Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Đổi mới quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 120 trang )



1





Luận văn
Đổi mới quản lý nhà nước về kết
cấu hạ tầng kỹ thuật ở thành
phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
trong giai đoạn hiện nay


2

Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội của các đô thị là kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Hầu hết các nội dung cơ bản của
kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị đều do Nhà nước đầu tư xây dựng, quản lý, sử
dụng vào mục đích công. Vấn đề quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật
là một bộ phận quan trọng trong công tác quản lý đô thị, có ảnh hưởng rất lớn
đến quá trình phát triển của mỗi quốc gia, mỗi đô thị.
Thành phố Tam Kỳ là tỉnh lỵ- trung tâm kinh tế, chính trị và văn
hóa- xã hội của tỉnh Quảng Nam. Từ năm 1997, khi Quảng Nam-Đà Nẵng
được chia tách thành hai đơn vị hành chính, Thành phố được tập trung
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật với tốc độ cao, đóng góp tích
cực cho sự phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân. Trong quá trình đô thị hóa, còn nhiều tồn tại, yếu kém,


nhất là việc quy hoạch thiếu đồng bộ, thiếu tính chiến lược, quy hoạch
“treo”; quản lý đầu tư xây dựng thiếu chặt chẽ, hiệu quả thấp, nhiều công
trình hạ tầng kém chất lượng, thất thoát vốn đầu tư, tình trạng “đào lên lấp
xuống” nhiều lần ở cùng một công trình khá phổ biến; vệ sinh môi trường
đô thị còn nhiều yếu kém, tỷ lệ thu gom rác thải mới đạt trên 68% so với
yêu cầu; đầu tư phát triển chưa gắn với giải quyết môi trường sinh thái
đảm bảo tính bền vững
Vấn đề có tính thời sự đặt ra đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
thành phố Tam Kỳ là làm thế nào để quản lý kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị
đạt hiệu quả cao nhất, khắc phục tình trạng yếu kém, bất cập đang diễn ra, tạo
điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng
ở địa phương, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết đó, tôi chọn đề tài nghiên cứu:
“Đổi mới quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở thành phố Tam
Kỳ, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn thạc sĩ.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đã có một số tài
liệu đề cập. Tuy nhiên, hầu hết các tài liệu được xuất bản đều nghiên cứu vấn
đề này như là một bộ phận cấu thành trong công tác quản lý đô thị nói chung
chứ chưa có tài liệu riêng biệt, chuyên sâu về nội dung mà đề tài này nghiên
cứu, điển hình như:
Sách “Quản lý đô thị” do TSKH Nguyễn Ngọc Châu chủ biên (Nxb
Xây dựng, Hà Nội 2001). Sách “Kinh tế học đô thị” của giáo sư Trung Quốc -
Nhiêu Hội Lâm, người dịch Lê Quang Lâm (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2004). Sách “Một số vấn đề cơ bản về kinh tế đầu tư quy hoạch và quản lý cơ
sở hạ tầng đô thị”, của PGS Trần Đức Dục (Nxb Xây dựng Hà Nội 2000).

Sách “Quản lý đô thị thời kỳ chuyển đổi” của TS Võ Kim Cương (Nxb Xây
dựng Hà Nội 2004). Sách “Quản lý đô thị” của TS Phạm Trọng Mạnh (Nxb
xây dựng, Hà Nội năm 2002). Sách “Phương pháp tiếp cận mới về quy hoạch
và quản lý đô thị", tác giả Nguyễn Đăng Sơn - Viện Nghiên cứu đô thị và phát
triển hạ tầng (IUSID) (Nxb Xây dựng Hà Nội 2005) Trong các sách nêu
trên, chủ yếu đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về kết cấu hạ
tầng kỹ thuật ở các đô thị lớn trong cả nước và kinh nghiệm quốc tế; đưa ra
một số ý tưởng và quan điểm mới mang tính giải pháp, đột phá để đóng góp
vào việc giải quyết bài toán hắc búa, bức thiết hiện đang đặt ra đối với các
chính phủ và chính quyền đô thị.
Ngoài ra, một số nội dung có liên quan đến công tác quản lý kết cấu hạ
tầng kỹ thuật đô thị đã được đưa ra hội thảo của một số tổ chức như Hiệp hội
các đô thị Việt Nam (năm 2004 tại TP Pleicu - Gia Lai); Hội Khoa học Kinh
tế Việt Nam (năm 2000 tại Hà Nội); Viện Nghiên cứu hợp tác khoa học kỹ
thuật Châu á- Thái Bình Dương (năm 2001).
Trên thực tế, vấn đề “Quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô
thị” chưa có một công trình nghiên cứu nào riêng biệt, cụ thể và có hệ thống.
Hơn nữa, đề tài “Đổi mới quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở thành


4

phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay” chưa được nghiên cứu.
Vì vậy, đề tài nghiên cứu làm luận văn không trùng lắp với các công trình nghiên
cứu đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn công tác quản lý nhà nước
về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị nói chung và tại thành phố Tam Kỳ- Tỉnh
Quảng Nam nói riêng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp đổi mới quản
lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở thành phố Tam Kỳ đến năm 2010.

Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rõ khái niệm về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, vai trò
của kết cấu HTKT đô thị đối với phát triển kinh tế- xã hội đô thị.
- Phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ
thuật ở thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới công tác quản lý nhà nước về
kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam đến năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về công tác quản lý nhà nước trên lĩnh
vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam trong
giai đoạn từ 2001-2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn với mục
tiêu “phát triển bền vững” và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn hiện
nay; các quan điểm của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam, thành phố Tam Kỳ về quản
lý kết cấu hạ tầng nói chung kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị nói riêng nhằm
phát triển kinh tế xã hội địa phương.
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác- Lênin; phương pháp nghiên cứu: lôgíc và lịch sử, tổng
hợp, thống kê, phân tích, so sánh và tổng kết kinh nghiệm.


5

6. Những đóng góp của luận văn
Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về kết cấu hạ tầng
kỹ thuật, vai trò của nó đối với phát triển kinh tế-xã hội tại các đô thị.
Đề xuất một số giải pháp đổi mới công tác quản lý nhà nước trên lĩnh

vực này, nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình xây dựng, chỉnh trang đô thị,
phát triển kinh tế- xã hội tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quản lý, chỉ đạo
điều hành và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật
đô thị, nhất là tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.


