện nay cũng đã có nhiều mơ hình nơng lâm kết hợp đã được áp dụng
và nhân rộng như: Muồng + Chè + cốt khí ( Phú Thọ, Yên Bái), Trồng cỏ +
Chăn nuôi + Cây ăn quả ( Sơn La, Yên Bái), Lúa nương + Sắn + Cây Mỡ (
n Bái, Tun Quang, Hà Giang…), các mơ hình trồng xen Lạc, Đỗ, Sắn
với cây ăn quả ở Phú Thọ, n Bái ….Những mơ hình trên đã bước đầu đem
lại tính hiệu quả và bền vững của chúng. Tuy nhiên, để đánh giá xác định
những mơ hình triển vọng nhất và phạm vi/điều kiện áp dụng thích hợp cho
vùng miền núi phía Bắc là rất cần thiết. Xuất phát từ những yêu cầu thực tế
khách quan và ý nghĩa ứng dụng của mơ hình nơng lâm kết hợp, chúng tơi
thực hiện đề tài: “Nghiên cứu hiệu quả kinh tế và tác động mơi trường của
một số mơ hình nơng lâm kết hợp tại Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm
nghiệp miền núi phía Bắc - xã Phú Hộ - thị xã Phú Thọ - tỉnh Phú Thọ”.



3

Chương 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan về đất dốc
2.1.1. Khái niệm đất dốc
Khái niệm đất dốc: Đất dốc là đất có bề mặt nằm nghiêng, thường gồ
ghề hoặc lượn sóng, nằm nghiêng là mặt dốc hoặc sườn dốc, góc tạo bởi sườn
dốc và mặt nằm ngang là độ dốc của mặt đất.
Dựa vào tình trạng mặt đất dốc như thế nào, người nơng dân có những
hướng sử dụng đất và các biện pháp canh tác thích hợp.[12]
- Đất dốc nhẹ: dưới 150 làm ruộng bậc thang, vườn nhà .
- Đất dốc vừa 16-250 làm ruộng bậc thang, vườn nhà, vườn rừng.
- Đất dốc mạnh 25-350 làm nương định canh, vườn rừng.
- Đất dốc mạnh >350 khoanh nuôi bảo vệ rừng.
2.1.2. Những hạn chế đối với việc mở rộng canh tác trên đất dốc
+ Xói mịn và suy thoái đất:
Nội dung nghiên cứu hàng đầu trong canh tác đất dốc là kiểm sốt xói
mịn đất, phục hồi và cải thiện độ phì đất, đặc biệt là ở những vùng đất đã bị
thoái hoá. Các nước vùng nhiệt đới, do những đặc trưng về khí hậu như mưa
nhiều và phân phối trong nhiều năm, tính chất đất cũng như áp lực khai thác
đất dốc rất lớn, nên xói mịn đã trở thành yếu tố tác động mạnh mẽ trên mọi
phương diện, cần phải được quan tâm hơn.
Mức độ xói mòn đất lệ thuộc vào nhiều yếu tố như cấu trúc đất, độ tơi
xốp của tầng đất mặt, độ dốc, chiều dài sườn dốc ... đặc biệt là độ che phủ của
thảm thực vật. Hệ thống cây trồng chi phối rất nhiều về mức độ xói mịn và
rửa trơi đất. Năm 1978 Wischemeier W. H. và Smith D. D đã xây dựng
phương trình tính tốn lượng đất bị mất đi do xói mịn rất phổ dụng như sau:

A = R. K. L. S. C. P


4

Trong đó: A: Lượng đất mất do xói mịn.
R: Hệ số xói mịn do mưa.
K: Hệ số xói mịn của đất.
L: Chiều dài dốc.
S: Độ dốc.
C: Hệ số về độ che phủ của tán cây.
P: Hệ số về các biện pháp bảo vệ đất.
Mỗi năm trên thế giới do tác động của xói mịn, một lượng đất lớn bị
cuốn trơi ra sông, ra biển (25 tỷ tấn) và khoảng 5-7 triệu ha đất bị mất khả
năng canh tác (B.G. Rozanov 1990). Chỉ tính riêng Châu Á đã có khoảng
440 triệu ha đất chịu ảnh hưởng của xói mịn do nước, trong đó 322 triệu ha
là ở Đơng Nam Á (Oldeman L.R, 1994 ).
Theo Thomas Fairhurst và Ernst Mutert (1999) do tập quán canh tác
của người dân vùng cao, cũng như là nhu cầu lương thực (trong điều kiện sức
ép về dân số) mà nhiều diện tích rừng đã bị thay thế bởi những diện tích
nương rẫy, canh tác theo kiểu phát đốt (slash-and-burn) khơng có biện pháp
bảo vệ đất. Điều này đã làm mất dần đi các khu vực rừng đầu nguồn, làm
giảm khả năng thấm giữ nước của bề mặt đất, tăng khả năng xuất hiện lũ ống,
lũ quét, xói mịn và sạt lở đất.
Các số liệu thống kê cho thấy hàng năm các con sông đã chuyên chở
một lượng lớn sản phẩm của xói mịn (bùn cát) lắng đọng ở các cửa sông, cửa
biển: ở Trung Quốc, sông Hoàng Hà chở 1,6 tỷ m3 vào vịnh Becgan và ở ấn
Độ sông Brahmaputea chở 726 triệu tấn, sông Indus chở 435 triệu tấn
(FAO,1995).
Cũng theo đánh giá của tổ chức FAO (1995), khu vực Đông Nam Á

được xem là khu vực bị xói mịn mạnh nhất trên thế giới. Trong số 17 nước ở
Đông Nam Á, (Việt Nam là một trong 5 nước có xói mịn do nước ở mức


