Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DỊCH VỤ DU LỊCH TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM CÔNG ĐỊNH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DỊCH VỤ DU LỊCH
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN,
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN MINH ĐỨC

HÀ NỘI, năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo
đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích
một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn. Các kết quả này chưa
từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Quảng Nam, ngày tháng

năm 2021

Tác giả luận văn

Phạm Công Định




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
DỊCH VỤ DU LỊCH............................................................................................... 10
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch ........ 10
1.2. Nội dung quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch ................................................. 18
1.3. Phương pháp quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch ........................................... 23
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch ...................... 27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DỊCH VỤ DU
LỊCH TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM ................................ 32
2.1. Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Hội An, tỉnh Quảng
Nam có liên quan đến quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch .................................... 32
2.2. Thực trạng dịch vụ du lịch tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ................. 37
2.3. Tình hình quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch tại thành phố Hội An, tỉnh
Quảng Nam .............................................................................................................. 43
2.4. Những kết quả đạt được và hạn chế, bất cập trong quản lý nhà nước về dịch vụ
du lịch tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ....................................................... 51
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DỊCH VỤ DU LỊCH TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM ................................................... 62
3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch từ thực tiễn
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ........................................................................ 62
3.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch từ thực
tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ................................................................. 64
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch từ thực
tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ................................................................. 67
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1

2.2

2.3

2.4

Số lượng và tỷ lệ tăng, giảm cơ sở kinh doanh dịch vụ lữ
hành tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Cơ cấu kinh doanh dịch vụ lữ hành chia theo đích đến
tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Số lượng và tỷ lệ tăng, giảm cơ sở kinh doanh dịch vụ
vận tải du lịch tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Thống kê các dịch vụ du lịch khác tại thành phố Hội
An, tỉnh Quảng Nam

Trang

38


38

40

42

Số lượng hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt

2.5

động dịch vụ du lịch tại thành phố Hội An, tỉnh

49

Quảng Nam
Số lượng vụ việc xử phạt hành chính, giải quyết khiếu

2.6

nại, tố cáo trong quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch

50

trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu
sơ đồ

2.1


Tên sơ đồ
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành du lịch
về dịch vụ du lịch tại Hội An

Trang

46


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hội An là đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Quảng Nam, là di
sản phản hoá thế giới với lợi thế phát triển kinh tế du lịch dồi dào. Tính đến hết
năm 2019, Hội An có 527 cơ sở lưu trú với 9.040 phịng, trong đó loại hình khách
sạn đạt tiêu chuẩn 3 sao trở lên là 30 cơ sở với 3.041 phòng, chiếm tỷ trọng 5,7%
tổng số cơ sở lưu trú và 33,6% tổng số lượng phòng lưu trú trên địa bàn. Về vận
chuyển, lữ hành: 84 đơn vị kinh doanh vận chuyển, lữ hành, trong đó có chức năng
kinh doanh lữ hành quốc tế 31 đơn vị, kinh doanh lữ hành nội địa 17 đơn vị, vận
chuyển 33 đơn vị, bán vé 3 đơn vị. 42/84 đơn vị hoạt động tuyến Hội An- Cù Lao
Chàm[21; tr13]. Các loại dịch vụ khác như: dịch vụ ăn uống, chăm sóc sắc đẹp,
mua sắm… đa dạng về loại hình dịch vụ và chủng loại hàng hóa, đảm bảo phục vụ
tốt nhu cầu của khách du lịch, mạng lưới cung cấp hàng mua sắm cũng rất đa dạng
phong phú: may mặc lấy nhanh, giày dép, lưu niệm, lồng đèn, đồ mộc lưu niệm
chạm khắc... Đội ngũ lao động từng bước chuyên nghiệp hơn.
Tuy nhiên, với quy mô và tốc độ phát triển nhanh chóng, hoạt động quản lý
nhà nước về dịch vụ du lịch chịu áp lực lớn và tất yếu xuất hiện những hạn chế,
vướng mắc gây cản trở cho việc duy trì trật tự, chất lượng và phát triển của kinh tế
du lịch địa phương như: xuất hiện những vấn đề quản lý mới chưa được pháp luật
ghi nhận và điều chỉnh một cách đầy đủ như Condoltel, Oficetel hay tự xác định

hạng của cơ sở lưu trú…; vấn đề phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền địa
phương chưa rõ ràng nên tạo ra những chồng chéo; chưa có được những giải pháp
tháo gỡ khó khăn cho dịch vụ du lịch giai đoạn dịch bệnh; năng lực quản lý nhà
nước về dịch vụ du lịch còn nhiều hạn chế; cơ sở vật chất, thiết bị nhanh xuống cấp
gây lãng phí… Những hạn chế đó khơng chỉ làm cho hoạt động quản lý nhà nước
về dịch vụ du lịch khơng đạt được mục tiêu đã đề ra, mà cịn trở thành cản lực cho
sự phát triển của dịch vụ du lịch nói riêng và hoạt động du lịch nói chung tại thành
phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Chính vì thế, địi hỏi phải có sự nghiên cứu, phân
tích, đánh giá thực tiễn để tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà
1


nước về dịch vụ du lịch trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam trong
tương lai.
Dưới góc độ thực tiễn khoa học, đã có nhiều cơng trình xem xét, đánh giá về
du lịch và quản lý du lịch tại thành phố Hội An, cũng như tại nhiều địa phương
khác ở Việt Nam qua nhiều thời kỳ. Tuy nhiên, nghiên cứu về quản lý nhà nước về
dịch vụ du lịch ở cấp độ luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và luật
Hành chính chưa được bất kỳ nghiên cứu nào thực hiện. Từ cơ sở thực tiễn quản lý
và khoa học đó, học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về dịch
vụ du lịch từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn thạc sĩ
ngành Luật Hiến pháp và luật Hành chính là việc làm có tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trực tiếp nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến du lịch, dịch vụ du
lịch, quản lý nhà nước và quản lý nhà nước về du lịch đã có nhiều nghiên cứu tiến
hành ở những cấp độ khác nhau. Các nghiên cứu này đã xác lập hai xu hướng
nghiên cứu chính về lý luận, gồm:
- Xu hướng nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về du lịch
dưới góc độ quản lý nhà nước. Xu hướng này được thực hiện bởi các nghiên cứu
tiêu biểu như: tác giả Võ Thị Thắng với nghiên cứu "Tăng cường quản lý nhà nước để du

