Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phan biet tu don Tu ghep

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.24 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Giúp học sinh, giáo viên phổ thông phân biệt từ </b>


<b>đơn, từ ghép, cụm từ trong tiếng Việt</b>



<b> PGS-TS Nguyễn Thị Lương</b>
Phân biệt từ đơn với từ ghép, từ ghép với cụm từ trong tiếng Việt, lâu
nay đối với học sinh, sinh viên và giáo viên các trường phổ thơng vẫn là một
vấn đề cịn nhiều vướng mắc.


Bằng cách nào để tháo gỡ dần những khó khăn vướng mắc trong việc
phân biệt các đơn vị trên, đó là mục đích mà bài viết này đặt ra.


<b>1. Về việc phân biệt từ đơn với từ ghép</b>


Trong Tiếng Việt, vấn đề này khơng khó khăn lắm, có thể căn cứ vào các
định nghĩa về từ đơn, từ ghép dể nhận diện chúng. Những hiện nay trong
Việt ngữ học lại tồn tại hai quan điểm về từ đơn - từ ghép. Đây chính là cơ
sở tạo ra cỏc cách phân loại khác nhau về vấn đề từ đơn - từ ghép.


<i><b>a) Quan điểm lấy đơn vị "</b><b>tiếng"</b><b> làm tiêu chí phân loại.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Trên cơ sở của quan điểm này, các tác giả SGK Ngữ văn lớp 6 đưa ra định
nghĩa: “<i>Tiếng</i> là đơn vị cấu tạo nên từ. <i>Từ chỉ gồm một tiếng là từ đơn. Từ </i>
<i>gồm hai hoặc nhiều tiếng là từ phức.</i> Những từ phức được tạo ra bằng cách
ghép các tiếng có quan hệ về nghĩa với nhau được gọi là từ ghép. Cịn những
từ phức có quan hệ láy âm giữa các tiếng được gọi là từ láy.” (Ngữ văn lớp
6, tập 1 - NXBGD 2003 - Trang 14).


<i><b>b) Quan điểm lấy đơn vị "</b><b>hình vị"</b><b> là tiêu chí phân loại.</b></i>


Đại diện cho quan điểm lấy hình vị làm tiêu chí phân loại là GS Đỗ Hữu
Châu. Các tác giả theo quan điểm theo quan điểm này đã căn cứ vào số


lượng hình vị để phân chia từ tiếng Việt thành từ đơn (từ một hình vị) và từ
phức (từ do hai hình vị trở lên tạo thành). Trong “Các bình diện của từ và từ
tiếng Việt”, GS Đỗ Hữu Châu xác định : ”Các từ sẽ được phân chia theo số
lượng các hình vị tạo nên chúng. Kết quả ở bước này sẽ cho các từ đơn và từ
phức. <i>Từ đơn</i> là những từ được cấu tạo theo phương thức từ hóa, là những từ


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Các tác giả theo quan điểm lấy <i>hình vị </i>làm tiêu chí phân loại từ, xếp
các phức thể trên vào loại từ đơn đa âm - để phân biệt từ đơn đơn âm (<i>gạo,</i>
<i>nhà, đường, nước, trứng..</i>.). Các tác giả lấy <i>tiếng</i> làm tiêu chí phân loại xếp
chúng vào từ ghép. Bởi họ cho rằng: nghĩa của mỗi tiếng trong các phức thể
như: <i>bù nhìn, bồ kết, ễnh ương... </i>tuy ngày nay khơng giải thích được, nhưng
xét về nguồn gốc thì cũng có thể trước đây nó vẫn có nghĩa.


Vậy tuy khác nhau về quan điểm nhưng sự không thống nhất khi xác
định ranh giới từ đơn - từ ghép trên thực tế chỉ thu hẹp ở một số ít các từ
(nêu trên) mà thôi, việc xếp chúng vào lại từ đơn hay từ ghép là đều có lí do.
Hiểu như vậy giáo viên sẽ giải toả nỗi băn khoăn, hồi nghi về tính đúng
-sai của vấn đề.