5

trung bình đến cực kỳ nghiêm trọng). Trong những năm gần đây, hơn 3 tỷ tấn
đất bị xói mịn hàng năm lắng đọng tại cửa biển của khu vực, đã và đang đẩy
nhanh quá trình phá huỷ hệ sinh thái vùng ven biển quý giá và đa dạng nhất
trên thế giới (Ernst Muter; Thomas Fairhurst, 1999).
Đất bị xói mịn thường kéo theo sự suy giảm chất lượng đất thông
qua việc giảm pH, giảm hàm lượng chất hữu cơ, giảm dung tích hấp thu,
giảm tính đệm, giảm kết cấu, giảm sức chứa ẩm, tăng dung trọng, giảm khả
năng cố định lân... là một trong các nguyên nhân làm giảm năng suất và sản
lượng cây trồng trên đất dốc.
Do đặc thù về khí hậu: Nóng ẩm, mưa nhiều, lượng mưa và cường độ
mưa lớn, nên hiện tượng xói mịn và rửa trơi xảy ra mạnh mẽ, làm giảm đáng
kể hàm lượng khoáng sét cũng như hàm lượng hữu cơ trong đất, dẫn đến khả
năng hấp thu hoá lý của đất kém và đất dễ bị mất các chất dinh dưỡng dễ tiêu.
Rửa trơi cịn làm q trình tích luỹ sắt nhơm tăng nhanh, đất bị chua và hấp thu
hoá học xảy ra với lân, làm đất dốc nhiều khi có hàm lượng lân tổng số khá
xong lại nghèo lân dễ tiêu (Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm, 1998).
Việt Nam với lượng mưa trung bình hàng năm từ 1500-2500 mm, trong
đó 80% tập trung vào mùa mưa và có đến 61% của lượng mưa gây nên dịng
chảy mặt, làm xói mịn nghiêm trọng với diện tích khoảng 4,3 triệu ha (Thái
Phiên, Nguyễn Tử Siêm, 1993 ). Xói mịn có tác động mạnh đến kinh tế xã
hội và môi trường sống, làm giảm sức sản xuất của đất.
Đất dốc Việt Nam chiếm khoảng 75% tổng diện tích tự nhiên và là hợp
phần quan trọng của quỹ đất quốc gia, đất dốc gắn liền với các thế mạnh về
rừng, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, đồng cỏ chăn nuôi, cây lương

thực, cây dược liệu quý hiếm, ... Thế nhưng, do nhiều nguyên nhân mà trong
tổng số 14,2 triệu ha đất chưa sử dụng thì đất đồi núi có tới 10,4 triệu ha chiếm
73% tổng diện tích đất chưa sử dụng của cả nước (Lê Thái Bạt, 2000).


6

Theo số liệu về mức độ suy thoái đất vùng Châu Á -Thái Bình Dương
của tổ chức FAO (Nguyễn Trọng Hà, 1996) thì hiện nay Việt Nam có tỷ lệ đất
bị thoái hoá đứng hàng đầu, chiếm tới 48,9% so với tổng diện tích của cả
nước và tương đương với Ấn Độ.
Qua nhiều nghiên cứu, tác giả Thái Phiên (1997) cho biết lượng chất dinh
dưỡng hàng năm bị mất đi do xói mịn ít nhất tương đương với 100.000 tấn phân
đạm urê, 220.000 tấn phân lân super, 50.000 tấn phân K2SO4 và khoảng 5 triệu
tấn phân chuồng, đó là chưa tính đến các yếu tố Ca+2, Mg+2 cũng bị rửa trơi cùng
với các ngun tố vi lượng khác.
Q trình xói mịn đã tác động mạnh mẽ đến sự thối hố nhanh
chóng của đất. Theo tính tốn của các nhà khoa học thì trong điều kiện thuận
lợi để hình thành được 2,54cm lớp đất mặt cần phải có thời gian là 30 năm
(FAO, 1995). Việc khôi phục lớp đất mặt đã mất đi không phải là việc đơn
giản và dễ làm, do đó mọi biện pháp kỹ thuật canh tác trên đất dốc liên quan
đến việc ngăn chặn xói mịn, giữ nền đất để canh tác lâu bền đều cần phải
được áp dụng, thực thi và mang tính chiến lược.
Theo thống kê của Tổng cục khí tượng thuỷ văn ở Tây Nguyên năm
1995 hạn hán đã làm 25 nghìn ha cà phê bị chết, hàng vạn ha khác bị ảnh
hưởng do thiếu nguồn nước tưới, mực nước ngầm nhiều vùng tụt thấp hơn 10
- 20 m chỉ sau 10 năm.
Theo Bùi Huy Hiền (2003) nguy cơ xói mịn trên cả 7 vùng sinh thái
của cả nước là rất cao. Do tập qn, nơng dân Việt Nam có nhiều kinh
nghiệm về trồng lúa nước nhưng lại ít kinh nghiệm về canh tác đất dốc. Vùng

Đơng Bắc bắc bộ diện tích đất dốc dưới 150 chiếm 17,7%, một tỷ lệ đáng kể.
Vùng Việt Bắc - Hoàng Liên Sơn và vùng Tây Bắc độ dốc cấp I chỉ chiếm 48% tổng diện tích đát đồi núi nên nguy cơ xói mịn rất lớn. Đến 2/3 diện tích
của vùng Đơng bắc đã bị mất rừng, mất lớp phủ rừng nên bị xói mịn mạnh.


7

Dun hải Nam trung bộ có diện tích xói mịn cao chiếm 14%, rất cao là 70%.
Khu vực nguy hiểm nhất đối với xói mịn là các đồi núi thấp chuyển tiếp giữa
đồng bằng duyên hải và núi hiện đang được khai thác một cách mạnh mẽ để
trồng các cây trồng cạn ngắn ngày. Tây Nguyên chỉ có 7,8% diện tích đất dốc
dưới 30 là có nguy cơ xói mịn thấp, diện tích cịn lại là có nguy cơ xói mòn
cao và rất cao.
Hạn chế về độc tố trong đất: q trình xói mịn làm giảm các kim loại
kiềm và kiềm thổ song song với hiện tượng tích lũy nhơm, sắt tạo nên độ
chua, trong nhiều trường hợp là độc tố trong đất. Sức chứa ẩm, tỷ lệ đoàn lạp
bền vững thấp, dung tích hấp thu và độ no bazơ thấp, hấp phụ lân cao, sự rửa
trôi nhanh và mạnh các ion NH4+, K, Na, Ca, Mg, Si là những nét chung về
đất dốc.
Trên đất dốc, canh tác cây lương thực như sắn, lúa nương làm giảm
nghiêm trọng độ phì nhiêu đất. Đất trồng Bạch đàn 10 năm, sau khi khai thác
đất hầu như thối hóa nghiêm trọng.
Những điều này cho thấy mức độ nghiêm trọng của tác động xói mịn
đất đến mơi trường, sinh thái khi mà chuyển từ hệ sinh thái rừng nhiệt đới
sang hệ sinh thái nông nghiệp. Trong khi xói mịn của đất rừng gần như bị
triệt tiêu thì xói mịn trên đất nương rẫy khi khơng có biện pháp chống xói
mịn có thể lên tới 200 hoặc lớn hơn 200tấn/ha/năm và điều đó đã làm giảm
đáng kể hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất.
+ Hạn hán trong mùa khơ:
Đất dốc khó giữ được nước nên thường bị hạn trong mùa khơ. Do đó,

việc canh tác phải phụ thuộc nhiều vào lượng nước mưa. Ở nhiều vùng cịn
khơng có đủ nước cho con người và động vật. Hạn hán là một trong những
khó khăn chính của vùng đất dốc. Nếu mưa chỉ đến muộn khoảng một tháng
so với dự tính thì một vụ mùa thất bại là chắc chắn. Hạn hán vào mùa khô là