6

Chương 1
CƠ Sở Lý LUậN CủA QUảN Lý NHà NƯớc
về kết cấu Hạ tầng kỹ thuật đô thị

1.1. khái niệm, vai trò và đặc điểm của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị
1.1.1. Khái niệm kết cấu hạ tầng và kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị
1.1.1.1. Kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật nói riêng và kết cấu hạ tầng nói chung ngày
càng được sử dụng nhiều với tư cách là những thuật ngữ khoa học trong các
công trình nghiên cứu và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các cấp
chính quyền từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, ngay nội dung của
thuật ngữ này cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, nhìn tổng quát chúng ta có
thể thấy tập trung chủ yếu là hai loại ý kiến khác nhau xuất phát từ hai quan
niệm theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng của thuật ngữ kết cấu hạ tầng.
Theo nghĩa hẹp, kết cấu hạ tầng được hiểu là tập hợp các ngành phi
sản xuất thuộc lĩnh vực lưu thông, tức là bao gồm các công trình vật chất
kỹ thuật phi sản xuất và các tổ chức dịch vụ có chức năng bảo đảm những
điều kiện chung cho sản xuất, phục vụ những nhu cầu phổ biến của sản

xuất và đời sống xã hội. Theo cách hiểu này kết cấu hạ tầng chỉ bao gồm
các công trình giao thông, cấp thoát nước, cung ứng điện, hệ thống thông
tin liên lạc và các đơn vị bảo đảm duy trì các công trình này. Cách hiểu
như vậy có tác dụng giúp phân biệt khu vực "kết cấu hạ tầng" với chức
năng bảo đảm lưu thông, phục vụ cho khu vực sản xuất và các khu vực
khác và về nguyên tắc khu vực kết cấu hạ tầng khác hẳn với các khu vực
khác của nền kinh tế quốc dân như tài chính, giáo dục, y tế, văn hoá, xã
hội Tuy nhiên quan niệm kết cấu hạ tầng theo nghĩa hẹp không phản ánh
được mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận có mối liên quan mật thiết với
nhau trong một hệ thống thống nhất.
Theo nghĩa rộng, kết cấu hạ tầng được hiểu là tổng thể các công


7

trình đảm bảo những điều kiện "bên ngoài" cho sản xuất và sinh hoạt của
dân cư. Kết cấu hạ tầng là một phạm trù rộng gần nghĩa với "môi trường
kinh tế", bao gồm các phân hệ: phân hệ kỹ thuật (đường, giao thông, cầu,
cảng, sân bay, năng lượng, bưu chính viễn thông ) và phân hệ xã hội
(giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật ), hay phân tích cụ thể hơn còn có
phân hệ tài chính (hệ thống tài chính - tín dụng), phân hệ thiết chế (hệ
thống quản lý nhà nước và luật pháp). Cách hiểu này rõ ràng là rất rộng,
bao hàm hầu như toàn bộ khu vực dịch vụ. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng
hiểu theo nghĩa rộng không đồng nghĩa và lẫn lộn với các phạm trù "khu
vực dịch vụ" hoặc "môi trường kinh tế" ở chỗ kết cấu hạ tầng là một phạm
trù bao hàm tất cả những công trình cơ sở vật chất kỹ thuật, trong mối
quan hệ chặt chẽ với chức năng của chúng là tạo điều kiện cho các khu
vực kinh tế khác nhau phát triển.
Như vậy, khu vực kết cấu hạ tầng xét về mặt hình thức là rất rộng, bao
gồm các lĩnh vực rất khác nhau từ hệ thống giao thông đến cấp thoát nước, từ

thể chế pháp lý đến hệ thống đảm bảo thông tin kinh tế nhưng cần phải chú
ý là kết cấu hạ tầng không phải là tổng thể cơ học của tất cả các lĩnh vực đó
mà nó chỉ xét đến mối quan hệ "phục vụ", quan hệ "đảm bảo điều kiện" của
các lĩnh vực đó cho nền kinh tế quốc dân (xem sơ đồ 1.1).
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý
của Nhà nước nên quan niệm kết cấu hạ tầng theo nghĩa rộng vì như vậy sẽ
thấy rõ tính hệ thống của toàn bộ các lĩnh vực có tác dụng hỗ trợ cho sản xuất
và đời sống xã hội. Các bộ phận của kết cấu hạ tầng không đứng độc lập riêng
rẽ mà có quan hệ hữu cơ với nhau. Cách nhìn hệ thống đối với kết cấu hạ tầng
theo nghĩa rộng cho phép thấy được vị trí, vai trò tổng thể của kết cấu hạ tầng,
thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận bề ngoài có vẻ như độc lập
và không có liên quan với nhau, từ đó quan điểm, chính sách giải pháp quản
lý khu vực này sao cho có lợi nhất cho nền kinh tế quốc dân.
Sơ đồ 1.1: Quan hệ giữa kết cấu hạ tầng đối với hoạt động


8

của nền kinh tế quốc dân























1.1.1.2. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật
Hiện nay, có một vài khái niệm khác nhau về kết cấu hạ tầng tùy thuộc
vào cách tiếp cận ở góc độ này hay góc độ khác. Chẳng hạn nếu tiếp cận kết
cấu hạ tầng ở góc độ ngành, có các khái niệm như kết cấu hạ tầng nông
nghiệp, công nghiệp, du lịch, kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, tài chính tín
dụng, y tế, giáo dục, quốc phòng- an ninh Nhưng trong quản lý đô thị người
N
ền kinh tế quốc dân

Hoạt động sản xuất Hoạt động tiêu dùng
Yêu cầu
cung cấp
về máy
móc
thiết
bị, về
nguyên
nhiên
Yêu cầu

về đào
tạo con
người có
trình độ
kỹ thuật,
có sức
khỏe, kỹ
n
ă
ng


Yêu cầu
về giao
thông,
điện,
thông
tin, đảm
bảo an
toàn
Nhu cầu
về ăn,
mặc, ở,
y tế
nhằm tái
sản xuất
sức lao
động
Nhu cầu
đi lại,

học tập,
thông tin,
vui chơi
giải trí
nhằm
phát triển
toàn di
ện

Kết cấu hạ tầng


9

ta thống nhất sử dụng khái niệm trên cơ sở phân chia kết cấu hạ tầng theo lĩnh
vực, đó là “kết cấu hạ tầng kỹ thuật” và “kết cấu hạ tầng xã hội”. Tuy nhiên,
việc phân chia này chỉ mang tính chất tương đối, vì thực tế ít có loại kết cấu
hạ tầng nào chỉ hoàn toàn phục vụ kinh tế mà không phục vụ hoạt động xã
hội.
Khái niệm kết cấu HTKT được dùng để chỉ toàn bộ những lĩnh vực tạo
điều kiện về mặt "kỹ thuật" cho sản xuất và đời sống xã hội, bao gồm hệ
thống đường giao thông, hệ thống năng lượng và thông tin liên lạc, hệ thống
cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường các bộ phận của kết cấu HTKT đều có
điểm chung về mặt chức năng và thống nhất về bản chất kinh tế. Đối với các
đô thị, vị trí vai trò của kết cấu HTKT rất quan trọng, bảo đảm cho quá trình
tổ chức sản xuất và sinh hoạt của đô thị được thực hiện liên tục, mang lại hiệu
quả KT-XH cao.
Kết cấu HTKT đô thị bao gồm nhiều bộ phận hợp thành và mỗi bộ
phận lại có tính độc lập tương đối, có đặc điểm và phương thức quản lý khác
nhau. Cho đến nay, quan niệm về kết cấu HTKT cũng còn nhiều ý kiến khác