<b>2. Về việc phân biệt từ ghép với cụm từ</b>


Việc phân biệt từ ghép với cụm từ khó khăn và nan giải hơn nhiều hơn so
với việc phân biệt từ đơn - từ ghép. Bởi vậy, từ trước tới nay, giới Việt ngữ
học đã phải đề xuất khá nhiều tiêu chuẩn dùng làm chỗ dựa dể phân biệt từ
ghép với cụm từ. Cụ thể :


<i><b>2.1 Dựa vào đặc điểm nghĩa và mối quan hệ giữa các yếu tố</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

- Một tổ hợp hình vị được coi là từ thì sự kết hợp giữa các hình vị
đó phải rất chặt chẽ. Việc tách các hình vị ra sẽ ảnh hưởng đến ngữ nghĩa


của từ.


Ví dụ: <i>học sinh, cơng nhân, nông dân, dưa chuột, dưa gang, ăn </i>
<i>mặc...</i> là các từ ghép, không thể “tách” hoặc “chen” thêm yếu tố nào vào
giữa các từ đó.


- Trong cụm từ: quan hệ các từ là quan hệ “lỏng” nên có thể
“tách”, “chen” hay “mở rộng” cụm từ.


Ví dụ: học giỏi học <sub></sub> <i>rất</i> giỏi
cầm bút cầm <sub></sub> <i>cái</i> bút


<i>b. Về mặt ngữ nghĩa</i>


- Đối với từ ghép: nghĩa của từ ghép là nghĩa tổng thể, tức là toàn
bộ các hình vị trong từ hợp lại mới biểu thị một sự vật, hành động hay tính
chất và nghĩa của từng hình vị trong từ ghép về cơ bản khơng giữ ngun
nghĩa gốc của nó.


Ví dụ:


“ăn nói” là từ ghép (động từ) để chỉ một hoạt dộng nói năng
chung, chứ không phải một tổ hợp từ gồm hai từ gộp lại : “ăn” + “nói”


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

- Đối với cụm từ: nghĩa của cụm từ tự do là nghĩa tổng cộng, tức là
nghĩa của toàn cụm từ bằng nghĩa của từng từ cộng lại và nghĩa của từng từ
về cơ bản vẫn giữ nguyên nghĩa gốc của chúng.


Ví dụ:



Học giỏi = học (hoạt động) + giỏi (tính chất)
Cầm bút = cầm (hoạt động) + bút (sự vật)


2.2 Dựa vào khả năng cải biến của tổ hợp


Để phân biệt từ ghép với cụm từ, các nhà nghiên cứu còn đưa ra các thủ
pháp cải biến, tức đem tổ hợp đang xét cải biến đi để xem các thành tố trong
tổ hợp hoạt động với tư cách là thành tố của một chỉnh thể hay với tư cách là
những đơn vị riêng lẻ, lâm thời hợp lại. Các thủ pháp cải biến thường hay
được nhắc tới là: <i>mở rộng , chen, thay thế, rút gọn.</i>


<i>a. Thủ pháp "mở rộng"</i>


Nếu cho A, B là hai dơn vị đang xét thì khi thêm một yếu tố x vào tổ hợp
AB:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

học sinh <i>giỏi</i>


<i>những</i> và <i>giỏi </i> có quan hệ với tồn tổ hợp <i>học sinh</i>, vậy <i>học sinh</i> là từ ghép.
- Nếu x quan hệ với từng yếu tố A, B một cách riêng lẻ thì A, B là tổ hợp
tự do.


Ví dụ: cầm đũa<i>, đang </i>cầm đũa<i>, đang </i>cầm đũa<i> ngà</i>


<i>đang</i> chỉ có quan hệ trực tiếp với <i>cầm</i>, <i>ngà</i> chỉ quan hệ trực tiếp với “đũa” ,
vậy “cầm đũa” là tổ hợp từ tự do.


<i>b. Thủ pháp "chen"</i>


Nếu x chen vào giữa tổ hợp thep sơ đồ AxB thì AB là tổ hợp tự do. Nếu


khơng chen được thì AB là từ ghép. So sánh:


(1) Trong câu “Cho tôi đổi chiếc áo ngắn này lấy chiếc áo dài
kia” thì “áo dài” cụm từ vì có thể chen từ “hơi” hay “rất” vào giữa thành “áo
hơi dài” hay “áo rất dài”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>c. Thủ pháp thay thế</i>


Dùng các yếu tố tương tự thay thế cho AB. Nếu có thể thay thế dễ dàng AB
thành A’B, AB’, A’B’,... thì AB là cụm từ, nếu trái lại thì AB là từ ghép.