8

do sự mất rừng cũng như do việc canh tác bừa bãi khơng thể kiểm sốt được
trên đất dốc. Lê Quốc Doanh, Hà Đình Tuấn, Andre Chabanne (2004)[8].
+ Giảm độ che phủ rừng:
Việc diện tích rừng bị giảm và các phương pháp canh tác lạc hậu đã để
lại hậu quả là nhiều vùng đất rộng lớn đã trở thành đất trống đồi núi trọc. Ở
châu Á, khi rừng đã bị phá để trồng cây lương thực, đất sẽ trở nên chua và
thường bị cỏ tranh xâm chiếm. Người dân phải bỏ hóa khu đất này, tiếp tục
phá rừng nơi khác để làm nương rẫy mới trồng cây lương thực. Việc mất
thảm thực vật rừng sẽ ảnh hưởng rất xấu đến môi trường sinh thái như hạn
hán, lũ lụt, lũ quét ở vùng cao.
+ Tình trạng bị cơ lập:
Vùng núi có nhiều địa phương bị cách biệt khỏi các trung tâm phát
triển, cơ sở vật chất cịn vơ cùng thiếu thốn nên khó khăn hoặc khơng được
tiếp cận với dịch vụ xã hội. Chính điều này cũng làm chậm q trình triển
khai các tiến bộ khoa học kỹ thuật nên đã gây ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển kinh tế trong vùng.
+ Tỷ lệ đói nghèo và trình độ văn hố thấp:
Dân cư sống trên các vùng đất dốc chủ yếu là dân tộc thiểu số với tỷ lệ
đói nghèo cao, trình độ hiểu biết thấp hơn so với mức độ trung bình của cả
nước. Việc áp dụng các kỹ thuật canh tác hiệu quả và bền vững, chống xói
mịn đất, bảo vệ nguồn nước và trồng các cây cho hiệu quả kinh tế cao hơn
đòi hỏi sự đầu tư nhất định về kinh tế và kỹ thuật.

Trên đây là những khó khăn chính ở vùng cao địi hỏi phải có những
phương hướng hiệu quả và thân thiện hơn với môi trường để phát triển bền
vững kinh tế xã hội vùng cao.


9

2.1.3. Tiềm năng của đất dốc
Theo tài liệu của FAO đất nơng nghiệp trên tồn thế giới có khoảng
1.434 triệu ha (chiếm 10,6% diện tích đất tự nhiên), trong đó đất dốc chiếm
973 triệu ha (khoảng 65,9%) (Hudson.N, 1988) [44]. Trong tổng số diện tích
đất dốc nói trên, đất có độ dốc trên 100 chiếm 377 triệu ha (khoảng 25,5%)
theo (Hudson.N, 1988 [44], Dent, I. 1989 [41]).
Nếu tính riêng vùng Đơng Nam Á đất nơng nghiệp có khoảng 91 triệu
ha (chiếm 21% tổng diện tích), trong đó đất dốc là 58 triệu ha (khoảng
52,8%), (Thomas Dierolf et al, 2001)[55].
Theo Dudal 1978 [40] trong vòng 20 năm từ 1957 đến 1977 đất nơng
nghiệp trên tồn thế giới tăng thêm 150 triệu ha, bằng 10% đất có khả năng
khai hoang để sử dụng cho nông nghiệp và bằng 9% đất canh tác lúc đó.
Nhưng cũng trong 20 năm đó, dân số thế giới tăng tới 40% và lương thực do
số đất mới làm ra chỉ đủ đáp ứng cho 1/3 dân số tăng thêm. Rõ ràng việc tăng
năng suất và sản lượng cây trồng để đáp ứng nhu cầu lương thực của con
người là một thách thức lớn, đặc biệt là trong bối cảnh thay đổi khí hậu và
hiệu ứng nhà kính hiện nay. Một khi mực nước biển tăng lên thì nguy cơ bị
mất các vựa lúa lớn ở các vùng dun hải là khơng tránh khỏi.
Vì vậy, việc khai thác và sử dụng thông minh các nguồn tài nguyên
vùng cao là một điều rất cần thiết. Tuy cịn nhiều khó khăn và hạn chế nhưng
theo Lê Quốc Doanh, Nguyễn Văn Bộ, Hà Đình Tuấn (2005) [5] thì đất dốc
cũng có rất nhiều tiềm năng phát triển như:
- Mở rộng đất canh tác:

Đất dốc là một bộ phận quan trọng trong sản xuất nông nghiệp chiếm
khoảng 973 triệu ha (66%) trong 1.500 triệu ha đất sản xuất nông nghiệp trên
thế giới. Ở Việt Nam, đất dốc chiếm khoảng 76% đất tự nhiên. Trong diện
tích 9,4 triệu ha đất nơng nghiệp chỉ có 4,06 triệu ha là đất lúa, cịn trên 5


10

triệu ha là đất dốc, trong đó đất nương rẫy trồng lúa khoảng 640 ngàn ha, diện
tích cịn lại là đất rừng và đất chưa sử dụng. Do đất bằng được sử dụng khá
triệt để và diện tích đất nơng nghiệp đang bị thu hẹp (mỗi năm mất khoảng
0.4% đất canh tác, trong đó đất lúa giảm khoảng 1%/năm - Nguồn:
vnMedia.vn, ngày: 25/05/2007), nên đất dốc là nơi duy nhất còn tiềm năng
mở rộng đất canh tác.
- Sản xuất cây hàng hoá và đa dạng sản phẩm:
Cơ cấu cây trồng ở miền núi rất đa dạng, trong khi hầu hết đất bằng ở
miền xuôi phải dành cho sản xuất lương thực thì miền núi là nơi có đủ điều
kiện và tiềm năng đất đai để trồng cây ăn quả, cây cơng nghiệp có giá trị cao,
cây đặc sản và rau quả ơn đới.
- Phát triển chăn ni:
Chỉ có miền núi mới có đủ điều kiện về đất đai và khơng gian để đáp
ứng những yêu cầu về chuồng trại, khu chăn thả và đồng cỏ để phát triển chăn
nuôi quy mô lớn mà không gây ô nhiễm môi trường, không gây ảnh hưởng
xấu đến sức khoẻ con người. Đây là một thế mạnh mà ở miền xi khơng thể
nào có được. Muốn đưa chăn ni thành ngành sản xuất chính thì phải khai
thác tiềm năng đất đai và cây thức ăn gia súc ở miền núi.
- Phát triển lâm nghiệp:
Rừng có nhiều nguồn lợi tự nhiên vơ cùng q giá về kinh tế, xã hội và
đóng vai trị rất quan trọng trong bảo vệ sản xuất và môi trường, lưu giữ
nguồn nước sinh hoạt và nước sản xuất nông công nghiệp, cung cấp ơxi và