nhau nhưng nhìn chung đều nhất trí rằng kết cấu HTKT đô thị bao gồm những
bộ phận chủ yếu sau đây:
- Các công trình giao thông đối nội và đối ngoại, bao gồm: mạng lưới
đường, cầu, hầm, quảng trường, bến bãi, sông ngòi, kênh rạch, các công trình
đầu mối giao thông, sân bay, nhà ga, bến xe và bến cảng nằm trong phạm vi
quản lý của các công trình giao thông đô thị.
- Các công trình cấp nước đô thị, bao gồm: các nguồn cung cấp nước
mặt hoặc nước ngầm, các công trình kỹ thuật khai thác nguồn nước và sản
xuất nước sạch, hệ thống phân phối nước (đường ống, tăng áp và điều hòa).
- Các công trình thoát nước đô thị, bao gồm: hệ thống cống rãnh, cửa
xả, kênh mương, đê đập, trạm bơm và trạm xử lý nước thải
- Các công trình cấp điện và chiếu sáng đô thị, bao gồm: các nhà máy phát
điện, các trạm biến áp, hệ thống đường dây dẫn điện, cột điện, đèn chiếu sáng
- Các công trình thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông


10
- Các công trình phục vụ công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chất
thải đô thị (thùng chứa, các điểm trung chuyển rác, phương tiện thu gom, vận
chuyển, bãi xử lý rác )
- Các công viên, cây xanh phục vụ vui chơi, giải trí và bảo vệ môi trường;
Ngoài ra có quan điểm còn tính đến cả các lĩnh vực nhà ở, hệ thống kho
tàng tập trung, các công trình và tổ chức phục vụ công cộng như tang lễ, y tế,
cơ sở xã hội, phòng chữa cháy, phòng chống lụt bão, động đất v.v
Sơ đồ 1.2: Cấu trúc của kết cấu hạ tầng



























Kết cấu hạ
t
ầng

Kết cấu hạ
tầng trên
giác đ
ộ l
ãnh

Kết cấu hạ
tầng trên
giác đ
ộ ng
ành

Kết cấu hạ
tầng
Kết cấu hạ
tầng
- Giao
thông
- Cấp nước
- Cấp điện
- VSMT

- Cơ sở giáo
dục đào tạo
-Công viên,cây xanh
-Bệnh viện, trạm xá
-Cơ sở văn hóa công
cộng của đô thị



một
phần
phục
vụ
cho



11
Nghiên cứu và phân tích cụ thể hơn thì trong kết cấu HTKT đô thị bao
gồm hai mảng lớn. Mảng thứ nhất là các công trình cơ sở vật chất có chức
năng tạo điều kiện cho toàn bộ hoạt động kinh tế-xã hội của thành phố như
đường giao thông, hệ thống cấp thoát nước, lưới điện, mạng bưu chính viễn
thông Đây là những công trình được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu về
dịch vụ hàng hoá công cộng và dù chúng được đầu tư xây dựng theo phương
thức nào đi chăng nữa cũng đều có đặc điểm là gắn liền với chức năng đảm
bảo điều kiện cho sự hoạt động bình thường của đô thị.
Mảng thứ hai của kết cấu HTKT đô thị chính là các thiết chế tổ chức có
chức năng quản lý đầu tư xây dựng, quản lý vận hành, khai thác sử dụng các
công trình kết cấu HTKT hoặc cung ứng các sản phẩm hàng hoá công cộng.
Đó là các công ty, xí nghiệp, trạm, các đơn vị sự nghiệp tức là các tổ chức
con người được thành lập và hoạt động theo thể chế hiện hành.
Việc phân biệt hai mảng kết cấu HTKT đô thị như trên có ý nghĩa thực
tiễn rất lớn. Đối với mảng các công trình kết cấu HTKT có tầm quan trọng
đặc biệt lại đòi hỏi vốn đầu tư lớn, hiệu suất vốn thấp, khó tổ chức thu hồi
vốn Nhà nước có trách nhiệm đầu tư phát triển và quản lý thống nhất, còn
đối với mảng thứ hai, tuỳ thuộc vào cơ chế quản lý, trình độ quản lý có
phương thức và hình thức tổ chức quản lý phù hợp.
1.1.2. Đặc điểm của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị
Sản phẩm đầu ra của kết cấu HTKT đô thị đều là sản phẩm hàng hoá
hoặc dịch vụ công cộng. Do đó những sản phẩm này vừa mang những đặc
điểm của các sản phẩm dịch vụ vừa có những đặc điểm của các hàng hoá
công cộng. Chính yếu tố này quy định phương thức và các hình thức đầu tư,
quản lý các công trình kết cấu HTKT. Nhìn chung, kết cấu HTKT đô thị có
các đặc điểm chủ yếu sau:
Đặc điểm cơ bản nổi bật nhất của kết cấu HTKT đô thị là tính hệ thống

đồng bộ của nhiều “nhánh” khác nhau trong quan hệ tổng thể. Nếu một khâu
nào đó trong hệ thống không được thiết kế xây dựng sẽ ảnh hưởng đến vận
hành toàn bộ, thậm chí gây ách tắc, chẳng hạn một đô thị có đầy đủ các điều


12
kiện thuận lợi về giao thông vận tải (như hệ thống cảng biển, sân bay, đường
bộ, đường sắt ) nhưng cũng không thể khuyến khích phát triển sản xuất công
nghiệp nếu như không có đủ nguồn điện hoặc nguồn nước bị ô nhiễm. Do vậy
tính hệ thống đồng bộ là đặc điểm đặc biệt của kết cấu HTKT đô thị.
Tính hệ thống đồng bộ không những chi phối toàn diện đến thiết kế quy
hoạch đầu tư thiết bị các công trình cụ thể mà còn liên quan đến cách thức
tổ chức quản lý, vận hành kết hợp giữa quản lý theo ngành và theo vùng, lãnh
thổ. Yêu cầu trên càng thể hiện trong những loại kết cấu HTKT mang tính hệ
thống cao như giao thông, bưu chính viễn thông tính hệ thống đồng bộ đặt
ra cho công tác quản lý nhà nước của các cấp chính quyền đô thị là phải kết
hợp một cách đồng bộ và chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành
trên các lĩnh vực nhằm nâng cao hiệu quả, hạn chế thấp nhất lãng phí khi xây
dựng các công trình kết cấu HTKT.
Đặc điểm thứ hai của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị là tính định hướng.
Đặc điểm này xuất phát từ nhiều khía cạnh khác nhau của vị trí hệ thống kết
cấu HTKT như vốn đầu tư cao, thời gian sử dụng lâu dài, là yếu tố mở đường
cho các hoạt động kinh tế- xã hội đặc điểm này đòi hỏi mỗi quốc gia phải có
quy hoạch dài hạn, chiến lược, quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết bố trí
hệ thống kết cấu HTKT. Cách làm chắp vá đến đâu hay đến đấy, sẽ hạn chế
phát triển kết cấu HTKT, thậm chí gây ách tắc, cản trở phát triển kinh tế- xã
hội của đô thị.
Đặc điểm thứ ba của kết cấu HTKT đô thị là tính chất vùng và địa
phương: việc xây dựng và phát triển kết cấu HTKT đô thị phụ thuộc nhiều
yếu tố như địa lý, địa hình, trình độ phát triển, tập quán văn hóa, kiến trúc vì