lịch Việt Nam phát huy vai trò ngành kinh tế mũi nhọn"; tác giả Lê Văn Minh với nghiên cứu
“Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đầu tư phát triển khu du lịch”; tác giả Đỗ Thị Thanh Hoa
với nghiên cứu “Nghiên cứu đề xuất giải pháp đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, quảng bá
du lịch Việt Nam tại một số thị trường du lịch quốc tế trọng điểm”; tác giả Trần Xuân Ảnh
với nghiên cứu "Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về thị trường du lịch", tác
giả Nguyễn Minh Đức với nghiên cứu "Quản lý nhà nước đối với hoạt động thương
mại, du lịch tỉnh Sơn La trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa";… Các
nghiên cứu ở nhóm xu hướng này xây dựng các khái niệm, bản chất và vai trị… dưới góc
nhìn của ngành khoa học quản lý. Theo đó, chủ yếu những vấn đề lý luận của nhóm nghiên
cứu này về quản lý nhà nước về du lịch (trong đó có cả dịch vụ du lịch) xoay quanh việc
2


chứng minh tính tất yếu của hoạt động quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Các đặc
trưng, bản chất, vai trị… cũng được phân tích theo hướng tiếp cận đó.
- Xu hướng nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về du lịch
dưới góc độ Luật học. Xu hướng này có thể kể tới một số nghiên cứu sau: tác giả Trịnh
Đăng Thanh với nghiên cứu "Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở
Việt Nam hiện nay"; tác giả Trần Thị Kim Hoa với nghiên cứu “Quản lý nhà nước về
du lịch từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”; Nhóm các nghiên cứu này xem xét những
vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về du lịch (bao gồm cả dịch vụ du lịch) dưới
góc độ của luật học. Theo đó, các vấn đề như khái niệm, đặc điểm, vai trò, các nội
dung quản lý nhà nước về du lịch… đều xuất phát từ những quan điểm của pháp
luật hiện hành tại thời điểm nghiên cứu. Cơ bản các nghiên cứu ở nhóm này đã làm
rõ được nội hàm khái niệm, phân tích các đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước
về du lịch theo quy định của pháp luật, những yếu tố tác động đến hoạt động quản
lý này…
Nghiên cứu nhóm nội dung những vấn đề thực tiễn và giải pháp liên quan đến
đề tài luận văn có thể kể tới các nghiên cứu như: tác giả Lê Đình Hiếu với nghiên
cứu “Quản lý Nhà nước về du lịch biển từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng”; tác giả

Trần Phan Long với nghiên cứu“Hoàn thiện quản lý Nhà nước về du lịch biển tại
thị xã Cửa Lò”; tác giả Nguyễn Thị Thùy với nghiên cứu “Quản lý nhà nước về du
lịch tại huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh”; tác giả Lê Long với nghiên cứu
“Tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh lữ hành của
ngành du lịch tỉnh Quảng Ninh”… Các nghiên cứu kể trên đã phản ánh, phân tích
và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về du lịch tại các địa phương có thế mạnh
về hoạt động kinh tế này. Kết quả cho thấy hầu hết các hoạt động quản lý bên cạnh
những giá trị đạt được đều còn tồn tại những hạn chế vướng mắc như: sự thiếu
thống nhất hoặc thiếu chi tiết của cơ sở pháp lý; những hạn chế trong cơ cấu tổ
chức và năng lực của người thực thi; hạn chế từ điều kiện tự nhiên, đời sống xã hội
hay ý thức của người dân, của người kinh doanh du lịch… Các hạn chế này đã gây
ra những khó khăn cho hoạt động quản lý, đồng thời cũng trở thành cản lực cho
3


phát triển của kinh tế du lịch các địa phương. Trên cơ sở những phân tích đó, các
nghiên cứu cũng đều đã đưa ra được các quan điểm, giải pháp và khuyến nghị
chính sách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch tại các địa phương
nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Các giải pháp đó hướng chủ yếu tới việc: hồn
thiện thể chế pháp lý; hoàn thiện tổ chức; nâng cao năng lực cán bộ, công chức;
khắc phục các cản lực tự nhiên; và tăng cường sự tham gia, giám sát của người dân,
các tổ chức xã hội.
Trên cơ sở thống kê và phân tích tình hình nghiên cứu kể trên, tác giả đưa ra
một số đánh giá như sau:
Thứ nhất, những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về du lịch (bao gồm quản
lý dịch vụ du lịch) như khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố ảnh hưởng đã
được làm rõ trong các nghiên cứu. Tuy nhiên, trực tiếp nghiên cứu những vấn đề lý
luận về dịch vụ du lịch và quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch chưa được tiếp cận
một cách toàn diện. Sự lồng ghép vấn đề quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch trong
quản lý nhà nước về du lịch đã không thể làm rõ một cách sâu sắc những vấn đề lý

luận về quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch.
Thứ hai, những vấn đề thực tiễn về quản lý nhà nước về du lịch (bao gồm
quản lý dịch vụ du lịch) như thực tiễn thể chế (chính sách và pháp luật), thực tiễn
thực hiện và kết quả của hoạt động quản lý gắn với từng phạm vi nghiên cứu cụ thể
đã được nhiều cơng trình nghiên cứu phân tích, làm rõ. Tuy nhiên, vì nội hàm tiếp
cận rộng, vấn đề thực tiễn quản lý dịch vụ du lịch chỉ được xem xét, đánh giá lồng
ghép trong vấn đề du lịch nói chung nên chưa nổi bật được những vấn đề thực trạng
cần phân tích và đánh giá chuyên sâu. Thêm nữa, thực tiễn quản lý nhà nước về
dịch vụ du lịch trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam chưa được bất kỳ
cơng trình nào xem xét, đánh giá.
Thứ ba, những vấn đề nghiên cứu liên quan đến việc đề xuất quan điểm và
xây dựng giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch ở trên phạm vi
toàn quốc hay của những địa phương cụ thể đã được một số nghiên cứu thực hiện.
Tuy nhiên, vấn đề nâng cao hiệu quả quản lý dịch vụ du lịch vẫn còn mờ nhạt. Vì
4