điều hồ khí hậu. Ở Việt Nam rừng chỉ tồn tại nhiều trên đất dốc và chỉ có
miền núi mới có tiềm năng phát triển lâm nghiệp và các sản phẩm liên quan
trực tiếp hay gián tiếp.
Theo Lê Văn Khoa, Trần Thị Lành (1997) [16] thì đất dốc cũng có một
số mặt mạnh như:


11

- Đất rộng và tương đối tốt (đất bazan, đất nâu đỏ trên đá vơi, đất đen
dốc tụ...).
- Khí hậu mát và ẩm, có thể gieo trồng cây đặc sản vùng ơn đới,
- Nơng dân vùng núi có kinh nghiệm canh tác trên đất dốc,
- Ít bị gió bão, ít dịch bệnh lan tràn, nguồn phân hữu cơ dồi dào.
Tóm lại, tuy cịn nhiều khó khăn trở ngại song miền núi vẫn là nơi có
nhiều tiềm năng để phát triển nhiều mặt, có nhiều lợi thế về tài nguyên mà
miền xi khơng có được như: diện tích đất rộng lớn, đa dạng sinh học cao,
nhiều tiềm năng phát triển sản xuất hàng hóa, khí hậu mát và ẩm… Vì vậy
cần quan tâm nhiều để vừa thúc đẩy sản xuất đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của
nông dân miền núi, vừa phải bảo vệ mơi trường vì sự tồn tại và phát triển lâu
dài của cả dân tộc.
2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu và phát triển nơng lâm kết hợp.
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới.
Canh tác cây thân gỗ cùng với cây trồng nông nghiệp trên cùng một
diện tích là một tập quán sản xuất lâu đời của nông dân ở nhiều nơi trên thế
giới. Theo King(1987), thời trung cổ ở châu Âu đã tồn tại một tập quán phổ
biến là “ chặt và đốt” rồi sau đó tiếp tục trồng cây thân gỗ cùng với cây nông
nghiệp hoặc sau khi thu hoạch nông nghiệp. Hệ thống canh tác này vẫn tồn tại
ở Phần Lan cho đến cuối thế kỷ 19 và vẫn còn ở một số vùng của Đức đến tận
những năm 1920.

Tại Châu Á, Trung Quốc được coi là một trong những “cái nôi” nông
nghiệp phương Đông. Khi lần theo dấu vết trong quá khứ ở giai đoạn đầu của
nông nghiệp lúc sơ khai, người ta nhận ra rằng canh tác cây gỗ kết hợp với
cây nơng nghiệp đã có từ rất lâu đời. Vào triều đại nhà Hán (từ 206 trước
công nguyên đến năm 220 sau công nguyên), người ta đã khuyến cáo phát
triển cây gỗ cùng với chăn nuôi và canh tác cây nông nghiệp (Zhu Zhaohua,


12

Fu Maoyi và C.B.Sastry, 2001). Lịch sử cổ đại Trung Quốc có ghi lại và mơ
tả khá tỷ mỉ về những kỹ thuật trồng xen. Vào cuối triều đại nhà Minh một
cuốn sách nổi tiếng là “Nongzheng Quanshu” (Bản luận hồn chỉnh về canh
nơng) được Hsu Kunangchhi (1640) viết, đã mô tả một kiểu canh tác kết hợp
giữa đậu tương và các hàng cây dẻ gai (Castanopsis sp) và cho biết bằng cách
này cả hai cây đều sinh trưởng rất hồn chỉnh, dẻ có thân thẳng, đậu tương
cho năng suất cao.
Ở vùng nhiệt đới của nước Mỹ, trong quá trình canh tác người ta đã bắt
chước điều kiện của rừng nhằm đạt được những ảnh hưởng có lợi của hệ sinh
thái của rừng. Họ trồng tầng trên cùng là dừa, tầng dưới là cam, quýt và tầng
thấp hơn là cà phê hoặc ca cao, cây mùa vụ có ngơ, lạc...và cuối cùng là mặt
đất được che phủ bằng các loại cây thấp, có thân bị như bí...đây là hệ thống
kết hợp thân thiện của nhiều loài cây, mỗi một tầng có cấu trúc riêng, ngoại
hình tầng thứ giống như rừng hỗn giao nhiệt đới.
Du canh được đánh giá là phương thức canh tác cổ xưa nhất. Người
Hunnunoo của nước Philipin có kinh nghiệm sử dụng phương pháp du canh
một cách kinh tế. Ở những nơi chặt rừng để canh tác nông nghiệp người ta
cân nhắc kỹ lưỡng để lại các cây gỗ nhất định cho tới cuối vụ lúa, nó sẽ tạo
nên sự che bóng nhờ những cây gỗ cịn lại đó, chống sự phơi nắng thái quá bề
mặt đất. Các cây gỗ là bộ phận không thể thiếu của hệ thống canh tác của

người hunnunoo và nó có thể được trồng hoặc giữ lại từ rừng cũ, nó cịn tác
dụng cung cấp gỗ xây dựng, củi đun (Conklin, 1957). Các hệ thống canh tác
như vậy còn gặp ở nhiều vùng nhiệt đới ẩm của châu Á. Còn ở châu Phi, ở
phía nam Nigeria người ta trồng khoai, ngơ, bí ngô và đậu với nhau được sự
che trở của tầng cây gỗ (Forde, 1937). Ở miền Tây Nigeria, người dân Yoruba
đã sử dụng hỗn hợp cây hoà thảo, cây dạng bụi và cât gỗ, họ cho rằng hệ
thống đó là phương tiện bảo tồn năng lượng của con người bằng cách sử dụng