thế hệ thống kết cấu HTKT mang tính chất vùng, địa phương rất rõ nét. Yêu
cầu này đặc ra cho công tác quản lý là trong việc xác định hệ thống kết cấu
HTKT đô thị và thiết kế đầu tư, sử dụng nguyên vật liệu vừa đặt trong hệ
thống chung của quốc gia, vùng lãnh thổ vừa phải phù hợp với đặc điểm, điều
kiện cụ thể của từng địa phương.
Đặc điểm thứ tư là kết cấu HTKT đô thị có tính chất dịch vụ và tính
cộng đồng cao, hầu hết các sản phẩm của kết cấu HTKT là sản phẩm trung


13
gian, cung cấp các dịch vụ để ngành khác tạo ra sản phẩm cuối cùng. Vì thế
việc đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước về kết cấu HTKT rất phức tạp.
Hơn nữa nhiều loại kết cấu HTKT tiến hành sản xuất và dịch vụ là
những hàng hóa công cộng, phục vụ chung cho nhiều ngành, nhiều người
(như ngành cấp nước vừa kinh doanh nước sạch nhưng vừa đảm bảo yêu cầu
phục vụ nước sinh hoạt cho tất cả mọi người dân). Đặc điểm này đòi hỏi phải
giải quyết quan hệ giữa yêu cầu kinh doanh và phục vụ mang tính phúc lợi,
đồng thời xác định hệ thống cơ cấu các chủ thể tham gia sử dụng kết cấu
HTKT, hệ thống các chính sách và công cụ của nhà nước để xử lý quan hệ
giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Điều này đặc biệt quan trọng đối với
các nước đang phát triển, thu nhập của dân cư thấp, ngân sách nhà nước còn
hạn hẹp như Việt Nam.
1.1.3. Vai trò của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị
Kết cấu HTKT đô thị có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế- xã
hội của mọi quốc gia nói chung và các đô thị nói riêng, thể hiện cụ thể ở một
số điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, kết cấu HTKT là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Một khi kết cấu HTKT phát triển hợp lý, nó sẽ kéo theo sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng khu vực kinh tế nông nghiệp

(khu vực I) ngày càng giảm dần, khu vực kinh tế công nghiệp, dịch vụ (khu
vực II và III) tăng lên, thỏa mãn ngày càng cao về sản xuất, đời sống và vui
chơi giải trí của xã hội loài người.
Tương ứng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực. Lao động khu vực I giảm dần, lao
động khu vực II và III tăng lên. Sự chuyển dịch cơ cấu như trên làm tăng quy
mô dân số trong các khu vực đô thị.
Thứ hai, kết cấu HTKT đảm bảo những điều kiện vật chất thuận lợi
nhất để các cơ sở sản xuất và dịch vụ hoạt động có hiệu quả. Thật vậy, chỉ cần
trục trặc trong một khâu nhất định của một loại hoạt động do sự yếu kém của


14
hệ thống kết cấu HTKT gây ra như cung cấp năng lượng, cấp thoát nước, giao
thông, thông tin liên lạc thì lập tức gây ra sự cố cho hoạt động của các cơ sở
sản xuất và dịch vụ khác. Ngược lại, một hệ thống kết cấu HTKT hiện đại,
đồng bộ sẽ tạo điều kiện rút ngắn chu kỳ sản xuất và lưu thông sản phẩm,
giảm bớt chi phí sản xuất và góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho
các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ mang tính cạnh tranh hơn.
Thứ ba, xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, kết cấu HTKT như là hệ
thống huyết mạch của nền kinh tế, có nhiệm vụ thực hiện những mối liên hệ
giữa các bộ phận và các vùng của nền kinh tế. Một mặt, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc sử dụng tốt nhất những tiềm năng của đất nước, mở rộng quan hệ
quốc tế. Mặc khác tạo điều kiện để phát triển kinh tế- xã hội đồng đều, rộng
khắp theo vùng lãnh thổ, làm giảm bớt sự khác biệt về dân trí, mức sống giữa
các vùng.
Thứ tư, hệ thống kết cấu HTKT góp phần nâng cao trình độ văn minh
đô thị, đồng thời là cơ sở quan trọng để giải quyết tốt môi sinh, môi trường,
vấn đề đang đặt ra hết sức bức xúc cho hầu hết các đô thị trên thế giới, nhất là
nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Kết cấu HTKT là cơ sở điều kiện

thiết yếu để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn. Kết cấu HTKT còn có vai trò quan trọng trong việc phục vụ cho
các hoạt động đảm bảo an ninh- quốc phòng, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội trên cơ sở chuyên
môn hoá và phân công lao động xã hội, vai trò của kết cấu HTKT ở các đô thị
có xu hướng ngày càng tăng lên, do một số nguyên nhân sau:
+ Quy mô sản xuất tăng lên, quá trình phân công lao động xã hội sâu sắc
thêm, dẫn đến quá trình đô thị hoá với tốc độ nhanh và hình thành những trung
tâm kinh tế lớn. Đối với các quốc gia đang trong quá trình công nghiệp hoá, quá
trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ cao. Sự phát triển của đô thị đòi hỏi phải phát
triển hệ thống HTKT như một điều kiện không thể thiếu đảm bảo cho các quá
trình phát triển sản xuất và tổ chức đời sống xã hội. Một loạt nhu cầu tăng nhanh
chóng: giao thông vận tải, thông tin liên lạc, cung ứng năng lượng, nước sạch, xử