thực tiễn nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam chưa có, nên
cũng thiếu hụt các giải pháp gắn liền với địa bàn nghiên cứu này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
về quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch, qua đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch trên địa bàn thành phố Hội An, Quảng
Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu kể trên, học viên xác định các nhiệm vụ
nghiên cứu bao gồm:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch
như: khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung và các yếu tố tác động. Trong đó trọng

tâm là làm rõ những nội dung của quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch để làm cơ sở
đánh giá thực tiễn.
Thứ hai, phản ánh, phân tích và đánh giá thực tiễn quản lý nhà nước về dịch
vụ di lịch trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam với các khía cạnh chủ
yếu như: những yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về
dịch vụ du lịch tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam; tình hình dịch vụ du lịch tại
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam; thực tiễn thực hiện các nội dung quản lý nhà
nước về dịch vụ du lịch tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam và đánh giá thực
tiễn đó.
Thứ ba, chứng minh tính cần thiết, xây dựng phương hướng và đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch trên địa bàn thành
phố Hội An nói riêng và trong phạm vi tồn quốc nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề quản lý nhà nước về dịch vụ du
lịch ở ba khía cạnh: lý luận, thực tiễn và định hướng, giải pháp.
5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian nghiên cứu: luận văn nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà
nước về dịch vụ du lịch trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Bên cạnh
đó, các định hướng và giải pháp cịn có ý nghĩa ứng dụng trên phạm vi toàn quốc.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: luận văn nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà
nước về dịch vụ du lịch trên đại bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam giai đoạn
2015-2020. Trong đó đặc biệt nghiên cứu tình hình thực tiễn hoạt động này năm
2019-2020 – là giai đoạn bùng phát của dịch Covid-19 đã tác động mạnh mẽ vào
hoạt động du lịch nói chung và dịch vụ du lịch nói riêng của thành phố Hội An,
tỉnh Quảng Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận là những luận điểm trong học
thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa kiến
trúc thượng tầng và hạ tầng kinh tế; về tính lịch sử của sự vật, hiện tượng. Đồng
thời cơ sở lý luận của luận văn còn là các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về chuyển đổi thành phần nền kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng dịch vụ và các
đường lối đổi mới lĩnh vực du lịch. Các chính sách pháp luật của Nhà nước về vấn
đề phát triển dịch vụ du lịch được thể hiện thông qua các chính sách, văn bản quy
phạm pháp luật của các cấp Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn được thực hiện bởi các phương pháp nghiên cứu sau: Phương
pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp; Phương pháp phân tích – tổng hợp; Phương pháp
thống kê; Phương pháp so sánh. Các phương pháp nghiên cứu trên được sử dụng cụ
thể trong luận văn như sau:
Thứ nhất, Chương 1 với nội dung nghiên cứu là những vấn đề lý luận và pháp
lý về quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch, phương pháp nghiên cứu được sử sụng
gồm: Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp; Phương pháp phân tích - tổng hợp.
Trong đó:
6


- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp được sử dụng nhằm giúp học viên
dung nạp kiến thức lý luận về quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch trong các nghiên
cứu khoa học khác đã được công bố. Phương pháp này tạo lập nền tảng lý luận
quan trọng để học viên thực hiện các nhiệm vụ của luận văn một cách thông suốt và
logic.
- Trên cơ sở các kết quả có được từ việc nghiên cứu tài liệu thứ cấp, học viên
sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp nhằm hệ thống hoá các vấn đề lý luận
đã sáng tỏ của quản lý nhà nước và dịch vụ du lịch.
Thứ hai, Chương 2 với nội dung nghiên cứu là những vấn đề thực tiễn về

quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng
Nam, học viên sử dụng phương pháp nghiên cứu gồm: Phương pháp nghiên cứu tài
liệu thứ cấp; Phương pháp so sánh; Phương pháp phân tích – tổng hợp. Trong đó:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp được sử dụng khi học viện nghiên
cứu các bảng số liệu thống kê, các báo cáo chuyên ngành về công tác quản lý nhà
nước về dịch vụ du lịch của các cơ quan, cá nhân hữu quan về địa bàn nghiên cứu.
Qua đó có được nguồn số liệu thứ cấp cho việc phân tích và đánh giá thực tiễn.
- Phương pháp so sánh được sử dụng khi có nguồn số liệu thứ cấp về thực
tiễn, nhằm giúp học viên đối chiếu thực tiễn qua các thời kỳ, các phạm vi không
gian… của hoạt động quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch tại thành phố Hội An,
tỉnh Quảng Nam.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được học viên sử dụng nhằm phân tích
các số liệu thực tiễn về hoạt động quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch trên địa bàn
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Đồng thời qua đó tổng hợp nên những đánh
giá thực tiễn về hoạt động này.
Thứ ba, Chương 3 với nội dung xác lập phương hướng và đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch, học viên sử
dụng chủ yếu phương pháp: Nghiên cứu tài liệu thứ cấp và Phương pháp phân tích
– tổng hợp. Trong đó:
7


- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp được sử dụng để tham khảo các dự
báo, các đề xuất, kiến nghị của giới chuyên gia, học giới và các tác giả trước đó đã
nghiên cứu về cùng vấn đề nhưng khác phạm vi thời gian và không gian hoặc
nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến đề tài luận văn.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng nhằm xây dựng các định
hướng, giải pháp của riêng học viên đối với vấn đề đang được nghiên cứu của đề
tài luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Luận văn dự kiến có được những ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn như sau:
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Với những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch đã được xác
lập trong luận văn, học viên hi vọng sẽ đóng góp làm phong phú hơn kho tàng lý
thuyết nghiên cứu về quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về các lĩnh
vực cụ thể nói riêng. Sự đóng góp này cịn có thể sẽ trở thành điểm tiếp nối để mở
ra những chủ đề nghiên cứu lý luận mới xoay quanh chủ đề nghiên cứu của luận
văn.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Với những kết quả nghiên cứu thực tiễn đạt được, luận văn hứa hẹn sẽ cung
cấp được một bức tranh toàn cảnh về tình hình quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch
trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Đặc biệt, với những định hướng
và giải pháp đã đề xuất trong luận văn, nếu nhận được sự đồng thuận của nhà quản
lý, có thể sẽ trở thành những cứ liệu tham khảo có giá trị trong hoạt động cải biến
thực tiễn tại địa bàn nghiên cứu cũng như trên phạm vi toàn quốc ở Việt Nam hiện
nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được cấu trúc thành 03 chương gồm:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý trong quản lý nhà nước về dịch
vụ du lịch;
8


Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch tại thành phố Hội
An, tỉnh Quảng Nam
Chương 3. Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về dịch vụ du lịch từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

9



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ DỊCH VỤ DU LỊCH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước về dịch vụ du
lịch
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch
Để đề ra được khái niệm quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch là gì, trước hết,
cần làm rõ một số thuật ngữ sau:
- Khái niệm du lịch và dịch vụ du lịch:
Muốn hiểu rõ về khái niệm Dịch vụ du lịch, trước tiên phải hiểu về khái niệm
Du lịch. Tại hội nghị LHQ về du lịch họp tại Roma - Italia (21/8 – 5/9/1963), các
chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện
tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá
nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên cuả họ hay ngồi nước họ với
mục đích hồ bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ. Hay theo
các nhà du lịch học Trung Quốc: họat động du lịch là tổng hoà hàng loạt quan hệ và
hiện tượng lấy sự tồn tại và phát triển kinh tế, xã hội nhất định làm cơ sở, lấy chủ
thể du lịch, khách thể du lịch và trung gian du lịch làm điều kiện. Còn theo I.I
pirôgionic, 1985: Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên
quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm
nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức
văn hố hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và
văn hoá[21; tr17].
Tại Việt Nam hiện nay, khái niệm Du lịch được thừa nhận rộng rãi nhất theo
Khoản 1, Điều 3, Luật Du lịch số 09/2017/QH14, ban hành ngày 19/6/2017, Du
lịch được định nghĩa là: “các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngồi nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm
đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài ngun du

lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”.
10


Du lịch được cấu thành bởi các thành tố theo một cấu trúc sau:
Du lịch = Khách du lịch + Điểm đến du lịch + Các dịch vụ du lịch.
Trong đó, khách du lịch là chủ thể của hoạt động du lịch, là người quyết định
điểm đến và thụ hưởng các dịch vụ du lịch; Điểm đến du lịch là nơi chốn cụ thể mà
khách du lịch lựa chọn trong một hoạt động du lịch cụ thể và Các dịch vụ du lịch là
những sản phẩm được cung ứng cho khách du lịch để nâng cao trải nghiệm du lịch.
Dịch vụ du lịch là sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ
sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho du khách một khoảng thời
gian thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lịng. Theo đó, cơng thức
của dịch vụ du lịch là:
Dịch vụ du lịch = Tài nguyên du lịch + Các dịch vụ và hàng hoá du lịch
Như vậy, có thể thấy, trước hết Dịch vụ du lịch là một loại dịch vụ, quá trình
phát triển dịch vụ du lịch cũng nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch và
giúp doanh nghiệp thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Cụ thể,
phát triển dịch vụ du lịch là hệ thống các biện pháp, phương pháp nhằm gia tăng
không chỉ số lượng loại hình du lịch mà cịn nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch
nhằm cung ứng tốt hơn cho du khách và đem lợi ích ngày càng cao cho cơng ty du
lịch.
Dịch vụ du lịch rất đa dạng trong các nội dung, tuy nhiên có thể kể tới các nội
dung tiêu biểu gồm:
- Dịch vụ lữ hành (tour du lịch). Có nhiều loại hình dịch vụ, tour du lịch khác
nhau như: Du lịch biển, trải nghiệm sông nước, khám phá leo núi, nhảy dù, nghiên
cứu lịch sử, văn hóa ẩm thực, lặn biển, lễ hội,….
- Dịch vụ vận tải khách du lịch (cung cấp phương tiện di chuyển). Các loại
phương tiện đi du lịch phổ biến như: Xe khách, máy bay, tàu hỏa, xe máy, xe hơi,
xe đạp, taxi,…

- Dịch vụ lưu trú du lịch. Các loại hình lưu trú như: Khách sạn, Resort, nhà
nghỉ, homestay, cắm trại, thuê nhà dân để trải nghiệm văn hóa địa phương,…
- Dịch vụ ăn uống du lịch.
11


- Dịch vụ mua sắm, vui chơi giải trí và chăm sóc sức khoẻ.
Như vậy, hiểu một cách chung nhất, Dịch vụ du lịch có thể định nghĩa như
sau: Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú,
ăn uống, vui chơi giải trí, thơng tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp
ứng nhu cầu của khách du lịch.
- Khái niệm quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch:
Quản lý nhà nước được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ hoạt động của
cả bộ máy nhà nước từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp vận hành như một thực thể
thống nhất. Theo nghĩa hẹp là hướng dẫn chấp pháp, điều hành, quản lý hành chính
do cơ quan hành pháp thực hiện bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Như vậy, có thể khẳng định quản lý nhà nước nói chung được hiểu là: sự tác
động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã
hội, hành vi hoạt động của công dân, do các cơ quan trong hệ thống hành pháp
tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan
hệ xã hội, duy trì an ninh trật tự, thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp của công dân.
Từ khái niệm này, có thể hiểu Quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch là: sự tác
động có tổ chức bằng các công cụ, phương tiện cụ thể của các cơ quan, cá nhân
nhà nước được giao thẩm quyền đến hoạt động cung cấp các dịch vụ về lữ hành,
vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thơng tin, hướng dẫn và những dịch
vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch của một phạm vi lãnh thổ nhất
định nhằm đảm bảo trật tự, an toàn, chất lượng, đúng pháp luật và phát triển của
các dịch vụ du lịch, qua đó thúc đẩy sự hiện đại, chuyên nghiệp và phát triển của
ngành du lịch nói riêng và đời sống xã hội nói chung.
Từ khái niệm quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch có thể rút ra một số đặc