13

tối đa khoảng khơng gian có giới hạn, đồng thời nhằm bảo vệ độ phì của đất
cũng như chống xói mịn ngăn chặn sự mặn hố đất (Ojo, 1966).
Sau phương thức du canh là sự ra đời của phương thức Taungya.
Nguồn gốc của phương thức này được gắn với một từ địa phương của ngơn
ngữ Myanma có nghĩa là canh tác đồi núi. Sự ra đời của phương thức
Taungya ở vùng nhiệt đới được xem như là một dấu hiệu báo trước cho các
phương thức nông lâm kết hợp sau này (NairP.K.R,1987). Vào năm 1806 khi
Miến Điện còn là một bộ phận của Ấn Độ thời thuộc địa của Anh, ông U.
Pankle đã cho người dân trồng rừng Tếch và trồng cây lương thực giữa các
hàng cây khi rừng chưa khép tán để giải quyết nhu cầu lương thực hàng năm.
Đây là phương pháp theo ông gọi là Taungya, sau đó ơng truyền lại phương
thức này cho nhà cai trị Anh ở Ấn Độ là Dictrich Brandis, từ đó phương thức
này được lan truyền và áp dụng rộng rãi ở ấn Độ và Nam Phi. Theo
Vonhesmer (1966 và 1970) và King (1979) thì hầu như ở các vùng nhiệt đới
bắt đầu từ phương thức này. Có thể nói Taungya là một bước phát triển từ du
canh sang nông lâm kết hợp (NLKH ), và hiện nay phương thức Taungya đã
phân hoá và phát triển thành các hệ thống, các phưong thức nông lâm kết hợp
đa dạng như hiện nay.
Như vậy NLKH là gì? Đã có rất nhiều tác giả định nghĩa về NLKH

như: Benn(1977), Kinh và Chandler (1978), PCARD (1979), Lundgreen
(1983)...Song hiện nay định nghĩa của Lundgreen và Raintree (1983) được coi
là hoàn chỉnh và được thừa nhận rộng rãi. Theo định nghĩa này: “Nông lâm
kết hợp là tên gọi chung của những hệ thống sử dụng đất trong đó các cây lâu
năm (cây gỗ, cây bụi, các cây họ cau dừa, tre trúc, cây ăn quả, cây công
nghiệp...) được trồng có suy tính trên cùng một đơn vị diện tích qui hoạch đất
với hoa màu và/hoặc với vật ni dưới dạng xen theo không gian hay theo
thời gian. Trong các hệ thống nơng lâm kết hợp có mối tác động tương hỗ


14

qua lại về cả mặt sinh thái lẫn kinh tế giữa các thành phần trong hệ thống”.
Từ định nghĩa trên có thể thấy đặc điểm chung của hệ thống NLKH là:
- Bao gồm hai hoặc nhiều hơn hơn hai loài thực vật (có thể cả thực vật
và động vật) trong đó ít nhất phải có một lồi cây trồng lâu năm.
- Có ít nhất hai hay nhiều hơn sản phẩm từ hệ thống.
- Chu kỳ sản xuất thường dài hơn là một năm.
- Đa dạng hơn về sinh thái và kinh tế so với độc canh.
- Cần phải có một mối quan hệ tương hỗ có ý nghĩa giữa thành phần cây
lâu năm và thành phần khác.
Quá trình hình thành và phát triển phương thức nông lâm nghiệp, người
ta nhận thấy rằng NLKH có vai trị quan trọng trong việc giải quyết vấn đề
lương thực, thực phẩm, hạn chế suy giảm tài nguyên rừng, bảo vệ và nâng cao
độ phì của đất. Chính vì lẽ đó mà ngay từ các kỳ họp năm 1967 và 1969 của
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hiệp Quốc (FAO) đã quan tâm
đến vấn đề này và đi đến một sự thống nhất đúng đắn là “áp dụng các biện
pháp nông lâm kết hợp là phương pháp tốt nhất để sử dụng đất rừng nhiệt đới
một cách hợp lý, tổng hợp nhằm giải quyết vấn đề về lương thực, thực phẩm
và sử dụng lao động dư thừa đồng thời thiết lập lại cân bằng sinh thái của môi

sinh”.
Tháng 5 năm 1990, Hội thảo quốc tế về nông lâm kết hợp vùng Châu Á
Thái Bình Dương được tổ chức tại Bangkok (Thái Lan) với 12 nước thành
viên tham gia trong đó có Việt Nam. Hội nghị đã đưa ra một số nguyên nhân
cần thiết phải mở rộng và phát triển nông lâm kết hợp trong vùng. Một trong
những nguyên nhân đó là vùng Châu Á Thái Bình Dương có dân số chiếm tới
69% dân số thế giới. Trong khi đó chỉ có 28% đất canh tác nơng nghiệp so với
đất canh tác tồn thế giới. Do mâu thuẫn giữa sức ép dân số với đất canh tác
mà hàng năm khoảng 2 triệu ha rừng bị tàn phá.


15

Trước những chủ trương mở rộng, phát triển nông lâm kết hợp ở tất cả
các nước trên thế giới, mỗi quốc gia có các hình thức, cũng như phương thức
phát triển nông lâm kết hợp cho phù hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở
mỗi quốc gia cùng với những khác biệt riêng của họ.
Ở Thái Lan đã có chủ chương phát triển các phương thức nơng lâm kết
hợp để giữ nước, duy trì độ ẩm, cải tạo sinh thái môi trường, phát triển đời
sống con người, kết quả đã thành công trong các nông trang trồng Ngô + Dứa
tạo ra các khu rừng hỗn giao nhiều tầng gồm Rừng + Cây họ đậu + Ngô +
Dứa...Thái Lan đã nghiên cứu hơn 20 lồi cây nơng nghiệp trồng xen trong
rừng cây gỗ mà hình thức phổ biến là rừng xen các băng cây ăn quả: lạc, đậu,
vải, xồi, cà phê, hồ tiêu.
Nơng lâm kết hợp ở Ấn Độ nổi tiếng thế giới về “cuộc cách mạng
xanh”, nhờ thành quả của cuộc cách mạng này mà Ấn Độ từ một nước đơng
dân khơng những khơng bị đói mà sản lượng nông nghiệp ngày càng tăng, đủ
để xuất khẩu lương thực. Trong các loài cây trồng ở Ấn Độ thì cây dừa là
đáng chú ý. Dừa đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt ở bang
Kerala, dừa chiếm 70% diện tích và sản phẩm dừa ở Ấn Độ. Ca cao là cây

trồng xen rất thành công với dừa nhất là ở những nơi tưới tiêu thuận lợi. Cà
phê được trồng ở nơi có độ cao thường được kết hợp với hồ tiêu, mít và các
cây ăn quả khác, cây lương thực điển hình là sắn, được trồng ở các vườn gia
đình.
Nơng lâm kết hợp ở Inđơnêxia, từ năm 1972 hoạt động nông lâm kết hợp
do các tổ chức công ty lâm nghiệp nhà nước tổ chức và quản lý. Việc chọn đất
khai hoang để trồng cây lâm nghiệp do các công ty này tiến hành. Nông dân
được các cán bộ kỹ thuật của công ty hướng dẫn trồng cây nông nghiệp, lâm
nghiệp. Sau khi trồng cây nông nghiệp 2 năm nông dân bàn dao lại rừng cho
cơ quan lâm nghiệp, sản phẩm nơng nghiệp họ tồn quyền sử dụng.