15
lý nước thải, cây xanh, hệ thống kho tàng những nhu cầu này đòi hỏi sự quản
lý chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả trong quá trình phát triển.
+ Việc phát triển đô thị trong điều kiện nền kinh tế mở, hội nhập có
nhiều hình thức đầu tư và giao lưu quốc tế đòi hỏi các chỉ số tiêu chuẩn của tổ
chức đô thị phải phù hợp với các chỉ số của quốc tế. Điều này đòi hỏi phải coi
phát triển HTKT như một yếu tố có tác dụng thúc đẩy phát triển sản xuất,
nhất là lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Như vậy, kết cấu HTKT có vai trò ngày càng hết sức quan trọng trong
việc nâng cao hiệu quả hoạt động của từng đơn vị kinh tế cũng như toàn bộ
nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng như ở Việt Nam hiện nay. Sự phát triển kết cấu HTKT đô thị là
một trong những điều kiện tiên quyết cho sự phát triển nền kinh tế và các
phúc lợi xã hội khác. Nó là yếu tố mở đường, là bộ phận cấu thành của phát

triển KT-XH. Chính vì vậy, sự phát triển của kết cấu HTKT là một tiêu chuẩn
quan trọng để đánh giá trình độ phát triển, trình độ hội nhập của một quốc gia
hay một địa phương.
1.1.4. Đánh giá trình độ phát triển và hiệu quả của kết cấu hạ tầng
kỹ thuật đô thị
1.1.4.1. Về đánh giá trình độ phát triển của kết cấu hạ tầng kỹ thuật
đô thị
Kết cấu HTKT đô thị có tính độc lập tương đối nên có những chỉ tiêu
đánh giá trình độ phát triển của từng loại kết cấu HTKT nói riêng cũng như
toàn bộ hệ thống nói chung. Đây là hệ thống chỉ tiêu làm cơ sở để lập quy
hoạch và kế hoạch đầu tư xây dựng kết cấu HTKT trong hoạt động quản lý
nhà nước các cấp. Trình độ phát triển của kết cấu HTKT thể hiện ở hai mặt
khác nhau:
Một là, loại phản ánh quy mô và trình độ phát triển của bản thân các loại
kết cấu HTKT như tổng số vốn đầu tư, tỷ trọng đầu tư trong tổng số vốn đầu tư
cho đô thị đang xem xét, số kilômet đường các cấp đã xây dựng, số máy điện


16
thoại, số lượng nước sạch cung ứng, số kilômet đường ống cấp nước, thoát
nước Loại chỉ tiêu này cho biết quy mô, tốc độ phát triển các lĩnh vực HTKT.
Hai là, loại phản ánh chất lượng tổng hợp, phản ánh mối quan hệ giữa
sự phát triển của các loại kết cấu HTKT với sự phát triển của đô thị nói
chung. Khi nghiên cứu lập quy hoạch, kế hoạch đầu tư kết cấu HTKT thì loại
chỉ tiêu này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Ví dụ chỉ tiêu số mét vuông đường
tính bình quân cho một phương tiện giao thông đang hoạt động hoặc tốc độ
trung bình của phương tiện, tần suất tắc nghẽn giao thông nói lên khả năng
lưu thông trong đô thị; chỉ tiêu thời gian đi lại làm việc trung bình một ngày
của cư dân đô thị nói lên chất lượng hệ thống giao thông và các phương tiện
giao thông công cộng; chỉ tiêu số mét khối nước sạch tiêu dùng của dân cư,

khả năng thoát nước nói lên chất lượng hệ thống cấp thoát nước, chỉ tiêu số
mét vuông cây xanh nói lên chất lượng đảm bảo môi trường xanh cho đô thị
1.1.4.2. Về hiệu quả của kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị
Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đối với nền kinh tế xã hội được đánh giá
bằng sự đóng góp của kết cấu HTKT cho sự phát triển KT-XH, an ninh- quốc
phòng của địa phương (bao gồm cả vấn đề môi trường, môi sinh ). Do đặc
điểm của kết cấu HTKT mà hiệu quả của nó đối với nền kinh tế xã hội rất khó
xác định một cách cụ thể, mà thông thường chỉ dừng lại ở mức độ dự báo dự
tính, ước lượng mang tính chất “định tính” hoặc xác định tương đối bằng chỉ
tiêu tổng hợp mà thôi. Hơn nữa, giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội do
các công trình kết cấu HTKT mang lại có mối quan hệ hết sức chặt chẽ, tác
động qua lại lẫn nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau nên rất khó định lượng chính
xác. Tuy nhiên, để thuận lợi cho quá trình nghiên cứu và quản lý nhà nước về
kết cấu HTKT ở các cấp chính quyền đô thị, người ta thường phân thành hai
chỉ tiêu:
Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế: cần quan tâm các chỉ tiêu hiệu quả đem lại
trực tiếp cho toàn xã hội như: đóng góp cho tốc độ tăng trưởng GDP, tăng
mức đóng góp cho ngân sách nhà nước, góp phần cải thiện cho cơ cấu kinh tế
quốc dân theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, củng cố an ninh-quốc


17
phòng. Đồng thời phải tính toán đến những kết quả kinh tế kéo theo như: cải
thiện điều kiện làm việc và điều kiện sống nên đã nâng cao năng suất lao
động, giảm chi phí chữa bệnh do sức khoẻ của nhân dân được đảm bảo
Tuy nhiên, những thiệt hại do kết cấu HTKT gây ra đối với nền kinh tế
trong nhiều trường hợp là rất lớn và thường khó tính tóan hết trong các phân
tích đánh giá, ví dụ: thiệt hại trực tiếp do đầu tư thiếu phối hợp, đường mới
làm lại đào lên để chôn ống nước hoặc cáp thông tin; công trình mới làm chưa
hết khấu hao đã phải làm lại do không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật Hoặc thiệt

hại gián tiếp do các công trình kết cấu HTKT không đáp ứng được nhu cầu
của phát triển sản xuất và đời sống xã hội. Thiệt hại vô hình do công trình kết
cấu HTKT đã xây dựng nhưng tỷ suất sử dụng quá thấp trong thời gian dài,
hoặc do tỷ suất sử dụng vượt quá khả năng đáp ứng của công trình kết cấu
HTKT. Đây là những vấn đề cần được chú ý khắc phục trong các quyết định
quản lý của chính quyền đô thị.
Theo giáo sư Nhiêu Hội Lâm (Trung Quốc):
Hạng mục xây dựng và dung lượng phục vụ của các công
trình cơ sở hạ tầng đô thị được đầu tư sử dụng một lần rất khó
hoàn toàn ăn khớp với nhu cầu của số lượng người và sản xuất
ngày càng tăng lên. Cho nên biện pháp giải quyết chỉ có thể là
mỗi khi xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị đều phải có chỗ dôi ra làm
cho nó có lượng định trước nhất định. Nên tầng suất sử dụng
hoặc cường độ sử dụng của nó có một quá trình phát triển từ thấp
đến cao. Do đó hiệu ích của cơ sở hạ tầng đô thị tăng trưởng theo
tỷ lệ thuận với tỷ suất sử dụng hoặc cường độ của nó. Nhưng
điều quan trọng là tỷ suất sử dụng và cường độ lợi dụng của cơ
sở hạ tầng đều có giới hạn, vượt quá giới hạn này hiệu quả kinh
tế của nó không chỉ không thể tiếp tục nâng cao mà còn trượt
theo hướng ngược lại, gây nên hiệu ích âm của đô thị, tức hiệu
ích kinh tế tổng hợp đô thị giảm thấp (xem đồ thị 1.1) [33,