điểm quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch như sau:
Thứ nhất, quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch là quản lý các sản phẩm có
tính vơ hình. Khác với sản phẩm vật chất, các dịch vụ khơng thể nhìn thấy, nếm
ngửi, hay nghe thấy được trước khi sử mua. Ví dụ khi khách mua tour du lịch trọn
gói hay ghép đồn thì du khách khơng có gì ngồi hợp đồng chương trình chi tiết
12


hóa đơn và lời hứa hẹn đảm bảo về chất lượng dịch vụ sản phẩm nơi đến du lịch.
Tư vấn viên bán phịng ngủ khách sạn khơng thể nào mang cả phòng ngủ khách sạn
đến để bán cho du khách qua dịch vụ bán phòng. Họ chỉ bán quyền sử dụng trong
khoảng thời gian nhất định, khi du khách rời đi cũng khơng thể mang theo bất kỳ
thứ gì khác ngồi hóa đơn thanh tốn.
Chính vì thế, hoạt động quản lý nhà nước về du lịch địi hỏi phải có tính bao
quát cao trên cơ sở phải nhận diện được các sản phẩm dịch vụ du lịch vơ hình
thơng qua các phương tiện ghi nhận cam kết cung ứng và sử dụng dịch vụ. Như
vậy, hoạt động quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch đòi hỏi phải quản lý từ các hợp
đồng, biên bản ghi nhận… cho tới việc thực thi sự cung ứng – thụ hưởng đó trên
thực tế. Quá trình quản lý phải là quá trình đối chiếu liên tục sự tương đồng của hai
vấn đề kể trên với các quy định của pháp luật hiện hành về dịch vụ du lịch đó.
Chính vì thế, từ đặc điểm thứ nhất này có thể khẳng định, quản lý nhà nước về dịch
vụ du lịch là hoạt động quản lý có tính phức tạp cao, bao gồm cả quản lý giới vơ
sinh (hữu hình và vơ hình) và giới hữu sinh (sinh vật sống, bao gồm cả con người).
Thứ hai, quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch phải đảm bảo tính khơng thể
phân chia trong cung ứng và thụ hưởng dịch vụ. Hầu hết các dịch vụ du lịch, người
cung và cấp dịch vụ và khách hàng đều không thể tách rời nhau. Khách hàng tiếp
xúc với nhân viên là phần quan trọng của sản phẩm. Món ăn trong nhà hàng có thể
khơng hồn hảo nhưng nếu người phục vụ thiếu ân cần chu đáo,không thân thiện,
khách hàng có thể đánh giá thấp về chất lượng dịch vụ của nhà hàng. Về đặc tính
này cho thấy sự tác động qua lại giữa người cung cấp dịch vụ và khách hàng tạo

nên sự tiêu thụ dịch vụ.
Quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch, vì tính chất này của hoạt động dịch vụ
du lịch, nên phải tiến hành hoạt động quản lý trên một phạm trù nội dung rất phức
tạp. Các nội dung này bao gồm: nội dung và chất lượng dịch vụ cung ứng; cách
thức cung ứng; phương tiện cung ứng; người trực tiếp cung ứng; các hoạt động
phản ứng của khách hàng… Ví dụ, quản lý nhà nước về dịch vụ ẩm thực du lịch tại
thành phố Đà Nẵng. Chính quyền thành phố Đà Nẵng năm 2018 đã có văn bản yêu
13


cầu toàn bộ cá thể và tổ chức kinh doanh ẩm thực trên địa bàn phải bỏ “thìa có
rãnh” để thay thế bằng “thìa khơng rãnh”. Thậm chí, để thúc đẩy q trình chuyển
đổi này nhanh chóng, chính quyền cịn trích ngân sách hỗ trợ thu đổi miễn phí có
thời hạn. Như vậy, không chỉ quản lý nội dung cung ứng là xem xét quyết định cho
phép kinh doanh và giám sát việc kinh doanh của các loại ẩm thực; địa điểm kinh
doanh ẩm thực; điều kiện của các chủ thể kinh doanh… mà chính quyền thành phố
Đà Nẵng cịn xem xét quản lý những vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến
tính an tồn và sự trải nghiệm của người thụ hưởng dịch vụ.
Thứ ba, quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch vừa có nội dung đa dạng, vừa
phải đi sâu vào những lĩnh vực chi tiết. Dịch vụ du lịch bao gồm rất nhiều hoạt
động khác nhau. Có thể kể tới một số hình thức tiêu biểu như: lữ hành; vận tải; lưu
trú; ẩm thực; chăm sóc sức khoẻ; thể thao; làm đẹp; vui chơi giải trí… trong mỗi
loại hình được chia thành những loại hình nhỏ. Ví dụ: lữ hành bao gồm: lữ hành
gồm: kinh doanh lữ hành gửi khách, kinh doanh lữ hành nhận khách và kinh doanh
lữ hành kết hợp; vận tải du lịch gồm có: vận tải tour, vận tại trung chuyển du lịch,
cho thuê xe tự lái… lưu trú có: nhà nghỉ; khách sạn; homestay; lều trại… Như vậy
đầu tiên có thể khẳng định phạm vi quản lý nhà nước về dịch vụ di lịch rất rộng
lớn, trải dài các nhu cầu đi lại, ăn uống, ngủ nghỉ, vui chơi… của khách du lịch.
Tuy nhiên, đặc điểm này phức tạp hơn ở chỗ, vừa có phạm vi rộng, hoạt động
quản lý về dịch vụ du lịch đồng thời cũng phải tiến hành quán lý những vấn đề chi

tiết, cụ thể của hoạt động cung ứng dịch vụ du lịch. Ví dụ như đối với lưu trú ngồi
quản lý các vấn đề liên quan đến các điều kiện cung ứng dịch vụ lưu trú và người
lưu trú, hoạt động quản lý nhà nước còn phải xem xét đến các vấn đề rất cụ thể
như: số lượng bình chữa cháy/số phịng; loại chất tẩy rửa dùng cho chăn ga giường;
giải pháp xử lý nước thải sinh hoạt; điều kiện lắp đặt thang máy… hay ví dụ về
việc chuyển đổi từ “thìa có rãnh” sang “thìa khơng rãnh” trong quản lý ẩm thực của
thành phố Đà Nẵng cũng cho thấy sự chi tiết, tỉ mỉ trong trong công tác quản lý nhà
nước về dịch vụ du lịch.