16

Mơ hình rừng rẫy ln canh có thể coi là phương thức duy trì hệ nơng
nghiệp sinh thái và quản lý rừng tự nhiên bền vững. Việc thực hiện mô hình
này với các nương rẫy tạo ra khơng lớn và giữ lại những mảnh rừng xung
quanh để làm nguồn gieo giống. Người sử dụng đã và đang tích cực điều
khiển quá trình tái sinh của rừng theo đúng quy luật (Clarker- 1976; Gomez
Poma- 1972).
Trồng xen theo băng (Alley Cropping) là kỹ thuật canh tác nơng lâm kết
hợp, trong đó cây họ đậu cố định đạm mọc nhanh được trồng thành hàng theo
đường đồng mức, giữa hai hàng cây này người ta canh tác nông nghiệp. Kỹ
thuật canh tác này được nghiên cứu tại viện nông nghiệp nhiệt đới quốc tế
Ibanda (Wilson và Kang- 1980). Hệ canh tác này cung cấp gỗ củi, thức ăn gia
súc và nguồn phân xanh để nâng cao độ phì cho đất và tăng năng suất cây
trồng. Kỹ thuật này tỏ ra thích hợp trên đất dốc, vì băng cây xanh có tác dụng
ngăn cản sự xói mịn, rửa trơi đất đồng thời hệ rễ của từng cây họ đậu cố định
nguồn đạm trong đất, từ đó nâng cao độ phì cho đất đai.
Trong nhiều mơ hình nơng lâm kết hợp được thực hiện ở các quốc gia

trên thế giới, thì cần phải kể đến hệ thống canh tác trên đất dốc ( SALT) nhằm
sử dụng đất dốc bền vững đã được trung tâm đời sống nơng thơn Bapstit
Mindanao của Philipin tổng kết, hồn thiện và phát triển từ giữa những năm
1970 đến nay. Cho đến năm 1992 đã có 4 mơ hình tổng hợp về kỹ thuật canh
tác nông nghiệp bền vững trên đất dốc được các tổ chức quốc tế ghi nhận đó
là:
- Mơ hình SALT 1 ( Sloping Agiculture Land Technology ) đây là mơ
hình tổng hợp dựa trên cơ sở các biện pháp bảo vệ đất để sản xuất lương thực.
Kỹ thuật canh tác nông nghiệp trên đất dốc với cơ cấu 25% cây lâm nghiệp
+25% cây lưu liên (nông nghiệp) +50% cây nông nghiệp hàng năm .


17

- Mơ hình SALT 2 ( Simple Agro- Livestock Technology) đây là kỹ
thuật sử dụng đất tổng hợp dựa trên kỹ thuật canh tác nông nghiệp trên đất
dốc (SALT1) bằng cách dành một phần đất trồng cây làm thức ăn để chăn
nuôi theo phương thức nông súc kết hợp. Bố trí diện tích canh tác của SALT2
như sau 40% đất dành cho sản xuất nông nghiệp +20% dành cho trồng cây
lâm nghiệp +20% dành cho trồng cây thức ăn và cỏ để chăn nuôi +20% làm
nhà ở chuồng trại.
- Mô hình SALT 3 ( Sustainable Agro- Forst Land Technology). Kỹ
thuật này dựa trên cơ sở kết hợp trồng rừng quy mô nhỏ với việc sản xuất cây
lương thực, thực phẩm. Trong hệ thống SALT3 nông dân dành phần đất thấp
ở sườn dưới và chân đồi để trồng các băng cây lương thực xen với các hàng
cây cố định đạm. Phần đất cao ở bên trên từ sười trên đến đỉnh đồi trồng rừng
hoặc để rừng tự nhiên phục hồi. Bố trí sử dụng đất như sau: 40% dùng cho
nơng nghiệp + 60% dùng cho lâm nghiệp. Mơ hình này địi hỏi đầu tư cao về
cả nguồn lực và vốn cũng như sự hiểu biết.
- Mơ hình SALT 4 (Small Agrofruit Likelihood Technology). Đây là

mơ hình kỹ thuật sản xuất nơng lâm nghiệp kết hợp với cây ăn quả qui mô
nhỏ và có cơ cấu sử dụng đất: 60% cây lâm nghiệp + 15% cây nông nghiệp +
25% cây ăn quả. Đây là mơ hình địi hỏi đầu tư cao về vốn, nhân lực và kỹ
thuật canh tác.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Việc sử dụng đất theo phương thức NLKH đã hình thành từ lâu đời với
những hình thức khác nhau. Tuỳ thuộc vào phong tục tập quán của từng địa
phương mà mơ hình NLKH được áp dụng từ đơn giản đến phức tạp. Thật khó
có thể xác định một cách chính xác thời điểm mà tại đó hệ thống nông lâm kết
hợp ra đời. Mặc dù vậy, người ta vẫn thừa nhận rằng sự hình thành và phát
triển của nó gắn liền với sự phát triển của các ngành khoa học thuộc nông lâm


18

nghiệp; và gắn liền với sự nhận thức của con người về sử dụng đất và nhu cầu
kinh tế. Lúc đầu, du canh (shifting cultivation) được xem là phương thức canh
tác cổ xưa nhất; tiếp theo cuộc cách mạng về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt,
sau du canh, sự ra đời của phương thức Taungya (canh tác đồi núi) ở vùng
nhiệt đới được xem là một dấu hiệu báo trước cho phương thức nông lâm kết
hợp sau này.
Ở Việt Nam, tập qn canh tác nơng lâm kết hợp đó có từ lâu đời, như
các hệ thống canh tác nương rẫy truyền thống của đồng bào các dân tộc ít
người, hệ sinh thái vườn nhà ở nhiều vùng địa lý sinh thái trên cả nước. Xét ở
khía cạnh mơ hình và kỹ thuật thì nơng lâm kết hợp ở Việt Nam đã phát triển
không ngừng. Từ những năm 1960, hệ sinh thái Vườn-Ao-Chuồng (VAC)
được nông dân các tỉnh miền Bắc phát triển mạnh mẽ và lan rộng khắp cả
nước với nhiều cải tiến khác nhau để thích hợp cho từng vùng sinh thái cụ thể.
Sau đó là hệ thống Rừng-Vườn-Ao-Chuồng (RVAC) và vườn đồi được phát
triển mạnh mẽ ở các khu vực dân cư miền núi.