(1) Trong câu “Mèo tha chân vịt” thì “chân vịt” là cụm từ tự do,
vì có thể thay thế tổ hợp đó thành <i>chân gà, đầu gà, đầu vịt</i>...


(2) Trong câu “Máy khâu bị hỏng chân vịt” thì “chân vịt” là từ
ghép không thể thay thế bằng một tổ hợp khác tương đương.


<i>d. Thủ pháp rút gọn</i>


Một trong hai yếu tố A hoặc B nếu rút gọn được thì AB là cụm từ; nếu
khơng rút gọn thì AB là từ ghép. So sánh:


(1) ăn cơm <sub></sub> ăn gì ? Có thể trả lời rút gọn : cơm ! ( +) ăn<sub></sub>
cơm : cụm từ tự do


(2) nhà máy <sub></sub> nhà gì ? Khơng thể trả lời rút gọn : máy ! (-) <sub></sub>
nhà máy: từ ghép


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Ví dụ : <i>nhà trẻ</i> là từ ghép nhưng lại có thể chen một yếu tố thành “nhà giữ
trẻ”. Ngược lại như trường hợp “bụng cóc”, “mắt bồ câu” dù khơng xen kẽ


được nhưng mấy ai đã mạnh dạn cho chúng là từ ghép.


<b>3. Cần phải khoanh vùng các từ ghép để phân biệt các trường hợp điển</b>
<b>hình với các trường hợp đáng ngờ dễ lẫn với cụm từ.</b>


<i><b> 3.1. Trường hợp từ ghép điển hình, bao gồm:</b></i>


- Từ ghép có ít nhất một hình vị không độc lập, như: <i>xanh lè, </i>
<i>xanh ngắt, đỏ rực, đỏ ối, tròn xoe, thẳng tuột, thẳng tắp, cứng đơ...</i>


- Từ ghép biệt lập: <i>tai hồng, chân vịt (tàu thuỷ), đầu ruồi (súng), </i>
<i>(quạt) tai voi, (giày) mõm nhái, (cổ) lá sen...</i>


- Từ ghép hợp nghĩa phi cá thể : <i>chợ búa, đường sá, thuyền bè, </i>
<i>bếp núc, ăn nói, cơm nước, viết lách...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

- Từ ghép phân nghĩa một chiều do các hình vị có nghĩa tự do tạo
nên nhưng chặt chẽ về hình thức như: <i>máy bay, nhà máy, xe đạp, xe hơi, xe </i>
<i>hoả, máy tiện, máy bơm, máy nổ...</i>


Các trường hợp trên khó có thể nhầm lẫn với cụm từ nên có thể gạt ra ngồi
vùng trong điểm rắc rối.


<i><b>3.2. Trường hợp từ ghép "</b><b>đáng ngờ"</b><b> dễ lẫn với cụm từ bao gồm:</b></i>


<i>a. Trường hợp 1: cái nhà, cây tre, con gà, quyển sách, người thợ, vị </i>
<i>chủ tịch, đứa em...</i>


Đây là trường hợp có cấu tạo : loại từ + danh từ biệt loại. Loại này có khn
ngữ pháp cố định (như từ ghép), nhưng lại có bộ phận biến đổi được về từ


vựng (như cụm từ): <i>cái nhà, cái chổi, cái áo, cái quạt, con gà, con vịt, con </i>
<i>chó, con mèo...</i> Nhưng về mặt ý nghĩa thì cả phức thể bao gồm: loại từ +
danh từ mới biểu thị một sự vật (như từ). Trường hợp 1 vừa mang đặc điểm
của cụm từ lại vừa mang đặc điểm của từ ghép nên có tác giả cho là cụm từ
(hay ngữ), có tác giả xếp vào từ ghép.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Đây là trường hợp có cấu tạo: loại từ + vị từ


Trường hợp 2 này có đặc điểm giống trường hợp 1, nên có tác giả xếp
vào loại cụm từ, có tác giả xếp vào loại từ ghép.