14


1.1.2. Vai trò của quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch
Quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch đóng một vai trị quan trọng trong đảm
chất chất lượng của dịch vụ và trật tự trong việc cung ứng dịch vụ du lịch trên địa
bàn. Qua đó, góp phần thúc đẩy dịch vụ du lịch nói riêng và ngành kinh tế du lịch
nói chung. Các vai trị cụ thể đó của quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch có thể kể
tới gồm:
Thứ nhất, quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch giúp đảm bảo duy trì chất
lượng của dịch vụ du lịch. Chất lượng là giá trị cốt lõi của hoạt động cung ứng dịch
vụ du lịch. Chất lượng dịch vụ du lịch đến từ năng lực và ý thức của chủ thể cung
ứng. Tuy nhiên, hai vấn đề này không phải là những đại lượng bất biến, mà có xu
hướng biến đổi phức tạp. Sự biến đổi này bao gồm cả tích cực lẫn tiêu cực. Tích
cực là xu hướng mà nhà cung ứng liên tục nâng cao năng lực và ý thức của mình để
cung ứng dịch vụ du lịch ngày càng chất lượng hơn. Tiêu cực là xu hướng mà nhà
cung ứng sẽ có những gian dối trong q trình cung ứng dịch vụ du lịch nhằm giảm
chi phí đầu vào hoặc để theo đuổi kiểu kinh doanh chộp giật, chặt chém. Cả hai xu
hướng này đều cần đến sự can thiệp của nhà nước thông qua hoạt động quản lý nhà
nước về dịch vụ du lịch. Cụ thể:
- Ở xu hướng tích cực. Muốn nâng cao năng lực và ý thức của nhà cung ứng

bên cạnh những tiềm lực và quyết tâm của chính nhà cung ứng đó thì cịn cần
những động lực từ nhà nước. Nhà nước với khả năng cho phép (thông qua cấp
phép), giám sát và điều chỉnh các hành vi của các nhà cung ứng theo một định
hướng có trước sẽ góp phần kiến tạo những động lực để các nhà cung ứng hiện
thực hoá được việc nâng cao chất lượng dịch vụ khơng ngừng của mình. Đây cũng
là một biểu hiện cụ thể của nhà nước kiến tạo phát triển.
- Ở xu hướng tiêu cực. Xu hướng này tất yếu sẽ làm mai một và tiến tới xố
bỏ vị trí giá trị cốt lõi của chất lượng dịch vụ trong hoạt động cung ứng dịch vụ du
lịch. Do đó, nhà nước với thẩm quyền quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch đóng vai
trị như “người gác đền” đối với hoạt động cung ứng. Thông qua khả năng giám sát
và xử phạt hành chính, nhà nước sẽ yêu cầu các chủ thể cung ứng đảm bảo những
15


bộ tiêu chuẩn khi cung ứng dịch vụ. Điều này đảm bảo hạn chế tình trạng cung ứng
dịch vụ theo kiểu chụp giật, chặt chém.
Thứ hai, quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch giúp đảm bảo duy trì trật tự của
hoạt động cung ứng dịch vụ du lịch. Hoạt động cung ứng dịch vụ du lịch cũng như
các hoạt động kinh doanh khác luôn tồn tại xu hướng cạnh tranh. Quy mô và tốc độ
phát triển của ngành nghề càng cao, xu hướng cạnh tranh càng lớn. Sự cạnh tranh
này trong một giới hạn nhất định sẽ mang đến những điểm tích cực như: thúc đẩy
q trình phát triển nói chung; gia tăng lợi ích cho khách hàng; đa dạng hoá sản
phẩm và giá… tuy nhiên, nếu vượt ra khỏi sự kiểm soát của cạnh tranh sẽ dẫn tới
phá vỡ trật tự của thị trường bởi: “cá lớn nuốt cá bé”; cạnh tranh không lành mạnh;
cạnh tranh huỷ diệt… Để kiềm chế cho cạnh tranh được diễn ra trong trại thái tự do
trong khn khổ, nhà nước đóng vai trò là người thiết lập hành lang và canh giữ
cho sự cạnh tranh diễn ra trong khn khổ đó.
Quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch với những phương thức như ban hành
văn bản pháp luật, chính sách; tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật và chính
sách; thanh tra, kiểm tra, giám sát…; xử phạt hành chính… khơng chỉ đóng vai trị

là người canh giữ cho trạng thái cạnh tranh tích cực mà cịn là trung gian phân giải
khi có sự tranh chấp trong cung ứng và thụ hưởng dịch vụ du lịch. Nếu thiếu đi sự
hiện diện của nhà nước trong dịch vụ du lịch, tất yếu thị trường sẽ mất trật tự tiến
tới sự hỗn loạn khơng thể kiểm sốt được và xuất hiện thế độc quyền trong cung
ứng – trạng thái bất lợi cho người thụ hưởng.
Thứ ba, quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch thúc đẩy sự phát triển của dịch
vụ du lịch nói riêng và kinh tế du lịch nói chung. Nội dung dịch vụ du lịch phụ
thuộc vào nội dung của kinh tế du lịch của quốc gia hay địa phương đó. Đến lượt
mình, nội dung của kinh tế du lịch phản ánh điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên và
văn hoá của địa phương hay quốc gia đó. Chính vì thế, dịch vụ du lịch phải có sự
phát triển phù hợp với ý chí chính trị, văn hoá, kinh tế, xã hội… của từng quốc gia,
từng địa phương. Muốn định hướng đúng sự phát triển đó, nhất thiết phải cần đến
sự hiện diện của nhà nước trong quản lý dịch vụ du lịch.
16


Quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch với thẩm quyền ban hành các chính sách
phát triển dịch vụ du lịch; cho phép hoặc không cho phép thông qua việc cấp phép
hoạt động cho các chủ thể cung ứng; ấn định các ưu đãi về thuế khoá và những điều
kiện khác… sẽ tác động, điều chỉnh xu hướng phát triển của dịch vụ du lịch của
quốc gia hoặc địa phương.
Sự định hướng phát triển này đến từ ý chí chính trị về phát triển kinh tế du
lịch của từng quốc gia hoặc từng địa phương. Việc định hướng này khơng làm ảnh
hưởng đến q trình phát triển tự nhiên của hoạt động cung ứng dịch vụ bằng các
mệnh lệnh hành chính. Ngược lại, các ý chí chính trị về phát triển dịch vụ du lịch
có được từ sự nghiên cứu kỹ lưỡng các tác động của kinh tế, xã hội… đến nhu cầu
dịch vụ du lịch và nghiên cứu dự báo sự xuất hiện, biến đổi hay biến mất của các
nhóm dịch vụ du lịch đến đời sống xã hội. Nói một cách dễ hiểu, các định hướng
phát triển này là kết quả của một quá trình nghiên cứu cơng phu, đa diện và thậm
chí là kinh nghiệm rút ra từ điển hình quốc tế hoặc từ những thử nghiệm trên thực

tế. Năng lực định đoán trước những chuyển biến trong tương lai của cơ quan nhà
nước sẽ quyết định chất lượng của định hướng phát triển dịch vụ du lịch của từng
quốc gia hoặc từng địa phương.
Thứ tư, quản lý nhà nước về dịch vụ du lịchgián tiếp kiến tạo môi trường đầu
tư cho quốc gia hoặc địa phương. Dịch vụ du lịch trước hết là một loại dịch vụ, do
đó nếu được quản lý và thúc đẩy phát triển tốt sẽ chiếm một tỷ trọng cao trong nền
kinh tế. Khi nền kinh tế của quốc gia hoặc địa phương được cơ cấu theo một tỷ lệ
hoàn hảo của các cơ cấu, nền kinh tế đó sẽ phát triển bền vững và hiệu quả. Đó là
tiền đề quan trọng để xác lập nên một môi trường đầu tư triển vọng. Bên cạnh đó,
quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch sẽ thiết lập những trạng thái trật tự và an tồn
cho mơi trường xã hội, qua đó đảm bảo an ninh cho các nhà đầu tư. Cuối cùng,
dịch vụ du lịch được thúc đẩy phát triển đa dạng dưới sự quản lý nhà nước hiệu quả
sẽ mang đến những lợi thế cạnh tranh về điểm đến du lịch, danh tiếng của quốc gia
hoặc địa phương cũng được xây dựng và khơng ngừng mở rộng… từ đó gián tiếp
tạo ra một kênh quảng bá hiệu quả cho địa điểm đầu tư lý tưởng. Thực tế đã cũng
17


đã khẳng định vai trò này khi các quốc gia càng phát triển, thu hút được nhiều
nguồn vốn đầu tư dài hạn đều có sự đa dạng trong cung ứng dịch vụ, đặc biệt là
dịch vụ du lịch.
Thứ năm, quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch giúp kinh tế du lịch thích ứng
tốt hơn với những biến đổicủa tự nhiên và xã hội. Vấn đề tự nhiên và xã hội của địa
phương, quốc gia và tồn cầu ln tác động đến nền kinh tế nói chung và kinh tế du
lịch nói riêng. Sự tác động theo chiều hướng tích cực sẽ góp phần giúp nền kinh tế
phát triển. Nhưng những tác động tiêu cực lại gây ra những kìm hãm rất lớn, thậm
chí có thể huỷ hoại thành quả đã gây dựng của hàng chục năm. Nguy cơ này càng
hiện hữu khi với sự tồn tại phân mảnh hoặc đa phần là cá thể, các nhà cung ứng
dịch vụ du lịch sẽ khơng thể có đủ tiềm lực và sự đồn kết để tìm ra và thực thi một
giải pháp hiệu quả giúp nền kinh tế du lịch thoát ra khỏi khủng hoảng và hồi phục

sau suy thoái. Khi này, chính nhà nước với tiềm lực khổng lồ của mình để nghiên
cứu có quy mơ về những khó khăn đang gặp phải, từ đó đề ra các giải pháp vi mô
và vĩ môvà với thẩm quyền ban hành chính sách, pháp luật để định hướng và ban
hành các mệnh lệnh hành chính để yêu cầu các chủ thể phải tuân thủ các giải pháp
đó trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để thoát khỏi khủng hoảng.
1.2. Nội dung quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch
1.2.1. Xây dựng, ban hành pháp luật về dịch vụ du lịch
Đây là nội dung đầu tiên và có vai trị định hình các nội dung quản lý nhà
nước khác về dịch vụ du lịch. Cơ quan quản lý nhà nước theo thẩm quyền sẽ ban
hành những văn bản pháp luật quy định về dịch vụ du lịch nhằm thiết lập trật tự,
định ra các tiêu chuẩn, nguyên tắc và định hướng phát triển của dịch vụ du lịch
trong phạm vi toàn quốc hoặc của từng địa phương.
Pháp luật là những quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, do Nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục luật định nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của Nhà
nước. Pháp luật một mặt hướng dẫn, điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia
quan hệ xã hội phù hợp với nhu cầu của xã hội, mặt khác, hướng đến ý thức tình
18


cảm làm cho mơ hình hành vi đọng lại trong ý thức của con người. Pháp luật mang
tính bắt buộc chung cho tất cả mọi người, mọi cơ quan, tổ chức nhằm mục đích
ngăn ngừa, răn đe, trừng phạt những hành vi sai trái, giáo dục, cảm hố những
người có hành vi này, bồi dưỡng cho mọi người tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý
thức tuân thủ pháp luật bảo đảm cho xã hội phát triển lành mạnh, an toàn, bền
vững… Pháp luật điều chỉnh những mối quan hệ xã hội chủ yếu, cơ bản mang tính
ổn định và được lặp đi lặp lại. Như vậy, pháp luật về dịch vụ du lịch là những
nguyên tắc xử sự chung trong mối quan hệ cung ứng và thụ hưởng dịch vụ du lịch.
Đây chính là những nguyên tắc pháp lý mà hoạt động dịch vụ du lịch phải tuân thủ.
Các văn bản pháp luật về dịch vụ du lịch được ban hành bởi các chủ thể có