18
tr.338].
Đồ thị 1.1: Tỷ suất sử dụng kết cấu HTKT đô thị với quy luật biến đổi
của hiệu quả kinh tế tổng hợp đô thị [33, tr.377]

Hiệu quả kinh tế
tổng hợp đô thị






thấp phù hợp vượt quá Tỷ suất sử dụng
kết cấu HTKT đô thị
Biểu đồ này phản ảnh khá rõ thực tiễn sử dụng kết cấu HTKT ở các đô
thị. Điển hình như trên một tuyến đường giao thông được đầu tư xây dựng
mới, giai đoạn đầu lượng người tham gia lưu thông thấp, tức hiệu suất sử
dụng công trình thấp. Khi dân cư đô thị tăng lên, lượng người lưu thông trên
đường sẽ từng bước phù hợp với quy mô thiết kế, lúc này hiệu quả sử dụng
đạt cao nhất, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội chung. Nhưng cùng
với quá trình phát triển đô thị, đến một lúc nào đó sẽ xảy ra tình trạng quá tải,
tắc nghẽn giao thông, ảnh hưởng xấu đến sinh hoạt và sản xuất của nhân dân,
gián tiếp làm giảm hiệu quả kinh tế- xã hội của đô thị.
Chỉ tiêu về hiệu quả xã hội: các chỉ tiêu xã hội của các công trình kết
cấu HTKT đô thị thể hiện ở các mặt như giải quyết được công ăn việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo, giảm lao động
nặng nhọc hoặc các tác động đến môi trường sinh thái Tuy nhiên, nếu đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng không hợp lý sẽ gây ra những hậu quả khôn lường về
xã hội, nhất là phá vỡ môi trường sinh thái, hủy hoại môi trường sống trong lành
của nhân dân. Ví dụ, xây dựng bãi xử lý rác không đảm bảo quy chuẩn dẫn đến ô


19
nhiễm nguồn nước ngầm, ô nhiêm không khí đối với các khu dân cư chung
quanh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sức khỏe của nhân dân.
Có một số phương pháp tính hiệu quả cho từng loại kết cấu HTKT.
Điển hình là phương pháp của phó giáo sư Trần Đức Dục, hiệu quả KT-XH

của các công trình phục vụ công cộng không mang tính chất kinh doanh như:
hệ thống giao thông công cộng, thoát nước đô thị, thông tin liên lạc (hệ thống
phát thanh truyền hình ) được tính như sau [18, tr.42-43]:
Hiệu quả kinh tế của công trình loại này được thể hiện ở tổng chi phí
đầu tư và chi phí sử dụng hàng năm nhỏ nhất:
Ct = V.r – S  min
Trong đó: Ct: tổng chi phí hàng năm,
V: vốn đầu tư vào xây dựng công trình
r: Lãi suất vốn vay của ngân hàng
S: Chi phí sử dụng hàng năm.
Có thể tính chi phí cho một đơn vị giá trị sử dụng của công trình nhỏ nhất:

Ct

V.r + S
Cđvị = =  min
Gsd Gsd

Gsd: giá trị sử dụng tổng hợp của công trình được xác định theo phương
pháp chỉ tiêu tổng hợp không đơn vị đo, bởi vì các giá trị sử dụng của công
trình được biểu hiện bằng nhiều hình thức, bằng nhiều đơn vị đo khác nhau
như đơn vị đo công suất phục vụ của công trình: số m
2
diện tích, số m
3
nước
sạch, số lượng người tham gia lưu thông hoặc có những giá trị thông qua
chất lượng “phục vụ” bằng cách đánh giá cho điểm của các chuyên gia.
Khi xác định tổng chi phí (Ct) cũng cần lưu ý đến hiệu quả kinh tế bằng
tiền được nảy sinh từ các hiệu quả kinh tế kéo theo mang lại, ví dụ như việc

xây dựng một con đường sẽ làm giảm chi phí vận chuyển, giảm thời gian làm
việc, tăng năng suất lao động do đó làm tăng lợi nhuận. Lúc này khi xác
định Ct cần tính toán thêm điều đó:
Ct = V.r + (S - H)  min


20
Trong đó: H- Tiết kiệm chi phí do các hiệu quả kinh tế kéo theo mang lại
Trong quản lý nhà nước về kết cấu HTKT đô thị, cần tính tóan phân
tích, kết hợp nhiều phương án với nhau nhằm tính toán hiệu quả so sánh giữa
chúng, làm cơ sở để quyết định lựa chọn phương án đầu tư kết cấu HTKT
mang lại lợi ích KT-XH cao nhất.
1.2. sự cần thiết khách quan phải đổi mới quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng
kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay
1.2.1. Vai trò quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị
1.2.1.1. Nhà nước đảm bảo cung cấp đầy đủ hệ thống các kết cấu
HTKT để đảm bảo nhu cầu cuộc sống của nhân dân, tạo điều kiện cho hoạt
động sản xuất và làm dịch vụ của các tổ chức và cá nhân, đảm bảo sao cho
dịch vụ đó có được một cách kịp thời, đủ số lượng và chất lượng cần thiết với
giá cả thích hợp, đồng thời phù hợp với các yêu cầu khách quan của nền kinh
tế thị trường. Nhà nước tác động trực tiếp vào khâu quản lý để điều tiết nền
kinh tế phát triển bền vững trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Ví dụ: quản lý hệ thống cấp nước đô thị nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng
nước hàng ngày cho sinh hoạt, các dịch vụ công cộng, hoạt động sản xuất
kinh doanh theo tiêu chuẩn trong nước và quốc tế. Chính quyền đô thị là nơi
lập quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng hoặc nâng cấp các nhà máy nước để
sản xuất nước sạch cho các hoạt động của đô thị, đảm bảo cho người tiêu
dùng có đủ nước với giá thành hợp lý và đảm bảo chất lượng, nhưng vẫn đảm
bảo tính chủ động trong các hoạt động có tính chất kinh doanh của ngành cấp
nước. Vấn đề đặt ra trong công tác quản lý cấp nước của các chính quyền đô

thị là cung cấp nước phải đầy đủ về số lượng, chất lượng và đặc biệt là phải
tuân thủ nghiêm ngặt Luật bảo vệ nguồn nước. Các nhà máy nước phải xây
dựng theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các đối tượng dùng
nước phải ký hợp đồng với cơ quan chuyên trách.
1.2.1.2. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và củng
cố hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách nhằm tạo ra hành lang