<i>c. Trường hợp 3: hoa hồng, lò cao, chim non, sổ vàng...</i>


Các phức thể trên có cấu tạo: danh từ + tính từ. Những phức thể loại này
thường gồm hai hình vị tự do, có kết cấu khơng thật chặt chẽ, có thể tách,
chen hay mở rộng, tuỳ thuộc vào ngữ cảnh cụ thể. Vì vậy, xếp trường hợp 3
vào loại từ ghép hay cụm từ cũng phải căn cứ vào ngữ cảnh mà chúng xuất
hiện.


Ví dụ 1: Cơ hái cho cháu cái hoa hồng vàng ấy.


Trong ngữ cảnh trên, <i>hoa hồng</i> được dùng với ý nghĩa chỉ tên một lồi
hoa, như hoa cúc, hoa lan nên nó là từ ghép.


Ví dụ 2 : Cô hái cho cháu cái bông hoa to ấy.
Cô hái cho cháu cái hoa tim tím ấy.
Cô hái cho cháu cái hoa hồng ấy.


Trường hợp này có thể tìm thấy sự tương đương của <i>hồng</i> với <i>to</i> và



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>d. Trường hợp 4 : nhà đạo diễn, nhà biên kịch, nhà đạo diễn điện ảnh,</i>
<i>nhà soạn kịch cổ điển, nhà nghiên cứu văn học dân gian, tính tích cực, tính</i>
<i>hiện thực, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa hiện thực, khoa học tự nhiên...</i>


Nếu so sánh các phức thể nhiều âm tiết ở trên với các phức thể song
tiết kiểu như : <i>nhà văn, nhà báo, nhà buôn, nhà sư...</i> thì thấy chúng tuy được
xây dựng theo cùng một mẫu, nhưng khác nhau về số lượng âm tiết. Các
hình thức hai âm tiết có tính chặt chẽ hơn, có giá trị từ ghép rõ hơn. Với các
hình thức ba, bốn âm tiết, nhiều người nghiên cứu cho rằng chúng gần với
cụm từ nhiều hơn và có thể xem chúng là những ngữ cố định. Nhưng một số
nhà nghiên cứu khác khẳng định rằng mặc dầu có những đặc điểm của cụm
từ (số lượng âm tiết dài, kết cấu giống cụm từ), nhưng điều quan trọng là từ
-ngữ nghĩa của chúng là từ - -ngữ nghĩa của từ ghép như các từ ghép khác
cùng kiểu (kiểu phân nghĩa một chiều như : <i>nhà văn, nhà báo, nhà buôn...</i>)
cho nên tư cách từ ghép của chúng là rõ ràng.


<i>e. Trường hợp 5: mắt lươn, mắt phượng, mắt ốc nhồi, mũi sư tử, mũi lõ,</i>
<i>mũi diều hâu, cười ruồi, cười khẩy, cười nhạt, mát tay, vui tính...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Ngồi 5 trường hợp “đáng ngờ” trên, tiếng Việt còn nhiều trường hợp
khác rất khó xác định tư cách từ ghép hay cụm từ. Theo GS Đỗ Hữu Châu
thì “ở vùng này có sự “thẩm thấu” những đặc tính cụm từ sang từ và ngược
lại. Bản chất của những hiện tượng “đáng ngờ”, trung gian là như thế” (Đỗ
Hữu Châu, Các bình diện của từ và từ Tiếng Việt, NXB KHXH, 1986, trang
226). Giáo viên cần phân biệt các từ ghép điển hình với các trường hợp
trung gian. Khi giảng dạy, nên chọn các trường hợp điển hình. Với các
trường hợp trung gian, cần hiểu được hướng phân loại và bản chất của chúng
để không cảm thấy lúng túng, đặc biệt không đánh đồng trường hợp trung
gian với trường hợp cụm từ đích thực như : <i>học giỏi, cầm bút, nhà trên, nhà</i>
<i>ngang, nóc bếp... </i>



<b>Tài liệu tham khảo</b>


1. <i>Đỗ Hữu Châu, </i>Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nhà xuất bản
KHXH, 1986.


2. <i>Nguyễn Tài Cẩn</i>, Ngữ pháp tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà
Nội, 1999.


3<i>. Ngữ văn lớp 6</i>, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13></div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×