chức năng trên cơ sở quy định của Điều 04, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2015. Theo đó, ở cấp trung ương, Quốc hội được ban hành Luật và Nghị
quyết quy định về dịch vụ du lịch nói riêng và dịch vụ du lịch nói chung. Uỷ ban
thường vụ Quốc hội được ban hành Nghị quyết và Pháp lệnh về vấn đề dịch vụ du
lịch theo thẩm quyền. Để cụ thể hoá các văn bản này và cũng nhằm tạo dựng cơ sở
pháp lý gần gũi nhất cho hoạt động quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch, Chính phủ
được ban hành Nghị định và Thủ tướng được ban hành Quyết định về vấn đề dịch
vụ du lịch. Các Bộ trưởng với thẩm quyền liên quan như: Bộ Văn hoá - Thể thao và
Du lịch; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Xây dựng; Bộ Giao thông - Vận tải; Bộ
Tài chính; Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Giáo dục và Đào tạo… sẽ
ban hành các Thông tư quy định về những vấn đề dịch vụ du lịch liên quan đến
ngành, lĩnh vực phụ trách của từng bộ.
Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cũng có thẩm quyền ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh vấn đề dịch vụ du lịch ở địa phương. Căn cứ
của việc ban hành này là thẩm quyền được phân cấp; nội dung các văn bản quy
phạm pháp luật của trung ương và đặc điểm, nhu cầu của từng địa phương. Theo
đó, Hội đồng Nhân dân 3 cấp chính quyền địa phương được ban hành Nghị quyết
và Ủy ban nhân dân 3 cấp chính quyền địa phương được ban hành Quyết định quy
định về dịch vụ du lịch trên địa bàn.
19


1.2.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về dịch vụ du lịch
Sau nội dung xây dựng và ban hành pháp luật về dịch vụ du lịch, quản lý nhà
nước về dịch vụ du lịch thực hiện nội dung tiếp theo là tổ chức thực hiện các chính
sách, pháp luật đó. Nếu việc xây dựng và ban hành pháp luật về dịch vụ du lịch tạo
ra được các văn bản có tính pháp lý về lĩnh vực dịch vụ du lịch, thì tổ chức thực
hiện là cơ sở để đưa các chính sách và pháp luật đó vào đời sống thực tiễn.
Tổ chức thực hiện pháp luật về dịch vụ du lịch được các cơ quan quản lý trực
tiếp tổ chức trên thực tế. Đây là khâu tiếp nối của nội dung xây dựng và ban hành

văn bản quy phạm pháp luật nhằm đưa những quy định của pháp luật về dịch vụ du
lịch vào đời sống thực tiễn. Việc tổ chức thực hiện pháp luật về dịch vụ du lịch
cũng có các bước và các nội dung cụ thể như:
Bước 1. Tuyên truyền, phổ biến quy định pháp luật về dịch vụ du lịch;
Bước 2. Phân công, phân nhiệm và xác định mối quan hệ, cơ chế phối hợp
giữa các chủ thể thực hiện pháp luật về dịch vụ du lịch.
Bước 3. Tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước về dịch vụ du
lịchcho các cá nhân phụ trách quản lý ở các cấp.
Bước 4. Tổ chức thực hiện các nội dung vềdịch vụ du lịch theo sự phân công.
Bước 5. Tổ chức thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát và giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch.
Các bước này có những bước là mắt xích của nhau, bước này là tiền đề của
bước sau, song cũng là sự tiếp nối của bước trước liền kề. Tuy nhiên, cũng có
những bước duy trì xun suốt và là điều kiện đảm bảo cho tổng thể việc tổ chức
thực hiện pháp luật về dịch vụ du lịch.
1.2.3. Thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động dịch vụ du lịch
Thanh tra, kiểm tra hoạt động dịch vụ du lịch là một nội dung có tính xun
suốt q trình quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch. Bất kể ở đâu và khi nào có sự
quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch nói riêng và quản lý nhà nước nói chung đều
cần phải có sự hiện diện của nội dung thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động kinh
doanh dịch vụ du lịch.
20


Thanh tra, kiểm tra, giám sát dịch vụ du lịch là việc cơ quan, cá nhân được
trao thẩm quyền thường xuyên hoặc đột xuất tiến hành nghiệp vụ giám sát, thanh
tra, kiểm tra các chủ thể cung ứng và khách hàng trong hoạt động dịch vụ du lịch.
Trong đó, chủ yếu đối tượng bị thanh tra, kiểm tra, giám sát là chủ thể cung ứng
dịch vụ.
Nội dung của hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát hướng tới chủ yếu là sự

tuân thủ của các chủ thể và khách hàng đối với những nguyên tắc trong cung ứng
và thụ hưởng dịch vụ du lịch. Ví dụ: kiểm tra việc tuân thủ các biện pháp an toàn
trong vận tải du khách bằng thuyền, đò hay tàu thuỷ cánh ngầm; thanh tra thực tế
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong cung ứng dịch vụ ẩm thực du lịch; giám
sát việc khai báo y tế đối với các khách du lịch có lưu trú…
Mục đích của hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát dịch vụ du lịch nhằm:
Thứ nhất, duy trì sự hiện diện của nhà nước (thể hiện quyền uy trong quản lý
của nhà nước) trong việc cung ứng và thụ hưởng dịch vụ du lịch;
Thứ hai, đảm bảo các quy định của pháp luật, các quy chế pháp lý khácđược
tôn trọng và tuân thủ trên thực tế.
Thứ ba, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và khắc phục các hành vi trái với
nguyên tắc hoạt động và đe doạ ảnh hưởng đến kinh tế dịch vụ du lịch, kinh tế du
lịch và đời sống xã hội nói chung.
Thứ tư, liên tục cập nhật các phản hồi từ thực tiễn của các nhà cung ứng và
khách hàng và gia tăng việc đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của các chủ thể quản lý
nhà nước về dịch vụ du lịch nhằm đề xuất các giải pháp thảo gở các bất cập, hoàn
thiện pháp luật về dịch vụ du lịch.
1.2.4. Xử lý vi phạm hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong kinh
doanh dịch vụ du lịch
Dịch vụ du lịch trong hoạt động của mình cũng có những đối tượng cố ý hoặc
vô ý thực hiện các hành vi vi phạm các quy tắc trong cung ứng và thụ hưởng. Các
hành vi này tuỳ thuộc vào mức độ được ghi nhận trong pháp luật sẽ bị xử lý để đảm
bảo tính răn đe. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được quy định tại Luật Xử lý
21


×