Với chương trình nghiên cứu NLKH (1981- 1985) lần đầu tiên ở Việt
Nam việc nghiên cứu đánh giá về NLKH đã được xem xét và thực hiện trên
quan điểm khoa học đảm bảo tính lý luận, thực tiễn và đảm bảo tính chặt chẽ
dựa trên các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi vùng. NLKH được
xem như một phương án sản xuất chủ yếu để xây dựng các mơ hình lâm
nghiệp xã hội tại các địa bàn sản xuất lâm nghiệp quan trọng trong toàn quốc
như:
Theo Nguyễn Xuân Dậu (1986) về hệ thống canh tác và phương thức
canh tác nông lâm kết hợp ở vùng trung du miền núi phía Bắc thì các loại mơ
hình canh tác trên đất dốc như cây lâm nghiệp trồng xen chè thường cho hiệu
quả cao.


19

Bên cạnh sự nỗ lực của bản thân Việt Nam còn được sự giúp đỡ của
các tổ chức quốc tế như FAO đã giúp Việt Nam xây dựng chương trình
NLKH (1987-1989) thực hiện ở vùng đất cát ven biển.
Đặc biệt từ những năm 1991 trở lại đây trong chương trình Việt Nam Thụy Điển đã có nghiên cứu về vấn đề sử dụng đất và phát triển hệ thống
canh tác ở vùng trung du miền Bắc, miền Nam. Trong đó, đề tài của Vương
Văn Quỳnh (1994) đã đề cập đến các biện pháp bảo vệ đất và phát triển các
phương thức canh tác hợp lý tại xã Yên Phú- Hàm Yên- Tuyên Quang.
Vào tháng 10/1992 với sự hỗ trợ của tổ chức nông, lâm, gỗ củi khu vực
Châu Á Thái Bình Dương (dự án GCT/RAS - 131-NET), hội thảo quốc gia về
NLKH ở khu vực trung du và miền núi Việt Nam đã được tổ chức tại trường
đại học Lâm Nghiệp Việt Nam. Một trong những nội dung chính của hội thảo
là đề cập tới các mơ hình NLKH trên các vùng kinh tế sinh thái Tây Bắc,
Đông Bắc, Duyên Hải miền Trung và Tây Nguyên, ngoài ra hội thảo cũng đề
cập tới một số vấn đề có liên quan đến nông lâm kết hợp.
Từ năm 1996 Việt Nam và Phần Lan bắt đầu hợp tác chương trình thí

điểm phát triển các hệ thống NLKH tại Chợ Đồn - Bắc Kạn. Nhiều mơ hình
NLKH đã được xây dựng trong vùng và được các chuyên gia đánh giá cao.
Các thông tin, kiến thức về NLKH cũng đã được một số nhà khoa học
tổ chức tổng kết dưới những góc độ khác nhau. Điển hình là các ấn phẩm của
Lê Trọng Cúc và cộng sự (1990) về việc xem xét và phân tích các hệ sinh thái
nơng nghiệp vùng trung du miền Bắc trên cơ sở tiếp cận sinh thái nhân văn.
Các hệ thống nơng lâm kết hợp điển hình trong nước đã được tổng kết bởi
FAO và IIRR (1995), cũng như được mô tả trong ấn phẩm của cục khuyến
nông và khuyến lâm dưới dạng các “mơ hình” sử dụng đất. Mittelman (1997)
đã có một cơng trình tổng quan rất tốt về hiện trạng nông lâm kết hợp và lâm


20

nghiệp xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là các nhân tố chính sách ảnh hưởng đến
sự phát triển nơng lâm kết hợp.
Trung tâm Nghiên cứu Nông lâm kết hợp Quốc tế (ICRAF) đã tài trợ
cho Việt Nam một dự án “Tăng cường Nâng lực Nông lâm kết hợp cho Việt
Nam”. Dự án được thực hiện từ năm 1998 đến năm 2003. Tiến sĩ Lê Quốc
Doanh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam
(VASI) là điều phối viên Quốc gia. Mục tiêu của Dự án là:
- Tạo mối liên kết giữa Viêt Nam với các chương trình của ICRAF ở
Đơng Nam Á về nghiên cứu đề xuất các giải pháp thay thế du canh chặt đốt
(Alternatives to slash-and-burn);
- Tăng cường năng lực cho Việt Nam trong nghiên cứu và đào tạo
NLKH;
- Giúp Việt Nam phát triển và nhân rộng các hệ thống thay thế hình
thức du canh chặt đốt.
Các nội dung hoạt động chính của Dự án là:
Dự án đã tạo được một mạng lưới rộng rãi các cơ quan tham gia: Khoa

học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam (cơ quan đầu mối), Trường ĐH NN 1,
ĐH Nông Lâm Thái Nguyên, Viện Khoa học Lâm nghiệp, ĐH Lâm nghiệp
Việt Nam - Xuân Mai, ĐH Nông Lâm Huế, ĐH Tây Ngun, ĐH Nơng lâm
TP Hồ Chí Minh - Thủ Đức.
Ngoài việc tổ chức nhiều lớp tập huấn cho đào tạo viên (TOT), dự án
đã khuyến cáo nhiều mơ hình nơng lâm kết hợp rất hiệu quả như kết hợp
trồng cây thức ăn gia súc trong các hệ thống canh tác nông nghiệp, lâm
nghiệp và NLKH.
Mạng lưới Đào tạo NLKH của Việt Nam (VNAFE) được thành lập từ
năm 2002. Đây là một mạng lưới quốc gia thuộc mạng lưới giáo dục nông
lâm kết hợp Đông Nam Á (SEANAFE) quản lý bởi Trung tâm Nông Lâm kết


21

hợp thế giới (ICRAF). Mục tiêu của mạng lưới là nâng cao năng lực trong
giáo dục quản lý tài nguyên thiên nhiên và nông lâm kết hợp ở Việt Nam nói
riêng và Đơng Nam Á nói chung. Thành cơng lớn nhất của mạng lưới là đã
thiết lập được mối quan hệ hợp tác rất chặt chẽ giữa các thành viên và tăng
cường được năng lực đào tạo NLKH cho các thành viên mạng lưới. Ngồi
việc xây dựng giáo trình NLKH, mạng lưới cũng thực hiện một số nghiên cứu
rất quan trọng như “NLKH Cảnh quan”, “Marketing các sản phẩm NLKH”,
“Chính sách môi trường”, v.v.
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam cũng đã hợp tác với
Trung tâm Hợp tác Quốc tế Nghiên cứu Nơng nghiệp vì sự Phát triển của
Cộng hoà Pháp (CIRAD) đã thực hiện dự án “Hệ thống nơng nghiệp miền núi
phía Bắc Việt Nam” (Dự án SAM). Đây là dự án chuyên nghiên cứu về nông
nghiệp sinh thái, chủ yếu là nghiên cứu phát triển và khuyến cáo các biện
pháp kỹ thuật canh tác bền vững trên đất dốc. Dự án đã khuyến cáo các kỹ
thuật gieo thẳng trên nền đất được che phủ (DMC) vừa nâng cao năng suất