21
pháp lý thông thoáng, thuận lợi để đầu tư phát triển kết cấu HTKT đô thị như:
Luật khuyến khích đầu tư, Luật đường bộ, Luật đường sông, Luật bảo vệ tài
nguyên nước, Luật bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Nghị định ban hành điều
lệ quản lý quy hoạch đô thị; hay chính sách hỗ trợ phát triển ngành công
nghiệp-dịch vụ, cho phép hình thành quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển đô thị Trên
cơ sở đó, các cơ quan chức năng và các địa phương đề lập quy hoạch, kế
hoạch và thực hiện đầu tư xây dựng kết cấu HTKT ở địa phương mình, đồng
thời có trách nhiệm tuyên truyền giáo dục để mọi tổ chức cá nhân hiểu và tổ
chức thực hiện đạt kết quả cao nhất.
1.2.1.3. Kết cấu HTKT có tính hệ thống, đồng bộ, giữa các lĩnh vực có
mối quan hệ mật thiết với nhau cả về mặt kết cấu kỹ thuật, hiệu quả sử dụng
nhưng mỗi lĩnh vực thường được giao cho một ngành chức năng quản lý, như
các tuyến đường giao thông đối nội do chính quyền đô thị quản lý, nhưng kết
cấu HTKT đi cùng như hệ thống cấp nước do công ty cấp nước quản lý, cấp
điện do điện lực quản lý, cáp quang do bưu điện quản lý gây rất nhiều khó
khăn trong quá trình đầu tư xây dựng cũng như trong quản lý sử dụng (nhất là
đối với các đô thị trực thuộc tỉnh). Do vậy, Nhà nước phải quản lý chặt chẽ và
chỉ đạo các cơ quan này thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất trong quá
trình phát triển các công trình kết cấu HTKT, đồng thời phân công nghĩa vụ,
trách nhiệm cụ thể cho từng ngành, nhằm hạn chế thấp nhất tình trạng đầu tư
thiếu đồng bộ gây lãng phí, kém hiệu quả trong đầu tư.

1.2.1.4. Trong quá trình hoạch định chiến lược, lập quy hoạch, kế
hoạch phát triển kết cấu HTKT, Nhà nước phải nắm và phân tích các dữ liệu
cần thiết, áp dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại để tìm ra những giải
pháp phát triển hợp lý nhất. Ví dụ, dự báo nhu cầu tương lai của nhân dân về
dịch vụ công cộng: giao thông, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, nhu cầu vui
chơi giải trí, tính toán khả năng tiền vốn, khả năng đầu tư từ đó xác định thứ tự
ưu tiên trong đầu tư (phân kỳ đầu tư hợp lý), phương thức đầu tư (đầu tư từ
nguồn nào, hình thức gì ? ). Đặc biệt phải chú ý tính toán các chỉ tiêu tổng
hợp đánh giá hiệu quả KT-XH của kết cấu HTKT nhằm xác lập quy hoạch,
hoặc đưa ra các quyết định đầu tư xây dựng kết cấu HTKT đạt hiệu quả cao


22
nhất.
1.2.1.5. Thông qua quản lý kết cấu HTKT, Nhà nước có thể điều chỉnh
được cơ cấu kinh tế, tổ chức lại sản xuất, hoặc bố trí sắp xếp lại dân cư theo
các mục tiêu đã được xác định. Đồng thời, thông qua đó, đảm bảo cho đô thị
phát triển một cách có hệ thống trong tổng thể phát triển của địa phương,
vùng hoặc quốc gia; đảm bảo các yếu tố về kỹ thuật, mỹ thuật, vệ sinh môi
trường, tiến độ kế hoạch ví dụ: việc xây dựng các khu công nghiệp tập trung
sẽ giải tỏa được những cơ sở sản xuất nằm trong các khu dân cư, nhất là
những cơ sở có mức độ ô nhiễm môi trường lớn. ở Việt Nam, việc Chính phủ
quyết định xây dựng tuyến đường Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa phát triển KT-
XH vừa tạo điều kiện tăng cường các yêu tố đảm bảo quốc phòng- an ninh
cho đất nước nói chung và các tỉnh miền núi, Tây Nguyên nói riêng. Hay việc
đầu tư khu hóa lọc dầu Dung Quất gắn với khu kinh tế Dung Quất, kinh tế mở
Chu Lai là điều kiện quan trọng cho sự phát triển đột phá của khu vực Miền
Trung, hiện KT-XH khó khăn nhất cả nước.
1.2.1.6. Trong kết cấu HTKT có một mảng quan trọng là các thiết chế
tổ chức có chức năng đầu tư xây dựng, quản lý vận hành và khai thác sử dụng

các kết cấu HTKT. Hơn nữa, để giải quyết có mối liên hệ giữa nhiều lĩnh vực
khác nhau trong quản lý kết cấu HTKT, tránh sự chồng chéo trong quản lý,
nhà nước phải thực hiện thường xuyên việc rà soát, củng cố tổ chức bộ máy
và cán bộ, không ngừng nâng cao năng lực, chỉ đạo điều hành và tổ chức thực
hiện nhiệm vụ. Thực hiện sự phân công, phân cấp rõ ràng giữa các cấp chính
quyền đô thị để bộ máy quản lý nhà nước ngày càng được tinh gọn và hoạt
động có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa
đất nước.
1.2.2. Nội dung chủ yếu trong quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng
kỹ thuật đô thị
Thứ nhất, quản lý quy hoạch xây dựng kết cấu HTKT đô thị. Bất kể
một đô thị nào cũng cần có quy hoạch tổng thể kinh tế- xã hội. Trên cơ sở đó,
lập quy hoạch chung làm căn cứ pháp lý để quản lý đất đai và xây dựng đô


23
thị. Trên nền quy hoạch chung các đô thị tiến hành quy hoạch chi tiết và quy
hoạch chuyên ngành đầu tư xây dựng các công trình kết cấu HTKT theo dự án
được duyệt. Đây là nội dung đặc biệt quan trọng, là nhân tố “đi trước, mở
đường”, có ý nghĩa quyết định đến phát triển đô thị trong hiện tại và tương lai.
Khi nhà nước đã phê duyệt chiến lược phát triển hệ thống đô thị với các
kế hoạch dài hạn thì đó là cơ sở pháp lý để triển khai các loại hình quy hoạch
tiếp theo, đăc biệt là quy hoạch phát triển đô thị nói chung và kết cấu HTKT
đô thị nói riêng theo đúng mục tiêu phát triển đã được phê duyệt. ở Việt Nam,
định hướng quy hoạch tổng thể đã khẳng định mục tiêu:
Từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đô thị cả nước, có
cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và kỹ thuật hiện đại, môi trường đô thị
trong sạch, được phân bố và phát triển hợp lý trên địa bàn cả nước,
đảm bảo cho mỗi đô thị theo vị trí và chức năng của mình, phát huy
được đầy đủ các thế mạnh, góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến

lược là là xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc [6, tr.6].
Hầu hết các đô thị hình thành và phát triển từ rất sớm với một nền văn
hóa lâu đời, mang đậm bản sắc của từng vùng miền, địa phương. Do vậy, đòi
hỏi chính quyền các đô thị trong quá trình thực hiện quy hoạch, xây dựng các
công trình kết cấu HTKT đô thị vừa phải đảm bảo tính hiện đại, vừa gắn liền
với các yếu tố văn hóa- xã hội truyền thống dân tộc, bảo tồn và phát huy được
giá trị của các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của địa phương và quốc gia,
theo hướng phát triển bền vững.
Một trong những nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về quy hoạch
xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, là phải xác định chính xác nhu cầu về kết
cấu HTKT đô thị. Bởi vì qua đó sẽ xác định được quy mô, số lượng đầu tư kết cấu
HTKT hợp lý, mang lại hiện quả kinh tế- xã hội cao nhất; đồng thời cũng sẽ xác
định được nhu cầu vốn cho đầu tư, làm cơ sở để hoạch định chính sách huy động
vốn phù hợp. Vấn đề nay được phó giáo sư Bùi Trọng Cầu đề cập trong bài viết
“tiếp cận tổng thể trong quy hoạch các hệ thống hạ tầng” như sau:
Việc xác định không chính xác nhu cầu hạ tầng sẽ gây ra thiệt
hại rất lớn do hoặc hệ thống hạ tầng không đảm bảo cung cấp các


24
dịch cần thiết, hoặc là hệ thống hạ tầng dư thừa công suất sơ với nhu
cầu dẫn tới lãng phí vốn đầu tư. Ngoài ra việc cung cấp các dịch vụ
hạ tầng không đồng bộ và cấn đối cũng gây ra các thiệt hại rất lớn vì
lúc đó, toàn hệ thống hạ tầng sẽ hoạt động theo hệ thống có công
suất đáp ứng nhu cầu kém nhất. Thí dụ, nếu hệ thống cấp điện chỉ
đáp ứng 70% yêu cầu của một khu công nghiệp thì lúc đó, việc sản
xuất sẽ bị đình đốn và các hệ thống hạ tầng khác cũng chỉ có thể
được khai thác với tỷ lệ tương đương [9, tr.28].
Vậy làm thế nào để xác định được nhu cầu và quy mô đầu tư tối ưu của
các công trình hạ tầng nhằm mang lại hiệu quả đầu tư cao nhất. Có nhiều

quan điểm đồng tình với cách tiếp cận của phó giáo sư Bùi Trọng Cầu, thông
qua việc phân tích mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra và sự hữu ích của kết cấu
HTKT (xem đồ thị 1.2): khi kết cấu HTKT chưa đáp ứng được yêu cầu của hệ
thống kinh tế- xã hội, việc đầu tư HTKT mang lại hiệu quả rất lớn. Khi tăng
chi phí đầu tư cho HTKT thì lợi ích mà HTKT mang lại tăng lên rất nhanh
chừng nào cung còn nhỏ nhiều hơn cầu, tiếp tục đầu tư, lợi ích này vẫn tăng
nhưng tốc độ tăng ngày càng giảm khi cung gần đáp ứng được cầu và giảm rất
nhanh khi cung đã vượt cầu. Lúc này nếu tiếp tục đầu tư, lợi ích HTKT mang
lại tăng ngày một chậm dần tới mức không tăng nữa, và việc đầu tư ngày càng
trở nên kém hiệu quả và dần tới trở thành lãng phí hoàn toàn.
Cũng theo phó giáo sư Bùi Trọng Cầu: quy mô đầu tư tối ưu cho các
hệ thống hạ tầng là quy mô khi đầu tư một đơn vị chi phí biên thu lại được
một đơn vị lợi ích biên tương ứng. Đó là điểm mà cung và cầu về các dịch vụ
hạ tầng bằng nhau.
Đồ thị 1.2: Khái niệm về quy mô đầu tư hạ tầng tối ưu [9, tr.30]





Chi phí đầu tư h

tầng C (đ)
L
ợi ích đầu t
ư U (đ)
0
tối ưu
Lợi ích của Đầu tư
Hạ tầng U = f(C)



25




Thứ hai, quản lý vốn đầu tư. Một trong những vấn đề quan trọng trong
quản lý nhà nước về kết cấu HTKT đô thị là quản lý vốn, bởi vì đầu tư kết cấu
HTKT cần có số vốn rất lớn, đầu tư ở đây mang tính chất quốc gia hoặc vùng,
địa phương, thời gian thu hồi vốn chậm và trong đầu tư còn mang tính xã hội.
Do đó vấn đề chủ yếu đặt ra cho các chính phủ và chính quyền đô thị là làm thế
nào để xác định được chính xác nhu cầu vốn đầu tư, trên cơ sở đó có biện pháp
huy động và quản lý có hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho các dự án kết cấu HTKT.
Việc kêu gọi vốn của các nhà đầu tư quốc tế và Việt Nam để tiến hành
các dự án, nhìn chung có nhiều đô thị đã tận dụng nguồn vốn này để liên
doanh, liên kết có hiệu quả, song có nơi bị đình đốn, một số dự án đầu tư thất
thiệt làm cho sản xuất ít có hiệu quả hoặc hiệu quả giả tạo. Nhiều quốc gia
trong quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa chỉ tập trung đầu tư vào các đô
thị lớn, còn ở các đô thị vừa và nhỏ (thường kém thuận lợi cho thu hút đầu
tư), nhà nước còn thiếu các chính sách, chủ trương, biện pháp cụ thể để buộc
hoặc tạo điều kiện cho các chủ đầu tư tìm đến các địa phương ở xa các trung
tâm kinh tế lớn. Những năm qua, Việt Nam đã tiến hành áp dụng chương trình
đầu tư kết cấu HTKT đô thị theo phương thức BOT, BT nhưng chủ yếu tập
trung ở các đô thị lớn và vừa. Vì vậy, ở những vùng xa các thành phố lớn, như
thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam và các địa phương ở khu vực miền Trung
đất nước kinh tế phát triển rất chậm chạp, thu ngân sách không đủ bù đắp nhiệm
vụ chi mà chủ yếu nhận trợ cấp cân đối từ ngân sách TW; mức sống của đại đa
số nhân dân còn ở mức thấp so với bình quân cả nước và tình trạng đói nghèo
đang ở tỷ lệ khá cao, nhất là tại các địa bàn nông thôn.

Thứ ba, quản lý đầu tư và xây dựng. Trong xu thế phát triển hiện nay,
công trình kết cấu HTKT đô thị có quy ngày càng lớn và yêu cầu chất lượng
cũng ngày càng cao. Đây là một thách thức lớn, đòi hỏi các cơ quan quản lý

×