cây trồng vừa chống xói mịn, giữ ẩm và tăng độ phì cho đất để canh tác lâu
dài trên những nương cố định, tiến tới tự chấm dứt du canh chặt đốt.
Theo báo cáo của giáo sư Hồng H tại hội nghị NLKH vùng châu Á
Thái Bình Dương năm 1990 thì các hệ thống NLKH ở Việt Nam bao gồm:
* Phương thức du canh du cư:
- Người Gia Lai và Ê Đê ở Tây Nguyên chặt phá và đốt lớp thực vật
che phủ ở những nơi có tầng đất màu mỡ, sau khi canh tác nông lâm từ 1-2
năm họ chuyển đi nơi khác, sau 10- 15 năm họ quay trở về để sản xuất.
- Người Mường ở Hồ Bình và Thanh Hố có truyền thống phát quang
rừng sau đó trồng hạt xoan, tiếp đó họ đốt lớp thực bì đã phát nhằm mục đích
kích thích nảy mầm của hạt xoan sau đó họ trồng lúa nương. Sau 3 vụ lúa thì
cây xoan đã lớn người ta không trồng lúa nữa mà để các cây trong họ tre, nứa,


22

trúc mọc tự nhiên. Sau 10 năm họ quay trở lại khai thác xoan, tre, nứa, trúc để
làm tiếp luân kỳ hai.
- Người Dao ở Thanh Hoá, Lào Cai, Yên Bái....có truyền thống trồng
lúa nương, sắn và quế trong 3 năm đầu, cây lúa nương và cây sắn đáp ứng
được nhu cầu lương thực cho người trồng quế, vừa có tác dụng bảo vệ đất
trong những năm đầu khi rừng quế chưa khép tán.
* Các mơ hình NLKH ở đồng bằng: Người ta tiến hành trồng một số
đai rừng phòng hộ đồng ruộng, các đai này vừa có tác dụng cản trở gió bão
vừa cung cấp lượng củi đáng kể cho địa phương. Mơ hình kinh tế VAC giữ
vai trị quan trọng trong việc cải thiện và nâng dần mức sống của từng gia
đình đồng thời khép kín các q trình sản xuất tiêu thụ sản phẩm, tận dụng lao
động nơng nhàn và các sản phẩm phụ...Đây là mơ hình đã được tuyên truyền
phổ biến ở nước ta trong vài thập kỷ gần đây, ngày nay đang được phát triển
trên qui mơ rộng lớn nhờ cơ chế khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình

của Đảng và nhà nước. Mơ hình VAC cịn thể hiện rõ tính NLKH ở vùng
trung du và miền núi thông qua mối quan hệ giữa phát triển vườn rừng - chăn
nuôi - ao cá. Mối quan hệ qua lại của 3 thành phần trong cùng một hệ thống
đã làm nâng cao năng suất và tính ổn định của nó.
* Các mơ hình NLKH trên đất dốc: Các mơ hình trồng cây nơng nghiệp
xen với cây lâm nghiệp trong giai đoạn đầu rừng chưa khép tán. Các mơ hình
này phổ biến rộng khắp ở các tỉnh miền núi. Người ta trồng ngô, khoai, đậu,
lạc xen với những khu rừng mới trồng. Các mơ hình này đã làm tăng hiệu quả
rừng trồng, tăng cường khả năng phịng hộ đất. Thơng qua việc chăm sóc và
bảo vệ cây nơng nghiệp mà cây rừng cũng được chăm sóc bảo vệ tốt. Hàng
năm ngưòi dân còn thu được sản phẩm từ cây nông nghiệp phục vụ cho nhu
cầu trước mắt, tăng thêm thu nhập cho người dân, giúp người dân có cuộc
sống ổn định hơn. Các mơ hình xen lúa nương, sắn với rừng mỡ, bồ đề ở


23

Tun Quang, n Bái, Phú Thọ; các mơ hình trồng xen lạc đỗ, sắn với rừng
bạch đàn ở Vĩnh Phú, Hà Tây....
Ở vùng trung du và cao nguyên xuất hiện các mơ hình NLKH giữa cây
cơng nghiệp và cây lâm nghiệp. Trong các mơ hình này cây lâm nghiệp đóng
vai trị như cây phù trợ che bóng, chắn gió, bảo vệ và cải tạo tiểu hồn cảnh
cho cây cơng nghiệp dài ngày. Nhờ có trồng xen cây lâm nghiệp mà cây công
nghiệp sinh trưởng tốt hơn, năng xuất thu hoạch tăng lên, môi trường sinh thái
được cải thiện. Cây lâm nghiệp còn là nguồn cung cấp gỗ, củi, quả, thực
phẩm, dược liệu...Các mơ hình NLKH gặp nhiều ở các vùng Phú Thọ, Thái
Nguyên Như: Muồng lá nhọn + chè + cốt khí. Ở nhiều nơi cịn tiến hành trồng
cây ăn quả xen với cây công nghiệp như: vải + chè, cây nơng nghiệp xen với
cây ăn quả như: xồi, đậu, lạc trồng xen với các loài cây ăn quả như: vườn
cam, quýt, bưởi...

Theo Vũ Văn Mễ – Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam tổng kết
được ở vùng Tây Bắc xuất hiện nhiều mơ hình NLKH như: mơ hình cây lâm
nghiệp + đồng cỏ + bò sữa + vườn cây ăn quả. Ở cao ngun Mộc Châu mơ
hình: rừng + nương + ruộng + vườn táo ở bản Nà Cạn - xã Chiềng Sình - Sơn
La...
* Phương thức sản xuất Lâm Ngư nghiệp kết hợp ở các vùng ngập
mặn: Mô hình này phổ biến ở các vùng ven biển, cửa sơng có rừng ngập mặn
tự nhiên hoặc trồng cây kết hợp chăn thả tôm cá hoặc nuôi ong lấy mật. Các
lồi cây lấy gỗ ở vùng ngập mặn vừa đóng vai trò phòng hộ vừa cung cấp gỗ
củi, vừa là nơi trú ngụ và là nguồn cung cấp thức ăn cho tôm cá.
* Phương thức Lâm Ngư nghiệp trên các vùng đất phèn: mơ hình này
tập trung ở Nam Bộ nơi tiếp giáp với rừng ngập mặn. Trong 6 tháng mùa mưa
nhân dân có thể ni tơm cá ở dưới rừng tràm và nuôi ong. Những nơi đất
trống người ta trộng bạch đàn + đào lộn hột + dứa và một số cây ăn quả khác.


×